Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Hệ thống chính trị cơ sở với việc thực hiện chính sách tôn giáo của đảng và nhà nước ta tại tỉnh hà tĩnh trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (713.78 KB, 105 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------

PHAN CÔNG CHÍNH

HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ VỚI VIỆC
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG
VÀ NHÀ NƢỚC TA TẠI TỈNH HÀ TĨNH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Chính trị học

Hà Nội – 2013

i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------

PHAN CÔNG CHÍNH

HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ VỚI VIỆC
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG
VÀ NHÀ NƢỚC TA TẠI TỈNH HÀ TĨNH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học


Mã số: 60 31 02 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TS. Đỗ Quang Hƣng

Hà Nội – 2013

ii


MỤC LỤC

Mở đầu

Trang

1. Tính cấp thiết của đề tài

1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

3

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

5

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

5


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

6

6. Ý nghĩa của luận văn

6

7. Kết cấu của luận văn

7

Chƣơng 1:
Hệ thống chính trị cơ sở thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước
tại tỉnh Hà Tĩnh

8

1.1. Chính sách tôn giáo và thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà
nước

8

1.1.1. Đảng và Nhà nước đề ra chính sách tôn giáo

8

1.1.2. Thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay


15

1.2. Hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Hà Tĩnh thực hiện chính sách tôn giáo của
Đảng và Nhà nước

21

1.2.1. Khái niệm, chức năng của hệ thống chính trị cơ sở

21

1.2.2. Đặc điểm của hệ thống chính trị cơ sở Hà Tĩnh

25

1.2.3. Hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Hà Tĩnh thực hiện chính sách tôn giáo của

29

Đảng, Nhà nước
Tiểu kết chương 1

37

iii


Chƣơng 2:
Hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Hà Tĩnh thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng,
Nhà nước thực trạng và giải pháp


38

2.1. Hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Hà Tinh thực hiện chính sách tôn giáo của

38

Đảng, Nhà nước
2.1.1. Thực hiện vai trò của hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Hà Tĩnh thực hiện

43

chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước
2.1.2. Hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Hà Tĩnh thực hiện chính sách tôn giáo của

65

Đảng, Nhà nước hạn chế và nguyên nhân
2.2. Một số giải pháp cơ bản phát huy vai trò hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Hà

78

Tĩnh thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước hiện nay
2.2.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của hệ thống chính trị cơ sở thực hiện
chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước

79

2.2.2. Thường xuyên củng cố xây dựng hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Hà Tĩnh
trong sạch vững mạnh đáp ứng yêu cầu thực hiện tốt chính sách tôn giáo của

Đảng, Nhà nước

84

2.2.3. Tiếp tục đổi mới nội dung phương pháp thực hiện chính sách tôn giáo
của Đảng và Nhà nước của hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay

90

Tiểu kết chương 2

95

Kết luận

96

Danh mục tài liệu tham khảo

98

iv


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ

CHỮ VIẾT TẮT

Chính sách tôn giáo


CSTG

Chính trị quốc gia

CTQG

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CNH, HĐH

Hệ thống chính trị

HTCT

Hệ thống chính trị cơ sở

HTCTCS

Kế hoạch hoá gia đình

KHHGĐ

Nhà xuất bản

Nxb


Vườn - ao - chuồng - ruộng

VACR

Trung học cơ sở

THCS

Trung học phổ thông

THPT

Hợp tác xã

HTX

Chứng nhận quyền sử dụng

CNQSD

Ủy ban nhân dân

UBND

Mặt trận tổ quốc

MTTQ

Thanh niên


TN

Cựu chiến binh

CCB

Liên đoàn Lao động

LĐLĐ

v


A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tín ngưỡng tôn giáo là một vấn đề hết sức nhạy cảm và phức tạp trong đời
sống chính trị trên phạm vi thế giới cũng như ở nhiều quốc gia dân tộc. Để đáp
ứng nhu cầu tôn giáo cuả một bộ phận quần chúng nhân dân, bất cứ một Nhà nước
nào, tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể, cũng định ra một thái độ ứng xử với tôn
giáo, đó là chính sách tôn giáo.
Việt nam là một quốc gia đa tôn giáo, chỉ tính riêng 6 tôn giáo lớn đã có
hàng triệu tín đồ, ngoài ra còn hàng chục triệu người khác vẫn giữ những tín
ngưỡng dân gian, truyền thống hoặc hình thức tín ngưỡng nguyên thuỷ. Hoạt động
tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng, tình cảm, phong
tục tập quán của đông đảo quần chúng có đạo và tác động đến mọi lĩnh vực đời
sống xã hội. Cho nên, vấn đề tôn giáo ở nước ta qua các giai đoạn cách mạng luôn
là vấn đề chiến lược có tầm quan trọng đặc biệt. Chính sách tôn giáo là một bộ
phận rất quan trong trong hệ thống chính sách của Đảng, tác động trực tiếp đến các
nhân tố xã hội, đến cộng đồng đồng bào có đạo, đến nhân tố con người nhằm giải

quyết hợp lý nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của quần chúng, tạo nên sức mạnh tổng
hợp của khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN, đồng thời kiên quyết đấu tranh chống sự lợi dụng tôn giáo của
các thế lực thù địch để phá hoại sự nghiệp cách mạng nước ta.
Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn khẳng định tầm quan trọng của khối đại
đoàn kết toàn dân đối với sự nghiệp cách mạng nước ta. Trong suốt quá trình lãnh
đạo, chỉ đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn đứng vững trên
lập trường Chủ nghĩa Mác - Lênin để đề ra những chủ trương, đường lối, chính
sách đúng đắn giải quyết vấn đề tôn giáo có kết quả trong thực tiễn. Chính sách
tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta luôn được bổ sung, phát triển, từng bước hoàn
thiện, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tạo sức mạnh tổng hợp dành
thắng lợi trong mọi thời kỳ cách mạng.
1


