Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

NẦN CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUỐC TẾ CHI NHÁNH DỐNG ĐA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 60 trang )

MỤC LỤC
1.3.2 Nhóm nhân tố khách quan:.....................................................................................23

SV: Lê Thị Mai

Lớp: Liên thông Ngân hàng K10


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BĐS
CBCNV
NH
NHNN
NHTM
NKT
TCTC
TCTD
TD
VIB

Bất động sản
Cán bộ công nhân viên
Ngân hàng
Ngân hàng nhà nước
Ngân hàng thương mại
Nền kinh tế
Tổ chức tài chính
Tổ chức tín dụng
Tín dụng
Ngân hàng Thương mại Cổ phần


VTD
XNK
SXKD

Quốc tế Việt Nam
Vốn tín dụng
Xuất nhập khẩu
Sản xuất kinh doanh

SV: Lê Thị Mai

Lớp: Liên thông Ngân hàng K10


DANH MỤC BẢNG, BIỂU
1.3.2 Nhóm nhân tố khách quan:.....................................................................................23

SV: Lê Thị Mai

Lớp: Liên thông Ngân hàng K10


Chuyên đề tốt nghiệp

Đại học Kinh Tế Quốc Dân

LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng là một trong những mắt xích quan trọng cấu thành nên sự vận
động nhịp nhàng của nền kinh tế. Cùng với các ngành khác, Ngân hàng có nhiệm
vụ tham gia bình ổn thị trường tiền tệ, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, tạo công ăn

việc làm cho người lao động, …
Trong hoạt động của mình thì hoạt động Tín dụng nắm giữ vai trò hết sức
quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của bản thân Ngân hàng cũng như của
toàn bộ Nền kinh tế.
Ta thấy trong xã hội luôn có một số người thừa vốn cần đầu tư kiếm lời và
một số người thiếu vốn muốn đi vay. Song, những người này khó có thể trực tiếp
gặp nhau để cho nhau vay; hoặc có thể gặp nhau thì chi phí rất cao và không kịp
thời, nên Tín dụng Ngân hàng là cầu nối giữa người thừa vốn và người cần vốn
và để giải quyết nhu cầu thỏa đáng trong mối quan hệ này. Nghĩa là Tín dụng
Ngân hàng thu hút tập trung mọi nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các tổ
chức kinh tế, dân cư để đầu tư cho quá trình mở rộng sản xuất, tăng trưởng kinh
tế, đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn, thúc đẩy lưu thông hàng hóa, tăng tốc độ chu
chuyển vốn cho xã hội, góp phần thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, tạo điều kiện
cho nền kinh tế phát triển bền vững.
Thông qua Tín dụng Ngân hàng có thể kiểm soát được khối lượng tiền tệ
cung ứng trong lưu thông, thực hiện yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ; mặt
khác Tín dụng Ngân hàng còn thúc đẩy các Doanh nghiệp tăng cường chế độ
hạch toán kinh doanh, giúp các Doanh nghiệp khai thác có hiệu quả tiềm năng
kinh tế trong hoạt động kinh doanh; đồng thời Tín dụng Ngân hàng còn tạo điều
kiện mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài, là cầu nối cho việc giao lưu kinh tế
và là phương tiện để thắt chặt mối quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới.
Nhận thức được tầm quan trọng đó của Tín dụng Ngân hàng, với những
kiến thức học tập tại trường và kiến thức thu được trong quá trình thực tập tại
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quốc tế chi nhánh Đống Đa, em lựa chọn đề
tài: “Nâng cao chất lượng Tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Quốc tế chi nhánh Đống Đa” làm chuyên đề tốt nghiệp. Kết cấu chuyên đề gồm
có 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về chất lượng Tín dụng của Ngân hàng
thương mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng Tín dụng tại Ngân hàng Thương

mại Cổ phần Quốc tế chi nhánh Đống Đa
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng Tín dụng tại Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Quốc tế chi nhánh Đống Đa

SV: Lê Thị Mai

4

Lớp: Liên thông Ngân hàng K10


Chuyên đề tốt nghiệp

Đại học Kinh Tế Quốc Dân

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Định nghĩa, đặc trưng cơ bản về Ngân hàng thương mại

Để đưa ra được một định nghĩa về NHTM người ta thường phải dựa vào
tính chất, mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài chính và đôi khi còn kết
hợp tính chất mục đích và đối tượng hoạt động.
Có rất nhiều các định nghĩa được đưa ra về NHTM, nhưng phân tích, khai
thác nội dung các định nghĩa đó ta dễ dàng nhận thấy NHTM đều có chung một
tính chất đó là: việc nhận tiền kí thác, tiền gửi không kì hạn, có kì hạn để sử dụng
vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh khác của Ngân
hàng. Theo điều 20, Luật các Tổ chức Tín dụng của Việt Nam có nêu: “Tổ chức
Tín dụng là Doanh nghiệp được thành lập theo qui định của luật này và các

qui định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ
Ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp Tín dụng,
cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Ngày nay trong thế giới hiện đại, hoạt động của các Tổ chức tài chính là
môi giới trên thị trường tài chính ngày càng phát triển về số lượng và qui mô hoạt
động, đa dạng và phong phú, hoạt động đan xen lẫn nhau. Người ta phân biệt
NHTM với các tổ chức trung gian tài chính khác là ở chỗ NHTM là Ngân hàng
kinh doanh tiền gửi, chủ yếu là tiền gửi không kì hạn, chính từ hoạt động đó đã
tạo cơ hội cho NHTM có thể làm tăng bội số tiền gửi của khách hàng trong hệ
thống Ngân hàng của mình. Đó là đặc trưng căn bản để phân biệt NHTM với các
TCTD khác.
1.1.1.2. Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
 Hoạt động huy động vốn
Nguồn vốn của Ngân hàng là những giá trị tiền tệ mà Ngân hàng có
thể tạo lập được dùng để cho vay, đầu tư và thực hiện các nghiệp vụ khác
trong hoạt động kinh doanh.
Thực chất vốn của Ngân hàng là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời
nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng mà người sở hữu chúng

SV: Lê Thị Mai

5

Lớp: Liên thông Ngân hàng K10


Chuyên đề tốt nghiệp

Đại học Kinh Tế Quốc Dân


gửi vào Ngân hàng để thực hiện các mục đích khác nhau. Hay nói cách khác, họ
chuyển nhượng quyền sử dụng vốn tiền tệ cho Ngân hàng để Ngân hàng phải
hoàn trả lại cho họ một khoản thu nhập. Như vậy Ngân hàng đã thực hiện vai trò
tập trung và phân phối lại vốn dưới hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh các quá
trình luân chuyển vốn, phục vụ và kích thích mọi hoạt động của NKT phát triển;
đồng thời, chính các hoạt động đó lại quyết đến sự tồn tại và phát triển hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng. Nhìn chung vốn chi phối toàn bộ các hoạt động và
quyết định đối với việc thực hiện các chức năng của NHTM.
Nguồn vốn của Ngân hàng đa dạng và phong phú; xuất phát từ nhiều
nguồn và tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, mỗi nguồn có những đặc trưng,
ưu nhược điểm riêng. Chính vì thế, việc phân tích cơ cấu nguồn vốn của NHTM
là rất quan trọng đối với nhà Quản trị Ngân hàng nhằm đánh giá chi phí, tính ổn
định và khả năng huy động vốn của Ngân hàng.
Đối với Ngân hàng vốn là cơ sở để nó tổ chức mọi hoạt động kinh doanh;
vốn quyết định đến qui mô Tín dụng và các hoạt động khác; vốn quyết định đến
năng lực thanh toán và bảo đảm uy tín của Ngân hàng trên thị trường tài chính;
và nó quyết định đến năng lực cạnh tranh của Ngân hàng. Chính vì vậy, Ngân
hàng cần phải thường xuyên chăm lo tới việc ổn định và tăng trưởng vốn trong
suốt quá trình hoạt động. Nguồn vốn huy động dồi dào cũng giúp Ngân hàng đa
dạng hóa hoạt động kinh doanh nhằm phân tán rủi ro và thu được lợi nhuận cao
vì mục tiêu an toàn và hiệu quả.
Vốn của Ngân hàng được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, từ nhiều
đối tượng khác nhau, có thể từ chính bản thân Ngân hàng, từ các cá nhân, các
Doanh nghiệp, các tổ chức tài chính,…Việc phân loại vốn của Ngân hàng được
dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau.
Theo nguồn hình thành, vốn của Ngân hàng gồm:
 Vốn chủ sở hữu: Là giá trị tiền tệ do Ngân hàng tạo ra, chiếm tỷ trọng
nhỏ trong tổng nguồn vốn của NHTM nhưng là yếu tố quyết định đến sự hình
thành và duy trì hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Vốn chủ sở hữu có tính ổn định cao, sự tồn tại của nó nhằm cung cấp một

