Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Hệ thống chính trị cơ sở ở huyện can lộc, tỉnh hà tĩnh thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 126 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------

THÁI THỊ HIỀN

HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ
Ở HUYỆN CAN LỘC, TỈNH HÀ TĨNH:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------

THÁI THỊ HIỀN

HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ
Ở HUYỆN CAN LỘC, TỈNH HÀ TĨNH:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Kim Đỉnh


Hà Nội - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan, luận văn "Hệ thống chính trị cơ sở ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà
Tĩnh: Thực trạng và giải pháp" là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Trần Kim Đỉnh. Các số liệu và
trích dẫn trong luận văn là trung thực. Kết quả nghiên cứu của luận văn không
trùng với các công trình khác.
Tác giả luận văn

Thái Thị Hiền


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .............................................................................................

1

Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ ....................................................
1.1.

7

Nhận thức chung về hệ thống chính trị và hệ thống chính trị
cơ sở .....................................................................................................

7


1.1.1. Hệ thống chính trị và hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ..................

7

1.1.2. Hệ thống chính trị cơ sở ở nước ta hiện nay .......................................

12

1.2.

Những nhân tố tác động đến quá trình tổ chức và hoạt động của
hệ thống chính trị cơ sở ở huyện Can Lộc .......................................

21

1.2.1. Nhân tố tự nhiên ..................................................................................

21

1.2.2. Nhân tố lịch sử - văn hóa .....................................................................

23

1.2.3. Nhân tố kinh tế - xã hội ........................................................................

25

1.3.


Thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở ở
huyện Can Lộc....................................................................................

27

Đảng bộ xã ...........................................................................................

30

1.3.2. Hội đồng nhân dân ..............................................................................

35

1.3.3. Ủy ban nhân dân ..................................................................................

39

1.3.4. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội ...........................

41

1.3.5. Nhận xét chung ....................................................................................

60

1.3.1

Chƣơng 2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ Ở
HUYỆN CAN LỘC ............................................................................


62

2.1.

Quan điểm chung ...............................................................................

62

2.2.

Một số giải pháp .................................................................................

68

2.2.1. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ xã .....................................

68

2.2.2. Nâng cao năng lực của chính quyền cơ sở ..........................................

75


2.2.3. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội....................................................................................................

81

2.2.4. Đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần, nâng cao dân trí cho nhân dân ............................................


85

2.2.5. Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở vững mạnh góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động của hệ thống chính trị cấp xã ......................................

87

2.2.6. Đề cao trách nhiệm và sự tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra,
giám sát của cấp trên, trước hết là cấp huyện .....................................

93

2.2.7. Nâng cao chất lượng thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và chính
sách tôn giáo ở các xã, thị trấn trong toàn huyện ...............................

95

KẾT LUẬN .........................................................................................

99

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................

101

PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đổi mới hệ thống chính trị nhằm thực hiện và phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị
đất nước là vấn đề được Đảng ta quan tâm từ rất sớm, đặc biệt từ khi đất nước bước
vào thời kỳ đổi mới. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986,
trong khi đổi mới trên lĩnh vực kinh tế được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, thì
Đảng cũng xác định phải đồng thời từng bước thực hiện đổi mới hệ thống chính trị.
Tiếp tục xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống chính trị nói chung,
hệ thống chính trị cơ sở nói riêng là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, là điều kiện tất yếu đảm bảo thành công của sự
nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, tại Hội nghị lần thứ năm
Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) năm 2002, Đảng ta đã ban hành nghị
quyết về "Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường,
thị trấn". Để tiếp tục hoàn thiện, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ
thống chính trị, Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI)
năm 2013, đã ban hành Kết luận số 64 ngày 28/5/2913 về "Một số vấn đề về tiếp tục
đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở".
Hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) được xác định là
cấp cuối cùng trong phân cấp hành chính ở nước ta hiện nay, là nơi tuyệt đại bộ
phận nhân dân cư trú, sinh sống, nơi diễn ra mọi hoạt động của đời sống xã hội.
Hệ thống chính trị cấp cơ sở ở nước ta bao gồm: Đảng, chính quyền, Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội hoạt động trên địa bàn xã, phường, thị trấn,
có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức, vận động nhân dân thực hiện các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước; tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân; huy động mọi khả năng để phát triển kinh tế - xã hội; tổ chức cuộc
sống cộng đồng dân cư.
Sau gần 30 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị các cấp nói chung và hệ
thống chính trị cấp cơ sở nói riêng đã được nâng lên rõ rệt. Bộ máy Nhà nước tiếp
1



tục được xây dựng và hoàn thiện theo hướng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
từng bước được đổi mới cả về tổ chức cũng như phương thức hoạt động.
Huyện Can Lộc với diện tích tự nhiên trên 30.128,33 ha, dân số 126.199
người, là một huyện thuộc vùng bán sơn địa của tỉnh Hà Tĩnh, vừa có núi, vừa có
đồng bằng, phía Bắc giáp thị xã Hồng Lĩnh, phía Nam giáp huyện Thạch Hà, phía
Tây giáp huyện Hương Khê, phía Tây Bắc giáp huyện Đức Thọ, phía Đông giáp
huyện Lộc Hà.
Trong những năm qua, với sự năng động, sáng tạo và tích cực trong hoạt
động, hệ thống chính trị cơ sở trong toàn huyện đã có nhiều chuyển biến tích cực
trên tất cả các lĩnh vực; bộ mặt của huyện có nhiều biến đổi to lớn; đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân được nâng cao; quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả
các lĩnh vực ngày càng được phát huy; tạo ra sự đồng thuận xã hội, ổn định chính
trị, kinh tế phát triển. Qua đó đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cơ sở ở huyện
Can Lộc được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn,
nghiệp vụ và kỹ năng công tác; được rèn luyện, thử thách và trưởng thành qua thực
tiễn. Với những thành tựu đạt được trong công tác xây dựng Đảng và hệ thống
chính trị, trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng - an ninh, nhiều
năm liền Đảng bộ huyện Can Lộc được Tỉnh ủy công nhân đạt danh hiệu Đảng bộ
trong sạch vững mạnh tiêu biểu.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy trong quá trình phát triển, đứng trước yêu cầu,
nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng, nhất là trước những yêu cầu mới đang đặt
ra, hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở ở huyện Can Lộc vẫn còn bộc lộ nhiều
hạn chế. Nhiều xã chưa xây dựng được cơ chế phối hợp hoạt động một cách có hiệu
quả giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị; phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với hệ thống chính trị chậm đổi mới, chưa được cụ thể hóa sát với đặc điểm tình
hình của mỗi địa phương; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền nhiều xã
còn yếu kém; Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân chưa phát huy hết vai trò,