Từ năm 1986 đến nay, thực hiện quan điểm: đoàn kết lương - giáo; hoà hợp
dân tộc; tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân vì mục tiêu
“tốt đời, đẹp đạo” Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách
nhằm không ngừng cải thiện và từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của đồng bào có đạo. Kinh tế - xã hội, văn hoá ở vùng đồng bào có đạo có bước
phát triển mạnh mẽ, đồng bào có đạo có cuộc sống ngày càng ấm no, tiến bộ.
Những thành tựu đó góp phần quan trọng vào sự ổn định chính trị xã hội đất nước,
tạo môi trường thuận lợi đẩy mạnh CNH, HĐH vì mục tiêu độc lập dân tộc và
CNXH.
Ngày nay, trong thời kỳ đổi mới, căn cứ vào Nghị quyết Đại hội đại biểu
Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), Đại hội VII (1991), Đại hội VIII (1996), Đại
hội IX (2001), Đại hội lần thứ X (2006), Đại hội lần thứ XI (2011), các Nghị
quyết, Chỉ thị của Bộ Chính trị, Nghị định của Chính phủ, Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh
luôn xác định công tác tôn giáo là nhiệm vụ chính trị thường xuyên và đặc biệt
quan trọng của toàn HTCT nói chung và HTCTCS nói riêng tổ chức thực hiện chủ

trương, chính sách về công tác tôn giáo của Đảng và Nhà nước
Hà Tĩnh là một tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung bộ có toạ độ địa lý từ
17053'50'' đến 18045'40'' vĩ độ Bắc và 105005'50'' đến 106o30'20'' kinh độ Đông có
diện tích đất tự nhiên 6.019 km2, dân số 1.289.058 người; phía Bắc giáp tỉnh Nghệ
An, phía Nam giáp tỉnh Quảng Bình, phía Đông giáp biển Đông với 137km bờ
biển, phía Tây giáp nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào với 145km đường biên
giới; có 12 huyện, thành phố, thị xã, có đường Quốc lộ 1A, 8A, đường Hồ Chí
Minh và đường sắt Bắc Nam đi qua; có nhiều cảng, cửa sông thuận lợi cho giao
thông đường bộ, đường thủy để phát triển kinh tế xã hội. Tỉnh Hà Tĩnh có nhiều tôn
giáo: Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, các tôn giáo chiếm hơn 12 % dân số toàn tỉnh,
cá biệt có một số xã tôn giáo toàn tòng. Mấy năm gần đây, các tôn giáo ở địa bàn tỉnh
hoạt động có nhiều diễn biến phức tạp, tình trạng phát triển tín đồ không bình thường
2


ở Đạo Công giáo; hiện tượng đòi lại đất đai cơi nới cơ sở vật chất nơi thờ tự, cùng với
các hoạt động lễ hội, từ thiện nhân đạo xã hội đang gia tăng…ảnh hưởng nhất định
đến mọi mặt của đời sống xã hội; các thế lực thù địch luôn lợi dụng tôn giáo để chống
phá cách mạng và sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã làm cho vấn đề tôn giáo càng thêm
phức tạp.
Nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng đó, thời gian qua HTCTCS tỉnh Hà
Tĩnh đã triển khai và thực hiện tốt CSTG của Đảng và Nhà nước, góp phần giữ
vững ổn định tình hình chính trị - xã hội trên địa bàn, tạo bước phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân cũng như đồng bào tín
đồ các tôn giáo.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện chính sách tôn giáo, còn nhiều hạn chế,
nhất là phát triển kinh tế - xã hội trong địa bàn đồng bào có đạo. Đời sống của một
bộ phận đồng bào có đạo còn nhiều khó khăn, đời sống vật chất, tinh thần chưa
được nâng lên ngang tầm với yêu cầu phát triển. Sự chỉ đạo của các cấp, các ngành
còn nhiều hạn chế, đầu tư cho công tác tôn giáo thiếu đồng bộ và vững chắc. Các
thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo để thực hiện âm mưu chia rẽ khối đại

