Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Quản lý hoạt động khoa học công nghệ tại các trường đại học ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (786.55 KB, 79 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
---------------------

NGUYỄN TRUNG PHÚ

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
CHƯƠNG TRÌNH ĐỊNH HƯỚNG THỰC HÀNH

Hà Nội – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
---------------------

NGUYỄN TRUNG PHÚ

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 60 34 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
CHƯƠNG TRÌNH ĐỊNH HƯỚNG THỰC HÀNH

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN MẠNH HÙNG
XÁC NHẬN CỦA



XÁC NHẬN CỦA CHỦ TỊCH HĐ

CÁN BỘ HƯỚNG DẪN

CHẤM LUẬN VĂN

Hà Nội – 2015


MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ ....................................................................i
PHẦN MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC KHOA
HỌC CÔNG NGHỆ TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC HIỆN NAY .............................. 5
1.1. Lý luận chung về khoa học và công nghệ ...................................................... 5
1.2. Cơ sở lý luận về quản lý và lực lượng tham gia hoạt động khoa học công
nghệ tại các trường Đại học ở Việt Nam............................................................. 12
1.2.1. Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động khoa học công nghệ........................ 12
1.2.2. Lực lượng cán bộ khoa học trong các trường đại học............................ 12
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC CÔNG
NGHỆ TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC HIỆN NAY ............................................. 23
2.1. Thực trạng ................................................................................................... 23
2.2. Đánh giá những thành tựu và yếu kém......................................................... 23
2.3. Nghiên cứu mô hình quản lý hoạt động khoa học công nghệ tại trường Đại
học Công nghiệp Hà nội và Đại học Kinh tế - Đại học Quốc Gia Hà nội. ........... 45
2.3.1. Mô hình quản lý tại trường Đại học Công nghiệp Hà Nội ..................... 45
2.3.2. Mô hình quản lý tại trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc Gia Hà Nội ..... 49
2.3.3. So sánh kết quả của hai mô hình quản lý trên ........................................ 52
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC .............................. 54
3.1. Bối cảnh mới: .............................................................................................. 54
3.2. Phương hướng ............................................................................................. 57
3.3. Giải pháp ..................................................................................................... 61
3.3.1. Tăng cường quản lý hoạt động khoa học công nghệ bằng cách ứng dụng
công nghệ thông tin vào hệ thống quản lý ....................................................... 61
3.3.2. Tạo liên kết giữa các doanh nghiệp và các trường đại học để từ đó có thể
tạo ra các sản phẩm đáp ứng được nhu cầu thực tế ........................................ 62


3.3.3. Tuyên truyền sâu rộng cho sinh viên hiểu về hoạt động nghiên cứu hoạt
động khoa học công nghệ thông qua các buổi hội thảo chuyên đề................... 62
3.3.4. Tìm cách cải thiện đời sống cho các nhà khoa học đặc biệt là các giảng
viên tại các trường đại học, cao đẳng, học viện, viện nghiên cứu và các trường
nghề

........................................................................................................... 63

3.3.5. Đưa các môn về kỹ năng nghiên cứu khoa học với nội dung cập nhật vào
giảng dạy ở mọi cấp bậc đào tạo ở trường Đại học......................................... 63
3.3.6. Nâng cao trình độ cho các giảng viên, các nhà khoa học thông qua việc
cử đi đào tạo tại các nước có nền khoa học phát triển .................................... 64
3.3.7. Tạo cơ chế, tìm hướng đi cho các sản phẩm khoa học công nghệ được
đưa vào ứng dụng trên thực tế......................................................................... 64
3.3.8. Công bố các công trình khoa học công nghệ mới của Việt lên các phương
tiện thông tin đại chúng................................................................................... 65
3.3.9. Tái cấu trúc tổ chức hoạt động trường đại học:..................................... 65
3.3.10. Chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo sau đại học: .......................... 66
3.3.11. Hợp tác chiến lược với các đại học nước ngoài:.................................. 66
3.3.12. Công bố nghiên cứu: ........................................................................... 67

3.3.13. Quốc tế hoá tập san khoa học: ............................................................ 67
3.3.14. Thành lập nhóm nghiên cứu: ............................................................... 67
3.3.15. Cải thiện tốt hơn cơ sở dữ liệu và cơ sở hạ tầng phục vụ cho nghiên
cứu:

........................................................................................................... 68

3.3.16. Chính sách khen thưởng thỏa đáng: .................................................... 68
3.3.17. Yêu cầu các tạp chí chuyên ngành của Việt Nam dịch và đăng đều đặn
các bài báo khoa học mới, có chất lượng cao, được dịch từ các tạp chí có uy
tín.

........................................................................................................... 69

3.3.18. Thay đổi cơ chế tuyển chọn và bảo vệ đề tài nghiên cứu: .................... 69
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 74


DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ

Bảng 2.1– Bảng theo dõi số lưọng và kinh phí dành cho các đề tài NCKH
trong 05 năm. ............................................................................................... 47
Hình 2.1 Quản lý đề tài đăng ký ..................... Error! Bookmark not defined.
Hình 2.2 Quản lý thuyết minh đề tài ............... Error! Bookmark not defined.

