Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

RỦI RO CỦA NGAN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÌN TỪ GÓC ĐỘ LÍ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM CÁC NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.98 KB, 18 trang )

1

Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại – nhìn từ góc độ lý luận và
kinh nghiệm các nước
Tín dụng (TD) là hoạt động kinh doanh chính của các NHTM, đây là lĩnh vực hoạt
động đem lại thu nhập chủ yếu nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro rất cao. Chính vì thế, gắn
liền với việc mở rộng TD thì công tác quản trị rủi ro tín dung (RRTD) luôn được
các NHTM chú ý. Bài viết này sẽ đề cập một số nội dung chủ yếu sau đây
1.Những vấn đề chung về RRTD
Theo Ủy ban Basel (thuộc NH thanh toán quốc tế) thì: RRTD là khả năng mà khách
hàng vay hoặc bên đối tác không thực hiện được các nghĩa vụ của mình theo những
điều khoản đã cam kết. Cũng theo Ủy ban này thì “Rủi ro thất thoát đối với một
NH là sự vỡ nợ của người giao ước trong hợp đồng, trong đó sự vỡ nợ được xác
định là bất kỳ sự vi phạm nghiêm trọng nào đối với nghĩa vụ hợp đồng khi hoàn trả
nơ gốc và lãi”.
Theo quyết định số 493/2005/QĐ - NHNN (ngày 22 tháng 04 năm 2005) của Thống
đốc NH Nhà nước Việt Nam thì: “RRTD trong hoạt động NH của tổ chức TD là
khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động NH của tổ chức TD do khách hàng không
thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”.
Có thể nhận dạng RRTD ở 2 đặc tính:
(1) Biên độ rủi ro. Thể hiện sự thiệt hại mà rủi ro gây ra;
(2) Tần số xuất hiện của rủi ro. Thể hiện việc xuất hiện rủi ro đó nhiều hay ít, có
quy luật hay không.
RRTD luôn đem đến những hậu quả rất khó lường cho nền kinh tế cũng như chính
bản thân các NHTM.
Đối với các NHTM. RRTD phát sinh sẽ dẫn đến những hậu quả tiêu cực:
(i) Làm giảm uy tín của NHTM. RRTD ở mức độ cao phản ánh năng lực hoạt động
kinh doanh của NHTM không tốt, làm suy giảm uy tín của NH trên thị trường huy
động vốn do suy giảm lòng tin của công chúng gửi tiền, suy giảm tín nhiệm trên thị



2

trường tiền tệ quốc tế, gây khó khăn trong việc quan hệ vay vốn nước ngoài, thiết
lập quan hệ đại lý với nước đó, hạn chế năng lực cạnh tranh;
(ii) Làm suy giảm năng lực thanh toán của NHTM. RRTD xảy ra làm cho NHTM
không thu hồi được gốc và lãi số vốn đã cho vay theo kế hoạch đã định, trong khi
đó, NH vẫn phải thanh toán các nghĩa vụ tài chính đến hạn, đó là nguyên nhân dẫn
đến rủi ro thanh khoản;
(iii) Làm giảm lợi nhuận trong hoạt động NHTM. Khi RRTD xảy ra, NHTM không
thu hồi được nợ vay như dự kiến ban đầu, làm chậm tốc độ quay vòng vốn, mất cơ
hội kinh doanh, chi phí tăng cao ngoài dự kiến, thậm chí thua lỗ; thu nhập giảm sút,
giảm phần nộp ngân sách, hạn chế tích luỹ để hiện đại hoá công nghệ và đầu tư đào
tạo lại cán bộ, nâng cao trình độ. NH bị mất vốn, phải khoanh nợ, giãn nợ, thậm chí
phải xoá nợ. Các NH phải trích lập phòng ngừa rủi ro nên làm giảm thu nhập của
NH;
(iv) Làm tăng nguy cơ phá sản NH. RRTD gây thất thoát vốn, các NHTM có thể rơi
vào tình trạng mất khả năng thanh toán, dẫn tới phá sản. Việc phá sản một NH có
thể dẫn đến phản ứng dây chuyền gây nên phá sản các NH khác và làm suy sụp toàn
bộ nền kinh tế, chính trị quốc gia.
Đối với nền kinh tế . Do hoạt động của các NHTM liên quan đến hầu hết mọi người,
mọi ngành, lĩnh vực hoạt động trong xã hội, cho nên khi RRTD phát sinh sẽ tác
động tiêu cực đến hầu hết các hoạt động kinh tế - xã hội:
(i) Khiến cho nguồn lực bị sử dụng kém hiệu quả. Là trung gian tài chính, với hoạt
động chủ yếu là tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho vay đáp
ứng các yêu cầu về vốn cho đầu tư phát triển, do vậy các NHTM phải cho vay đúng
đối tượng thì nguồn vốn TD mới phát huy hiệu quả cao, nếu ngược lại thì nguồn
vốn sẽ bị sử dụng kém hiệu quả, không có khả năng trả nợ NH, RRTD phát sinh;
(ii) Hệ thống thanh toán bị suy giảm, thậm chí bị tê liệt. Một khi các KH vay vốn
không có khả năng trả nợ những món vay thì điều này đồng nghĩa với việc các
NHTM phải đốí mặt với những khó khăn trong hoạt động thanh toán. Nếu tình