đoàn kết thống nhất, hòng gây rối làm mất ổn định chính trị, xã hội, ảnh hưởng
đến đời sống kinh tế - xã hội, văn hoá của nhân dân
Với những lý do trên tác giả chọn đề tài “Hệ thống chính trị cơ sở với việc
thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta tại Hà Tĩnh trong giao
đoạn hiện nay” làm luận văn thạc sĩ Chính trị, chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu
HTCTCS nói riêng HTCT nói chung và vai trò của nó là vấn đề đã được
Đảng, Nhà nước và các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Đảng ta đã đề cập vấn
đề này trong các văn kiện Đại hội Đảng. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành trung ương khóa IX, (2001), lần đầu tiên Đảng ta đã ra một Nghị quyết
chuyên đề về HTCTCS. Các nhà khoa học đã đề cập tới những vấn đề này ở các
3


góc độ khác nhau như: Bộ Nội vụ, Viện Nghiên cứu khoa học tổ chức Nhà nước,
Hệ thống chính trị cơ sở thực trạng và một số giải pháp đổi mới, do tiến sỹ Chu
Văn Thành (chủ biên), Nxb CTQG, Hà Nội. 2004; Vũ Hoàng Công (2002), Hệ
thống chính trị cơ sở đặc điểm, xu hướng và giải pháp, Nxb CTQG, Hà Nội;
Nguyễn Quốc Phẩm (chủ biên), Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ hóa đời
sống xã hội nông dân miền núi vùng dân tộc thiểu số, của Nxb CTQG, Hà Nội.
2002.
Chính sách tôn giáo cũng luôn được Đảng, Nhà nước ta xác định rõ và ngày
càng hoàn thiện, thể hiện nhất quán trong các văn kiện của Đảng. Trong thời kỳ đổi
mới, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (1990) đã ra Nghị quyết
chuyên đề: Nghị quyết về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới, Số 24 NQ/TW, ngày 16/10/1990. Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VI (1990), đã cụ thể
hoá bằng Chỉ thị về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới, Số 66 CT/TW
ngày 26/10/1990. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chỉ thị về công tác
tôn giáo trong tình hình mới, Số 37 - CTTW, Hà Nội. 1998; Các quan điểm cơ bản đó
được pháp luật hóa trong “Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo”, năm 2004. “Bước đầu
tìm hiểu mối quan hệ giữa Nhà nước và Giáo hội” (GS.TS. Đỗ Quang Hưng, Nxb

Tôn giáo, 2003) “Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam lý luận và thực tiễn”
(GS.TS. Đỗ Quang Hưng, Nxb Lý luận chính trị Hà Nội, năm 2008).
Nhiều nhà khoa học, nhà quản lý xã hội cũng đã quan tâm đến lĩnh vực này:
“Thực hiện tốt chính sách tôn giáo của Đảng nhằm củng cố tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân” của Nguyễn Văn Ngọc, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 9 năm 2001;
“Nghiên cứu tôn giáo trong bối cảnh thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân và
công tác tôn giáo ở thời kỳ mới” của Trịnh Xuân Giới, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo,
số 4 năm 2004; “Những âm mưu lợi dụng tôn giáo và vấn đề dân tộc chống lại sự
nghiệp cách mạng nước ta hiện nay” của Lê Bỉnh, Tạp chí Cộng sản, số 10, tháng 5
năm 2004.
4


Những công trình khoa học trên đã phân tích khá sâu sắc về đặc điểm, cấu trúc,
vai trò của từng thành tố trong HTCTCS; xu hướng vận động, giải pháp xây dựng
HTCTCS; đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau tới việc thực hiện CSTG của Đảng và
Nhà nước ta, xây dựng khối đoàn kết lương - giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân,
khơi dậy và phát huy vai trò của đồng bào tín đồ các tôn giáo, nhằm thực hiện thắng
lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước vì dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng văn minh.
Nhưng đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện
và có hệ thống về HTCTCS với việc thực hiện CSTG của Đảng và Nhà nước ở tỉnh
Hà Tĩnh hiện nay. Vì vậy, đề tài luận văn không trùng lặp với các công trình khoa
học đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của HTCTCS với
việc thực hiện CSTG của Đảng và Nhà nước ta, tại Hà Tĩnh từ đó đề xuất một số giải
pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò đó trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ

- Làm rõ cơ sở lý luận về vai trò, nhiệm vụ HTCTCS tỉnh Hà Tĩnh trong thực
hiện CSTG của Đảng và Nhà nước.
- Phân tích thực trạng thực hiện vai trò HTCTCS tỉnh Hà Tĩnh với việc thực
hiện CSTG của Đảng và Nhà nước hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò HTCTCS với việc
thực hiện CSTG của Đảng và Nhà nước ta ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Phát huy vai trò HTCTCS tỉnh Hà Tĩnh với việc thực hiện CSTG của Đảng,
Nhà nước hiện nay.
5


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu khảo sát thực trạng vai trò HTCTCS với việc thực hiện CSTG của
Đảng và Nhà nước ở một số xã, phường, thị trấn tỉnh Hà Tĩnh .
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về HTCT; vai trò của HTCTCS; về
tôn giáo; vai trò của HTCTCS đối với việc thực hiện CSTG của Đảng, Nhà nước.
5.2. Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn thực hiện CSTG của HTCTCS tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay
qua nghiên cứu, điều tra của tác giả và qua kế thừa các tư liệu, kết quả khảo sát, điều
tra của các tác giả khác liên quan đến vấn đề này.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản như: phương pháp
hệ thống, phân tích, tổng hợp, lôgíc kết hợp với lịch sử, thống kê, so sánh, khảo sát
thực tiễn, và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài

Luận văn góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn về vai trò của
HTCTCS tỉnh Hà Tĩnh với việc thực hiện CSTG của Đảng, Nhà nước nhằm phát huy
vai trò đó trong giai đoạn hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu, giảng dạy ở các trường trong và ngoài tỉnh; làm tài liệu tham khảo cho
đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo các cấp hiện nay.