chức năng, nhiệm vụ của mình. Tại một số xã, quyền làm chủ của người dân chưa
được phát huy, cá biệt có nơi quyền làm chủ còn bị vi phạm hoặc có biểu hiện lợi
dụng dân chủ chống lại chủ trương của Đảng và Nhà nước; sự đồng thuận xã hội ở
2


một số xã không cao, cá biệt có nơi nội bộ mất đoàn kết; mức độ hoàn thành nhiệm
vụ chính trị hàng năm chưa cao, đời sống nhân dân còn khó khăn.
Đứng trước yêu cầu, nhiệm vụ mới, để huyện Can Lộc tiếp tục phát triển với
tốc độ cao và bền vững, việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống
chính trị cơ sở là một vấn đề cấp thiết. Vì vậy, tôi chọn đề tài "Hệ thống chính trị
cơ sở ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh: Thực trạng và giải pháp" làm đề tài luận
văn thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xuất phát từ vai trò, vị trí, chức năng của hệ thống chính trị trong đời sống xã
hội, việc nghiên cứu hệ thống chính trị nói chung và hệ thống chính trị cơ sở nói riêng
đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu trên nhiều bình diện khác nhau, qua đó
hình thành nhiều ấn phẩm có giá trị ở cả tầm lý luận và thực tiễn, điển hình như:
Công trình "Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn ở nước ta hiện nay" do
GS.TS Hoàng Chí Bảo chủ biên, Nhà xuất bản lý luận chính trị, H.2004, đã nghiên
cứu những vấn đề từ quan điểm lý luận đến lịch sử và thực tiễn, đồng thời cũng đưa
ra một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục đổi mới và nâng cao
chất lượng hệ thống chính trị cơ sở nông thôn nước ta hiện nay.
Công trình "Hệ thống chính trị cơ sở - Đặc điểm, xu hướng và giải pháp" do
PGS.TS Vũ Hoàng Công biên soạn, Nxb Chính trị quốc gia, 2002, đã nêu lên những
vấn đề lý luận cơ bản của hệ thống chính trị Việt Nam nói chung và hệ thống chính
trị cơ sở nói riêng; từ đó rút ra những đặc điểm, những vấn đề bức xúc và kiến nghị
những giải pháp cơ bản trong việc củng cố, nâng cao hiệu quả của hệ thống chính trị
cấp cơ sở.
Công trình "Hệ thống chính trị cơ sở - Thực trạng và một số giải pháp đổi

mới" do TS Chu Văn Thành chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, H.2004, đã
cung cấp những tư liệu và luận cứ khoa học - thực tiễn về hệ thống chính trị cơ sở,
nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu hoạch định chính sách đối với hệ thống chính trị
cơ sở theo tinh thần Nghị quyết Trung ương năm, khóa IX.
TS Nguyễn Duy Hùng (chủ biên) "Luận cứ khoa học và một số giải pháp xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường hiện nay", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
2008; TS Mai Đức Ngọc, "Vai trò của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã trong việc giữ
3


vững ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn nước ta hiện nay", Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, (2008);
Kỷ yếu khoa học đề tài độc lập cấp Nhà nước năm 2001 - 2002 "Các giải pháp
đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị ở Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay" do
PGS.TS Phạm Hào làm chủ biên, Nhà xuất bản Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, 2002; Công trình "Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay" do TS. Nguyễn Văn
Sáu và GS. Hồ Văn Thông làm chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2001, công
trình được nghiên cứu ở nhiều tỉnh thành trong cả nước đã làm sáng tỏ những quan
điểm, chủ trương, chính sách, giải pháp của Đảng và Nhà nước ta về nông nghiệp nông
thôn nói chung và hệ thống chính trị cấp cơ sở ở nông thôn nói riêng.
Ngoài ra, một số công trình, luận văn, luận án, bài viết trên các tạp chí khoa
học chuyên ngành cũng bàn về vấn đề này với những hình thức và mức độ khác
nhau như: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân” của Văn phòng
Quốc hội (Nghiên cứu lập pháp, số 8/2001); “Hệ thống chính trị cơ sở vùng sâu,
vùng xa và những vấn đề đặt ra cần được giải quyết” của Hồ Minh Đức (Dân vận,
số 1 và 2/2002); “Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với việc thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Thị Kiều Oanh (Nxb
Lý luận Chính trị, H.2005); “Tồn tại và không nên tồn tại Hội đồng nhân dân cấp
nào?” của Trần Hữu Trí (Đại đoàn kết, số 139/2007); “Giải pháp nâng cao chất
lượng của Hệ thống chính trị cấp xã, phường, thị trấn ở Đồng Nai hiện nay” của

Nguyễn Khánh Mậu (Khoa học chính trị, số 2/2007); “Đổi mới Hệ thống chính trị
để phát huy dân chủ” của Đoàn Minh Duệ (Triết học, số 9/2007); "Xây dựng và
phát huy vai trò của hệ thống chính trị cơ sở ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số" của
Trần Đức Quang (Tạp chí Cộng sản số 64/2012),… cũng đã làm sáng tỏ về những
vấn đề đang đặt ra của hệ thống chính trị cơ sở ở nước ta hiện nay.
Như vậy, nghiên cứu về Hệ thống chính trị nói chung và Hệ thống chính trị
cấp cơ sở nói riêng đã được rất nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Song, chưa có
công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu về thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ
thống chính trị cơ sở ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh một cách có hệ thống nhằm tìm
ra những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở nơi đây.
Vì vậy, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài trên trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ chuyên
4


ngành Chính trị học của mình với hy vọng trên cơ sở luận giải cơ sở lý luận và thực
tiễn, nhằm đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ
thống chính trị cơ sở ở huyện Can Lộc nói riêng và tỉnh Hà Tĩnh nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng về hệ thống chính trị cơ sở ở huyện
Can Lộc, luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về hệ thống chính trị nói
chung và hệ thống chính trị cơ sở nói riêng.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng (thành tựu, hạn chế) về tổ chức, hoạt động
của hệ thống chính trị cơ sở ở huyện Can Lộc và hiệu quả của nó.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống
chính trị cơ sở ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống chính trị cơ sở ở huyện Can
Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn đi sâu nghiên cứu thực trạng hoạt động của hệ thống chính trị ở các
xã của huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh từ năm 2002 (Năm thực hiện Nghị quyết số 17NQ/TW của Hội nghị Trung ương 5 khóa IX về "đổi mới và nâng cao chất lượng
hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn") đến năm 2014. Số
liệu để phân tích, đánh giá dựa trên kết quả khảo sát của tác giả tại 9 xã (trong tổng
số 23 xã, thị trấn của huyện Can Lộc) cụ thể các xã: Thiên Lộc, Thượng Lộc, Khánh
Lộc, Thanh Lộc, Phú Lộc, Vĩnh Lộc, Yên Lộc, Vượng Lộc, Thuần Thiện.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về hệ thống chính trị và hệ thống
chính trị cơ sở.