trạng này diễn biến phức tạp với nhiều khách hàng không có khả năng trả nợ NH,


3

thì khủng hoảng nợ có thể xảy ra và sẽ làm tê liệt hệ thống thanh toán trong nền
kinh tế;
(iii) Làm mất tác dụng của công cụ TD với tư cách là một đòn bẩy kinh tế. Nguyên
tắc TD là tính hoàn trả (cả gốc và lãi), để đáp ứng yêu cầu này thì đòi hỏi vốn vay
phải được sử dụng hiệu quả. Một khi khách hàng sử dụng vốn TD kém hiệu quả thì
RRTD sẽ phát sinh, có nghĩa là vai trò đòn bẩy kinh tế bị mất tác dụng.
Các loại RRTD
RRTD của NHTM khá đa dạng và phức tạp, có thể nhận diện chúng căn cứ theo các
tiêu chí khác nhau. Nếu căn cứ vào hoạt động nghiệp vụ và quản trị điều hành của
NHTM người ta có thể chia RRTD thành 2 loại:
-Rủi ro nợ quá hạn. Nợ quá hạn là biểu hiện không lành mạnh của quá trình hoạt
động TD của NHTM, báo hiệu các rủi ro đối với NH và khách hàng. Nợ quá hạn có
nhiều loại khác nhau, nếu căn cứ theo nguyên nhân phát sinh có: (i) Nợ quá hạn từ
phía người đi vay gây ra; (ii) Nợ quá hạn từ phía người cho vay gây nên; (iii) Nợ
quá hạn do những nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, dịch họa. Khi phát sinh
các khoản nợ quá hạn, thì dù xuất phát từ bất kể nguyên nhân nào, cũng khiến cho
các NHTM phải đối mặt với những rủi ro không thu hồi được khoản đã cho vay,
điều này đe dọa sự phát triển ổn định của chính NHTM cũng như đối với toàn hệ
thống các tổ chức TD. Hơn nữa, khi rủi ro phát sinh nó cũng đe dọa sự ổn định bền
vững của môi trường kinh tế vĩ mô.
-Rủi ro ứ đọng vốn, thiếu vốn. Với tư cách là một trung gian tài chính trong kinh tế
thị trường, hoạt động chủ yếu của các NHTM là “đi vay để cho vay”, nếu giữa 2
khâu trong chu trình hoạt động này không tạo được sự phối hợp nhịp nhàng và đồng
bộ thì rủi ro sẽ phát sinh. Cụ thể: (i) Rủi ro đọng vốn. Nếu huy động vốn của
NHTM lớn hơn so với cho vay sẽ dẫn đến tình trạng đọng vốn. Việc đọng vốn này

khiến các NHTM tăng chi phí, giảm thu nhập, thậm chí có thể dẫn tới thua lỗ ; (ii)
Rủi ro thiếu vốn. Nếu như nhu cầu vốn vay của KH gia tăng nhưng nguồn vốn huy
động lại không đáp ứng đầy đủ và kịp thời, hoặc nguồn vốn không đáp ứng đủ nhu
cầu chi trả các khoản tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu và


4

các khoản chi phí khác, khi ấy các NHTM sẽ đối mặt với rủi ro, thậm chí là rất
nghiêm trọng một khi khách hàng tới NHTM để rút tiền gửi hàng loạt.
Ngoài ra, các NHTM còn phải đối mặt với nhiều loại rủi ro khác, như: rủi ro thanh
khoản, rủi ro tỷ giá, rủi ro lãi suất, rủi ro kỳ hạn, rủi ro đạo đức…
Dấu hiệu cảnh báo RRTD
RRTD ẩn chứa trong những khoản vay có vấn đề và biểu hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau. Dưới đây là một số dấu hiệu cơ bản giúp nhận biết, phán đoán và sớm
có những biện pháp kịp thời ngăn chặn rủi ro xảy ra
Nhóm dấu hiệu phát sinh từ phía khách hàng. Bao gồm:
(1) Nhóm dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với NH. Có thể phát hiện dấu hiệu rủi
ro thông qua các hành vi ứng xử của khách hàng, như: (i) Việc trì hoãn hoặc gây
khó khăn đối với NH trong quá trình kiểm tra theo định kỳ hoặc đột xuất tình hình
sử dụng vốn vay, tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của khác hàng
mà không có sự giải thích minh bạch, thuyết phục; (ii) Không thực hiện đầy đủ các
quy định, vi phạm pháp luật trong quá trình TD; (iii) Chậm gửi hoặc trì hoãn gửi
các báo cáo tài chính theo yêu cầu mà không có sự giải thích minh bạch, thuyết
phục; (iv) Không có các báo cáo hay dự toán về lưu chuyển tiền tệ; (v) Mức độ vay
thường xuyên gia tăng, yêu cầu các khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến; (vi) Tài
sản đảm bảo không đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản bị giảm sút so với định giá khi cho
vay; (vii) Khách hàng trông chờ các nguồn thu nhập bất thường để đáp ứng các
nghĩa vụ thanh toán; (viii) Tìm kiếm sự tài trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn
khác, đặc biệt từ đối thủ cạnh tranh của NH; (ix) Sử dụng nhiều các nguồn tài trợ

ngắn hạn cho các hoạt động đầu tư dài hạn; (x) Chấp nhận sử dụng các nguồn vay
vốn cao với mọi điều kiện; (xi) Đề nghị gia hạn, điều chỉnh kỳ hạn nợ nhiều lần
không rõ lý ro hoặc thiếu các căn cứ thuyết phục về việc gia hạn hay điều chỉnh kỳ
hạn nợ; (xii) Sự sụt giảm bất thường số dư tài khoản tiền gửi mở tại NH, xuất hiện
những thay đổi bất thường ngoài dự kiến và không giải thích được trong tốc độ và
tổng mức lưu chuyển tiền gửi thanh toán của NH; (xiii) Chậm thanh toán các khoản
lãi đến hạn, thanh toán các khoản nợ gốc không đầy dủ, đúng hạn; (xiv) Xuất hiện


5

nợ quá hạn, nợ xấu do khách hàng không có khả năng hoàn trả hoặc khác hàng
không muốn trả nợ hoặc do việc tiêu thụ hàng hóa, gia tăng bất thường hàng tồn
kho, các khoản bán chịu và các khoản nợ, giảm bất thường giá bán hàng hóa, thu
hồi công nợ chậm hơn dự tính.
(2) Nhóm dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý, tình hình tài chính và hoạt
động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Nhóm dấu hiệu này có tác động trực tiếp
tới chất lượng các khoản TD, nhưng tốc độ chậm hơn. Các dấu hiệu này xuất phát
từ chính hoạt động SXKD của khách hàng và không dễ nhận diện nếu thiếu sự quản
lý chặt chẽ, sâu sát của NHTM. Các dấu hiệu cụ thể: (i) Có chênh lệch lớn giữa
doanh thu hay dòng tiền thực tế so với mức dự kiến khi khách hàng đề nghị cấp TD;
(ii) Những thay đổi bất thường trong cơ cấu vốn, tỷ lệ thanh khoản hay mức độ hoạt
động của khách hàng; (iii) Xuất hiện ngày càng nhiều chi phí bất hợp lý, như: Gia
tăng đột biến trong chi phí quảng cáo, tiếp khách, tập trung quá mức để gây ấn
tượng với các thiết bị văn phòng hiện đại, phương tiện đi lại đắt tiền; (iv) Thay đổi
thường xuyên Ban điều hành, xuất hiện bất đồng và mâu thuẫn trong quản trị điều
hành, tranh chấp trong quá trình quản lý; (v) Những thay đổi từ chính sách Nhà
nước, đặc biệt là tác động của các chính sách thuế xuất nhập khẩu, thêm đối thủ
cạnh tranh tác động bất lợi đến chiến lược và kế hoạch SXKD của khách hàng; (vi)
Kết quả kinh doanh lỗ; (vii) Khách hàng gặp rủi ro khách quan (bão lụt, hỏa hoạn,