vùng đệm để bù đắp tổn thất và cho phép Ngân hàng tiếp tục tồn tại trong quá
trình hoạt động khi gặp rủi ro. Một Ngân hàng có qui mô Vốn chủ sở hữu lớn sẽ
là cơ sở tốt tạo niềm tin cho khách hàng.
Vốn chủ sở hữu được hình thành bởi:
SV: Lê Thị Mai

6

Lớp: Liên thông Ngân hàng K10


Chuyên đề tốt nghiệp

Đại học Kinh Tế Quốc Dân

+ Vốn góp: Tùy theo tính chất của Ngân hàng mà vốn này có thể góp do
Nhà nước, các cổ đông, các bên liên doanh, tư nhân, …
+ Các quỹ: Quỹ dự trữ bổ sung Vốn điều lệ, Quỹ bảo toàn vốn, Quỹ thặng
dư, Quỹ phúc lợi, Quỹ khen thưởng, …
+ Trái phiếu chuyển đổi
+ Lợi nhuận giữ lại

 Vốn huy động: Là những giá trị tiền tệ mà Ngân hàng huy động được từ
các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua việc cung cấp các sản
phẩm, dịch vụ cho khách hàng và được dùng làm vốn để kinh doanh.
Vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn kinh doanh
của NHTM, khoảng 80%, bản chất của Vốn huy động là tài sản thuộc các sở hữu
khác nhau mà Ngân hàng chỉ có quyền sử dụng, thường có tính dễ biến động, đặc
biệt là vốn ngắn hạn và vốn không kì hạn, để đảm bảo khả năng thanh toán Ngân
hàng cần duy trì tỉ lệ dự trữ hợp lý.

Vốn huy động được của Ngân hàng gồm:
+ Tiền gửi không kì hạn: Đây là tiền gửi của các Doanh nghiệp và cá nhân
tại Ngân hàng nhằm mục đích thực hiện các nghiệp vụ thanh toán không dùng
tiền mặt (thanh toán qua Ngân hàng). Loại tiền gửi này được hưởng lãi suất rất
thấp hoặc không được hưởng lãi, vì khách hàng có thể rút vốn bất kỳ lúc nào
phục vụ cho việc chi trả thông qua các hình thức như Sec, Ủy nhiệm chi,…do
vậy mà nó có tính ổn định thấp, Ngân hàng không chủ động trong việc sử dụng
nguồn vốn này. Tuy nhiên, đối với Ngân hàng đây là Nguồn vốn có chi phí huy
động (tính bằng lãi suất) thấp, càng huy động được nhiều vốn từ nguồn này thì
tổng số dư tiền gửi tại Ngân hàng cao, khi đó nguồn vốn lại là ổn định.
+ Tiền gửi có kì hạn: Đây là loại tiền gửi nhưng khách hàng (chủ yếu là
các Doanh nghiệp) gửi có kì hạn vì kế hoạch chi tiêu của mình, hoặc những
khoản vốn chuyên dùng mà khách hàng cần quản lý riêng.
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Tiền gửi này chủ yếu là tiền nhàn rỗi
của dân cư, nhưng do nhu cầu chi tiêu không xác định được trước nên khách hàng
chỉ gửi không kì hạn để hưởng lãi và đảm bảo an toàn cho khoản tiền nhàn rỗi đó,
chứ không có nhu cầu thanh toán qua Ngân hàng. Chi phí cho việc huy động vốn
này là thấp, lãi mà khách hàng được hưởng được tính và nhập gốc hàng tháng.

SV: Lê Thị Mai

7

Lớp: Liên thông Ngân hàng K10


Chuyên đề tốt nghiệp

Đại học Kinh Tế Quốc Dân


+ Tiền gửi tiết kiệm có kì hạn: Chủ yếu là tiền nhàn rỗi của dân cư và do
nhu cầu chi tiêu được xác định trước, có kế hoạch nên khách hàng gửi vào Ngân
hàng với mục đích chính là hưởng lãi. Lãi suất của tiền gửi tiết kiệm có kì hạn
cao hơn lãi suất của tiền gửi tiết kiệm không kì hạn do nó có tính ổn định về thời
gian gửi. Chính vì tính ổn định của nó mà Ngân hàng có điều kiện thuận lợi trong
việc cân đối nguồn, sử dụng nó để kinh doanh kiếm lời cao.
 Vốn vay: Là những giá trị tiền tệ mà NHTM đi vay từ các tổ chức, cá
nhân khác nhau trong NKT bao gồm cả vay NHNN và các TCTD khác nhằm
đảm bảo khả năng thanh toán. Vốn vay chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn
của NHTM, NHTM có thể vay vốn từ NHNN, các TCTD khác và vay trên thị
trường vốn thông qua các phương thức khác nhau.
+ Vay NHNN: NHTM đi vay NHNN khi cần giải quyết nhu cầu cấp bách
trong việc chi trả, khi thiếu hụt dự trữ (dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán).NHNN
cho vay thông qua các hình thức tái chiết khấu các giấy tờ có giá, cho vay có đảm
bảo bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác, khi đó NHTM
phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định như: những giấy tờ có
giá có chất lượng và phù hợp với mục tiêu của NHNN trong từng thời kỳ.
+ Vay các TCTD khác: Mục đích quan trọng của loại vay này là nhằm
đảm bảo nhu cầu vốn khả dụng trong thời hạn ngắn của NHTM. Trong quá trình
hoạt động, một số NHTM có những ngày cho vay quá nhiều hoặc có nhu cầu lớn
về nghĩa vụ tài chính dẫn đến sự thiếu hụt dự trữ tại NHNN, trong khi đó lại có
một số Ngân hàng khác dư thừa, hành vi vay lẫn nhau giữa các Ngân hàng là
nhằm điều hòa cho nhu cầu vốn khả dụng và đảm bảo nguồn vốn lưu chuyển liên
tục trong hệ thống Ngân hàng. NHTM đến vay trực tiếp hoặc vay thông qua
Ngân hàng đại lý và có thể không cần bảo đảm hoặc bảo đảm bằng các chứng
khoán của kho bạc.
+ Vay trên thị trường vốn: NHTM vay trên thị trường vốn thông qua hình
thức phát hành các giấy tờ có giá (kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu). Những Ngân
hàng có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ được vay mượn nhiều hơn, ngoài ra nó còn
phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển

đổi cho các công cụ nợ dài hạn của Ngân hàng.