5


5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
- Kết hợp giữa phương pháp logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, khảo sát
tổng kết thực tiễn cùng các phương pháp mang tính chuyên ngành khác. Đặc biệt, luận
văn sử dụng phương pháp điều tra xã hội học và thăm dò dư luận xã hội tại 9 xã của
huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ thực trạng hệ thống chính trị cơ sở ở huyện Can
Lộc nói riêng.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của

hệ thống chính trị cơ sở ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
- Kết quả của luận văn có thể sử dụng để làm tư liệu cho việc nghiên cứu những
vấn đề có liên quan về hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cơ sở.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 2 chương, 5 tiết.

6


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ
1.1. Nhận thức chung về hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cơ sở
1.1.1. Hệ thống chính trị và hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa
1.1.1.1. Hệ thống chính trị
Thuật ngữ "hệ thống chính trị" xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử, theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, chính trị và hệ thống chính trị là sản phẩm của
quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp, là sản phẩm của một giai đoạn lịch sử nhất
định. Khi nghiên cứu về thiết chế chính trị và cách thức tổ chức của một xã hội,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã tiếp cận khái niệm hệ thống chính trị như một chế độ
chính trị theo tính hệ thống của nó và sử dụng những thuật ngữ tương đương như:
"hệ thống cai trị", "hệ thống đẳng cấp chính trị", "cơ cấu chính trị", "hình thức chính
trị", "thiết chế xã hội và chính trị", "cơ cấu chính quyền"...vv
Kế thừa và phát triển những tư tưởng về dân chủ và hệ thống chính trị của
C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin tiếp tục hoàn thiện khái niệm dân chủ và hệ thống
chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trên thực tế, V.I.Lênin chưa sử
dụng khái niệm "hệ thống chính trị" trong các bài nói, bài viết của mình, nhưng ông
thường dùng khái niệm "chuyên chính vô sản" để nghiên cứu về thiết chế chính trị của
xã hội. Mà hệ thống chuyên chính vô sản theo quan niệm của Lênin bao gồm: Nhà

nước của giai cấp công nhân, Đảng Cộng sản của giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh
đạo nhà nước và các tổ chức quần chúng mà tiêu biểu là công đoàn. Như vậy, nếu xét
theo nội hàm, những thuật ngữ mà C.Mác và Ph.Ăngghen đưa ra và được V.I.Lênin kế
thừa, phát triển với thuật ngữ hệ thống chính trị hiện đại có liên quan chặt chẽ với nhau
và được hiểu là tương đồng.
Đối với khoa học chính trị hiện đại, hệ thống chính trị là một phạm trù rất
quan trọng, bởi vì nó tổng hợp những vấn đề của thực tiễn chính trị. Hơn nữa,
những vấn đề đó không phải được xem xét rời rạc, lộn xộn, biệt lập mà là xem xét
trong một chỉnh thể có tính hệ thống, có hình thái phát sinh, phát triển, có chủ thể,
đối tượng, với các mối quan hệ chức năng, theo những vị trí, vai trò nhất định; có
7


"đầu vào" và "đầu ra"; có nội dung và hình thức, có hiện tượng và bản chất... Vì
vậy, hiện nay quan niệm về hệ thống chính trị còn rất khác nhau, phụ thuộc vào
khuynh hướng, trường phái chính trị học khác nhau.
Ở phương Tây, có hai cách tiếp cận cơ bản về hệ thống chính trị. Thứ nhất,
cách tiếp cận thể chế: coi hệ thống chính trị là tập hợp các thể chế chính trị (gồm
các tổ chức nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội) và những mối quan hệ qua
lại giữa chúng. Thứ hai, cách tiếp cận hệ thống: coi hệ thống chính trị không chỉ
bao gồm cấu trúc thể chế và các quan hệ giữa chúng, mà còn là những chuẩn mực
chính trị, vai trò chính trị, hành vi chính trị. Từ hai cách tiếp cận cơ bản này phát
triển nên một số quan điểm khác nhau về hệ thống chính trị như: Nhà chính trị học
Mỹ D.Istons, trong tác phẩm Hệ thống chính trị (1953), Giới hạn sự phân tích chính trị
(1965) cho rằng: "Hệ thống chính trị giống như một bộ máy tự phát triển, tự điều tiết
và phản ứng với những tác động từ bên ngoài. Hệ thống đó có "đầu vào", đó là nơi thu
nhận những tác động, yêu cầu, ủng hộ... của môi trường xã hội và văn hóa xã hội
quanh nó. Còn "đầu ra" là những quyết định chính trị và hành động chính trị để thực
hiện các quyết định đó" [43, tr.33-34]. Cách tiếp cận khác của nhà chính trị học Mỹ
G.Almold cho rằng: "Hệ thống chính trị đó là các kiểu khác nhau của hành vi chính trị,

của các tổ chức nhà nước cũng như phi nhà nước. Các kiểu hành vi đó được chia ra
hai cấp độ là: thể chế và định hướng" [43, tr.34-35]. Một số cách tiếp cận khác cho
rằng: "Hệ thống chính trị là cơ chế để thực hiện và giải quyết các vấn đề, đồng thời để
hoạch định và kiểm soát sự thực hiện các quyết định cũng như kiểm soát các quan hệ
quản lý của Nhà nước" [43, tr.35].
Đến đầu những năm 80, khái niệm hệ thống chính trị được khẳng định trong
các tài liệu triết học, chính trị học của Liên Xô. Hệ thống chính trị được hiểu theo
cách tiếp cận hình thái kinh tế - xã hội, là bộ phận của thượng tầng kiến trúc được
quyết định bởi hạ tầng kinh tế, theo kết cấu xã hội giai cấp. Hệ thống chính trị là
một kiểu xác định của hình thái kinh tế - xã hội. Hiện nay một số nhà khoa học Nga
coi hệ thống chính trị như một tổ hợp phức tạp các thể chế nhà nước, các đảng
chính trị, các tổ chức xã hội, trong khuôn khổ đó diễn ra đời sống chính trị và thực
thi quyền lực nhà nước, quyền lực xã hội.