tai nạn, dịch bệnh xảy ra, bạn hàng của khách hàng gặp rủi ro hoặc bị phá sản, bị
truy tố ...); (viii) Tỷ lệ “nợ/ vốn chủ sở hữu’ (hệ số đòn bẩy) tăng.
Nhóm dấu hiệu xuất phát từ chính NH. Có thể nhìn nhận những dấu hiệu rủi ro từ
chính NHTM. Bao gồm: (i) Sự đánh giá và phân loại không chính xác về mức độ
rủi ro của khách hàng; (ii) Cấp TD dựa trên các cam kết không chắc chắn và thiếu
tính bảo đảm; (iii) Tốc độ tăng trưởng TD quá nhanh, vượt quá khả năng và năng
lực kiểm soát cũng như nguồn vốn của NH; (iv) Cho vay dựa trên sự kiện bất
thường có thể xảy ra, chẳng hạn như sáp nhập, thay đổi địa vị pháp lý từ Chi nhánh
lên Công ty “con” hạch toán độc lập; (v) Chính sách TD quá cứng nhắc hoặc quá
lỏng lẻo để kẽ hở cho khách hàng lợi dụng; (vi) Soạn thảo các điều kiện ràng buộc


6

trong hợp đồng TD, hợp đồng thế chấp mập mờ không rõ ràng; (vii) Cung cấp TD
với khối lượng lớn cho các khách hàng không thuộc phân đoạn thị trường tối ưu của
NH, tỷ lệ TD cao cho một ít khách hàng, khách hàng có trụ sở ngoài lãnh địa hoạt
động của NH; (viii) Hồ sơ TD không đầy đủ, thiếu sự tuân thủ hay tuân thủ không
đầy đủ các quy định hiện hành về phê duyệt TD; (ix) Có xu hướng cạnh tranh thái
quá (giảm lãi suất cho vay, phí dịch vụ hay thực hiện chiến lược “giữ chân” khách
hàng bằng các khoản TD mới để họ không quan hệ với các TCTD khác mặc dù biết
rõ các khoản TD sẽ cấp tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao); (x) Chưa nhạy cảm với sự thay
đổi các điều kiện môi trường kinh tế; (xi) Cho vay hỗ trợ mục đích đầu cơ (mua bất
động sản, kinh doanh chứng khoán...); (xii) Thiếu kế hoạch rõ ràng để thanh lý từng
khoản TD.
Nguyên nhân RRTD
Rui ro TD xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có một số nhóm nguyên nhân
chính sau đây:
Nguyên nhân từ phía môi trường KD. Bao gồm:
Thứ nhất, Môi trường kinh tế. Môi trường kinh tế tác động mạnh đến hoạt động

kinh doanh của các NHTM. Khi nền kinh tế đang tăng trưởng ổn định thì các doanh
nghiệp làm ăn có hiệu quả và một khi các khách hàng của NHTM kinh doanh hiệu
quả thì sẽ có nhiều khả năng trả nợ cho NHTM. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào
tình trạng suy thoái, mất ổn định khiến các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong
hoạt động, sản xuất bị đình trệ, sức mua bị giảm sút, hàng hóa bị ứ đọng. Điều này
tất yếu ảnh hưởng đến khả năng trả nợ các khoản vay của NHTM.
Các chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt
động của các NHTM. Chẳng hạn: (i) Chính phủ theo đuổi mục tiêu tăng trưởng
kinh tế cao, điều này sẽ tiềm ẩn nguy cơ lạm phát leo thang; khi lạm phát tăng cao
sẽ làm tăng chi phí đầu vào trong kinh doanh của các khách hàng, gây khó khăn
trong khâu tiêu thụ sản phẩm. Hậu quả là năng lực trả nợ của các khách hàng đối
với NHTM sẽ bị suy giảm; (ii) Chính phủ thay đổi các chính sách tài chính, tiền
tệ ... sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh của các NHTM...


7

Thứ hai, Nguyên nhân bất khả kháng (thiên tai, địch họa, những thay đổi nhu cầu
của người tiêu dùng hoặc về kỹ thuật công nghệ của một ngành nào đó) có thể làm
phá sản cả một hãng kinh doanh và đặt người đi vay từng làm ăn có hiệu quả vào
thế thua lỗ, mất khả năng trả nợ. Điều này đặt các NHTM phải đối mặt với rủi ro
mất vốn.
Thứ ba, Nguyên nhân thông tin không cân xứng. NHTM thực hiện các nghiệp vụ
tài sản Nợ, tài sản Có, chuyển vốn từ người gửi tiền sang người vay tiền - Toàn bộ
các giao dịch này sẽ suôn sẻ nếu các bên tham gia đều có những thông tin và hiểu
biết đầy đủ về nhau. Song thực tế là một bên thường không biết hết những gì cần
biết về phía bên kia và sự không cân bằng về thông tin mà mỗi bên có được như vậy
được gọi là “thông tin không cân xứng”. Việc thiếu thông tin trong các giao dịch sẽ
đưa đến “sự lựa chọn đối nghịch” và rủi ro đạo đức. Thông tin không cân xứng trên
thị trường tài chính khiến các NHTM phải đối mặt với nguy cơ rủi ro cao.