i


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của đề tài
Từ khi Việt Nam đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, từ kế hoạch hóa tập
trung sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, một loạt các thuật
ngữ du nhập vào nước ta như: vi mô, vĩ mô, marketing, bảo hiểm, kiểm toán,
môi trường … trong đó có thuật ngữ công nghệ.
Ngày nay, các quốc gia đều thừa nhận khoa học và công nghệ là một
trung những công cụ chiến lược để phát triển kinh tế xã hội một cách nhanh
chóng và bền vững trong môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh quyết liệt.
Ở Việt Nam, vai trò của công nghệ đã được khẳng định và được coi là
một vấn đề then chốt trong sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nó còn
được coi là nền tàng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tính đến nay thì nhà nước còn yêu cầu phải tăng cười tiềm lực và đổi mới cơ
chế quản lý để khoa học và công nghệ thực sự trở thành động lực phát triển
đất nước.
Ở các quốc gia trên thế giới, nơi nghiên cứu khoa học công nghệ nhiều
nhất là các viện nghiên cứu, các trường đại học. Tại Việt Nam công tác
nghiên cứu khoa học tại các trường Đại học đã và đang phục vụ cho nhu cầu
nâng cao chất lượng đào tạo toàn diện, đáp ứng nhu cầu xã hội, thực hiện theo
hướng kết hợp giảng dạy, học tập với ứng dụng tri thức khoa học vào thực
tiễn và nghiên cứu. Bên cạnh những vấn đề đã đạt được thì hoạt động khoa
học công nghệ còn có nhiều vấn đề cần được giải quyết, đặc biệt là vấn đề
quản lý các hoạt động này như thế nào cho có hiệu quả. Cần tìm ra các hướng
giải quyết khó khăn trong hoạt động khoa học công nghệ đặc biệt là tại các
trường đại học sau đó đưa ra các giải pháp giải quyết các vấn đề đó. Từ những
mục tiêu và yêu cầu như trên mà tôi lựa chọn đề tài “Quản lý hoạt động
khoa học công nghệ tại các trường đại học ở Việt Nam”.

1



Để thực hiện được điều đó trong đề tài cần trả lời được một số các câu
hỏi, yêu cầu, vấn đề như sau:
- Tại sao phải quản lý hoạt động khoa học công nghệ?
- Hoạt động khoa học và công nghệ ảnh hưởng gì tới sự phát triển
kinh tế của các nước và đặc biệt là ở Việt Nam.
- Các thành tựu mà hoạt động khoa học công nghệ đã đạt được hiện
nay bên cạnh đó cần trình bày các yếu kém còn tồn tại
- Các chính sách của Đảng và nhà nước về lĩnh vực này ra sao? Đặc
biệt là đối với các trường đại học thì nhà nước có quan điểm và định
hướng như thế nào?
- Sử dụng một mô hình quản lý cụ thể của hai trường Đại học nào đó để
phân tích từ đó xem xét mô hình quản lý hoạt động khoa học công
nghệ tại các trường Đại học hiện nay như thế nào? Có phù hợp không?
Cần cải tiến và đưa ra các giải pháp gì nhằm nâng cao hiệu quả.
2. Tình hình nghiên cứu:
Tại Việt Nam cũng như các nước trên thế giới vấn đề nghiên cứu khoa
học cũng như quản lý hoạt động này luôn luôn được coi trọng hàng đâu. Cũng
chính vì lẽ đó mà hàng năm tại Việt nam luôn có những người, đơn vị, tổ
chức quan tâm và đưa ra vấn đề này để thảo luận thu thập ý kiến sau đó trình
bày thành các dự thảo để kiến nghị lên các tổ chức cao hơn nhằm mục tiêu
nâng cao hiệu quả trong quản lý hoạt động khoa học công nghê.
Tại các trường đại học ở Việt Nam thì vấn đề này càng trở nên quan
trọng hơn vì đây là nơi sản sinh và đào tạo ra các cán bộ nghiên cứu. Tuy
nhiên với những thông tin mà tôi thu thập được thì vấn đề này cũng rất ít
người tập trung nghiên cứu đẩy mạnh. Có thể kể đến một số trường đại học đã
từng bước nghiên cứu về vấn đề này như Đại học Kinh tế - Quốc Gia Hà nội,
Đại học Cần Thơ, Học viện chính trị quốc gia, Đại học Công nghiệp hà nội ....

2



3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là phân tích để nhận diện được các đặc
điểm của quản lý Nhà nước về hoạt động khoa học công nghệ tại các trường
đại học ở Việt Nam nhằm đưa ra các giải pháp, kiến nghị, các biện pháp khắc
phục những yếu điểm đang tồn tại trong quản lý Nhà nước về hoạt động khoa
học công nghệ tại các trường đại học, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
quản lý Nhà nước tới hoạt động này trong thời kỳ hội nhập, đổi mới.
Luận văn đưa ra một số đóng góp chính như sau:
- Hệ thống hóa một số lý luận cơ bản khoa học công nghệ, vai trò
quản lý nhà nước tới hoạt động khoa học công nghệ tại các trường
đại học
- Điểm qua tình hình hoạt động cơ bản của hoạt động khoa học công
nghệ tại các trường đại học trong đó nhấn mạnh về tình hình quản lý
hoạt động khoa học công nghệ tại trường Đại học Công nghiệp Hà
nội và Đại học Kinh tế - Đại học Quốc Gia Hà nội
- Điểm qua hoạt động quản lý nhà nước tới hoạt động khoa học công
nghệ tại các trường đại học
- Đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả và vai trò
quản lý của nhà nước tới hoạt động khoa học công nghệ tại các
trường đại học
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Hoạt động khoa học công nghệ nói chung và hoạt động khoa học công
nghệ tại các trường đại học tại Việt Nam còn nhiều vấn đề cần phải phân tích
và làm sáng tỏ nhưng trong khuôn khổ một bài tiểu luận, tác giả tập trung đi
sâu phân tích vai trò Quản lý của Nhà nước tới hoạt động quản lý khoa học tại
các trường đại học..

3



Thời gian nghiên cứu: Phân tích và đánh giá vai trò quản lý nhà nước
tới hoạt động khoa học công nghệ tại các trường đại học từ năm 2006 đến
năm 2014
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên
cứu như: phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phân tích tổng
hợp, so sánh....để tập trung vào phân tích nội dung và công cụ quản lý của
Nhà nước đối với hoạt động khoa học công nghệ tại các trường đại học.
6. Kết cấu của đề tài
Tác giả xin trân trọng giới thiệu đề tài tiểu luận với bố cục như sau:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động nghiên cứu
khoa học tại các trường đại học hiện nay
- Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động khoa học tại các trường
đại học hiện nay
- Chương 3: Phương hướng và giải pháp quản lý hoạt động khoa
học tại các trường đại học
Trong quá trình viết báo cáo chắc chắn sẽ có những thiếu sót, rất mong
nhận được sự đóng góp ý kiến để bổ sung hoàn thiện để tài liệu được chính
xác và hữu ích hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn.