 Vốn khác: Đây là vốn được hình thành thông qua việc ủy thác hoặc đại
lý cho các tổ chức trong và ngoài nước hoặc có thể thu hút vốn thông qua các
phương tiện thanh toán mà Ngân hàng áp dụng như vốn trên tài khoản mở thư

SV: Lê Thị Mai

8

Lớp: Liên thông Ngân hàng K10


Chuyên đề tốt nghiệp

Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Tín dụng, tìa khoản tiền gửi séc Bảo chi. Vốn này có tính ổn định thấp và chi phí
đầu vào thấp.
 Hoạt động cấp Tín dụng
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở
hữu sang người sử dụng và sau một thời gian nhất định được quay lại người
sở hữu một lượng giá trị lớn hơn ban đầu.
Tín dụng Ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất
không chỉ đối với sự phát triển của bản thân Doanh nghiệp mà còn đối với toàn
bộ nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát triển của của các doanh nghiệp
đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do NHTM cung cấp trong đó có việc cung
cấp nguồn vốn.
NHTM cấp Tín dụng cho mọi đối tượng, mọi thành phần kinh tế theo
nhiều hình thức khác nhau, song vẫn phải thực hiện theo một qui trình Tín dụng

chung, bởi đây là quy chuẩn để chất lượng Tín dụng của Ngân hàng được đảm
bảo, giảm thiểu được rủi ro cho Ngân hàng.
Nguồn vốn Tín dụng ngân hàng tuy có nhiều ưu điểm nhưng vẫn có
những hạn chế nhất định:
Về điều kiện Tín dụng: các cá nhân, doanh nghiệp khi muốn vay vốn tại
NHTM cần đáp ứng được những yêu cầu đảm bảo an toàn tín dụng của ngân
hàng. Trước tiên cá nhân, doanh nghiệp nộp hồ sơ xin vay vốn phải chứng minh
được năng lực hành vi dân sự, năng lực hành vi pháp lý, năng lực tài chính,…của
mình đê tạo độ tin cậy cho Ngân hàng, sau đó phải chờ giải quyết của Ngân hàng
thì khách hàng mới nhận được quyết định được vay vốn hay không.
Sự kiểm soát của Ngân hàng: Một khi được vay vốn thì đối tượng vay
phải chịu sự kiểm soát của Ngân hàng về mục đích và tình hình sử dụng vốn vay.
Nói chung sự kiểm soát này không gây khó khăn cho họ song lại làm cho họ có
cảm giác bị “kiểm soát”.
Lãi suất vay vốn: lãi suất vay vốn phản ánh chi phí sử dụng vốn. Lãi suất
vốn vay của mỗi NHTM phụ thuộc vào tình hình Tín dụng trên thị trường trong
từng thời kỳ.

 Hoạt động đầu tư
Bên cạnh khoản mục cho vay một khoản mục khác cũng đem lại nguồn lợi
được đánh giá là quan trọng thứ hai trong Ngân hàng, đồng thời khoản mục này
SV: Lê Thị Mai

9

Lớp: Liên thông Ngân hàng K10


Chuyên đề tốt nghiệp


Đại học Kinh Tế Quốc Dân

cũng liên quan và hỗ trợ, bổ sung nhiều cho khả năng sinh lời của các nghiệp vụ
cho vay, đó là khoản mục chứng khoán.
Trong thị trường chứng khoán với vai trò là một chủ thể có tổ chức, các
NHTM thường dựa vào sự biến động về giá cả của từng loại chứng khoán sẽ thực
hiện việc mua bán các chứng khoán ngắn hạn có tính thị trường cao nhằm tìm
kiếm tiền lời do chênh lệch giá sinh ra như một nhà đầu cơ.
Tham gia vào thị trường chứng khoán các NHTM còn thực hiện một
nghiệp vụ quan trọng đó là sử dụng các nguồn vốn của mình để đầu tư vào việc
mua các chứng khoán như trái phiếu, cổ phiếu, ... có tính lưu hoạt kém hơn và kì
hạn dài hơn cho chính mình, các chứng khoán trong nghiệp vụ này thuộc tài
khoản đầu tư.
Chi phí cho việc mua các chứng khoán tài chính như trái phiếu, cổ phiếu
được gọi là đầu tư tài chính.
Có hai hình thức của nghiệp vụ đầu tư tài chính là: Đầu tư chứng khoán và
liên kết liên doanh. Trong đó, thực hiện nghiệp vụ đầu tư chứng khoán NHTM
thường đầu tư vốn vào hai loại chứng khoán có kì hạn dài là chứng khoán do
Chính phủ hay chính quyền địa phương phát hành và chứng khoán do các xí
nghiệp công ty phát hành (chủ yếu là công ty cổ phần); còn hình thức liên kết,
liên doanh là việc NHTM đứng ra mua cổ phiếu cho chính mình với tư cách là
một thành viên hùn vốn khi các công ty, xí nghiệp dưới hình thức cổ phần họ
phát hành các cổ phiếu để gọi vốn.
Hoạt động trong thị trường chứng khoán NHTM cũng có thể đứng ra làm
đại lý cho các chủ thể phát hành, làm môi giới giữa người mua và người bán
chứng khoán, cung cấp dịch vụ tư vấn đầu tư, nhận bảo quản, quản lý các chứng
khoán.
Trong đầu tư tài chính việc quản trị tài khoản đầu tư nhìn chung không
mất nhiều thời gian lao động so với cấp Tín dụng. Khi lựa chọn chứng khoán đầu
tư NHTM tiến hành lựa chọn từ hàng loạt các chứng khoán hiện có trên thị

trường với các đặc tính và kì hạn định sẵn; trong quan hệ với khách hàng thì
NHTM luôn là người chủ động khởi xướng và tiến hành thực hiện trên cơ sở
những khả năng tiềm lực của bản thân; và lúc này NHTM thường là một trong rất
nhiều chủ nợ của chủ thể phát hành. Lưu ý đến những điểm trên trong đầu tư tài
chính giúp NHTM quản lý và điều hành nghiệp vụ này một cách tốt nhất, và thu
được hiệu quả cao nhất.
SV: Lê Thị Mai

10

Lớp: Liên thông Ngân hàng K10


Chuyên đề tốt nghiệp

Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đối với hoạt động đầu tư tài chính của NHTM rủi ro thường được thể hiện
ở rủi ro về vốn (còn gọi là rủi ro sai hẹn hay rủi ro Tín dụng), thực chất đây là rủi
ro phát sinh khi các chủ thể phát hành chứng khoán rơi vào tình trạng khó khăn,
giảm sút về tài chính không có khả năng chi trả lãi và vốn gốc cho các chủ sở
hữu chứng khoán khi đến hạn. Bởi vậy trong nghiệp vụ đầu tư tài chính rủi ro
cũng luôn là vấn đề được các nhà quản trị quan tâm đặc biệt và đặc trưng của rủi
ro trong nghiệp vụ này là: các chứng khoán có mức độ rủi ro cao hơn so với các
chứng khoán thuộc khoản dự trữ thứ cấp.
Mục tiêu được đặt hàng đầu trong nghiệp vụ đầu tư tài chính là tìm kiếm
lợi nhuận: các NHTM luôn phải xác định mục tiêu lợi nhuận là bao nhiêu, nhiều
hay ít, và phải đặt nó trong mối quan hệ tương quan với các mục tiêu khác như
nâng cao khả năng thanh khoản, sự đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, phân tán
rủi ro. Cũng giống như trong cho vay, khi NHTM bỏ vốn ra để mua các trái

phiếu, cổ phiếu,… cho chính bản thân mình cũng vì mục đích săn tìm lợi nhuận
trong tương lai và đó luôn là mục tiêu không thể thiếu được. Các chứng khoán
được NHTM đầu tư nhìn chung đều có thể mang lại lợi nhuận, nhưng trong thực
tế mỗi loại chứng khoán do có những đặc điểm riêng khác nhau như chủ thể phát
hành, mục đích, lĩnh vực sử dụng vốn của chủ thể, lãi suất, thời hạn mãn hạn của
chứng khoán, … cho nên chúng sẽ cho một khả năng thu lợi khác nhau. Chẳng
hạn, nếu đầu tư vào các loại chứng khoán do các chủ thể là công ty, xí nghiệp
phát hành thì khả năng sinh lãi thường sẽ cao hơn so với đầu tư vào các loại
chứng khoán do Nhà nước hay Chính phủ phát hành nhưng mức rủi ro lại lớn
hơn; và ngược lại. Song song với mục tiêu lợi nhuận NHTM cần phải lưu tâm
đến tính thanh khoản của chứng khoán đầu tư, không nên quá chú trọng đến lợi
nhuận mà quên đi tính thanh khoản của nó. Bởi vì, các chứng khoán mà Ngân
hàng đầu tư có ý nghĩa rất lớn, là chỗ dựa cho khoản dự trữ thứ cấp, cụ thể: nếu
trong trường hợp nào đó để thỏa mãn nhu cầu khách hàng rút tiền hoặc nhu cầu
gia tăng về việc cho vay dẫn đến dự trữ thứ cấp bị giảm xuống, để phục hồi khả
năng thanh toán nếu việc tăng vốn bằng cách bán các chứng chỉ tiền gửi có giá trị
lớn không bổ sung được, lúc ấy NHTM phải bán các chứng khoán thuộc tài
khoản đầu tư để bổ sung.
Trong sự tồn tại và phát triển của mình, NHTM luôn phải đối mặt với
những thử thách và sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường tài chính, đối diện với
rất nhiều rủi ro. Vì thế cần đa dạng hóa hoạt động kinh doanh của mình để
NHTM phân tán, giảm thiểu được rủi ro. Các NHTM từng trải, có kinh nghiệm