Nguyên nhân từ phía KH vay. Đây là một trong những nguyên nhân chính gây ra
RRTD cho NH. Khách hàng có thể đem lại rủi ro cho các NHTM khi: (1) Vốn tự có
tham gia SXKD thấp so với nhu cầu về vốn kinh doanh. Trong tình huống này,
buộc khách hàng phải đi huy động vốn. Nếu NHTM đáp ứng phần vốn còn thiếu
hụt này của khách hàng thì nguy cơ tiềm ẩn rủi ro đối với NHTM sẽ tăng cao. Lý do
là các khách hàng có xu hướng lao vào các hoạt động kinh doanh mạo hiểm hy
vọng tìm kiếm lợi nhuận cao, bởi hầu hết vốn kinh doanh không phải là của họ, và
điều này đồng nghĩa với việc hầu hết mọi gánh nặng rủi ro trong canh bạc mạo hiểm
này được dồn hết vào vai các NHTM (là chủ sở hữu nguồn vốn cho vay); (2) Công
nghệ sản xuất không đủ khả năng tạo ra sản phẩm có tính cạnh tranh cao, điều này
sẽ khiến hoạt động kinh doanh của khách hàng gặp nhiều khó khăn. Một khi khách
hàng gặp khó khăn trong kinh doanh thì sẽ khiến các NHTM đối mặt với rủi ro
trong cho vay; (3) Năng lực quản trị điều hành của bộ máy lãnh đạo các doanh
nghiệp bị hạn chế, thiếu thông tin thị trường và các đối tác, bạn hàng làm ảnh hưởng
đến kế hoạch SXKD. Một khi điều này xảy ra sẽ khiến các NHTM đối mặt với nguy
cơ rủi ro cao khi cho vay các khách hàng này; (4) Sự thiếu thông tin về khách hàng


8

vay và thông tin về môi trường kinh tế mà khách hàng đó hoạt động là nguyên nhân
chủ yếu nhất dẫn đến RRTD; (5) Thiện chí trả nợ vay NH của các khách hàng vay
vốn. Một khi khách hàng thiếu thiện chí trả nợ các khoản đã vay thì các NHTM sẽ
gặp rất nhiều khó khăn trong thu hồi nợ vay. Đây chính là loại rủi ro xuất phát từ
đạo đức của người đi vay.
Các nguyên nhân này NH có thể xác định được thông qua quá trình thẩm định, tìm
hiểu, nắm vững tình hình hoạt động SXKD của khách hàng cả trước, trong và sau
khi cho vay, tìm hiểu mục đích sử dụng tiền vay và hiệu quả của phương án SXKD.
Nguyên nhân từ bản thân các NH. RRTD có thể xuất phát từ chính bản thân các
NHTM. Chúng bao gồm: (i) Không chấp hành nghiêm túc nguyên tắc TD; (ii)

Chính sách và quy trình cho vay chưa chặt chẽ, công tác quản trị rủi ro chưa hữu
hiệu, chưa chú trọng phân tích khách hàng, xếp loại RRTD để tính toán điều kiện
cho vay và khả năng trả nợ; (iii) Kỹ thuật cấp TD chưa hiện đại, chưa đa dạng, việc
xác định hạn mức TD cho khách hàng còn quá đơn giản, thời hạn chưa phù hợp,
chủ yếu là cấp TD trực tiếp, sản phẩm TD chưa phong phú; (iv) Trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ của cán bộ TD còn bất cập so với yêu cầu công việc, thiếu kỹ năng
nắm bắt, phân tích thông tin thị trường, thiếu khả năng dự báo chiều hướng biến
động của thị trường, nhất là thị trường kinh doanh của các khách hàng chiến lược.
Tư cách đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp của cán bộ TD còn nhiều yếu kém, thiếu
sự quan tâm kiểm tra giám sát của các cấp lãnh đạo.
2. Kinh nghiệm phòng ngừa RRTD từ NHTM các nước
Kinh nghiệm của các NHTM Singapore
Bên cạnh việc xây dựng một hệ thống phòng ngừa nợ quá hạn, nợ xấu thông qua
các cơ chế, chính sách cho vay, thành lập ủy ban giám sát NH cũng như mở rộng
các nghiệp vụ kinh doanh hiện đại, Singapore quy định những người ký kết các
khoản TD phải chịu trách nhiệm trước tiên trong việc thực hiện phân loại TD chính
xác dựa trên những đánh giá về tình hình tổng thể (khả năng thanh toán từ các
nguồn thu nhập thông thường, người bảo lãnh, tài sản ký quỹ, dòng tiền các điều
kiện về tài chính, triển vọng phát triển, ...) và có thể thay đổi kết quả phân loại trong


9

quá trình phê chuẩn thông thường hay vào bất cứ thời điểm nào khác. Các khoản nợ
TD được chia thành 5 nhóm nợ: nợ đủ tiêu chuẩn (nhóm 1), nợ cần chú ý (nhóm 2),
nợ dưới tiêu chuẩn (nhóm 3), nợ nghi ngờ (nhóm 4), nợ có khả năng mất vốn (nhóm
5). Trong đó, nợ các nhóm 3, 4, 5 được gọi là nợ xấu. Việc trích lập dự phòng tổn
thất cho vay chỉ bao gồm dự phòng cụ thể. Dự phòng cụ thể được xác định theo các
tiêu chí: (i) Hoạt động kinh doanh cơ bản và khả năng tài chính vững chắc của
khách hàng vay (kiểm tra khả năng tồn tại); (ii) Nguồn tiền mặt của khách hàng vay