4


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC HIỆN NAY

1.1. Lý luận chung về khoa học và công nghệ
Trước tiên ta cần làm rõ quan niệm về khoa học và đặc biệt khoa học

trong các trường đại học. Theo các tài liệu cung cấp cho thấy khoa học là quá
trình nghiên cứu nhằm khám phá ra những kiến thức mới, những lý thuyết
mới … về các mặt tự nhiên của xã hội. Những kiến thức mới, học thuyết mới
phải tốt hơn và nó có thể thay đổi dần những cái cũ, không còn phù hợp.
Khoa học bao gồm một hệ thống tri thức về qui luật vật chất và sự vận động
của vật chất, những qui luật của tự nhiên, xã hội và tư duy. Hệ thống tri thức
được phân biệt thành hệ thống tri thức thực nghiệm và hệ thống tri thức khoa
học. Hệ thống tri thức thực nghiệm hình thành trong lịch sử và không ngừng
phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội nhưng hệ thống tri thức thực nghiệm chỉ
phát triển đến một giới hạn hiểu biết nhất định, hệ thống này được coi là cơ sở
của hệ thống tri thức khoa học. Tri thức khoa học là nhưng hiểu biết tích lũy
một cách có hệ thống nhờ hoạt động nghiên cứu khoa học. Tri thức khoa học
là dựa trên kết quả quan sát, thu thập được qua những thí nghiệm và qua các
sự kiện xảy ra ngẫu nhiên trong hoạt động xã hội, trong tự nhiên.
Còn đối với công nghệ ta có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau tùy
theo góc độ và mục đích nghiên cứu. Nhưng có thể nói chung nhất về công
nghệ có thể được hiểu là tập hợp những hiểu biết để tạo ra các giải pháp kỹ
thuật được áp dụng vào trong sản xuất và đời sống. Ngày nay công nghệ
thường được coi là sự kết hợp giữa phần cứng và phần mềm. Trong đó phần
cứng được coi là các trang thiết bị và phần mềm được coi là bất kỳ quy trình
sản xuất nào để đảm bảo tạo ra một sản phẩm dịch vụ. Trước đây cách hiểu
truyền thống về công nghệ đồng nhất kỹ thuật với thiết bị không lưu ý với

5


thực tế vận hành, tay nghề của người sản xuất, năng lực tổ chức hoạt động sản
xuất vì vậy hiện nay thuật ngữ công nghệ thường được dùng cho thuật ngữ kỹ
thuật, việc hiểu nội dung công nghệ như vậy đặc biệt có ý nghĩa quan trọng
trong giai đoạn hiện nay khi công nghệ thực sự trở thành nhân tố quyết định

khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước cũng như quốc
tế. Khác với khoa học giải pháp kỹ thuật của công nghệ đóng góp trực tiếp
vào sản xuất và đời sống nên nó được sự bảo hộ của nhà nước dưới hình thức
sở hữu trí tuệ, sáng chế, giải pháp hữu ích, nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi kiểu
dáng công nghệ, xuất xứ hàng hóa và do vậy nó là thứ hàng có thể mua bán.
Khoa học và công nghệ có nội dung khác nhau nhưng chúng lại có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Mối liên hệ chặt chẽ này thể hiện ở chỗ khi còn ở
trình độ thấp, khoa học tác động tới kỹ thuật và sản xuất rất còn yếu, nhưng
đã phát triển đến trình độ cao như hiện nay thì tác động mạnh mẽ và trực tiếp
đến sản xuất. Khoa học và công nghệ, là kết quả của sự vận dụng những sự
hiểu biết, tri thức khoa học của con người để sáng tạo, cải tiến các công cụ,
phương tiện phục vụ cho sản xuất và các hoạt động khác.
Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ được phát triển qua các giai
đoạn khác nhau của lịch sử. Vào thế kỷ 17-18 khoa học công nghệ tiến hóa theo
những con đường riêng, có những mặt công nghệ đi trước khoa học. Vào thế kỷ
19 khoa học công nghệ bắt đầu có sự tiếp cận, mỗi khó khăn của công nghệ gợi
ý cho sự nghiên cứu của khoa học và ngược lại những phát minh khoa học tạo
điều kiện cho các nghiên cứu, ứng dụng. Sang thế kỷ 20-21 khoa học chuyển
sang vị trí chủ đạo dẫn dắt sự nhảy vọt về công nghệ. Ngược lại sự đổi mới của
công nghệ tạo điều kiện cho nghiên cứu khoa học tiếp tục phát triển.
Thuật ngữ khoa học và công nghệ là sự thể hiện, đồng hành gắn bó giữa lý
luận, lý thuyết và thực tiễn, thực hành, giữa nghiên cứu và ứng dụng thực tế.