6


7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục luận văn
được kết cấu 2 chương và 4 tiết.
Chương 1. Hệ thống chính trị cơ sở thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng và
Nhà nước tại tỉnh Hà Tĩnh
Chương 2. Hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Hà Tĩnh thực hiện chính sách tôn giáo
của Đảng, Nhà nước thực trạng và giải pháp

7


B. NỘI DUNG
Chƣơng 1
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO
CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƢỚC TẠI TỈNH HÀ TĨNH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆNNAY
1.1. Chính sách tôn giáo và thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà
nƣớc ta
1.1.1. Đảng, Nhà nước ta đề ra Chính sách tôn giáo
CSTG của Đảng, Nhà nước ta là một hệ thống các chủ trương, sách lược, kế

hoạch và biện pháp cụ thể của Đảng và Nhà nước nhằm chỉ đạo toàn bộ HTCT,
cũng như mỗi công dân trong giải quyết, xử lý vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo phục
vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN một cách khoa
học, đạt hiệu quả cao.
CSTG của Đảng, Nhà nước ta là kết quả của sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo và công tác
tôn giáo, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể ở nước ta.
Nội dung cơ bản của CSTG được thể hiện trong các văn kiện của Đảng,
được Nhà nước thể chế hóa trong Hiến pháp, pháp luật, trong Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo, ban hành năm 2004, với các nội dung cơ bản sau:
Một tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín
ngưỡng, tôn giáo của công dân. Mọi công dân đều bình đẳng về nghĩa vụ và quyền
lợi trước pháp luật, không phân biệt giữa người theo đạo và người không theo đạo,
cũng như giữa những người theo các tôn giáo khác nhau.
Đây là quan điểm nhất quán của Đảng ta, chi phối các chủ trương, chính
sách cụ thể của Đảng, Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. Hiến pháp nước Việt
Nam dân chủ Cộng hòa năm 1946, Điều 10 năm 1959 và Điều 68 năm 1980, năm

8


1992 quy định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một
tôn giáo nào, không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách
của Nhà nước [17, tr.10, 39].
Điều 1 Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo quy định rõ hơn: “Công dân có quyền
tự do tín ngưỡng tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Không ai được xâm phạm quyền tự
do ấy. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, công dân có tín ngưỡng, tôn giáo
khác nhau phải tôn trọng lẫn nhau” [26, tr. 59].
Nội dung cơ bản của tự do tín ngưỡng, tôn giáo thể hiện trên những vấn đề chủ

yếu đó là:
- Công dân có quyền tự do theo hoặc không theo một tôn giáo nào
Đây là nội dung cơ bản nhất của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, do đó mọi
người đều có quyền lựa chọn theo một tôn giáo cụ thể nào đó, quyền thay đổi tôn
giáo và quyền không theo hoặc từ bỏ tôn giáo mà mình theo. Công dân có quyền tự
do hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo như thờ cúng tổ tiên, tưởng niệm và tôn vinh
những người có công với đất nước với dân tộc, với cộng đồng, thờ cúng thần thánh,
những biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác.
Mọi công dân theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo đều bình đẳng trước
pháp luật, được hưởng đầy đủ các quyền công dân và phải làm tròn nghĩa vụ đối với
Tổ quốc. Các tổ chức, các cơ sở tôn giáo, các tín đồ, chức sắc các tôn giáo có quyền
sinh hoạt tôn giáo theo giáo lý, giáo luật và lễ nghi tôn giáo mà mình theo. Công dân
thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nhưng không cản trở việc thực hiện
nghĩa vụ công dân đối với Tổ quốc; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phải theo đúng
quy định của pháp luật. Không được lợi dụng tôn giáo để hoạt động mê tín dị
đoan, không được ép buộc người dân theo đạo,
Tự do tín ngưỡng, tôn giáo không có nghĩa là hoạt động tôn giáo nằm ngoài
khuôn khổ pháp luật, đi ngược lại lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân; cũng không
9


có nghĩa là lợi dụng tôn giáo phá hoại cách mạng. Đây là một quyền cơ bản của
con người, cần phải được tôn trọng và bảo vệ không chỉ trong Hiến pháp, mà cả
trong thực tiễn cuộc sống. Vì vậy, trong khi thực hiện nhất quán chính sách “tự do
tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng” phải kiên quyết đấu tranh chống mọi sự lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo phá hoại cách mạng. Người có tín ngưỡng, tôn giáo và
người không có tín ngưỡng, tôn giáo phải tôn trọng lẫn nhau, không ai được quyền
xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Tín đồ và các chức sắc tôn giáo không tuyên truyền lôi kéo, công kích chống
đối lẫn nhau. Mọi người đều phải tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người

khác; nghiêm cấm mọi biểu hiện lôi kéo, áp đặt, vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của nhân dân. “Trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, người có tín ngưỡng, tín
đồ có trách nhiệm tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không
tín ngưỡng, tôn giáo của người khác” [17, tr. 15 - 16].
- Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo Pháp
luật.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân phải được Nhà nước bảo
đảm bằng pháp luật. Vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; lợi dụng quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo để gây rối làm mất ổn định chính trị xã hội, phá hoại khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá cách mạng, chống đối chế độ là vi phạm pháp
luật phải bị pháp luật Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam xử lý.
Điều 70 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, quy
định: “Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tôn giáo
được pháp luật bảo hộ. Không ai xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái
pháp luật và chính sách của Nhà nước” [17, tr. 159].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX
nêu rõ: “Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp
luật... nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tôn giáo” [14, tr. 48].
10


Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật là một chính sách cơ bản của
Đảng, Nhà nước ta về tôn giáo và đối với vấn đề về tôn giáo trong một đất nước đang
trong quá trình xây dựng CNXH, có nhiều tôn giáo và nhiều người có tín ngưỡng, tôn
giáo.
Hai đoàn kết gắn bó đồng bào theo các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn
dân.
Đây là quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Đảng, Nhà nước ta đặc
biệt quan tâm, không ngừng vun đắp, củng cố, tăng cường khối đoàn kết giữa
đồng bào theo các tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo, giữa đồng bào theo

các tôn giáo khác nhau. Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành trung ương khóa IX
Đảng ta chỉ ra: Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn
dân tộc, đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo, đoàn
kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau. Trong giai đoạn hiện nay khối đại đoàn
kết ấy là động lực chủ yếu của sự nghiệp đổi mới đất nước, của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Đoàn kết phải trên cơ sở lợi ích quốc gia dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng đã từng nêu rõ: “Trong khi thực dân Pháp và can thiệp Mỹ tìm mọi cách chia
rẽ lương giáo, hòng cướp nước ta, thì việc đoàn kết toàn dân, đoàn kết lương giáo
để cứu nước, cứu dân là vô cùng cần thiết” [23, tr. 559]. Hiện nay trong công cuộc
đổi mới đất nước và Hội nhập kinh tế Quốc tế và nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, đoàn kết lương - giáo phải lấy mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn minh” làm điểm tương đồng.
Đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo cũng như đồng bào không có tín ngưỡng,
tôn giáo đều phải tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với
lợi ích của dân tộc; xóa bỏ những mặc cảm, tự ti, định kiến hoặc phân biệt đối xử; xây
dựng tinh thần cởi mở, tin tưởng lẫn nhau, có trách nhiệm chung sức, chung lòng
đoàn kết gắn bó với nhau, ra sức củng cố, xây dựng và tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc.
11


Thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân phải đi đôi với việc đấu tranh
chống những hành động chia rẽ, làm suy yếu khối đoàn kết dân tộc. Đây là vấn đề
có tính nguyên tắc trong quan điểm CSTG của Đảng và Nhà nước ta. Cần phân
biệt rõ hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo lành mạnh của nhân dân với thủ đoạn lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá CNXH… Mọi biểu hiện nóng vội, chủ
quan hoặc giản đơn trong giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo đều có thể dẫn
đến nguy cơ chia rẽ, làm rạn nứt khối đoàn kết thống nhất dân tộc, suy yếu sức
mạnh quốc gia.

Vì vậy, phải thường xuyên tuyên truyền, giáo dục cho chức sắc, tín đồ các tôn
giáo hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, góp phần nâng cao cảnh giác
cách mạng, tạo ra khả năng nâng cao cảnh giác cho đồng bào, đồng thời tích cực đấu
tranh làm thất bại âm mưu phá hoại của chúng.
Ba mọi tín đồ được tự do tham gia các hình thức sinh hoạt theo lễ nghi tôn
giáo nhưng phải làm tròn nghĩa vụ công dân
Mọi tín đồ và chức sắc tôn giáo thực hiện tốt những yêu cầu về giáo lý, giáo
luật, lễ nghi và những quy định của các tổ chức tôn giáo mà mình theo đã được Nhà
nước công nhận và cho phép hoạt động. Người tham gia hoạt động tín ngưỡng, tôn
giáo phải tôn trọng những quy định của cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo, của lễ hội và
hương ước, quy ước của cộng đồng. Nhưng tự do tín ngưỡng, tôn giáo cũng không có
nghĩa là hoạt động của tôn giáo nằm ngoài khuôn khổ pháp luật, đi ngược lại lợi ích
của Tổ quốc, của nhân dân; không có nghĩa là lợi dụng tôn giáo để phá hoại cách
mạng. “Đồng bào theo đạo và các vị chức sắc tôn giáo có nghĩa vụ làm tròn trách
nhiệm công dân đối với Tổ quốc, sống “tốt đời, đẹp đạo” [3, tr. 12].
Với tư cách là một công dân, đồng bào tín đồ, chức sắc các tôn giáo phải thực
hiện tốt trách nhiệm, nghĩa vụ của một công dân đối với đất nước. “Tốt đời đẹp đạo”,
“Phúc âm giữa lòng dân tộc” phải là phương châm cơ bản, chi phối các hoạt động của
tất cả tổ chức, chức sắc và tín đồ các tôn giáo. Khi nào tín đồ các tôn giáo còn đứng
12


ngoài cuộc, thờ ơ, thiếu trách nhiệm với đất nước, còn coi sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc là nhiệm vụ riêng của chính quyền, của những người không tín ngưỡng,
tôn giáo, thì khi đó người có tín ngưỡng, tôn giáo còn chưa làm tròn bổn phận của
một công dân đối với đất nước.
Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã chỉ rõ
nhiệm vụ của công tác tôn giáo là phải: đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước,
xây dựng cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo” trong quần chúng tín đồ, chức sắc, nhà tu
hành; động viên đồng bào thực hiện tốt yêu cầu của một tín đồ đối với tôn giáo và