(bao gồm cả nguồn hỗ trợ của bên thứ ba); (iii) Chất lượng và giá trị có thể bán
được của tài sản ký quỹ và tài sản bảo lãnh cho khoản vay TD; (iv) Sự tồn tại của
quyền truy đòi hợp pháp có giá trị pháp lý và có thể thi hành đối với khách hàng
vay. Đồng thời với các tiêu chí trên, giá trị dự phòng không được nhỏ hơn giá trị tối
thiểu theo quy định của Cơ quan quản lý tiền tệ của Singapore (MAS). Trong đó:
(1) Nợ dưới tiêu chuẩn: 10% giá trị khoản vay; (2) Nợ nghi ngờ: 50% giá trị khoản
vay; (3) Nợ có khả năng mất vốn: 100% giá trị khoan vay.
Để phòng ngừa các khoản nợ xấu phát sinh, các NHTM Singapore được yêu cầu
xây dựng “Danh mục theo dõi” để nhận biết những dấu hiệu cảnh báo sớm vấn đề
bất ổn về TD. “Danh mục theo dõi” không phải là danh mục phân loại, mà là danh
sách những khách hàng đang tồn tại những vấn đề RRTD tiềm ẩn cần quan tâm.
Những khách hàng có tên trong danh sách theo dõi không phải là những khách hàng
bị xếp vào loại nợ cần chú ý hoặc thấp hơn, mà đều là những khách hàng được xếp
loại nợ đủ tiêu chuẩn. Tuy nhiên, trong trường hợp dấu hiệu cảnh báo sớm có chiều
hướng có ảnh hưởng bất lợi đối với khách hàng vay, khi đó cần xem xét để có thể
xếp loại khách hàng vào nhóm nợ cần chú ý hoặc thấp hơn.
Đối với các khoản nợ được phân loại vào nợ xấu, thì tối đa trong vòng 30 ngày làm
việc, các cán bộ TD phải chuyển ngay cho bộ phận quản lý tài sản đặc biệt để theo
dõi để: (i) Xem xét lại tất cả các loại giấy tờ và tài sản ký quỹ và khi cần thiết có thể
sửa đổi để hoàn chỉnh các giấy tờ và tài sản đó; (ii) Đánh giá khả năng của khách
hàng và sẵn sàng thực hiện cơ cấu lại nợ trong một khoảng thời gian thích hợp; (iii)
Trường hợp cần thiết sẽ tiến hành những thủ tục pháp lý thích hợp để thu hồi các


10

khoản TD; (iv) Đưa ra chiến lược thu hồi khoản nợ cũng như phân loại vào các
nhóm nợ thích hợp; (v) Tiến hành giám sát chặt chẽ và kiểm tra thường xuyên hơn
đối với các khoản nợ này.
Đối với các khoản nợ xấu được trích lập dự phòng đầy đủ, MAS cho phép các

NHTM được xóa nợ xuống còn 1 SGD, bất kể tình trạng có thể thu hồi được khoản
nợ như thế nào. Điều này nhằm phục vụ cho các mục đích giám sát. Báo cáo danh
mục các khoản nợ xấu và trích lập dự phòng cụ thể của các NHTM bắt buộc phải
được nộp tới Hội đồng quản trị của NHTM và MAS để quản lý.
Với việc quản lý nợ xấu như trên, nhìn chung tỷ lệ nợ xấu của các NHTM
Singapore không cao và thông thường nếu phát sinh một khoản nợ xấu ở NHTM thì
gần như ngay lập tức khoản nợ đó sẽ được xử lý.
Kinh nghiệm của các NHTM Trung Quốc.
Theo các tư liệu được công bố thì hệ thống NH nước này có tổng dư nợ cho vay
cũng như các khoản nợ xấu có quy mô là rất lớn. Cụ thể: (1) Tổng dư nợ cho vay
nền kinh tế lên đến gần 2.000 tỷ USD, gấp 1,5 lần GDP; (2) Tổng khối lượng nợ
xấu khoảng 480 tỷ USD bằng 36% GDP. Nếu xét về số tuyệt đối, thì khối lượng nợ
xấu này tương đương khối lượng nợ xấu của Mỹ vào năm 1989, nhưng tỷ lệ so với
GDP lai gấp hơn 5 lần.
Để phòng ngừa và xử lý RRTD, NH Nhân dân Trung Quốc (NHTW) đã đưa ra qui
định: (i) Bộ phận TD của các NHTM phải có các quy trình kiểm tra trước, trong và
sau khi cho vay, kịp thời thu nhập thông tin để phân loại, thiết lập và hoàn chỉnh hồ
sơ phân loại, kịp thời đề xuất kiến nghị kiểm tra lại; (ii) Chịu trách nhiệm về tính
chân thực, chuẩn xác và hoàn chỉnh của các dữ liệu phân loại đã cung cấp; (iii) Tiến
hành phân loại sơ bộ tài sản theo tiêu chuẩn phân loại, đề xuất ý kiến và lý do phân
loại; (iv) Định kỳ báo cáo cho bộ phận quản lý rủi ro những thông tin phân loại của
bộ phận TD; (v) Căn cứ vào kết quả phân loại tiến hành quản lý các khoản TD có sự
phân biệt trong quản lý đối với từng khoản TD, thực hiện các biện pháp cải tiến,
loại trừ và xử lý rủi ro.


11

NHTW Trung Quốc đã ban hành hướng dẫn trích lập dự phòng tổn thất cho vay số
98 (2002) và công văn số 463 (2005), yêu cầu các NHTM kiểm tra định kỳ đối với