6


Đầu thế kỷ XX, loài người đã tích lũy được một kho tàng trí tuệ về
khoa học và kỹ thuật đồ sộ. Karl-Marx (1818 - 1883) đã từng có một luận
điểm nổi tiếng: “tri thức xã hội phổ biến (được hiểu là khoa học) đã chuyển
hóa thành lực lượng sản xuất trực tiếp”. Tuy nhiên do điều kiện lịch sử lực

lượng sản xuất phát triển không đồng đều, không dưới 80 - 90% dân số thế
giới vẫn sống trong nghèo nàn lạc hậu.
Khoa học và công nghệ giai đoạn mới hiện nay bắt đầu phát triển mạnh
từ những năm 40 thế kỷ trước và đặc trưng rõ nét nhất từ khi vệ tinh nhân tạo
đầu tiên chinh phục không gian vũ trụ (1957) tiếp đó là con người bay vào vũ
trụ, đặt chân lên mặt trăng, cũng như các công trình nghiên cứu vũ trụ khác
đến nay hầu như là chuyện “hàng ngày”. Được sự kích thích và sự hỗ trợ của
công nghệ vũ trụ, các ngành công nghệ mới, có tầm cao mới liên tiếp ra đời,
đặc biệt là công nghệ thông tin, viễn thông, công nghệ năng lượng tái tạo,…
với những phát minh kỳ diệu như lade (1967), truyền hình qua vệ tinh nhân
tạo (1964), tổng hợp gien (1973), mạch tổ hợp cho (1965), máy tính điện tử,
máy tính điện tử sinh học dựa trên cấu tạo bộ óc con người (1994), bộ vi xử lý
(1971), rệp điện tử, máy gia tốc, v.v…
Có thể nói từ nửa cuổi thế kỷ XX, con người đã mở rộng thêm tầm
nhìn, thực sự nối thêm cánh để bay và làm việc trong không gian bao la, đã
làm cho không gian thu hẹp khoảng cách, con người xích lại gần gũi nhau
hơn, cuộc sống tốt đẹp, sôi nổi hơn, khối óc, sâu rộng hơn, hiểu biết thế giới
khách quan khám phá quá khứ lịch sử cũng như dự đoán tương lai xác thực
hơn (1) …

11

Tháng 4/1992 vệ tinh nhân tạo Cobe (người thám hiểm nền vũ trụ) truyền về trái đất hình ảnh vũ trụ khi mới hình
thành sau vụ nổ Big Bang cách đây khoảng 15 tỷ năm. Các nhà khoa học hy vọng trên các máy gia tốc năng lượng lớn có
thể tái tạo lại sự ra đời của vũ trụ (Almanach những nền văn minh thế giới - NXB Văn hóa - Thông tin, 1997, trang
1932).

7



Đến cuối thế kỷ XX, có thể khẳng định rằng nền sản xuất xã hội đang
biến đổi sâu sắc, mạnh mẽ cả về cơ cấu, chức năng và phương thức hoạt động
tạo nên một sự phát triển nhảy vọt, một bước ngoặt lịch sử có ý nghĩa trọng
đại sang một thời đại kinh tế mới (thường gọi là thời đại kinh tế tri thức) quá
độ sang một nền văn minh mới (thường gọi là nền văn minh trí tuệ) mà
nguyên nhân và động lực chính là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
mới (2) hình thành từ mấy chục năm qua.
Nói kinh tế tri thức tức là nói nền “kinh tế trong đó sản sinh ra, phổ cập
và sử dụng tri thức đóng vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế,
tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống”(3).
Đặc điểm của kinh tế tri thức là vai trò ngày càng to lớn của những đổi
mới liên tục về khoa học và công nghệ trong sản xuất và vai trò chủ đạo của
thông tin và tri thức với tư cách là nguồn lực cơ bản tạo nên sự tăng trưởng và
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Các nhà nghiên cứu còn chỉ rõ, theo cấp độ tiến hóa của các nền văn
minh nhân loại, có thể thấy quyền lực đang dịch chuyển từ sức mạnh của bạo
lực, vũ khí, tiền bạc (thuộc hai nền văn minh nông nghiệp, công nghiệp, sang
sức mạnh của tri thức, trí tuệ. Trong nền văn minh mới này, quyền lực không
còn phụ thuộc vào sức mạnh vật chất và của cải sẵn có trong tay mà chủ yếu
phụ thuộc vào những nguồn tri thức nắm được. Tài nguyên tri thức - trí tuệ cơ
bản khác với tài nguyên thiên nhiên, vốn, lao động ở chỗ khi sử dụng hoặc trao
đổi đã không mất đi mà còn được bảo tồn hoặc có bổ sung phong phú thêm, trái
lại chi phí cho việc sử dụng, trao đổi, phổ biến hầu như không đáng kể. Tri thức
2

Còn gọi là cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ ba, động lực chính là khoa học và công nghệ, hình thành từ giữa
thế kỷ XX (cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần 1 (thế kỷ 18) bắt nguồn từ giai đoạn thay thế lao động thủ công bằng
lao động cơ giới. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần 2 (thế kỷ 19) tiêu biểu là sản xuất điện năng và nền sản xuất
đại cơ giới.


3

Sổ tay Báo cáo viên về Đại hội IX Đảng CSVN. Trung tâm thông tin công tác tư tưởng/Ban Tư tưởng văn hóa Trung
ương - 2001

8


còn là thứ “của cải” mà bất cứ người nào, dân tộc nào, dù là yếu, nghèo nhất, nếu
có quyết tâm học hỏi cũng đều có thể giành được, chiếm đoạt được.
Trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ đã thực sự thúc
đẩy sự gia tăng của cải vật chất, nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng ngày càng cao của con người.
Khoa học và công nghệ đã trực tiếp tác động nâng cao năng suất lao
động, giảm nhẹ cường độ lao động, giảm chi phí, giá thành sản xuất, giảm rõ
rệt tỷ lệ tiêu hao vật chất, tăng tỷ lệ chất xám trong cấu tạo sản phẩm,…
Nhiều sản phẩm mới ra đời phong phú, đa dạng, đa năng, mẫu mã đẹp, kích
thước nhỏ nhẹ hơn. Chu kỳ sản xuất cũng được rút ngắn đáng kể.
Theo một số số liệu thống kê đáng tin cậy:
+ Tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới năm 1990 so 1982 tăng 28,5% khối lượng thương mại thế giới tăng 57,9% (IMF 10/1990).
+ Trong 5 năm đầu thế kỷ XXI, GDP của thế giới tăng 40,5% (44 nghìn
tỷ USSD/31,6 nghìn tỷ USD - Niên giám thống kê/ TCTK 2006).
+ Thế kỷ XVIII, một nước muốn công nghiệp hóa thường mất 100 năm.
Đầu thế kỷ XX, còn khoảng 30 năm. Vào thập niên 70 - 80 rút xuống 20 năm.
Thập niên 90 chỉ còn trên dưới 10 năm.
Quãng thời gian cần thiết để tăng gấp đôi GDP (Tổng sản phẩm quốc
dân) theo đầu người đã được rút ngắn một cách ổn định. Nếu như Anh mất 58
năm (kể từ 1780), Mỹ 47 năm (từ 1839), Nhật 34 năm (kể từ 1880) thì từ sau
Đại chiến thứ hai, cuộc cách mạng khoa học và công nghiệp lần thứ ba còn
đẩy tốc độ này lên cao hơn như Brazin 18 năm, Indonesia 17 năm, Hàn Quốc