đồng thời phải làm tròn bổn phận của một công dân đối với đất nước; làm cho các
tôn giáo gắn bó với dân tộc, với đất nước và CNXH hăng hái thi đua xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Bốn những hoạt động tôn giáo ích nước, lợi dân phù hợp với nguyện vọng và lợi
ích chính đáng, hợp pháp của các tín đồ được bảo đảm; những giá trị văn hóa, đạo đức
tốt đẹp của các tôn giáo được tôn trọng và khuyến khích phát huy.
Đó là quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Xét về mặt lịch sử, các
đức tin tôn giáo xuất hiện đều có mục tiêu hướng tới những mong muốn tốt đẹp về
con người có thể sống hòa đồng với nhau, cùng nhau xây dựng cuộc sống hạnh
phúc. Trong giáo lý, giáo luật của các tôn giáo đều có những nội dung giới răn
hướng thiện, trị ác có những giá trị nhân văn vì cuộc sống của cá nhân, của cộng
đồng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận xét: Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là
sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo của chúa Giêsu có ưu điểm là lòng nhân ái
cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp biện chứng. Chủ nghĩa Tôn
Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng
Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải có những ưu điểm chung đó sao. Họ đều
muốn mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội, nếu hôm nay
họ còn sống trên đời này, nếu họ họp lại một chỗ, tôi tin chắc rằng nhất định họ sẽ
chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết.
13


Thực tế trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của
Đảng cho thấy đồng bào các tôn giáo đã có những đóng góp tích cực vào công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhìn chung, các tổ chức tôn giáo được Nhà
nước công nhận đã hoạt động theo pháp luật, xây dựng được đường hướng hành
đạo gắn bó với dân tộc, sống “phúc âm giữa lòng dân tộc”; “đạo pháp, dân tộc và
CNXH”, tập hợp được đông đảo tín đồ, chức sắc các tôn giáo trong khối đại đoàn
kết toàn dân.
Đảng, Nhà nước ta thực hiện nhất quán chính sách giữ gìn và phát huy những

giá trị tích cực về đạo đức, văn hóa của tôn giáo; khuyến khích những hoạt động xã
hội - từ thiện của tín đồ, chức sắc và các tổ chức tôn giáo như các hoạt động: xóa đói,
giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, cứu trợ, cứu hộ thiên tai, khám, chữa bệnh miễn phí,
mở các lớp học tình thương... là đúng đắn, hợp lòng dân, đem lại sự đồng thuận trong
xã hội.
Năm chống mọi hành vi lợi dụng tôn giáo để phá hoại chính sách đại đoàn kết
dân tộc, làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân
Đi đôi với tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, Đảng và
Nhà nước ta khẳng định: Nghiêm cấm những hoạt động “lợi dụng quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước, kích
động bạo lực, hoặc tuyên truyền trái với pháp luật, chủ trương chính sách của
Nhà nước, chia rẽ nhân dân, chia rẽ dân tộc, gây rối trật tự công cộng, xâm hại
đến tính mạng, sức khỏe nhân dân, danh dự, tài sản của người khác, cản trở việc
thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân, hoạt động mê tín dị đoan” [26, tr. 9,10].
Thực tế vẫn còn một số tín đồ, chức sắc các tôn giáo, do nhẹ dạ cả tin, mất
cảnh giác nên bị các thế lực thù địch lợi dụng hòng gây chia rẽ, làm mất đoàn kết;
ở một số nơi, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, một số người đã lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để tiến hành những hoạt động chống đối, kích động tín đồ, chức
sắc nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, gây mất ổn định chính trị. Tình hình
14


đó không những ảnh hưởng tiêu cực đến sự nghiệp cách mạng, đến sinh hoạt tôn
giáo lành mạnh của nhân dân.
Vì vậy, đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo chia rẽ khối đoàn kết toàn dân, chống
phá cách mạng là một nhiệm vụ thường xuyên không thể coi thường của cả HTCT và
của đồng bào tín đồ các tôn giáo.
1.1.2. Thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta hiện nay
Thực hiện CSTG của Đảng, Nhà nước là quá trình hiện thực hoá chính sách
đó vào trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội; trong đó HTCT có vai trò lãnh đạo, chỉ

đạo, tổ chức nhân dân thực hiện. Như vậy, thực hiện CSTG của Đảng và Nhà nước
là toàn bộ hoạt động của HTCT lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức nhân dân quán triệt và
thực thi quan điểm, chính sách tôn giáo nhằm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo góp phần tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN.
Thứ nhất HTCTCS thực hiện CSTG của Đảng, Nhà nước ta được thể hiện
thông qua vai trò chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức nhân dân thực hiện CSTG đó là
toàn bộ HTCT. “Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả HTCT do Đảng lãnh đạo”
[3, tr. 123].
Tổ chức Đảng các cấp: thường xuyên có những chủ trương, chính sách đúng
đắn về tôn giáo và công tác tôn giáo, đồng thời phải xác định rõ những giải pháp
khả thi để giải quyết phù hợp những nhu cầu tự do tín ngưỡng, tôn giáo của một bộ
phận quần chúng nhân dân, lãnh đạo, kiểm tra việc tổ chức thực hiện những chủ
trương chính sách đó đạt hiệu quả.
Có kế hoạch lãnh đạo, chỉ đạo, đề ra các quan điểm, chủ trương, biện pháp cụ
thể, thích hợp và đồng thời tổ chức tuyên truyền, giáo dục sâu rộng, liên tục trong
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, nhất là những cơ quan, những cán bộ chuyên trách
làm công tác tôn giáo và đồng bào tín đồ, chức sắc các tôn giáo về những chủ trương
15