các loại tài sản dựa trên nguyên tắc thận trọng dự kiến một cách hợp lý các khoản
tài sản có khả năng phát sinh tổn thất và trích lập dự phòng giảm giá tài sản đối với
các tài sản có khả năng phát sinh tổn thất (như dự phòng tổn thất cho vay, ...), theo
đó, các khoản TD được phân thành 5 nhóm: nợ đủ tiêu chuẩn (nhóm 1), nợ cần chú
ý (nhóm 2), nợ dưới tiêu chuẩn (nhóm 3), nợ nghi ngờ (nhóm 4), nợ có khả năng
mất vốn (nhóm 5). Trong đó, nợ nhóm 3, 4, 5 được gọi là nợ xấu.
Việc trích lập dự phòng tổn thất cho vay bao gồm: (1) Dự phòng chung. Được trích
hàng tháng và được xác định bằng 1% số dư cuối kỳ của các khoản TD; (2) Dự
phòng cụ thể. Vào cuối tháng, dựa theo kết quả phân loại nợ và sau khi khấu trừ giá
trị tài sản thế chấp, NHTM trích lập dự phòng cụ thể theo số dư các khoản TD với
tỷ lệ như sau: Nhóm 1: 0%; Nhóm 2: 2%; Nhóm 3: 25%, Nhóm 4: 50%; Nhóm 5:
100%.
Khi phân loại các khoản TD, các NHTM Trung Quốc chủ yếu dựa trên cơ sở khả
năng trả nợ, dòng tiền thuần, thiện chí trả nợ, tài sản đảm bảo, trách nhiệm pháp
luật về thanh toán nợ vay của KH, tình hình quản lý TD của NHTM, ... Trong đó,
việc phân loại nợ chủ yếu dựa trên cơ sở đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng,
tài sản đảm bảo chỉ là nguồn vốn trả nợ thứ yếu. Đối với các khoản cho vay mới,
NHTM xem xét lịch sử giao dịch, tình trạng uy tín của khách hàng với NH khác.
Nếu khách hàng vay là công ty mới thành lập, thì chủ yếu xem xét lịch sử giao dịch,
uy tín của các cổ đông. Lịch sử trả nợ của khách hàng có thể phản ánh tình trạng gia
hạn, quá hạn nợ vay của họ, đây là yếu tố quan trọng cần xem xét khi tiến hành
phân loại các khoản TD.
Để thực hiện xử lý nợ xấu, Trung Quốc đã thành lập 4 công ty quản lý nợ (AMCs)
với vốn điều lệ khoảng 5 tỷ USD (tương đương 1% tổng số nợ xấu của hệ thống NH
Trung Quốc hiện nay). Đây là một con số rất nhỏ so với tổng nợ xấu, dẫn đến khó
khăn trong hoạt động của AMCs. Năm 1999, khi một khối lượng nợ bằng 170 tỷ
USD được chuyển giao cho AMCs, để đảm bảo nguồn vốn cân bằng với khối lượng


12


nợ chuyển sang, AMCs đã phải vay từ NHTW 67 tỷ USD và phát hành trái phiếu trị
giá 108 tỷ USD. Kết quả là đến tháng 03/2004, AMCs xử lý được 63,9 tỷ USD,
trong đó có một bộ phận nợ được chuyển thành vốn chủ sở hữu (12,87 tỷ USD).
Như vậy, số nợ thu hồi chỉ đạt 7,6% tổng dư nợ xấu được chuyển sang và bằng 20%
số nợ được xử lý.
Tính từ thời điểm hoạt động đến cuối năm 2007, trải qua gần 7 năm hoạt động (thời
gian hoạt động của AMCs tại Trung Quốc dự tính là 10 năm), kết quả mà AMCs
mang lại là rất hạn chế và người ta bắt đầu đặt vấn đề với vai trò và sự tồn tại của
AMCs ở nước này.
Bên cạnh khoản nợ chuyển giao cho AMCs, các NHTM quốc doanh Trung Quốc
vẫn còn một khối lượng nợ xấu rất lớn (khoảng 232 tỷ USD vào cuối năm 2003,
giảm 13 tỷ USD so với năm 2002). Nhưng thực ra, khoản nợ được xử lý chủ yếu là
việc xóa các khoản nợ không có khả năng thu hồi thông qua sử dụng dự phòng rủi
ro, phần thu được của khách hàng gần như không đáng kể. Ngoài ra, các NHTM và
AMCs đã bán cho các nhà đầu tư nước ngoài khối lượng nợ với mệnh giá khoảng 6
tỷ USD, trong đó City Group chiếm tỷ trọng cao nhất, với khối lượng mua gần 2,2
tỷ USD. Khối lượng nợ được xử lý này là cơ sở để Chính phủ Trung Quốc cấp thêm
cho 2 NH xử lý nợ tốt nhất Trung Quốc là NH Trung Quốc (BOC) và NH Xây dựng
Trung Quốc (CCB) 45 tỷ USD từ nguồn dự trữ ngoại hối.
Kinh nghiệm của các NHTM Mỹ
Theo thống kê, các NH tại Mỹ đang thực hiện nhiều khoản cho vay đầy rủi ro mà
tổng trị giá lên tới trên 600 tỷ USD. Các khoản cho vay này chủ yếu dành cho việc
đầu tư mạo hiểm vào lĩnh vực bất động sản hoặc cho vay nợ để mua đứt công ty.
Điều này đã gây áp lực lớn lên Công ty Bảo hiểm tiền gửi Liên bang (FDIC). Hiện
nay, FDIC đang phải đối mặt với hàng loạt NHTM lâm vào khó khăn do ảnh hưởng
của RRTD. Trước tình hình đó, các nhà quản trị NHTM Mỹ cho rằng, cần phải tiến
hành quản trị RRTD một cách hiệu quả nhằm mục tiêu tối đa hoá tỷ lệ thu hồi vốn
TD bằng cách duy trì mức độ rủi ro ở một giới hạn chấp nhận được. FDIC đưa ra 17
nguyên tắc quản lý RRTD cơ bản. Bao gồm:



13

Nguyên tắc 1: Ban Giám đốc có trách nhiệm phê duyệt và định kỳ (ít nhất là 1
năm/lần) xem xét chiến lược về RRTD và các chính sách phòng ngừa và xử lý
RRTD chính cho NHTM. Chiến lược quản lý này phản ánh mức độ chấp nhận rủi
ro của NH với mức sinh lời nhất định mà NH kỳ vọng.
Nguyên tắc 2: Cán bộ quản lý các bộ phận phải có trách nhiệm thực hiện chiến lược
quản lý RRTD mà Ban Giám đốc đã đề ra, cũng như có trách nhiệm phải thực thi
các chính sách và các thủ tục hiện hành để xác định, đo lường mức độ RRTD. Các
chính sách, thủ tục này được áp dụng để quản lý RRTD trong tất cả các hoạt động
của NH, từ những khoản TD đơn lẻ cho tới những hạng mục đầu tư lớn của NH.
Nguyên tắc 3: NH cần phải xác định và quản lý RRTD tiềm tàng trong tất cả các
hoạt động của NH, đảm bảo rằng các loại rủi ro tiềm ẩn trong các dịch vụ mới mẻ
đối với NH phải được quản lý và kiểm soát một cách thích đáng trước khi NH đó
bắt tay vào thực hiện triển khai hoạt động. Ngoài ra, Ban Giám đốc của NH phải
phê duyệt hoạt động này trước khi chúng được thực hiện.
Nguyên tắc 4: Các NH phải hoạt động trong phạm vi các tiêu chí cấp TD lành mạnh
được xác định rõ ràng. Những tiêu chí này cần chỉ rõ thị trường mục tiêu của NH,
đồng thời, NH phải hiểu biết rõ về khách hàng vay vốn cũng như mục đích và cơ
cấu của khoản TD và nguồn thu để thanh toán cho khoản TD đó.
Nguyên tắc 5: NH cần xây dựng các hạn mức TD với các mức độ cụ thể cho từng
khách hàng và nhóm khách hàng vay vốn và tập hợp thành từng nhóm khác nhau có
tính tương đồng, có khả năng so sánh và theo dõi được trong sổ sách kế toán NH, sổ
sách kế toán kinh doanh, nội bảng và ngoại bảng.
Nguyên tắc 6: NH cần có quy trình rõ ràng trong việc phê duyệt các khoản TD mới
cũng như việc điều chỉnh, gia hạn và tái tài trợ các khoản TD hiện tại.
Nguyên tắc 7: Việc cấp TD cần được thực hiện trên cơ sở giao dịch công bằng giữa
các bê, đặc biệt, các khoản TD cho các công ty và cá nhân có liên quan phải được