SV: Lê Thị Mai

11

Lớp: Liên thông Ngân hàng K10



Chuyên đề tốt nghiệp

Đại học Kinh Tế Quốc Dân

hoạt động rất thận trọng và chắc chắn, điều đó được thể hiện: bên cạnh việc thực
hiện các nghiệp vụ Tín dụng họ thường dành một phần tài sản để đầu tư vào các
nguồn ngoài khu vực mà họ đã cho vay như mua các chứng khoán có kì hạn dài,
liên kết kinh doanh vốn với các công ty, xí nghiệp, phát triển và mở rộng các
nghiệp vụ kinh doanh khác,…

 Hoạt động trung gian khác
Ngoài các hoạt động chính trên, NHTM còn thực hiện các hoạt động khác
như dịch vụ thanh toán, dịch vụ ngân quỹ, dịch vụ tư vấn,… nhằm đa dạng hóa
sản phẩm, dịch vụ của mình để thỏa mãn tối đa nhu cầu khách hàng, qua đó Ngân
hàng cũng tối đa hóa lợi nhuận cho mình.
 Dịch vụ thanh toán
NHTM sử các phương tiện thanh toán như Séc, Thư Tín dụng, Ủy nhiệm
thu, Ủy nhiệm chi, Thẻ thanh toán, Ngân phiếu thanh toán để thực hiện hoạt
động thanh toán thu hộ, chi hộ cho khách hàng.
Dịch vụ thanh toán có ưu điểm lớn là Ngân hàng không cần sử dụng tới
nguồn vốn kinh doanh của mình để hoạt động phục vụ khách hàng; nghiệp vụ
này không hề ảnh hưởng tới bảng tổng kết tài sản của Ngân hàng; nó hạn chế tối
đa sự xuất hiện của tiền mặt.
 Dịch vụ ngân quỹ
Gồm dịch vụ thu tiền và dịch vụ phát tiền được thực hiện tương ứng khi
khách hàng đến nộp tiền và lĩnh tiền. Để thực hiện dịch vụ này khách hàng và
Ngân hàng phải tuân thủ theo một qui trình nhất định, phải có các giấy tờ hợp lý
hợp lệ.
 Dịch vụ ủy thác
Dịch vụ ủy thác là việc NHTM quản lý tài sản cho người khác được thực

hiện dưới mọi hình thức, cách sắp xếp khác nhau và việc làm này thường chỉ tâp
trung vào các ngân hàng lớn, có uy tín cao, có trụ sở ở các khu vực tập trung tài
sản và tập trung dân cư.
Có thể chia nghiệp vụ ủy thác làm hai loại: nghiệp vụ ủy thác đối với cá
nhân và nghiệp vụ ủy thác đối với các doanh nghiệp. Trong đó, nghiệp vụ ủy thác
đối với cá nhân gồm: quản lý tài sản theo chúc thư, quản lý theo hợp đồng kí kết,
giám hộ và bảo quản tài sản cá nhân và dịch vụ đại diện; còn nghiệp vụ ủy thác đối

SV: Lê Thị Mai

12

Lớp: Liên thông Ngân hàng K10


Chuyên đề tốt nghiệp

Đại học Kinh Tế Quốc Dân

với doanh nghiệp nhằm phục vụ cho các mục đích trợ cấp hưu trí, phân cha lợi
nhuận, chia tiền thưởng cổ phần cho phát hành trái phiếu, cho mua lại các quỹ,…
Khi cung cấp dịch vụ ủy thác cho khách hàng mang lại cho Ngân hàng
một số lợi thế như bổ sung cho Ngân hàng một nguồn thu nhập khá lớn từ khoản
thu lệ phí và hoa hồng ủy thác hàng năm.
 Dịch vụ tư vấn
Thực hiện dịch vụ này là việc NHTM cung cấp cho khách hàng của họ
những lời khuyên tốt nhất, những hiểu biết sâu sắc nhất về lĩnh vực mà khách
hàng yêu cầu và nhờ đó mà khách hàng có được những thông tin đáng tin cậy,
dựa vào đó mà họ có cơ sở để dự đoán được những diễn biến của tình hình kinh
tế xã hội,… Kết cục họ có thể xây dựng được những phương án sản xuất kinh

doanh tối ưu, hoặc có những quyết định kịp thời trong đầu tư hoặc trong sản xuất
kinh doanh, từ đó họ có thể giảm thiểu được rủi ro hay thiệt hại và đạt được mức
lợi nhuận tối đa.
Thật sai lầm nếu như nếu như một Ngân hàng nào đó bỏ qua hay xem nhẹ
hoạt động này vì nó có chi phí ít nhất mà thu nhập thì không nhỏ. Thu nhập mà
Ngân hàng nhận được khi cung cấp dịch vụ này cho khách hàng không chỉ là lệ
phí phục vụ mà Ngân hàng còn mở rộng khách hàng, củng cố, tăng cường vị trí
và uy tín của mình một cách nhanh chóng. Điều quan trọng là Ngân hàng phải
luôn đảm bảo cung cấp cho khách hàng những lời khuyên chính xác nhất, tin cậy
nhất với tinh thần phục vụ tận tình chu đáo nhất.
 Kinh doanh vàng bạc, đá quý
Do đặc thù riêng của các nghiệp vụ này nên NHTM phải tổ chức một bộ
phận riêng để tiến hành kinh doanh các nghiệp vụ gồm: mua bán vàng bạc, đá
quý và xuất nhập khẩu vàng bạc, đá quý. NHTM thực hiện các nghiệp vụ này
trên cơ sở giấy phép của NHTW và có đội ngũ cán bộ, kỹ thuật theo sự xác nhận
của NHTW.
 Các dịch vụ khác liên quan đến hoạt động của Ngân hàng
Bao gồm: dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ bảo quản và kí gửi,…