11 năm, Trung Quốc 10 năm(4).
Có thể hiểu, nghiên cứu khoa học là một họat động tìm kiếm, xem xét,
điều tra, hoặc thử nghiệm. Dựa trên những số liệu, tài liệu, kiến thức … đạt
4

Almanach những nền văn minh thế giới 1997 (trang 1943)

9


được các thí nghiệm nghiên cứu khoa học để phát hiện ra những cái mới về
bản chất sự vật, về thế giới tự nhiên và xã hội, và để sáng tạo phương pháp và
phương tiện kỹ thuật mới cao hơn, giá trị hơn. Con người muốn làm nghiên
cứu khoa học phải có kiến thức nhất định về lĩnh vực nghiên cứu và cái chính
là phải rèn luyện cách làm việc tự lực, có phương pháp từ lúc ngồi trên ghế
nhà trường.
Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó phối hợp những nỗ lực cá nhân
nhằm thu được hiệu quả mà nếu để mỗi người hoạt động riêng lẻ thì không
thể đạt được. Như vậy một cách tổng quát có thể hiểu quản lý là tập hợp các
hoạt động có hướng đích đến đối tượng nhằm đạt được mục tiêu đã định. Vậy
tại sao phải quản lý hoạt động khoa học công nghệ?
Thứ nhất,không phải tất cả đổi mới về khoa học và công nghệ đều
mang lại lợi ích cho xã hội. Tất cả mọi khoa học và công nghệ đều có tính hai
mặt của nó, bên mặt tích cực như nâng cao hiệu quả trong sản xuất, dịch vụ là
khía cạnh tiêu cực như làm suy thoái tài nguyên, hủy hoại môi trường. Ngoài
ra việc sử dụng khoa học và công nghệ sai mục đích, sử dụng quá mức cần
thiết sẽ mang lại tại họa cho tự nhiên và xã hội. Thực ra, những ảnh hướng
xấu của khoa học và công nghệ không phải bản chất của khoa học và công
nghệ mà do con người lạm dụng nó. Vì vậy quản lý khoa học và công nghệ để
chống lại sự làm dụng của khoa học và công nghệ.

Thứ hai, theo tổng quan của Liên Hiệp Quốc năm 1984 thì: “sự cung
cấp tiền bạc và khoa học, công nghệ cho các nước đang phát triển đã không
mạng lại sự phát triển. Nguyên nhân là các nước này thiếu năng lực trong
quản lý hoạt động khoa học và công nghệ”. Tháng 1/1985 chương trình phát
triển Liên Hợp Quốc (UNDP) đã cùng Trung tâm chuyển giao công nghệ
Châu Á – Thái Bình Dương (APCTT) đã thực hiện chương tình “Tăng cường
năng lực quản lý khoa học và công nghệ”. Như vậy quản lý khoa học và công

10


nghệ là khâu yếu kém của các nước đang phát triển, không quản lý khoa học
công nghệ tốt, không thể thành công trong việc phát triển đất nước dựa trên
khoa học và công nghệ.
Thứ ba, kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới cho thấy. Để phát
triển đất nước, một số quốc gia chú trọng xây dựng nền kinh tế hiện đại, phát
triển nhanh dựa trên cơ chế thị trường tự do, dẫn đến kinh tế phát triển song
kía cạnh văn minh công bằng của xã hội bị xem nhẹ. Một số quốc gia khác lại
chú trọng vào xây dựng nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung nhằm
mang lại lợi ích cho tất cả mọi người song ở các quốc gia này có biểu hiện sự
trì trệ trong nền kinh tế. Để kết hợp hai yếu tố hiện đại và văn minh trong quá
trình công nghiệp hóa đồng thời có thể đi tắt tiếp cận nhanh quá trình công
nghệ tiên tiến, cần quản lý tốt quá trình phát triển khoa học và công nghệ. Vì
vậy quản lý hoạt động khoa học công nghệ là công cụ để có thể thực hiện
thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ tư, ở phạm vi cơ sở, quản lý hoạt động khoa học công nghệ là quản
lý tiến bộ kỹ thuật ở cơ sở. Quản lý khoa học công nghệ ở cơ sở thông qua
các hoạt động như phân tích đầu vào, phân tích thị trường, phân tích khả thi
về khoa học, công nghệ, xã hội, pháp lỹ … làm cơ sở cho các quyết định của
lãnh đạo trong việc đầu tư cơ sở vật chất, tìm kiếm, mở rộng thị trường, đổi

mới khoa học và công nghệ. Nhờ những hoạt động này, quản lý khoa học
công nghệ là phương tiện để đáp ứng thỏa đáng lợi ích của cả người sản xuất
và người tiêu dùng.
Xuất phát từ những phân tích trên về quản lý và sự cần thiết phải quản
lý hoạt động khoa học công nghệ. Ta có thể đưa ra các khái niệm và quản lý
khoa học công nghệ như sau:
Ở góc độ vĩ mô: Quản lý hoạt động khoa học công nghệ là một lĩnh vực
kiến thức liên quan đến thiết lập và thực hiện các chính sách về phát triển và