8


Ở nước ta, đã có nhiều công trình nghiên cứu, đề tài khoa học đề cập đến hệ
thống chính trị, hoặc những khía cạnh khác nhau của hệ thống chính trị, đã có không
ít định nghĩa hệ thống chính trị được nêu ra. Có thể khái quát theo hai quan niệm:
Quan niệm thứ nhất, xem hệ thống chính trị chỉ bao gồm những tổ chức chính trị - xã
hội mang bản chất của giai cấp cầm quyền, hoặc phục vụ cho quyền lực chính trị của
giai cấp đó. Theo đó, hệ thống chính trị đồng nhất với phạm trù "hệ thống chuyên
chính của giai cấp cầm quyền". Quan niệm thứ hai, xem trong hệ thống chính trị,
ngoài hệ thống chuyên chính của giai cấp cầm quyền với tư cách là bộ phận cơ bản,
quan trọng nhất, quy định bản chất và chức năng cơ bản của toàn bộ hệ thống, còn có
các tổ chức, các thiết chế chính trị hợp pháp khác. Theo quan niệm này có thể hiểu:
"Hệ thống chính trị là một chỉnh thể bao gồm Nhà nước, các Đảng chính trị hợp
pháp, các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp, trong đó, vai trò chủ đạo thuộc về các
thiết chế của giai cấp cầm quyền để tác động vào các quá trình kinh tế - xã hội nhằm

củng cố, duy trì và phát triển chế độ xã hội đương thời" [19, tr.197].
Nhìn chung, ở Việt Nam, cách tiếp cận khái niệm hệ thống chính trị là mô tả
các yếu tố thực thể cơ bản cấu thành và phản ánh chức năng tổng quát của hệ thống
chính trị. Phù hợp với quan điểm đó, có thể nêu lên định nghĩa chung về hệ thống
chính trị như sau: "Hệ thống chính trị là tổ hợp có tính chỉnh thể các thể chế chính
trị (các cơ quan quyền lực nhà nước, các đảng chính trị, các tổ chức và các phong
trào chính trị...) được xây dựng trên các quyền và chuẩn mực xã hội, phân bố theo
một kết cấu chức năng nhất định, vận hành theo những nguyên tắc, cơ chế và quan
hệ cụ thể, nhằm thực thi quyền lực chính trị" [55, tr.262].
Như vậy, có thể thấy, hệ thống chính trị là một hệ thống cấu trúc, một chỉnh
thể bao gồm các bộ phận cấu thành, có quan hệ mật thiết với nhau, có vị trí, chức
năng, vai trò khác nhau. Hệ thống ấy được thể hiện ở những cấp khác nhau: trung
ương, địa phương, cơ sở. Cấu trúc hệ thống chính trị rất đa dạng, ở mỗi quốc gia lại
có đặc thù khác nhau, nhưng cơ bản gồm 3 bộ phận: Đảng chính trị, Nhà nước, các
tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp.
1.1.1.2. Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa
Trong các xã hội nô lệ, phong kiến, tư bản tuy trình độ phát triển về mọi mặt
rất khác nhau, nhưng đều có chung bản chất là dựa trên cơ sở của chế độ chiếm hữu
9


tư nhân về tư liệu sản xuất và duy trì quyền áp bức bóc lột của giai cấp thống trị đối
với đông đảo nhân dân lao động. Vì vậy, hệ thống chính trị của các chế độ xã hội ấy
hình thành và phát triển với quá trình vận động của mâu thuẫn giữa các giai cấp đối
kháng. Sự vận động của mâu thuẫn giai cấp trong các chế độ người áp bức, bóc lột
người, gắn với cuộc đấu tranh của nhân dân lao động và các lực lượng tiến bộ
chống lại chế độ xã hội đó, làm thay đổi các hệ thống chính trị theo hướng tiến bộ,
hoặc thủ tiêu thay thế nó bằng một hệ thống chính trị dân chủ, tiến bộ hơn.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa, hệ thống chính trị ra đời dựa trên tiền đề chính
trị là thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân giành

chính quyền, thiết lập chuyên chính vô sản, tiến hành cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới. Vì vậy, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ thể thực sự của
quyền lực chính trị, tự định đoạt quyền chính trị của mình. Dù đã trải qua những
thăng trầm, biến cố trong quá trình phát triển, nhưng hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa vẫn luôn kiên định và nhất quán mục tiêu xây dựng xã hội công bằng, dân
chủ, không có sự đối kháng giai cấp, không có sự phân biệt giàu nghèo.
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa được nghiên cứu từ nhiều góc độ khác
nhau, tùy theo góc độ tiếp cận, các nhà nghiên cứu đưa ra các định nghĩa khác nhau.
Tuy nhiên, có thể thấy rõ điểm chung mà các định nghĩa nêu lên là xem hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa là cách thức tổ chức quyền lực chính trị mà giai cấp công
nhân nắm quyền thực hiện phù hợp với lợi ích của giai cấp mình. Các tác giả trong
cuốn "Đổi mới và tăng cường hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới", nhà
xuất bản Chính trị quốc gia (1999) đã khẳng định: "Hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa là một chỉnh thể bao gồm Nhà nước chuyên chính vô sản, Đảng Cộng sản và
các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp và mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố
nhằm đảm bảo quyền lực của nhân dân" [6, tr.47]. Cũng có định nghĩa cho rằng:
"Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là liên minh các thiết chế chính trị - xã hội
được thành lập, hoạt động trong mối liên hệ chặt chẽ mà vai trò lãnh đạo thuộc về
Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm thực hiện triệt để quyền
lực nhân dân xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội" [52, tr.301].
Đối với nước ta, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ thể chân
chính của quyền lực. Cho nên, hệ thống chính trị Việt Nam là cơ chế, công cụ thực
10


hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Hệ
thống chính trị ở nước ta hiện nay về mặt thành tố bao gồm: Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các tổ chức chính trị - xã hội. Các bộ phận này được kết nối với nhau theo những
quan hệ, cơ chế và nguyên tắc vận hành nhất định, trong một môi trường văn hóa

chính trị đặc thù. Trong đó, Đảng Cộng sản Việt Nam là hạt nhân của hệ thống
chính trị, giữ vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội; Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là trụ cột, là trung tâm của hệ thống chính trị; Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội là cơ sở chính trị của nhà nước và xã
hội. Về mặt tổ chức bộ máy, hệ thống chính trị nước ta được tổ chức thành 4 cấp
gắn liền với nền hành chính quốc gia: cấp Trung ương; cấp tỉnh, thành phố; cấp
huyện, quận, thị xã và cấp xã, phường, thị trấn.
Hệ thống chính trị Việt Nam được tổ chức theo mô hình có đỉnh quyền lực.
So với nhiều nước trên thế giới, ngay cả những nước có cùng mô hình hệ thống
chính trị, thì hệ thống chính trị Việt Nam vẫn có những đặc điểm khác biệt. Những
đặc điểm chủ yếu của hệ thống chính trị Việt Nam là:
Một là, hệ thống chính trị ở Việt Nam là hệ thống chính trị nhất nguyên, chỉ
do một Đảng Cộng sản lãnh đạo. Nó thể hiện ở chỗ, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh được coi là nền tảng tư tưởng chung của cả hệ thống; chủ nghĩa
xã hội là mục tiêu chung; không chấp nhận các khuynh hướng chính trị trái với chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trái với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Trong hệ thống chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên, nhưng đồng
thời cũng giữ vai trò lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị. Sự lãnh đạo của Đảng đối
với xã hội nói chung, hệ thống chính trị nói riêng xuất phát từ điều kiện cụ thể của
nước ta như: truyền thống lịch sử; phẩm chất vốn có của Đảng; những thành tựu to
lớn mà Đảng ta đem lại cho nhân dân trong quá trình lãnh đạo cách mạng.
Hai là, các tổ chức chính trị - xã hội do Đảng Cộng sản thành lập, có lịch
sử đấu tranh vẻ vang, có vai trò to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ
và xây dựng đất nước. Các đoàn thể quần chúng luôn gắn mình với sự nghiệp
cao cả của Đảng và lịch sử hào hùng của dân tộc, thể hiện rõ là các tổ chức quần
chúng có chức năng xã hội gắn với đời sống của các tầng lớp nhân dân, vừa tổ
11