SV: Lê Thị Mai

13

Lớp: Liên thông Ngân hàng K10


Chuyên đề tốt nghiệp

Đại học Kinh Tế Quốc Dân


1.1.2. Hoạt động Tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm, đặc trưng Tín dụng của Ngân hàng thương mại
Theo Mac: Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị
từ người sở hữu sang người sử dụng và sau một thời gian nhất định được
quay lại người sở hữu một lượng giá trị lớn hơn ban đầu.
Theo quan diểm này phạm trù Tín dụng có 3 nội dung chủ yếu đó là: tính
chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị, tính thời hạn và tính hoàn trả.
Như vậy Tín dụng là mối quan hệ kinh tế giữa bên cho vay (Ngân hàng và
các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể
khác), trong đó VTD được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ và hàng hóa. Quá
trình đó được thể hiện ở 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Phân phối Tín dụng dưới hình thức cho vay.
Trong giai đoạn này VTD được chuyển sang người đi vay, ở đay chỉ có
một bên giá trị và cũng chỉ có một bên nhượng đi giá trị.
Giai đoạn 2: Sử dụng VTD trong quá trình tái sản xuất
Người đi vay sau khi nhận được giá trị VTD họ được quyền sử dụng nó để
thỏa mãn nhu cầu sản xuất hoặc tiêu dùng. Tuy nhiên, quyền sử dụng chỉ giới
hạn trong một thời gian nhất định và họ không có quyền sở hữu.
Giai đoạn 3: Giai đoạn kết thúc vòng tuần hoàn của TD
Sau khi VTD đã hoàn thành một chu kỳ sản xuất để trở về hình thái tiền tệ
thì VTD được bên đi vay hoàn trả lại bên cho vay với lượng giá trị lớn hơn (gốc
và lãi).
Trong thực tế cuộc sống giữa người thừa vốn và người cần vốn khó có thể
phù hợp với nhau về qui mô vốn, thời gian nhàn rỗi của vốn và thời gian sử dụng
vốn; bên cạnh đó chi phí và thời gian liên quan đến việc tìm kiếm để phù hợp với
nhau giữa các bên là tốn kém. Vì vậy mà nhất thiết phải có bên thứ 3 đứng ra tập
trung được tất cả số vốn của những người tạm thời thừa, cần đầu tư kiếm lãi, trên
cơ sở vốn đó phân phối cho những người cần vốn sử dụng dưới hình thức cho
vay. Người đó được gọi là các TCTD trong đó chủ yếu là các NHTM.
Việc NHTM tập trung vốn dưới hình thức huy động và phân phối dưới

hình thức cho vay được gọi là Tín dụng ngân hàng

SV: Lê Thị Mai

14

Lớp: Liên thông Ngân hàng K10


Chuyên đề tốt nghiệp

Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đặc trưng Tín dụng Ngân hàng thương mại
Tín dụng Ngân hàng thương mại có các đặc trưng sau:
Thứ nhất: TD là sự cung cấp một lượng giá trị dựa trên cơ sở lòng tin.
Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị TD. Ở đây NHTM tin tưởng bên
đi vay sử dụng vốn có hiệu quả sau một thời gian nhất định và do đó họ có khả
năng trả được nợ. Trên thực tế khi một nhân viên TD xét duyệt cho vay không dựa
trên cơ sở đánh giá mức độ tín nhiệm về khách hàng mà chú trọng hơn đến các bảo
đảm, chính quan điểm này đã ảnh hưởng ít nhiều đến chất lượng TD.
Thứ hai: TD là sự chuyển nhượng một lượng giá trị có thời hạn
Để đảm bảo thu hồi nợ đúng hạn, khi cấp TD NHTM luôn xác định rõ thời
gian cho vay, việc xác định thời gian cho vay được dựa vào:
Quá trình luân chuyển vốn của đối tượng: NHTM phải hiểu rằng thời gian
cho vay phải phù hợp với chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay thì lúc đó
khách hàng vay vốn mới có diều kiện để trả nợ. Nếu thời gian cho vay nhỏ hơn
chu kỳ luân chuyển vốn của đối lượng vay thì khách hàng chưa có nguồn để trả
nợ khi khoản nợ đến hạn và lúc này chính Ngân hàng gây khó khăn cho khách
hàng; Ngược lại, nếu thời gian cho vay dài hơn chu kỳ luân chuyển vốn sẽ tạo

điều kiện cho khách hàng sử dụng vốn không đúng mục đích vay vốn và dẫn đến
không có nguồn để trả nợ khi khoản nợ đến hạn nếu có rủi ro xảy ra.
Tính chất vốn của bên cho vay: Nếu Nguồn vốn ổn định thì thời gian cấp TD
có thể dài hơn và ngược lại, điều này nhằm đảm bảo khả năng thanh toán cho NHTM.
Thứ ba: TD là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị trên nguyên
tắc phải hoàn trả cả gốc và lãi.
Đây là thuộc tính riêng có của TD. Vì vốn cho vay của NHTM là vốn huy
động của những người tạm thời thừa nên sau một thời gian nhất định Ngân hàng
phải hoàn trả lại. Mặt khác Ngân hàng cần có nguồn để bù đắp chi phí hoạt động,
khấu hao Tài sản cố định, trả lương cho Cán bộ công nhân viên,… nên vốn cho
vay khi được hoàn trả phải bao gồm cả gốc và lãi.
1.1.2.2. Phân lọai Tín dụng Ngân hàng thương mại
Trong NKT thị trường hoạt động TD rất đa dạng và phong phú với nhiều
hình thức khác nhau. Để sử dung và quản lý TD có hiệu quả thì phải tiến hành
phân loại TD. Mặt khác, việc phân loại TD cho phép theo dõi rủi ro và sinh lời

SV: Lê Thị Mai

15

Lớp: Liên thông Ngân hàng K10


Chuyên đề tốt nghiệp

Đại học Kinh Tế Quốc Dân

gắn liền với những lĩnh vực tài trợ để có chính sách lãi suất, bảo đảm, hạn mức
và chính sách mở rông phù hợp.
Nguồn vốn kinh doanh của Ngân hàng chủ yếu là vốn huy động từ NKT, từ

vốn tạm thời nhàn rỗi của cá nhân và tổ chức được giải phóng ra khỏi quá trình sản
xuất kinh doanh. Mỗi nguồn vốn huy động được có thời gian nhàn rỗi khác nhau,
do đó phải tiến hành phân loại TD để thực hiện cân đối giữa vốn và sử dụng vốn
trông NHTM, giúp cho quá trình quản lý điều hành ngày càng hiệu quả.
Quá trình phân loại có thể sử dụng nhiều tiêu thức để phân loại TD, song
thực tế các nhà Kinh tế học thường phân loại TD theo các tiêu thức sau:
Phân loại theo thời gian Tín dụng
+Tín dụng ngắn hạn: Là loại TD có thời hạn từ 12 tháng trở xuống, loại
hình này được dùng để bổ sung sự thiếu hụt tạm thời về Vốn lưu động của các
Doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của các cá nhân.
Tín dụng trung hạn: Là loại TD có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm. Loại
hình TD này được cấp để mua sắm Tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật,
mở rộng sản xuất và xây dựng các công trình nhỏ, có thời gian thu hồi vốn
nhanh. Bên cạnh đó, cho vay trung hạn còn là nguồn hình thành Vốn lưu động
thường xuyên của các Doanh nghiệp, đặc biệt là các Doanh nghiệp vừa thành lập.
Tín dụng dài hạn: Là loại TD có thời hạn trên 5 năm, được sử dụng để cấp
vốn cho Xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình
thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất với qui mô lớn.
Phân loại theo mục đích sử dụng vốn
Căn cứ vào tiêu thức này người ta chia TD thành 2 loại:
Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa: là loại TD cấp cho các nhà Doanh
nghiệp, các chủ thể kinh doanh để tiến hành sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Tín dụng tiêu dùng: là loại TD cấp cho các cá nhân đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng như mua sắm nhà cửa, xe cộ, các vật dụng gia đình có giá trị lớn,…
Phân loại theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
Theo căn cứ này TD chia làm hai loại:
Cho vay không bảo đảm: là loại cho vay không có Tài sản cầm cố, thế
chấp hay sự bảo lãnh của người thứ 3, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của
bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh
SV: Lê Thị Mai


16

Lớp: Liên thông Ngân hàng K10


Chuyên đề tốt nghiệp

Đại học Kinh Tế Quốc Dân

doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì Ngân hàng có thể cấp
TD dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ
hai bổ sung.
Việc Ngân hàng xác định Mức cho vay và điều kiện cho vay không bảo
đảm do NHNN qui định. Khách hàng vay không bảo đảm cần phải hội tụ đủ các
điều kiện sau:
- Có tín nhiệm đối với TCTD cho vay trong việc sử dụng vốn vay và trả
nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi.
- Có dự án đầu tư và phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi có
khả năng hoàn trả nợ; hoặc có dự án, phương án phục vụ đời sống khả thi phù
hợp với qui định của pháp luật.
- Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ
- Cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của
TCTD nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đồng TD; cam kết trả
nợ trước hạn nếu không thực hiện được các biện pháp bảo đảm bằng tài sản.
Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như cầm
cố, hoặc thế chấp, hoặc có sự bảo lãnh của bên thứ ba.
Đối với khách hàng không có uy tín cao với Ngân hàng, khi vay vốn đòi
hỏi phải có bảo đảm, sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để Ngân hàng có thêm
nguồn thu thứ hai bổ sung cho nguồn thu thứ nhất thiếu chắc chắn.