11


sử dụng khoa học công nghệ, về sự tác động của khoa học công nghệ đối với
xã hội, đối với các tổ chức, các cá nhân và tự nhiên, nhằm thúc đẩy đổi mới,
tạo tăng trưởng kinh tế và tăng cường trách nhiệm trong sử dụng công nghệ
đối với lợi ích nhân loại.
Ở góc độ cơ sở: Quản lý khoa học và công nghệ là một bộ môn khoa
học liên ngành, kết hợp khoa học - công nghệ và các tri thức quản lý để hoạch
định, triển khai và hoàn thiện năng lực công nghệ nhằm xây dựng và thực
hiện các mục tiêu trước mắt và lâu dài của một tô chức
1.2. Cơ sở lý luận về quản lý và lực lượng tham gia hoạt động khoa học
công nghệ tại các trường Đại học ở Việt Nam
1.2.1. Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động khoa học công nghệ
Trong các cơ quan quản lý khoa học và công nghệ ở trên đã mô tả thì
các cơ sở giáo dục và đào tạo rất được chú trọng. Qua thực tế, chúng ta nhận
thức được rằng, khoa học công nghệ có vai trò đặc biệt quan trọng trong giáo
dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng. Trong công tác đào tạo đại học ở
nước ta hiện nay, khoa học công nghệ được xem là một trong những yếu tố
quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đào tạo, tạo ra nguồn nhân lực đáp
ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội. khoa học công nghệ có tầm quan

trọng đặc biệt trong giáo dục đại học vì không những góp phần nâng cao chất
lượng đào tạo mà còn tạo ra những tri thức mới, sản phẩm mới phục vụ cho
sự phát triển của nhân loại. Với tầm quan trọng như vậy, Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 2, Ban Chấp hành TW khóa VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
nêu: "Các trường đại học phải là các trung tâm nghiên cứu khoa học, công
nghệ, chuyển giao và ứng dụng công nghệ vào sản xuất và đời sống"
Để khoa học, công nghệ đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội,
các nhà nghiên cứu, những người làm công tác khoa học, nhất là giảng viên
tại các trường đại học phải là lực lượng nòng cốt trong việc nghiên cứu và

12


ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. QĐ
số 418/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (11/4/2012) về Chiến lược phát
triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011- 2020 chỉ rõ: "Phát triển khoa học
công nghệ cùng với giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực then
chốt để phát triển đất nước nhanh và bền vững. Khoa học và công nghệ phải
đóng vai trò chủ đạo để tạo bước phát triển đột phá về lực lượng sản xuất, đổi
mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đẩy
mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước".
Trong bối cảnh giao lưu và hội nhập của nước ta hiện nay, để khẳng
định được vai trò của khoa học công nghệ, các trường đại học luôn hướng tới
mục tiêu "Mỗi trường đại học là một viện nghiên cứu". Bởi vì, nghiên cứu
khoa học có tầm quan trọng đặc biệt trong giáo dục đại học và đó là con
đường hiệu quả nhất để nâng cao chất lượng đào tạo và phát triển năng lực sư
phạm của mỗi người làm công tác giảng dạy và giáo dục. Trong những năm
vừa qua, ngành giáo dục và nền khoa học công nghệ nước ta đã đạt được
thành tích đáng kể là nhờ có những đóng góp không nhỏ từ hoạt động nghiên
cứu khoa học của đội ngũ cán bộ, giảng viên trong các trường đại học và cao

đẳng nói chung.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản và toàn
diện nền sản xuất xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính với năng suất,
chất lượng và hiệu quả thấp sang sử dụng lao động được đào tạo ngày càng
nhiều hơn cho năng suất chất lượng và hiệu quả cao hơn dựa trên phương
pháp sản xuất công nghiệp, vận dụng những thành tựu mới của khoa học công nghệ tiên tiến. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng là quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành sản xuất có hàm lượng
khoa học - công nghệ cao, giá trị gia tăng cao. Có thể nói, thực chất và nội
dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sáng tạo và ứng dụng tri
13


thức do giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ tạo ra vào phát triển kinh
tế - xã hội, tạo nên sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
Với tư cách là những thành tố cơ bản của nền văn hoá, giáo dục - đào
tạo và khoa học công nghệ có một vị trí đặc biệt trong chiến lược phát triển
đất nước. Nhận thức toàn diện và sâu sắc về vai trò, nhiệm vụ, nội dung, qui
luật vận động của giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ trong sự nghiệp
xây dựng và phát triển đất nước là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp
thiết, nhằm phát huy vai trò là nền tảng và động lực thúc đẩy sự nghiệp công
nghiệp hoá và hiện đại hoá của giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ ở
nước ta hiện nay. Văn kiện Đại hội X khẳng định: “Giáo dục và đào tạo cùng
với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực
thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”(5).
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển 2011) được thông qua tại Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh:
“Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ có sức mạnh nâng cao dân trí,
phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển
đất nước, xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục
và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu;

đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển”(6).
Giáo dục ngày càng có ý nghĩa quyết định trong việc phát triển nền sản
xuất vật chất của xã hội. Trong thời đại chuyển dịch mạnh mẽ của cuộc cách
mạng khoa học kiểu cũ dựa vào bóc lột sức lao động và tàn phá môi trường tự
nhiên là chính sang cuộc cách mạng khoa học kiểu mới hướng tới nâng cao
năng suất lao động, bảo vệ môi trường sinh thái và nâng cao chất lượng cuộc
sống con người, hàm lượng khoa học kết tinh trong các sản phẩm hàng hoá
5 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H.2006, tr.94-95.
6 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.77.