chức nhân dân trực tiếp thực hiện quyền làm chủ; vừa giúp Đảng, Nhà nước

trong việc tuyên truyền chủ trương, chính sách tới nhân dân, vừa truyền đạt tiếng
nói, nguyện vọng của dân đến Đảng, Nhà nước. Với lịch sử lâu dài, vẻ vang, với
vai trò to lớn qua các thời kỳ và kinh nghiệm tổ chức quần chúng, các đoàn thể
này xứng đáng là chủ thể của hệ thống chính trị.
Ba là, hệ thống chính trị nước ta là hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa được
xây dựng theo mô hình Xô viết, mặc dù đang trong quá trình đổi mới, hoàn thiện
nhưng ảnh hưởng của chế độ tập trung quan liêu, bao cấp trong mô hình ấy đang
còn khá nặng nề cả trong cách nghĩ, cách làm của đảng viên và nhân dân, cũng như
trong tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước.
Bốn là, nền hành chính nhà nước, một bộ phận quan trọng của hệ thống chính trị
còn rất non trẻ, lại hầu như không được kế thừa gì từ quá khứ (chế độ thực dân phong
kiến), bị ảnh hưởng của mô hình tập trung quan liêu cao độ, nhưng phải thực hiện rất
nhiều nhiệm vụ lịch sử mới mẻ và to lớn như: đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc
hậu, sản xuất nhỏ là chủ yếu đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa,
thực hiện công nghiệp hóa đồng thời với hiện đại hóa đất nước, xây dựng một nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân...
Những đặc điểm này vừa quy định kết cấu, tổ chức, vận hành và các mối
quan hệ, vừa cho thấy những khó khăn thách thức mà chúng ta phải giải quyết, vừa
đặt ra những yêu cầu đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta khác với
các hệ thống chính trị khác trên thế giới.
1.1.2. Hệ thống chính trị cơ sở ở nước ta hiện nay
1.1.2.1. Khái niệm
Cơ sở là một khái niệm đa nghĩa, xét về mặt loại hình, đó là cơ sở của xã hội,
những không gian xã hội, nơi diễn ra các hoạt động sống của con người, nơi hình
thành những tập thể, cộng đồng người để thực hiện các hoạt động lao động, sinh hoạt,
giao tiếp thông qua các quan hệ xã hội, các tổ chức và thiết chế. Bức tranh về cơ sở
rất phong phú, đa dạng từ một cộng đồng người tập hợp lại theo lứa tuổi, giới tính,
công việc, sở thích, nghề nghiệp hay gia đình, cơ quan, công sở, một xí nghiệp, doanh
nghiệp, công ty, một bệnh viện, một trường học, một viện nghiên cứu... Tuy nhiên,

những loại hình và mô hình này không nằm trong đối tượng nghiên cứu của đề tài.
12


Cơ sở được nghiên cứu ở đây là khái niệm dùng để chỉ một cấp quản lý trong
hệ thống bốn cấp quản lý hành chính nhà nước hiện hành ở nước ta. Ở nước ta hiện
nay, xã, phường, thị trấn được gọi chung là cấp cơ sở và do số lượng xã là tuyệt đối,
thị trấn cũng tương đương với xã; còn phường ở các tỉnh vẫn gắn một phần với sản
xuất và cư dân nông nghiệp nên cấp cơ sở được gọi chung là cấp xã.
Đến tháng 12 năm 2012 ở nước ta có 11.120 đơn vị cơ sở xã, phường, thị trấn
[45, tr.13]. Đây là địa bàn cư trú, làm ăn của nhân dân lao động, nơi diễn ra mọi
hoạt động của đời sống xã hội. Ở đó, vừa diễn ra các hoạt động sản xuất, kinh
doanh của người lao động, vừa diễn ra quá trình trao đổi, lưu thông hàng hóa, là đầu
mối của thị trường, nơi hình thành các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể sản xuất và
tiêu dùng. Nói tới cơ sở là nói tới nơi diễn ra các hoạt động của người dân và cuộc
sống của họ; nói tới các hình thức tổ chức hoạt động sống của cộng đồng và các mối
quan hệ xã hội giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng. Tại đây, vai
trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và hoạt động của các tổ chức chính
trị - xã hội đều hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng
an ninh, giữ vững ổn định chính trị và tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư. Tất
cả những hoạt động đó đều nằm trong khuôn khổ lãnh đạo, quản lý, điều hành trực
tiếp của toàn bộ hệ thống chính trị cơ sở.
Khi nghiên cứu về hệ thống chính trị cơ sở có nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Cách tiếp cận thứ nhất, xem xét hệ thống chính trị cơ sở như một hệ thống
về mặt tổ chức và chức năng của các bộ phận hợp thành: tổ chức Đảng, chính quyền
(Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân), Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân (Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh) ở xã,
phường, thị trấn. Mỗi bộ phận hợp thành hệ thống chính trị cơ sở có vị trí, vai trò và
chức năng khác nhau, nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau, cụ thể:
Đảng bộ cơ sở, mà nòng cốt là Ban Chấp hành Đảng bộ là hạt nhân chính trị,

trực tiếp thực hiện vai trò lãnh đạo thông qua việc triển khai, đề ra các chủ trương,
đường lối, chỉ thị, nghị quyết định hướng cho chính quyền triển khai các hoạt động
quản lý, điều hành trên phạm vi địa bàn; bằng hoạt động của đảng viên trong bộ
máy chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở; bằng việc giới thiệu đảng
viên ưu tú tham gia giữ các chức vụ chủ chốt trong chính quyền và các đoàn thể
13