Cầm cố là việc một bên giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên
kia để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Thế chấp: là việc bên bảo đảm sử dụng tài sản thuộc quyền sở hữu của
mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nhưng không giao tài sản cho bên
nhận bảo đảm.
Bảo lãnh Ngân hàng: là cam kết bằng văn bản của Ngân hàng với bên
nhận bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi
khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với
bên nhận bảo lãnh; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho Ngân hàng số tiền
mà Ngân hàng đã trả thay.

SV: Lê Thị Mai

17

Lớp: Liên thông Ngân hàng K10


Chuyên đề tốt nghiệp

Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Phân loại theo xuất xứ Tín dụng
Cho vay trực tiếp: Là việc Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu
cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ cho Ngân hàng
Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua
lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán.
1.2. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Khái niệm
Ta có thể hiểu Chất lượng TD là sự đáp ứng yêu cầu hợp lý của khách

hàng có lựa chọn, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng, đồng thời góp
phần thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của NKT xã hội.
Đối với bản thân Ngân hàng: chất lượng TD thể hiện ở phạm vi, mức độ
giới hạn TD phải phù hợp với thực lực theo hướng tích cực của Ngân hàng và
phải bảo đảm được khả năng cạnh tranh trên thị trường, làm lành mạnh hóa các
quan hệ kinh tế, phục vụ tăng trưởng và phát triển.
Đối với khách hàng: Chất lượng TD là sự thõa mãn yêu cầu hợp lý, thủ
tục đơn giản đảm bảo thu hút khách hàng nhưng vẫn tuân thủ đúng những qui
định về cấp TD, góp phần làm lành mạnh hóa tình hình tài chính của Doanh
nghiệp, cải thiện hoạt động sản xuất kinh doanh và duy trì sự tồn tại và phát triển
của Ngân hàng.
Đối với NKT: Chất lượng TD thể hiện ở chỗ là khoản TD phải hỗ trợ cho
hoạt động sản xuất kinh doanh, giải quyết công ăn việc làm, xây dựng cơ sở hạ
tầng, vừa thúc đẩy tiêu dùng thu hút tối đa nguồn vốn trong nước, đồng thời
tranh thủ vốn đầu tư nước ngoài phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá Chất lượng Tín dụng của Ngân hàng
thương mại
1.2.2.1. Tổng dư nợ và kết cấu dư nợ
Tổng dư nợ là chỉ tiêu phản ánh khối lượng tiền ngân hàng cấp cho NKT
tại một thời điểm. Tổng dư nợ thấp chứng tỏ hoạt động Ngân hàng yếu kém,
không có khả năng mở rộng, tuy nhiên không thể nói rắng chỉ tiêu này càng cao
thì chất lượng TD càng tốt vì đằng sau khoản TD đó tiềm ẩn rủi ro TD càng cao.

SV: Lê Thị Mai

18

Lớp: Liên thông Ngân hàng K10



Chuyên đề tốt nghiệp

Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Chỉ tiêu tổng dư nợ phản ánh qui mô TD của Ngân hàng, sự uy tín của
Ngân hàng đối với khách hàng và khi đem so sánh Ngân hàng này với Ngân hàng
khác trên cùng địa bàn cho ta biết được dư nợ của Ngân hàng đó là cao hay thấp.
Kết cấu dư nợ phản ánh tỉ trọng của các loại dư nợ trong tổng dư nợ và
khi đi phân tích kết cấu đó sẽ giúp Ngân hàng biết được cần đẩy mạnh cho vay
theo loại nào để cân đối với thực lực của mình. Kết cấu dư nợ khi đối chiếu với
kết cấu nguồn huy động sẽ cho biết rủi ro của loại hình cho vay nào là nhiều
nhất.
1.2.2.2. Tỷ lệ nợ quá hạn
Nợ quá hạn là hiện tượng phát sinh từ mối quan hệ TD không hoàn hảo
khi người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình cho Ngân hàng
đúng hạn theo như cam kết trong hợp đồng TD.
Tỉ lệ Nợ quá hạn là tỉ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của
NHTM ở một thời điểm nhất định thường là cuối tháng, cuối quý, hay cuối năm.
Tỉ lệ nợ quá hạn = Nợ quá hạn / Tổng dư nợ
Xét về bản chất TD là sự hoàn trả, do đó tính an toàn là yếu tố quan trọng
bậc nhất để cấu thành chất lượng TD. Khi một khoản vay không được trả đúng
hạn như cam kết mà không có lí do chính đáng thì nó sẽ bị chuyển sang nợ quá
hạn với lãi suất cao hơn lãi suất bình thường. Trên thực tế phần lớn các khoản nợ
quá hạn là có khả năng mất vốn, như vậy tỉ lệ nợ quá hạn càng cao thì NHTM
càng có khả năng đối diện với rủi ro mất vốn, điều này đưa đến cho Ngân hàng
những khó khăn trong kinh doanh như: mất khả năng thanh toán, giảm doanh
thu, giảm lợi nhuận.
1.2.2.3. Tỉ lệ thực thu lãi tiền vay

Là phần trăm giữa lãi tiền vay thu được thực tế trong kỳ với lãi tiền vay

phả thu trong kỳ.
Đây là một chỉ tiêu gián tiếp để đánh giá chất lượng TD của một NHTM;
nếu đạt trên 90% là tốt, nhỏ hơn 80% là xấu, tuy nhiên phải loại trừ yếu tố thời vụ.
1.2.2.4. Tỉ lệ thu nhập từ Tín dụng

Không thể nói một khoản TD có chất lương cao khi nó không đem lại một
khoản thu nhập cho Ngân hàng. Nguồn thu từ TD là ngồn thu chủ yếu của
NHTM để đảm bảo sự tồn tại và phát triển.

SV: Lê Thị Mai

19

Lớp: Liên thông Ngân hàng K10


Chuyên đề tốt nghiệp

Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Tỉ lệ thu nhập từ TD = Thu nhập từ TD / Tổng thu nhập
Nếu một NHTM chỉ chú trọng vào việc giảm và duy trì một tỉ lệ Nợ quá
hạn thấp mà không tăng được thu nhập từ TD thì tỉ lệ Nợ quá hạn thấp cũng
không có ý nghĩa. Chất lượng TD được nâng cao chỉ thực sự có ỹ nghĩa khi mà
nó góp phần nâng cao khả năng sinh lời của Ngân hàng.
1.2.2.5. Vòng quay Vốn Tín dụng
Đây là chỉ tiêu thường được các NHTM tính toán hàng năm để đánh giá
khả năng tổ chức quản lý VTD và chất lượng TD trong việc đáp ứng nhu cầu của
khách hàng
Vòng quay VTD = Doanh số thu nợ / Dư nợ bình quân

Hệ số này phản ánh số vòng chu chuyển VTD, hệ số này càng cao chứng
tỏ nguồn vốn của Ngân hàng được luân chuyển nhanh, tham gia vào nhiều chu kỳ
sản xuất và lưu thông hàng hóa. Với một số vốn nhất định nhưng do vòng quay
VTD nhanh nên NH đã đáp ứng được nhu cầu vốn cho các Doanh nghiệp, mặt
khác Ngân hàng có vốn để tiếp tục đầu tư vào các lĩnh vực khác. Như vậy hệ số
này càng cao phản ánh tình hình quản lý VTD của Ngân hàng càng tốt, chất
lượng TD tăng lên.
1.2.2.6. Hiệu suất sử dụng vốn