chính sách của Đảng, Nhà nước ta. Làm cho mọi người có nhận thức đầy đủ, đúng
đắn về CSTG của Đảng, Nhà nước.
Chính quyền các cấp: cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương, chính sách của
Đảng thành hệ thống pháp luật của Nhà nước nhằm tổ chức thực hiện đạt hiệu quả
những quan điểm, chủ trương, chính sách đó, và đồng thời quản lý tốt mọi hoạt
động của tôn giáo trên địa bàn theo pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho tín đồ,
chức sắc các tôn giáo hoạt động; kiên quyết xử lý mọi hành vi lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để làm mất trật tự an toàn xã hội, làm phương hại đến độc lập

dân tộc, phá hoại chính sách đại đoàn kết toàn dân, chống lại Nhà nước, gây tổn
hại đến đạo đức, lối sống, truyền thống văn hóa của dân tộc, ngăn cản tín đồ, chức
sắc các tôn giáo thực hiện nghĩa vụ công dân.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trực tiếp tuyên truyền vận động
quần chúng nhân dân, cũng như đồng bào tín đồ, chức sắc các tôn giáo thực hiện
đúng đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân, trong đó có đoàn kết lương - giáo, và đoàn kết giữa các tôn giáo.
Động viên tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, phát huy những mặt tương đồng,
những truyền thống tốt đẹp của các tôn giáo, cùng toàn dân phấn đấu thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn minh.
Thứ hai, thực hiện CSTG của Đảng, Nhà nước ta hiện nay là nhằm đạt tới mục
tiêu: tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn minh.
Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của nhân dân ta, là động lực chủ
yếu sự phát triển của dân tộc ta. Đồng bào có đạo trước hết là người Việt Nam, ở
họ có tình yêu quê hương, yêu đất nước, lòng tự hào và ý thức dân tộc sâu sắc. Đó
là nền tảng để tập hợp lực lượng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Vì thế, tăng
16


cường đoàn kết và phát huy vai trò của đồng bào các tôn giáo trong xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, là mục tiêu xuyên suốt của việc thực hiện chính
sách tôn giáo ở nước ta hện nay.
Thứ ba các quan điểm thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta tuân
thủ những quan điểm cơ bản là: tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và
quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân quan tâm giải quyết hợp lý nhu
cầu tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, kịp thời đấu tranh chống lại sự lợi dụng tự
do tín ngưỡng, tôn giáo chống phá cách mạng nước ta.

Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và
sẽ tồn tại lâu dài trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta. Nhu cầu đó phải được
bảo đảm. Nhưng các thế lực thù địch lại luôn tìm cách lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo
để chống phá cách mạng, vì vậy đi đôi với việc tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo phải thường xuyên nêu cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm
mưu, thủ đoạn và làm thất bại những lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch.
Thứ tư, thực hiện CSTG của Đảng, Nhà nước ta hiện nay là phải thực hiện tốt
nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo.
Công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng, công tác đối với con
người, thực chất đây là công tác vận động quần chúng cách mạng của Đảng, công tác
đối với đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo, là sự thể hiện mối quan hệ giữa Đảng với
một bộ phận quần chúng trong tiến trình cách mạng XHCN. Mọi hoạt động quản lý
Nhà nước đối với tôn giáo và công tác đấu tranh chống những hành vi lợi dụng tôn
giáo chỉ thành công nếu thực hiện tốt công tác vận động quần chúng.
Công tác tôn giáo nhằm bảo đảm vận động đồng bào theo đạo thực hiện tốt
nghĩa vụ và quyền lợi công dân, sống “tốt đời, đẹp đạo”, góp phần tăng cường và
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, mục
tiêu của cách mạng. Chỉ có làm tốt công tác vận động quần chúng mới tập hợp và
khai thác được tiềm năng, thế mạnh trong đồng bào các tôn giáo để xây dựng và bảo
17


vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo
của các thế lực thù địch.
Thứ năm, thực hiện CSTG của Đảng, Nhà nước ta hiện nay là thực hiện tốt 6
nhiệm vụ cơ bản mà Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa
IX) đã đề ra:
Một là, thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách, và các chương trình
phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, trong
đó có đồng bào tín đồ các tôn giáo.