14


ngày càng tăng. Sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội gắn liền với sản
xuất hàng hoá và thị trường, gắn liền với phân công lao động và hợp tác quốc
tế, gắn liền với trình độ và năng lực sáng tạo, tiếp nhận và trao đổi công nghệ
mới. Xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá trong lĩnh vực kinh tế - xã hội làm cho
các quốc gia, kể cả các quốc gia phát triển và các quốc gia đang phát triển
phải cấu trúc lại nền kinh tế theo hướng mở rộng liên kết để tối ưu hoá sự
cạnh tranh và hợp tác toàn cầu. “Kinh tế tri thức” và “xã hội thông tin” đang
dần dần hình thành trên cơ sở phát triển hàm lượng trí tuệ cao trong sản xuất,
dịch vụ và quản lý ở tất cả các quốc gia với mức độ khác nhau, tuỳ thuộc vào
sự chuẩn bị của hệ thống giáo dục quốc dân và phát triển khoa học – công
nghệ. Tài năng và trí tuệ, năng lực và bản lĩnh trong lao động sáng tạo của
con người không phải xuất hiện một cách ngẫu nhiên, tự phát mà phải trải qua
một quá trình chuẩn bị và đào tạo công phu, bền bỉ, có hệ thống. Vì vậy, giáo
dục - đào tạo hiện nay được đánh giá không phải là yếu tố phi sản xuất, tách
rời sản xuất mà là yếu tố bên trong, yếu tố cấu thành của nền sản xuất xã hội.
Không thể phát triển được lực lượng sản xuất nếu không đầu tư cho giáo dục đào tạo và khoa học – công nghệ, đầu tư vào nhân tố con người, nhân tố quyết
định của lực lượng sản xuất. Không thể xây dựng được quan hệ sản xuất lành

mạnh nếu không nâng cao giác ngộ lý tưởng chính trị, nâng cao trình độ học
vấn, trình độ tổ chức và quản lý kinh tế - xã hội cho đội ngũ lao động và quản
lý lao động. Vì vậy, đầu tư cho giáo dục - đào tạo và khoa học – công nghệ là
đầu tư cơ bản để phát triển kinh tế - xã hội, đầu tư ngắn nhất và tiết kiệm nhất
để hiện đại hóa nền sản xuất xã hội và hiện đại hóa dân tộc.
Cuộc chạy đua phát triển kinh tế - xã hội trên thế giới hiện nay thực
chất là cuộc chạy đua về khoa học và công nghệ, chạy đua nâng cao chất
lượng và hiệu quả lao động trên cơ sở hiện đại hoá nguồn nhân lực. Cương
lĩnh (bổ sung, phát triển 2011) đã xác định “Khoa học và công nghệ giữ vai
15


trò then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài
nguyên và môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát
triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế ”(7).
Giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ không chỉ có ý nghĩa lớn
lao trong lĩnh vực sản xuất vật chất, mà còn là cơ sở để xây dựng nền văn hoá
tinh thần của chế độ xã hội chủ nghĩa. Giáo dục – đào tạo và khoa học – công
nghệ có tác dụng to lớn trong việc truyền bá hệ tư tưởng chính trị xã hội chủ
nghĩa, xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng lối
sống, đạo đức và nhân cách mới của toàn bộ xã hội. Sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước không phải chỉ là quá trình đổi mới về khoa học
công nghệ, hiện đại hoá, thị trường hoá nền sản xuất xã hội mà còn là quá
trình chuyển đổi về tâm lý, phong tục tập quán, lối sống thích ứng với nhịp độ
và tốc độ của xã hội công nghiệp và hội nhập kinh tế quốc tế.
Việc chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi yêu cầu rất cao về nguồn nhân
lực có năng lực về thị trường, về kinh doanh, về đổi mới và sáng tạo khoa học
- công nghệ, sản phẩm mới. Đồng thời đặt ra nhiều vấn đề mới trong phát
triển giáo dục – đào tạo và khoa học - công nghệ nhằm phát huy mặt tích cực,

hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường đối với giáo dục, giải quyết vấn đề
cạnh tranh trong giáo dục, thương mại hoá giáo dục, công bằng giáo dục,
phúc lợi xã hội trong giáo dục và dịch vụ giáo dục cũng như sở hữu trí tuệ, thị
trường khoa học – công nghệ, đào tạo và sử dụng nhân tài
Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII nêu rõ: "Muốn tiến hành công
nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục - đào tạo,
phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển xã hội, tăng
7

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Sđd, tr.78

16


trưởng kinh tế nhanh và bền vững"(8). Đại hội XI của Đảng đã nhấn mạnh:
“Phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế trí thức, góp phần tăng nhanh năng
suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Sự phát triển
nhanh, bền vững của đất nước; nâng tỷ lệ đóng góp của yếu tố năng suất tổng
hợp và tăng trưởng”(9). Như vậy, phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học –
công nghệ phải được coi là nền tảng và động lực thúc đẩy sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trong thời kỳ toàn cầu hoá đã và
đang diễn ra mạnh mẽ, tác động đến mọi quốc gia, dân tộc. Tốc độ phát minh
khoa học ngày càng gia tăng. Khoảng cách từ phát minh đến ứng dụng rút
ngắn. Sự cạnh tranh về công nghệ cao diễn ra quyết liệt. Truyền thông về
khoa học - công nghệ diễn ra sôi động. Nhiều tri thức và công nghệ mới ra đời
đòi hỏi quá trình giáo dục phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, suốt
đời để người lao động có thể thích nghi được với những biến đổi mới của
khoa học - công nghệ. Giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ phải được

"chuẩn hoá", "hiện đại hoá", và hội nhập quốc tế
Theo qui định của pháp luật, nội dung quản lý nhà nước về khoa học
công nghệ ở nước ta gồm:
+ Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách, quy hoạch, kế
hoạch, nhiệm vụ khoa học công nghệ
+ Ban hành và tổ chức thực hiện các quy phạm về khoa học và công nghệ
+ Tổ chức bộ máy quản lý khoa học và công nghệ
+ Tổ chức, hướng dẫn đăng ký hoạt động của tổ chức khoa học và công
nghệ. Lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ
8 Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 BCHTWƯ khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr.19.
9 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XI, Sđd, tr.218.