nhân dân; bằng công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục; bằng sự gương mẫu
của đảng viên; bằng công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chỉ thị, nghị quyết
của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước đối với cán bộ và đảng viên.
Chính quyền là trụ cột của hệ thống chính trị cơ sở, có vai trò quản lý, điều
hành toàn bộ hoạt động kinh tế - xã hội trên phạm vi địa bàn theo Hiến pháp và pháp
luật. Trong chính quyền cơ sở, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở cơ
sở, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, thay mặt nhân dân
quyết định những vấn đề quan trọng trên địa bàn theo quy định của pháp luật. Ủy ban
nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, là cơ quan hành chính nhà
nước ở cơ sở, thực hiện nhiệm vụ theo nghị quyết của Hội đồng nhân dân, nhiệm vụ do
cơ quan hành chính nhà nước cấp trên ủy quyền và chỉ đạo tổ chức thực hiện, đôn đốc,
kiểm tra việc thực hiện các nhiệm vụ tự quản của địa phương.
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội có chức năng tuyên truyền,
vận động quần chúng nhân dân ở cơ sở thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật Nhà nước, của chính quyền cơ sở; củng cố, tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; chăm lo lợi ích và bảo vệ
quyền lợi chính đáng của hội viên, đoàn viên. Đồng thời, thực hiện chức năng giám
sát, phản biện đối với hoạt động của chính quyền, đối với cán bộ, công chức, đảng
viên ở cơ sở; tham gia một số hoạt động quản lý xã hội ở cơ sở, thôn xóm.
Bên cạnh đó, cấp cơ sở hiện nay còn rất nhiều tổ chức, hội đoàn do nhân dân
tự nguyện lập ra, hoạt động theo phương thức tự quản và tuân thủ pháp luật, thỏa
mãn nhu cầu giao tiếp, liên kết cộng đồng, cùng nhau tổ chức đời sống trong cộng

đồng, góp phần tạo ra sự đoàn kết, đồng thuận trong xã hội. Những tổ chức này tuy
không phải là bộ phận hợp thành hệ thống chính trị cơ sở nhưng có mối quan hệ mật
thiết với hệ thống này. Vì vậy, nếu hệ thống chính trị cơ sở biết tạo điều kiện, phát
huy ưu thế của các tổ chức này thì sức mạnh của tinh thần đoàn kết, hợp tác, sáng
tạo trong cộng đồng xã hội ở cơ sở sẽ được nhân lên gấp bội, đem lại sự ổn định ở
cơ sở, tạo ra sức bật lớn cho cơ sở phát triển, làm cho nền tảng xã hội của Đảng,
Nhà nước và của cả chế độ được củng cố vững mạnh ngay từ cơ sở.
Như vậy, xét về phương diện cơ cấu tổ chức, hệ thống chính trị cơ sở có khá
nhiều tổ chức hợp thành với vị trí, vai trò, chức năng, thẩm quyền khác nhau. Củng
14


cố, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở phải củng cố và nâng cao chất lượng
hoạt động của từng tổ chức này, cũng như mối quan hệ giữa các tổ chức trong hệ
thống theo tư tưởng: nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường hiệu lực, hiệu
quả trong quản lý điều hành của chính quyền, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Cách tiếp cận thứ hai, không chỉ về mặt tổ chức pháp lý mà còn bao gồm cả
các yếu tố thể hiện bản chất của hệ thống chính trị nói chung và những điều kiện
đảm bảo cho các bộ phận của hệ thống đó vận hành. Ở nghĩa này, hệ thống chính trị
cơ sở được hiểu theo tính chất của việc thực hiện dân chủ cơ sở, thể hiện quyền lực
của nhân dân. Cách tiếp cận này đòi hỏi phải nghiên cứu những vấn đề như: quyền
dân chủ trong bầu cử, chất vấn đại biểu Hội đồng nhân dân, những việc dân được
biết, được bàn và thực hiện kiểm tra; tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân,
đại biểu Hội đồng nhân dân; vai trò của tổ chức Đảng, Mặt trận và các đoàn thể
trong việc phát huy quyền dân chủ của người dân; trách nhiệm của Ủy ban nhân dân
trong việc đảm bảo và thực hiện quyền dân chủ của dân.
Việc nghiên cứu về hệ thống chính trị cơ sở theo nội dung dân chủ cho thấy
mối liên hệ bên trong của hệ thống, từ đó đi đến nhận thức: củng cố, nâng cao chất
lượng hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn không chỉ là vấn đề về tổ chức
pháp lý, mà còn là vấn đề cơ chế thực hiện dân chủ. Có như vậy mới tạo ra động lực

thực sự thúc đẩy sự phát triển của cơ sở.
Qua phân tích những cách tiếp cận trên, có thể hiểu: "Hệ thống chính trị cơ sở
là toàn bộ các thiết chế chính trị như tổ chức Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân
dân được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc nhất định và gắn bó hữu cơ với
nhau nhằm thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở" [46, tr.10].
1.1.2.2. Đặc điểm
Hệ thống chính trị cơ sở là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, nên nó mang đặc điểm chung của toàn bộ hệ thống. Tuy
nhiên, ngoài những đặc điểm chung, xét khía cạnh địa vị pháp lý và thực tế thì hệ
thống chính trị cơ sở còn có những đặc trưng riêng như:
Thứ nhất, là cấp thấp nhất trong hệ thống chính trị Việt Nam, gần với cộng
đồng dân cư nhất, do vậy tổ chức và hoạt động mang tính tự quản cao.
15


Đặc điểm này vừa mang tính thể chế, vừa mang tính thực tế. Với tư cách là
đặc điểm mang tính thể chế, đó là mong muốn, là mục đích của tất cả các chế độ.
Nó là cấp gần dân nhất và thể hiện rõ nhất tính nhân dân. Nhà nước xác định cấp xã
là một cấp chính quyền, song khác với các cấp chính quyền trên nó, Nhà nước cho
phép nhân dân trong xã tự lựa chọn những người xứng đáng lãnh đạo chính quyền
thông qua bầu cử. Nếu được bầu thì một cá nhân trở thành cán bộ chính quyền, cán
bộ đảng và đoàn thể. Khi không được tái cử, thì người đó trở lại làm công dân bình
thường. Nhà nước không đảm bảo công việc cho người thất cử. Với đặc điểm này,
có thể nói cấp xã là mắt khâu trung gian, là bước chuyển tiếp giữa chế độ tự quản
làng xã sang chế độ nhà nước đầy đủ.
Thứ hai, cơ sở là cấp tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân.
Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cuối
cùng có được thực hiện hay không, thực hiện như thế nào, hiệu quả ra sao lại phụ thuộc