phê duyệt trên cơ sở ngoại lệ cần theo dõi cẩn thận và triển khai các bước cần thiết
để kiểm soát nhằm loại trừ rủi ro.


14

Nguyên tắc 8: NH cần có hệ thống quản lý một cách cập nhật đối với các danh mục
đầu tư có RRTD.
Nguyên tắc 9: NH cần có hệ thống kiểm soát việc thực hiện điều kiện TD đối với
từng khoản TD riêng biệt, bao gồm cả việc xác định mức độ cho vay và mức độ dự
phòng cho khoản TD một cách thích hợp.
Nguyên tắc 10: NH nên phát triển và sử dụng hệ thống xếp hạng TD nội bộ trong
quản lý RRTD. Hệ thống xếp hạng cần nhất quá với bản chất, quy mô và mức độ
phức tạp của các hoạt động của NH.
Nguyên tắc 11: NH phải có một hệ thống thông tin và các kỹ thuật phân tích cho
phép các nhà quản lý đo lường được mức độ RRTD trong mọi hoạt động nội bảng
và ngoại bảng. Hệ thống thông tin quản lý phải cung cấp đầy đủ thông tin về cơ cấu
của danh mục đầu tư TD, bao gồm cả việc xác định sự tập trung của rủi ro.
Nguyên tắc 12: NH cần phải có hệ thống theo dõi cơ cấu và chất lượng của toàn bộ
danh mục đầu tư TD.
Nguyên tắc 13: NH cần tính đến các thay đổi trong tương lai về các điều kiện kinh
tế khi đánh giá từng khoản TD và danh mục đầu tư TD và phải đánh giá mức độ rủi
ro TD trong điều kiện phức tạp.
Nguyên tắc 14: NH cần xây dựng hệ thống đánh giá cập nhật và độc lập về các quy
trình quản lý RRTD, kết quả đánh giá cần được báo cáo trực tiếp cho Hội đồng
Quản trị và Ban Tổng Giám đốc(Giám đốc).
Nguyên tắc 15: Chức năng cấp TD của NH cần được quản lý hiệu quả và RRTD
được nằm trong hệ thống tiêu chuẩn về thận trọng và các giới hạn nội bộ. NH cần
xây dựng hệ thống và tăng cường kiểm soát nội bộ và các hoạt động khác nhằm bảo
đảm việc báo cáo kịp thời cho các cấp lãnh đạo về các vi phạm chính sách, thủ tục

và giới hạn TD.
Nguyên tắc 16: NH phải có hệ thống hệ thống khắc phục sớm với các khoản TD
xấu, quản lý các khoản TD có vấn đề.
Nguyên tắc 17: Các cơ quan giám sát cần yêu cầu NH có một hệ thống phát hiện, đo
lường, theo dõi và kiểm soát RRTD có hiệu quả. Cơ quan giám sát cần tiến hành


15

đánh giá độc lập về các chiến lược, chính sách, thủ tục và thực hành liên quan đến
việc cấp TD và quản lý liên tục đối với danh mục đầu tư. Cơ quan giám sát cũng
phải xem xét việc đặt ra các giới hạn thận trọng để hạn chế rủi ro của NH đối với
từng bên vay hay một nhóm đối tác có liên quan.
Các nguyên tắc trên đây được chia làm 5 nhóm chính mà việc vận dụng chúng
nhằm đạt được các mục tiêu: (1) Thiết lập môi trường quản lý RRTD một cách
thích hợp (bao gồm việc tuân thủ các nguyên tắc 1, 2 và 3); (2) Thực hiện một quy
trình cấp phát TD có căn cứ (bao gồm việc tuân thủ các nguyên tắc 4, 5, 6 và 7); (3)
Duy trì một phương pháp quản lý, đo lường và kiểm soát RRTD (bao gồm việc tuân
thủ các nguyên tắc 8, 9, 10, 11, 12 và 13); (4) Đảm bảo một khả năng kiểm soát
thích đáng đối với RRTD (bao gồm việc tuân thủ các nguyên tắc 14, 15 và 16); (5)
Vai trò của người giám sát (tuân thủ nguyên tắc 17).
Để quản lý nợ xấu, Cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã đưa ra điều khoản FAS 114
quy định về mối quan hệ giữa quyết định cho vay, phân loại khoản vay, tình trạng
các khoản nợ và việc dự phòng như sau:
Để xử lý nợ xấu, Mỹ thành lập Công ty Tín thác xử lý tài sản quốc gia Hoa Kỳ (The
Resolution Trust Company in the United State – RTC). Như một cơ quan nhà nước,
RTC được thành lập với các mục tiêu: (i) Tối đa hóa thu nhập ròng từ việc bán tài
sản được chuyển nhượng; (ii) Tối thiểu hóa các tác động lên các thị trường địa ốc
và thị trường tài chính nội địa; (iii) Tối đa hóa việc tạo ra nhà ở cho các cá nhân có
thu nhập thấp. RTC thực hiện việc xử lý đối với cả hai loại nợ luân chuyển thông

thường và nợ tồn đọng, khó xử lý. Kết quả xử lý RRTD của RTC là rất tốt, tổng tài
sản mà RTC đã xử lý được là 465 tỷ USD, bằng 8,5% tổng tài sản trong khu vực tài
chính (tương đương 8,5% GDP của Mỹ năm 1989).