17


+ Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
+ Quy định về việc đánh giá, nghiệm thu, ứng dụng và công bố kết quả
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; chức vụ khoa học; giải thưởng
khoa học và công nghệ và các hình thức ghi nhận công lao về khoa học và
công nghệ của tổ chức và cá nhân
+ Tổ chức và quản lý công tác thẩm định khoa học và công nghệ
+ Tổ chức chỉ đạo công tác thống kê, thông tin khoa học và công nghệ
+ Tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ về khoa học và công nghệ
+ Tổ chức, quản lý hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ
+ Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về khoa học và công
nghệ; giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo, trong hoạt động khoa học và
công nghệ; xử lý các vi phạm pháp luật về khoa học và công nghệ
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ.
Hàng năm, Chính phủ báo cáo trước Quốc hội về việc thực hiện các chính

sách, biện pháp để phát triển khoa học và công nghệ, việc sử dụng ngân sách
nhà nước đầu tư phát triển khoa học và công nghệ; kết quả của khoa học và
công nghệ.
Tại nước ta, hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động khoa
học công nghệ bao gồm:
- Các trung tâm quốc gia độc lập như: Trung tâm Khoa học tự nhiên
và Công nghệ Quốc gia; Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn
Quốc gia
- Các trung tâm nghiên cứu khoa học và công nghệ của các bộ,
ngành

18


- Các bộ phận nghiên cứu khoa học và công nghệ trong các cơ sở
giáo dục và đào tạo
- Các bộ phận nghiên cứu khoa học công nghệ ở các cơ sở sản xuất,
dịch vụ của cá doanh nghiệp, bệnh viện, các tổ chức xã hội, các
đoàn thể và các tập thể, cá nhân các nhà khoa học.
Trong thông tư số 22/2011/TT-BGDĐT ngày 30 tháng 5 năm 2011 còn
chỉ rõ về tổ chức quản lý hoạt động khoa học công nghệ theo các yêu cầu cụ
thể sau:
1. Trường đại học thành lập phòng (ban) khoa học và công nghệ (gọi
chung là phòng khoa học và công nghệ) thực hiện nhiệm vụ chuyên trách
quản lý hoạt động khoa học và công nghệ.
2. Các đơn vị, tổ chức trực tiếp thực hiện hoạt động khoa học và công
nghệ trong trường đại học bao gồm các khoa, bộ môn, viện, trung tâm nghiên
cứu, doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ và tổ chức
phục vụ hoạt động khoa học và công nghệ.
3. Các tổ chức, cá nhân thực hiện chỉ đạo, tư vấn hoạt động khoa học và

công nghệ ở trường đại học bao gồm:
a) Hội đồng khoa học và đào tạo; hội đồng tư vấn của trường;
b) Hội đồng khoa của khoa; hội đồng tư vấn ngành; hội đồng tư vấn
chuyên ngành;
c) Hiệu trưởng/giám đốc trường đại học/học viện (gọi chung là hiệu trưởng).
Bên cạnh đó, trong thông tư của Bộ giáo dục và đào tạo cũng chỉ rõ nội
dung quản lý hoạt động khoa học công nghệ tại các trường đại học cụ thể như sau:
1. Ban hành và tổ chức thực hiện quy chế quản lý hoạt động khoa học và
công nghệ của trường theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Khoa học
và công nghệ và các bộ, ngành liên quan về hoạt động khoa học và công nghệ.
19


2. Xây dựng định hướng phát triển khoa học và công nghệ của trường
cho từng giai đoạn.
3. Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch khoa học và công nghệ 5 năm
và hằng năm.
4. Huy động các nguồn tài chính khác nhau cho hoạt động khoa học và
công nghệ, sử dụng nguồn tài chính theo quy định hiện hành.
5. Khen thưởng, vinh danh và đề xuất khen thưởng, vinh danh các cán
bộ quản lý, giảng viên, nghiên cứu viên, sinh viên, học viên cao học và
nghiên cứu sinh có kết quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ
xuất sắc.
6. Định kỳ thanh tra, kiểm tra, tổng kết, đánh giá kết quả và hiệu quả
hoạt động khoa học và công nghệ của trường; xét khen thưởng các đơn vị, cá
nhân có thành tích xuất sắc trong nghiên cứu khoa học, chuyển giao công
nghệ và xử lý vi phạm theo quy định hiện hành.
7. Thực hiện chế độ báo cáo định kỳ hằng năm, 5 năm và báo cáo đột
xuất về kết quả hoạt động khoa học và công nghệ của trường với cơ quan quản
lý trực tiếp và Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Ta có thể thấy công nghệ có mặt ở mọi nơi, mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Nhiệm vụ quản lý hoạt động khoa học công nghệ là nhiệm vụ của mọi cấp mọi
ngành. Vì vậy cần xác định rõ đối tượng, nội dung quản lý của từng cấp đặc
biệt cần xây dựng các chính sách vĩ mô cho việc tăng cường năng lực nội sinh
để tiếp thu, đổi mới. phát triển công nghệ, thẩm định giám định công nghệ.
1.2.2. Lực lượng cán bộ khoa học trong các trường đại học
Trong suốt tiến trình phát triển lịch sử tư tưởng nhân loại, con người
luôn là đối tượng nghiên cứu của khoa học. Trong quan niệm của Mác, con
người không chỉ là lực lượng “làm chủ tự nhiên một cách thực sự và có ý

20


×