Phân tích cơ cấu cho vay trong tổng nguồn vốn huy động là việc xem xét
đánh giá tỉ trọng cho vay đã phù hợp với khả năng đáp ứng của bản than Ngân
hàng cũng như đòi hỏi về vốn của NKT hay chưa, trên cơ sở đó các NHTM có
thể biết được khả năng mở rộng TD của mình, từ đó có thể quyết định qui mô, tỉ
trọng đầu tư vào các lĩnh vực một cách hợp lý để vừa đảm bảo an toàn vốn vay
vừa có thể thu lại lợi nhuận cao nhất có thể.
Hiệu suất sử dụng vốn = Tổng dư nợ / Tổng vốn huy động
1.3. NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.3.1. Nhóm nhân tố chủ quan
Gồm các nhân tố thuộc về phía Ngân hàng như chính sách tín dụng, công
tác tổ chức, chất lượng cán bộ, quy trình tín dụng…
Chính sách tín dụng.
Chính sách tín dụng là một hệ thống biện pháp liên quan đến việc khuyếch
SV: Lê Thị Mai

20

Lớp: Liên thông Ngân hàng K10



Chuyên đề tốt nghiệp

Đại học Kinh Tế Quốc Dân

trương tín dụng hoặc hạn chế tín dụng để đạt được mục tiêu đã hoạch định của
NHTM đó.
Hoạch định chính sách tín dụng phù hợp sẽ thu hút được nhiều khách
hàng, đảm bảo được khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng, phân tán rủi ro,
tuân thủ chấp hành tốt luật pháp và đường lối chính sách của Nhà nước.
Hoạt động tín dụng trong nền kinh tế thị trường chứa đựng rất nhiều rủi
ro. Khi Ngân hàng gặp phải những rủi ro thì có thể bị phá sản hoặc thiệt hại lớn,
mất uy tín với khách hàng, cơ quan quản lý nhà nước. Vì vậy, khi hoạch định
chính sách tín dụng phải luôn coi trọng việc đảm bảo an toàn vốn như là một mục
tiêu mà chính sách đó phải dạt được. Do vậy, ta có thể nói rằng chất lượng tín
dụng của Ngân hàng có tốt hay không nó còn phụ thuộc vào việc xây dựng một
chính sách tín dụng của Ngân hàng có đúng đắn hay không.
Công tác tổ chức Ngân hàng
Để tạo điều kiện cho việc quản lý có hiệu quả các khoản VTD thì cần có
sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban, có sự đoàn kết thống nhất từ trên
xuống dưới, từ ban lãnh đạo đến toàn bộ CBCNV. Điều đó có nghĩa công tác tổ
chức Ngân hàng được thực hiện tốt chính là cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ TD
lành mạnh. Hơn nữa, thực hiện tốt công tác này Ngân hàng đã làm cho guồng
máy hoạt động của mình được uyển chuyển, nhịp nhàng, linh hoạt. Chính vì vậy,
trong quá trình hoạt động Ngân hàng nên chú trọng mặt này để ngày càng hoàn
thiện, phát triển và tạo điều kiện cho chất lượng TD được nâng lên.
Thông tin Tín dụng
Cho vay vốn không phải là một vấn đề đơn giản. Trên thực tế không phải
khách hàng nào cũng sử dụng vốn vay đúng mục đích và có hiệu quả, ngoài ra
còn có những khách hàng chủ định lừa Ngân hàng để chiếm đoạt tài sản (như
dùng 1 tài sản để thế chấp vay vốn tại nhiều Ngân hàng với số tiền vay lớn hơn

giá trị tài sản, thành lập các công ty "ma"…) gây rủi ro, tổn thất cho Ngân
hàng .Vì vậy, hoạt động TD muốn tăng trưởng, đạt hiệu quả nhưng phải đảm bảo
an toàn vốn thì phải có hệ thống thông tin hữu hiệu phục vụ cho công tác này.
Nắm bắt kịp thời, chính xác các luồng thông tin về khách hàng là điều kiện để
xem xét, phân tích nhằm tìm ra những cơ hội tốt trong kinh doanh cũng như để
đề phòng những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động của mỗi Ngân hàng.
Trên thương trường cùng với nhiều đối thủ cạnh tranh, người nào nắm bắt
được nhiều thông tin nhanh nhất, chính xác nhất thì nắm được đa phần thắng. Rõ
SV: Lê Thị Mai

21

Lớp: Liên thông Ngân hàng K10


Chuyên đề tốt nghiệp

Đại học Kinh Tế Quốc Dân

ràng việc xây dựng hoàn chỉnh một hệ thống thông tin TD với nhiều kênh, nhiều
nguồn cung cấp cùng với việc đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ năng lực có chọn lọc,
xử lý thông tin kịp thời là một trong những điều kiện quyết định sự thành công
trong công tác kinh doanh và thực hiện việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín
dụng của Ngân hàng.
Trình độ cán bộ Ngân hàng
Nhân tố con người là nhân tố trung tâm trong mọi hoạt động. Thực tế cho
thấy, một trong những vấn đề có tính quyết định đến chất lượng TD cao hay thấp
là phụ thuộc khá nhiều từ việc hoạch định các chủ trương, chính sách tới việc
thẩm định các dự án, xét duyệt hồ sơ, kiểm tra việc sử dụng vốn vay, thu hồi
nợ… của Ngân hàng và trong đó con người là nhân tố không thể thiếu.

Một Ngân hàng có đội ngũ CBCNV được đào tạo với chất lượng tốt, có
trình độ nghiệp vụ chuyên môn cao thì việc quản lý, thực hiện các nghiệp vụ Ngân
hàng nói chung và nghiệp vụ TD nói riêng sẽ trở nên có hệ thống và đạt được kết
quả cao. Hơn nữa, nó còn giúp cho Ngân hàng tránh được những rủi ro có thể xảy
ra do trình độ của cán bộ, nhờ đó mà chất lượng TD luôn được đảm bảo.
Vấn đề kiểm tra, kiểm soát, thanh tra
Mở rộng quy mô hoạt động TD, tăng cường cho vay mà không tính đến
những rủi ro, bất trắc có thể xảy ra thì dễ dẫn đến sụp đổ và phá sản của mỗi
NHTM.
Một trong những nghiệp vụ hoạt động nhằm mục đích giúp cho Ngân
hàng tránh được rủi ro trên là công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm soát. Công tác
này không chỉ thực hiện đối với khách hàng (như kiểm tra trước, trong và sau khi
cho vay) mà còn được thực hiện với bản thân Ngân hàng như kiểm tra quá trình
thực hiện cho vay xem đã đúng quy trình chưa. Kiên quyết loại trừ những cán bộ
mất phẩm chất, tiêu cực, tham ô, tham nhũng gây thất thoát tài sản làm mất uy tín
của Ngân hàng đối với khách hàng.
Nâng cao chất lượng TD cũng đồng thời là Ngân hàng phải kịp thời ngăn
chặn, phát hiện được những hành vi vi phạm pháp luật có ảnh hưởng đến hoạt
động của Ngân hàng cũng như bảo vệ được tài sản, cán bộ, uy tín của Ngân hàng.
Muốn vậy phải bố trí cán bộ có năng lực, trình độ và trách nhiệm cao thực hiện
công tác kiểm tra, thanh tra giám sát là vấn đề mà không một Ngân hàng nào
được coi nhẹ.