16

Bắt đầu phân tích

Không

Khoản vay có vấn đề

Xếp nhóm 1 hoặc nhóm 2

Không



Ko

Có được duy trì
trên tiền mặt
bởi sự suy giảm
tài chính của
người vay

Có quá hạn > 90 ngày không





Ngân hàng mong
muốn thu gốc và
lãi đầy đủ không

Khoản vay nên
xếp có vấn đề

Không
Khoản vay có vấn đề





Khoản vay có được bảo đảm tốt
và trong quá trình thu nợ không

Không

Hoặc

NH mong muốn thu nợ gốc
và lãi đầy đủ không

Khoản vay có vấn đề

Xếp nhóm 3




Không
Có thâm hụt nhưng
không quan trọng



Không
Khoản vay suy yếu và áp dụng theo FAS 114. Hầu hết các
khoản vay này được xếp nhóm 4 và 5

Tài sản thế chấp cho khoản vay
có độc lập không

Không
Dự phòng dựa trên sự tính toán tốt nhất về
chiết khấu dòng tiền hoặc giá trị thị trường
có thể nhận thấy của khoản vay


Dự phòng dựa trên giá trị thị trường đầy đủ của tài sản thế chấp, được điều
chỉnh tương ứng với giá trị đánh giá để bán


17

Nguyên nhân thành công của RTC là do khối lượng nợ xấu chỉ bằng 3% tổng
tài sản tài chính trong giai đoạn khủng khoảng trầm trọng nhất. Hơn thế nữa,
khoảng 50% tài sản là các khoản vay bất động sản và cầm cố, 35% là tiền mặt và

các loại chứng khoán khác, vì vậy, nhiều tài sản được chuyển nhượng là rất tốt và
dễ dàng bán thông qua chứng khoán hóa và đấu giá trên thị trường tài chính phát
triển nhất thế giới. Một trong những yếu tố tạo nên thành công này là các nhân sự
cao cấp của RTC được lấy từ công ty bảo hiểm tiền gửi liên bang - đây là cơ quan
có sự hiểu biết rất rõ về vấn đề lựa chọn bất lợi và tâm lý ỷ lại trong hoạt động tài
chính và đội ngũ nhân viên của họ có rất nhiều kinh nghiệm trong việc xử lý các tổ
chức tài chính khó khăn, lâm vào tình trạng phá sản. Mặt khác, RTC đã dựa vào
những nhà thầu tư nhân để đánh giá, quản lý và bán nhiều sản phẩm. Một cấu trúc
quản lý hiệu quả đã cho phép RTC thu hồi 1/3 tài sản được chuyển nhượng, giảm
thiểu đáng kể khối lượng nợ phải bán.
Mặc dù tỷ lệ thu hồi trên tổng tài sản được chuyển nhượng đạt 86%, nhưng
tổng chi phí hoạt động của RTC là 88 tỷ USD, bằng 20% giá trị tài sản được chuyển
nhượng và bằng 1,5% GDP năm 1989. Có nhiều yếu tố không thuận lợi ảnh hưởng
đến hoạt động của RTC như: việc tài trợ của Chính Phủ không kịp thời và đầy đủ đã
làm gia tăng chi phí xử lý, việc xử lý tài sản nhanh chóng bị cản trở bởi nhiều mục
tiêu không nhất quán đan xen.

1.3.2. Bài học rút ra đối với NHTM Việt Nam
Từ kinh nghiệm phòng ngừa và xử lý RRTD thực tế của các NHTM ở một số
nước trên thế giới, một số bài học kinh nghiệm sau đây mà các NHTM Việt Nam
có thể xem xét và vận dụng:
Thứ nhất, Hoàn thiện quy định phân loại nợ, trích lập dự phòng để xử lý
RRTD, đồng thời xây dựng phương án xử lý nợ xấu theo quy định của NH Nhà
nước.


18

Thứ hai, Nâng cao chất lượng thẩm định các dự án đầu tư, phương án vay
vốn nhằm mục đích lựa chọn các dự án đầu tư có hiệu quả để cấp TD. Phân tách bộ

phận trong quy trình giải quyết cho vay thành hai bộ phận độc lập: bộ phận tiếp
nhận hồ sơ và bộ phận thẩm định TD nhằm mục đích thẩm định TD khách quan,
chuyên nghiệp, tăng cường biện pháp giám sát khoản vay trước, trong và sau khi
cho vay.
Thứ ba, Nâng cao vai trò chủ lực về quy mô hoạt động, năng lực tài chính,
trình độ công nghệ, khả năng quản trị, điều hành và nâng cao hiệu quả KD đó là
mục tiêu số 1 của các NHTM Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và
khu vực.
Thứ tư, Xây dựng các quy chế quản lý và hoạt động phù hợp với chuẩn mực
quốc tế như quản trị rủi ro, quản trị tài sản nợ tài sản có, quản trị vốn, kiểm tra,
kiểm toán nội bộ, xây dựng các quy trình TD hiện đại và sổ tay TD theo chuẩn mực
quốc tế, hệ thống chấm điểm, đánh giá xếp loại TD hữu hiệu.
Thứ năm, Xây dựng chiến lược phát triển công nghệ NH, nhất là hệ thống
thông tin quản lý cho toàn bộ hệ thống NH, quản lý nguồn vốn, tài sản, quản lý rủi
ro, quản lý công nợ và công tác kế toán, hệ thống thanh toán liên NH, hệ thống giao
dịch điện tử và giám sát từ xa.
Thứ sáu, Hoàn thiện hoạt động của các công ty mua bán nợ và khai thác tài
sản trực thuộc các NHTM trung ương để quản lý và khai thác các khoản vay.
Thứ bảy, Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên NH, đào tạo và đào tạo lại
cán bộ thực hiện tốt các nghiệp vụ chuyên môn của NH hiện đại, kỹ năng làm việc
ngày một tốt hơn.



×