phần lớn ở cơ sở. Vì vậy, cần phải nhận thức rõ rằng cơ sở là cấp thấp nhất, nhưng
không vì thế kém quan trọng nhất. Ngược lại, xét theo khía cạnh thực thi mọi đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước thì đây lại là cấp quan trọng nhất. Thông qua cơ
sở các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước mới được cụ thể hóa vào trong đời
sống của cộng đồng dân cư.
Thứ ba, hệ thống chính trị cơ sở có bộ máy đơn giản nhất và cán bộ biên chế
được hưởng sinh hoạt phí thấp nhất, có đội ngũ cán bộ biến động nhất, ít tính
chuyên nghiệp nhất, trực tiếp chịu sự chi phối của nhân dân.
Là cấp thấp nhất nên tổ chức bộ máy đơn giản nhất và biên chế được hưởng
sinh hoạt phí ít nhất. Theo các quy định hiện hành, hệ thống chính trị cơ sở được
biên chế và hưởng sinh hoạt phí không quá 25 người. Phần lớn đội ngũ cán bộ, nhất
là cán bộ chủ chốt không phải được tuyển dụng biên chế cố định mà họ được giữ
các vị trí đó thông qua lá phiếu bầu cử của nhân dân. Cho nên, nếu có năng lực,
hoàn thành tốt nhiệm vụ, được nhân dân tín nhiệm thì sẽ có cơ hội tái cử ở nhiệm kỳ
tiếp theo, ngược lại khi hết nhiệm kỳ nhân dân sẽ bầu người khác thay thế. Tâm lý
không ổn định cũng chính là nguyên nhân dẫn đến đội ngũ cán bộ cơ sở biến động
thường xuyên và ít được chuyên môn hóa, ít được đào tạo cơ bản và bản thân họ
16


cũng có tâm lý ngại học tập nâng cao trình độ theo xu hướng "quan nhất thời, dân
vạn đại". Phần lớn những người được đào tạo bài bản cả về chuyên môn nghiệp vụ
và lý luận chính trị lại muốn tìm cách thoát ly khỏi cơ sở.
Thứ tư, cấp cơ sở có bộ máy đơn giản nhất nhưng không phải là đơn giản nhất
trong vận hành bộ máy, bởi vì, đây là cấp mà các mối quan hệ về dòng họ, văn hóa
làng xã có thể tác động mạnh nhất, ảnh hưởng đáng kể đến quan hệ nội bộ trong tổ
chức và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị nơi đây.
Ở cấp xã đã có và hiện cũng chưa hết tình trạng "chi bộ họ ta". Tình trạng
thành viên cấp ủy được phân bổ theo dòng họ, theo cánh, theo làng vẫn còn. Quan
hệ anh em, họ hàng, chú bác... trong Đảng ủy, giữa các cán bộ xã không phải hiếm.

Mặt khác lại bị chi phối, ràng buộc bởi truyền thống, phong tục, tập quán, lối sống
làng xã. Điều đó ảnh hưởng đáng kể đến quan hệ trong nội bộ tổ chức. Có khi vì
quan hệ họ hàng, thân tộc mà nể nang, e dè, né tránh đấu tranh. Ngược lại, có khi vì
quan hệ dòng họ mà đấu tranh phe cánh kịch liệt, vượt quá mức cần thiết làm ảnh
hưởng đến quá trình hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Do
đó, phải hết sức chú ý khắc phục tư tưởng dòng họ, bè phái, lợi dụng chức quyền
theo kiểu "một người làm quan cả họ được nhờ".
Thứ năm, cơ sở là cấp đầu tiên đối mặt với những tâm tư, nguyện vọng,
những yêu cầu bức xúc của dân chúng; với những mâu thuẫn, thậm chí cả những
xung đột nảy sinh trong đời sống dân cư.
Sự đúng, sai trong đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, đoàn thể được
thể hiện trực tiếp ở cơ sở, cả về phương thức thực thi lẫn sự phù hợp hay không phù
hợp của đường lối với lợi ích của nhân dân. Vì vậy, khi thực hiện các chính sách
trong cuộc sống quần chúng nhân dân sẽ phản ánh chân thực nhất mức độ phù hợp
của đường lối chính sách; cấp đầu tiên nhận được sự phản ánh này chính là cơ sở cấp được xem là gần dân nhất, mang tính nhân dân rõ rệt nhất.
Tóm lại, những đặc điểm trên của hệ thống chính trị cơ sở phản ánh một mặt
sự thống nhất của cả hệ thống chính trị được tổ chức, hoạt động theo tính thống nhất
về mục tiêu và nguyên tắc. Mặt khác, cũng phản ánh nhiều mâu thuẫn, có loại mâu
thuẫn biện chứng của sự phát triển, có loại mâu thuẫn hình thức triệt tiêu sự phát
triển. Vì vậy, cần phải phát hiện mâu thuẫn, có những giải pháp cụ thể để xử lý mâu
17


thuẫn một cách hợp lý, cụ thể nhằm đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị cơ sở,
đáp ứng vị trí, vai trò quan trọng cần phải có của nó trong giai đoạn hiện nay.
1.1.2.3. Vai trò
Trải qua gần 30 năm đổi mới đất nước, Đảng và nhân dân ta đã đạt được
những thành tựu có ý nghĩa to lớn trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên,
kết quả đạt được không giống nhau giữa các tỉnh, huyện, vùng miền, địa phương.
Nhiều địa phương vẫn được xem là vùng chậm phát triển so với sự phát triển chung

của cả nước. Tình trạng trên do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong
đó có nguyên nhân do chưa nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của hệ thống chính
trị cơ sở nên chưa phát huy tối đa chức năng, nhiệm vụ, tổ chức hoạt động của hệ
thống chính trị nơi đây. Vì vậy, muốn đổi mới hệ thống chính trị cơ sở, trước hết
phải đổi mới nhận thức về vai trò của cơ sở, để từ đó hành động đúng đắn trong
thực hiện nhiệm vụ ở địa phương, cụ thể:
Thứ nhất, cơ sở là nơi chính quyền trong lòng dân; là cấp thấp nhất trong các
cấp độ quản lý của hệ thống chính quyền nhà nước, nhưng lại là nền tảng của chế độ,
nền móng của tòa nhà; nếu cơ sở suy yếu, rệu rã là khởi đầu sự suy yếu của chế độ.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Nền tảng của mọi công tác
là cấp xã" [33, tr.456] và "Cấp xã là gần gũi dân nhất, là nền tảng của hành chính.
Cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều xong xuôi" [32, tr.372]. Nước lấy dân
làm gốc, chăm lo cho cuộc sống của nhân dân và sự phát triển của xã hội thì trước
hết phải dồn sức chăm lo cho sự bền vững của cơ sở, từ cơ sở; làm cho hệ thống
chính trị ở cơ sở phải thực sự là hệ thống chính trị của dân, do dân, vì dân. Do
"quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân" [32, tr.698], nên có dân thì có tất cả, mất
dân thì mất tất cả. Tính thời sự bức xúc và tầm quan trọng chiến lược, lâu dài của cơ
sở và hệ thống chính trị cơ sở bắt nguồn trực tiếp và sâu xa từ thực tiễn ấy. Khẳng
định vai trò của cơ sở cũng là khẳng định nguyên lý về vai trò quyết định của quần
chúng nhân dân trong hoạt động sáng tạo lịch sử.
Thứ hai, cơ sở là nơi diễn ra cuộc sống của dân, nơi chính quyền và các đoàn
thể tổ chức cuộc sống, hoạt động và các phong trào của cộng đồng dân cư để nhân
dân thực hiện quyền làm chủ, thực hành dân chủ của chính mình.
Nếu dân chủ là "dân là chủ" và "dân làm chủ" theo quan điểm Hồ Chí Minh,
thì cơ sở là nơi thể hiện rõ nhất, trực tiếp nhất ý thức và năng lực dân chủ của dân