Đây là nhiệm vụ cơ bản nhất, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối
với nhân dân, trong đó có đồng bào theo tôn giáo. Lợi ích chính đáng của đồng bào
các tôn giáo được bảo đảm, đời sống vật chất, tinh thần không ngừng được cải thiện
và nâng cao là điều kiện căn bản để thực hiện tốt công tác tôn giáo và đấu tranh
chống kẻ địch lợi dụng tôn giáo.
Thực tế hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành
tựu hết sức quan trọng, tạo cơ sở để cải thiện và nâng cao một bước đời sống vật
chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, ở nhiều địa phương, nhất
là ở những vùng nông thôn, miền núi... đời sống của một bộ phận nhân dân vẫn
còn gặp không ít khó khăn, trong đó có đồng bào là tín đồ các tôn giáo. Vì vậy,
cần phải tạo ra những điều kiện thuận lợi để giúp cho đồng bào nâng cao đời sống
vừa làm tốt việc đời, vừa chăm lo việc đạo là nội dung quan trọng của công tác tôn
giáo hiện nay.
Hai là, tạo điều kiện cho các sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo được hoạt động
bình thường theo đúng chính sách và luật pháp của Nhà nước.
Nhiệm vụ này thể hiện chính sách tôn trọng và bảo đảm tự do tín ngưỡng, tôn
giáo. Trên cơ sở coi hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân dân, Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
và tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động trên cơ sở các quy định của pháp luật, để
18


đồng bào vừa tự do chăm lo phần hồn theo lễ nghi tôn giáo, vừa làm tròn nghĩa vụ
của công dân. Đây là trách nhiệm của chính quyền các địa phương và cả hệ thống
chính trị nơi có đồng bào tín ngưỡng, tôn giáo sinh sống.
Tăng cường quản lý Nhà nước về tôn giáo, đảm bảo cho tôn giáo được sinh
hoạt bình thường theo đúng pháp luật, chính là Nhà nước bảo vệ quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, đồng thời thực hiện tốt sự bảo trợ của mình đối với các hoạt động
tôn giáo đúng pháp luật, ngăn chặn các hành động lợi dụng tôn giáo, vi phạm pháp
luật chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch.

Ba là, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, xây dựng cuộc sống “tốt
đời, đẹp đạo” trong quần chúng tín đồ, chức sắc tôn giáo nhằm xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
hầu hết là những người lao động, cần cù, chất phác có lòng yêu quê hương, đất
nước và ý thức tự hào, tự tôn dân tộc. Phát huy tinh thần yêu nước của họ, động
viên họ sống “tốt đời, đẹp đạo”, “kính chúa, yêu nước” “đạo pháp dân tộc và
CNXH” gắn bó với dân tộc là một nhiệm vụ cơ bản trong thực hiện CSTG. Nhiệm
vụ này đòi hỏi quá trình thực hiện CSTG phải có chủ trương, giải pháp để tập hợp,
khai thác tiềm năng sáng tạo của đồng bào tôn giáo thực hiện thắng lợi các phong
trào hành động cách mạng ở địa phương, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN.
Bốn là, phát huy tinh thần yêu nước của đồng bào có đạo, tự giác và
phối hợp đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo của các
thế lực thù địch.
Đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo là một hoạt động đặc biệt, chỉ thắng lợi khi
quần chúng nhân dân nhận thức rõ được bản chất, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực
thù địch, tự giác ủng hộ và cùng tham gia với các cơ quan Nhà nước để đấu tranh.
19


Bởi vậy, cần phải phát huy tinh thần yêu nước của đồng bào, làm cho đồng bào nhận
thức rõ mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch để phá hoại
đoàn kết dân tộc, chống đối chế ðộ.
Năm, hướng dẫn các tôn giáo thực hiện quan hệ đối ngoại phù hợp với đường
lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước, đẩy mạnh thông tin tuyên truyền về CSTG, đấu
tranh làm thất bại các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, vu khống của các thế lực thù
địch đối với CSTG ở nước ta.
Các tôn giáo ngoại nhập như: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, có quan hệ

khá chặt chẽ với các tổ chức cùng tôn giáo ở nước ngoài. Bởi vậy, công tác tôn
giáo có nhiệm vụ hướng dẫn hoạt động đối ngoại của các tôn giáo phù hợp với chủ
trương, CSTG không làm ảnh hưởng đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
của nhân dân ta, không làm tổn hại đến quan hệ quốc tế của Đảng, Nhà nước ta
trong thời kỳ hội nhập kinh tế Quốc tế.
Cùng với việc bảo đảm cho quan hệ đối ngoại tôn giáo thực hiện đúng pháp
luật, tôn chỉ, đường hướng của các tôn giáo, cần đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền,
đấu tranh làm thất bại các luận điệu xuyên tạc, vu khống của kẻ địch về vấn đề tôn
giáo và CSTG ở nước ta.
Sáu, tổng kết việc thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng về công tác tôn
giáo. Tăng cường nghiên cứu cơ bản, tổng kết thực tiễn, góp phần cung cấp luận cứ
khoa học trong việc xây dựng và thực hiện các chủ trương, CSTG trước mắt và lâu
dài.
Thực tiễn luôn biến đổi, việc quán triệt và thực hiện quan điểm, chính sách về
tín ngưỡng, tôn giáo đạt hiệu quả ngày càng cao, nhưng không thể tránh khỏi thiếu
sót, khuyết điểm. Do vậy, kịp thời tổ chức sơ, tổng kết rút kinh nghiệm để phát huy
ưu điểm, khắc phục hạn chế, điều chỉnh, bổ sung các chủ trương, giải pháp là một yêu
cầu khách quan trong thực hiện CSTG của Đảng, Nhà nước.

20


×