SV: Lê Thị Mai

22

Lớp: Liên thông Ngân hàng K10



Chuyên đề tốt nghiệp

Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động TD
Nền kinh tế phát triển đòi hỏi ngành ngân hàng phải được trang bị đầy đủ
các công nghệ thiết bị hiện đại, phù hợp với nhu cầu của xã hội và phục vụ kịp
thời yêu cầu của khách hàng về các mặt dịch vụ với chi phí cả hai bên đều chấp
nhận được. Mặt khác, các trang thiết bị này cũng giúp cho các nhà quản trị Ngân
hàng kịp thời nắm bắt được mọi diễn biến của thị trường, các dự báo về khả năng
phát triển kinh tế và mọi hoạt động tín dụng để đưa ra được những chiến lược,
những quyết sách phù hợp với tình hình thực tế, nhằm thỏa mãn yêu cầu ngày
càng cao của khách hàng. Như vậy, trang thiết bị và không ngừng đổi mới công
nghệ cũng là yếu tố ảnh hưởng đến việc nâng cao chất lượng TD.
1.3.2 Nhóm nhân tố khách quan:
Môi trường kinh tế
Để Ngân hàng có thể huy động được nhiều nguồn vốn mở rộng hoạt động
cho vay, phục vụ cho việc phát triển kinh tế thì phải có một nền kinh tế phát triển
ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng là vô cùng
cần thiết. Một nền kinh tế có mức tăng trưởng ổn định sẽ làm giá cả luôn giữ ở
mức ổn định, tình trạng lạm phát ở mức thấp tạo điều kiện cho Ngân hàng mở
rộng quy mô hoạt động của mình và tránh được những thiệt hại cho Ngân hàng
do sự mất giá của đồng tiền, từ đó mà chất lượng TD được nâng lên.
Ngoài ra cơ chế, chính sách của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có
tác động đến mọi hoạt động của nền kinh tế nên cũng tác động trực tiếp đến các
khách hàng vay vốn của Ngân hàng .Nếu chính sách của Nhà nước (chính sách
thuế, chính sách tiền tệ, XNK…) không tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, làm
cho các doanh nghiệp khó khăn trong SXKD nên cũng ảnh hưởng đến chất lượng
tín dụng.
Một trong những nhân tố có tác động lớn tới việc mở rộng và nâng cao

chất lượng TD đó là chu kỳ phát triển kinh tế. Nếu thời kỳ kinh tế phát triển hưng
thịnh sẽ có nhiều cơ hội làm ăn cho các nhà đầu tư, SXKD được mở rộng tăng
được lợi nhuận, điều này tạo điều kiện cho Ngân hàng mở rộng cho vay và chất
lượng tín dụng được nâng lên. Ngược lại, trong thời kỳ nền kinh tế bị suy thoái,
SXKD bị đình trệ, quy mô sản xuất thu hẹp, thua lỗ kèo dài dẫn đến các khách
hàng của Ngân hàng khó khăn trong việc trả nợ, chất lượng tín dụng bị giảm sút.

SV: Lê Thị Mai

23

Lớp: Liên thông Ngân hàng K10


Chuyên đề tốt nghiệp

Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Môi trường xã hội
Quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở tín nhiệm là chủ yếu. Vì vậy, sự tín nhiệm
là cầu nối mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng. Uy tín của Ngân hàng trên
thị trường tiền tệ cao sẽ thu hút được nhiều khách hàng, ngược lại khách hàng có
uy tín, được Ngân hàng tín nhiệm tạo thuận lợi trong việc cấp tín dụng.
Trong xã hội có nhiều truyền thống tốt đẹp, ít tệ nạn XH như lừa đảo, làm
ăn phi pháp cũng góp phần nâng cao chất lượng tín dụng.
Tình hình chính trị
Một quốc gia có sự ổn định về chính trị, không có chiến tranh thì đây là
môi trường thuận lợi và yên tâm cho các nhà đầu tư trong nước cũng như các nhà
đầu tư nước ngoài. Chính trị ổn định thì nền kinh tế mới phát triển, bất cứ sự biến
động nào về chính trị cũng dẫn tới xáo động lớn cho toàn bộ nền kinh tế. Riêng

đối với Ngân hàng nó có ảnh hưởng trực tiếp tới việc huy động vốn, cho vay.
Điều đó có nghĩa ảnh hưởng tới chất lượng TD
Nhân tố pháp lý
Pháp luật có vai trò hết sức quan trọng với hoạt động Ngân hàng nói
chung và chất lượng TD nói riêng.
Pháp luật là một bộ phận không thể thiếu được ở bất kỳ nền kinh tế nào.
Không có pháp luật hoặc các chính sách luật ban hành không phù hợp, không
đồng bộ sẽ gây khó khăn cho toàn bộ nền kinh tế cũng như các doanh nghiệp, nó
ảnh hưởng trực tiếp đến việc mở rộng và nâng cao chất lượng TD Ngân hàng.
Ngoài ra nếu có hệ thống phát luật đồng bộ sẽ tạo ra môi trường pháp lý lành
mạnh, bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế do đó mà SXKD được tiến triển
thuận lợi, đạt hiệu quả cao. Nó còn là cơ sở để giải quyết mọi mối quan hệ giữa
các chủ thể trong xã hội
Ngoài ra việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân hàng còn
bị ảnh hưởng bởi một số nguyên nhân khách quan khác như: Thiên tai, hoả hoạn,
dịch bệnh… Vì đây là nguyên nhân làm cho nhiều khách hàng của Ngân hàng bị
phá sản nhất là các khách hàng SXKD phụ thuộc nhiều vào yếu tố tự nhiên.

SV: Lê Thị Mai

24

Lớp: Liên thông Ngân hàng K10


Chuyên đề tốt nghiệp

Đại học Kinh Tế Quốc Dân

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI NHTMCP

QUỐC TẾ CHI NHÁNH ĐỐNG ĐA
2.1. TỔNG QUAN VỀ NHTMCP QUỐC TẾ CHI NHÁNH ĐỐNG ĐA
2.1.1 Sự ra đời và phát triển của VIB Đống Đa.
VIB đựơc thành lập theo giấy phép hoạt động số 0042/NH-GP của Thống
đốc NHNN Việt Nam cấp ngày 18/09/1996 với thời gian hoạt động là 99 năm.
• Tên đầy đủ là: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quốc tế Việt Nam.
• Tên đầy đủ bằng tiếng anh là: Viet Nam International Commercial Joint
Stock Bank.
• Tên viết tắt bằng tiếng anh là: VIB.
Hiện nay, trụ sở chính của VIB được đặt tại Tòa nhà Viettower, 198B Tây
Sơn, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội.
Sau 14 năm hoạt động, VIB trở thành một trong những NHTMCP hàng
đầu Việt Nam với Tổng tài sản đạt hơn 60 nghìn tỷ đồng, Vốn điều lệ chính thức
kể từ ngày 13/09/2010 4000 tỷ đồng, mạng lưới Chi nhánh gồm hơn 120 đơn vị
kinh doanh trên cả nước.
Từ khi thành lập đến nay, VIB luôn được xếp hạng A theo các tiêu chí xếp
hạng của NHNN. Trong nhiều năm gần đây VIB luôn đạt mức tăng trưởng mạnh
và ổn định. Theo xếp hạng của UBDP năm 2007 VIB là Doanh nghiệp lớn đứng
thứ 137 trong tổng số 200 Doanh nghiệp hàng đầu trong nước. Báo Vietnamnet
bình chọn VIB đứng thứ 3 trong tổng 500 Doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt
Nam về doanh thu. VIB cũng đạt được nhiều danh hiệu và giải thưởng do các tổ
chức uy tín trong nước và nước ngoài trao tặng như: Thương hiệu mạnh Việt
Nam, danh hiệu Ngân hàng có dịch vụ bán lẻ được hài lòng nhất, Ngân hàng
thanh toán quốc tế xuất sắc…. Năm 2010 đánh dấu bước phát triển quan trọng
của VIB bằng việc hợp tác chiến lược với Ngân hàng Commonwealth
(Commonwealth Bank of Australia - CBA) – Ngân hàng bán lẻ hàng đầu của Úc.
Kể từ ngày 01/09/2010 CBA đã sở hữu 15% cổ phần và chính thức trở thành cổ
đông chiến lược của VIB. Với sự tham gia của CBA trong vai trò cổ đông chiến
lược, VIB sẽ có thêm cơ hội tiếp cận được công nghệ NH mới, phát triển năng
lực quản trị rủi ro, quản trị nguồn nhân lực, tài chính và nguồn vốn, từ đó nâng

cao hiệu quả kinh doanh hướng đến mục tiêu là 1 trong 3 NHTMCP hàng đầu tại
Việt Nam
SV: Lê Thị Mai

25

Lớp: Liên thông Ngân hàng K10


×