18


bằng cả phương thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Chế độ ủy quyền và

những phương tiện, điều kiện nhằm thực hiện, đảm bảo cho sự ủy quyền đó phải
được bắt đầu từ cơ sở mà nhân dân là chủ thể. Bởi vì theo Bác "Nước ta là nước dân
chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Nói tóm lại,
quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân" [34, tr.452]. Dân có quyền làm chủ, đồng
thời có nghĩa vụ của người chủ. Do cơ sở là nơi gắn liền với dân chúng, gắn liền với
việc làm và đời sống hằng ngày của họ; là nơi thể chế được dân trực tiếp tổ chức
nên và thường xuyên tiếp xúc, đề bạt nguyện vọng, yêu cầu của mình với những
người đại diện cho mình. Đồng thời, dân cũng có điều kiện biết rõ sự hoạt động của
thể chế, của con người và tổ chức bộ máy, mặt hay, mặt dở, mặt tốt cũng như mặt xấu
với những khuyết tật của nó... Do đó, quan hệ và thái độ của dân đối với thể chế ở cơ
sở cho thấy rõ nhất hiện trạng của thể chế. Những yếu kém diễn ra trong thể chế ở cơ
sở làm ảnh hưởng đến sự phát triển chung của xã hội. Những phản ứng, bất bình của
dân đối với cán bộ cơ sở là khởi đầu cho những mất ổn định, thậm chí trở thành tình
huống, thành điểm nóng ảnh hưởng tới sự bình yên của chế độ nói chung. Do vậy, mấu
chốt của cơ sở là chất lượng cán bộ, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị sao cho
giữ được dân, làm cho dân yên ổn, phấn khởi làm ăn, sinh sống, liên kết cộng đồng,
quan tâm và bảo vệ thể chế, phát triển xã hội, phát triển sức dân.
Thứ ba, cơ sở là cấp thấp nhất, cấp cuối cùng trong cấp độ quản lý, nhưng
chính cơ sở lại là tầng sâu nhất, là địa chỉ quan trọng cuối cùng và quyết định mà
mọi chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước phải tìm
đến và được cụ thể hóa.
Chủ trương, đường lối, nghị quyết có đi vào cuộc sống thực sự hay không
phải được nhận biết ở chỗ dân có thấu hiểu và tin tưởng hay không, dân có được tổ
chức hành động trong các phong trào rộng khắp để biến khả năng thành hiện thực
hay không. Đường lối, chính sách có tác dụng, hiệu quả đến đâu, đúng sai ra sao,
được chứng thực bởi cuộc sống, thái độ, niềm tin, hành động thực tế của dân chúng.
Cơ sở là nơi ý dân, lòng dân, quyết tâm và tài trí sáng tạo của dân; sự đoàn
kết nhất trí giữa cán bộ với dân chúng, giữa những đại diện được dân ủy quyền với
toàn thể cộng đồng dân chúng thể hiện rõ nét nhất. Vì vậy, cơ sở và hệ thống chính
trị cơ sở có vững mạnh, trong sạch thì mới có động lực cho dân hành động vì mục

19


đích chung. Hành động của dân vừa là lao động cần mẫn, sáng tạo góp phần vào sự
phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, vừa kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của tổ
chức và cán bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể, đảm bảo cho mọi việc thực hiện sự ủy
quyền không bị biến dạng, không gây tổn hại tới quyền và lợi ích của dân.
Thứ tư, cơ sở không phải là cấp hoạch định đường lối, chính sách, mà là cấp
hành động, tổ chức hành động, đưa đường lối, nghị quyết, chính sách vào cuộc sống.
Là cấp gần nhất với thực tiễn và trực tiếp nhất với cuộc sống của dân nên cơ
sở là cấp tổ chức triển khai, thực hiện nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước; đảm bảo một cách thiết thực nhất những yêu cầu an sinh và an ninh
cho dân, cho sự phát triển cộng đồng. Thước đo hiệu quả hoạt động của hệ thống
chính trị cơ sở, phẩm chất và năng lực của cán bộ cơ sở là không ngừng nâng cao
dân sinh, dân trí, dân chủ của dân; thực hiện và phát huy tối đa quyền làm chủ của
nhân dân; tổ chức tốt và ngày càng tốt hơn đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần cho
dân cư trong cộng đồng. Là cấp trực tiếp hành động, chỉ đạo thực hiện đường lối,
chính sách, nghị quyết, cơ sở và cán bộ cơ sở phải gần dân, hiểu dân, sát dân; năng
lực của cán bộ cơ sở phải là năng lực thực hành, tổ chức công việc và thường xuyên
giáo dục, tuyên truyền, vận động quần chúng. Tránh xa quan liêu hành chính, thói
mệnh lệnh áp đặt, nói suông, bàn suông, xa rời thực tiễn, thoát ly các công việc cụ
thể, dẫn tới xa dân, cách biệt dân chúng.
Bằng tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên mà thuyết phục, lôi
cuốn và thúc đẩy mọi người, mọi nhà làm việc tốt, ích nước, lợi nhà, dân giàu, nước
mạnh... Điều ấy đòi hỏi sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, năng lực quản lý tốt
của chính quyền, tính chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong
hệ thống chính trị cơ sở. Đặc biệt, cán bộ cơ sở phải thực sự có thái độ, trách nhiệm,
tận tụy, công tâm, thạo việc, liêm khiết, vừa có đức vừa có tài, thấm nhuần lý luận với
thực tiễn, sáng tạo một cách thiết thực, biết rõ phương hướng hành động, có bản lĩnh
dám chịu trách nhiệm, có phương pháp và phong cách dân vận "Óc nghĩ, mắt nhìn,

miệng nói, tai nghe, chân đi, tay làm" [32, tr.699] như Hồ Chí Minh đã dạy. Biết làm
cho dân tin, dân ủng hộ; biết tập hợp dân thành lực lượng lớn hoạt động trong
phong trào; đem tài dân, sức dân để phục vụ dân, làm lợi cho dân, mưu cầu hạnh
phúc cho dân, đó là tất cả những gì mà cán bộ cơ sở cần có.

20


×