Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Giải pháp mở rộng cho vay đối với học sinh, sinh viên tại Sở giao dịch NHCSXH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.67 KB, 60 trang )

LỜI NÓI ĐẦU

Những năm gần đây nhờ có chính sách đổi mới nền kinh tế nước ta tăng
trưởng nhanh, phát triển toàn diện, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân ta từng
bước được cải thiện. Song một bộ phận đời sống của dân cư còn gặp nhiều khó
khăn, nghèo khổ. Sự phõn hoỏ giàu nghèo đang diễn ra mạnh là một vấn đề cần
được quan tâm. Chính vì vậy thời gian qua Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính
sách hỗ trợ vốn cho các đối tượng thuộc diện nghèo và các đối tượng chính sách
khác; trong đó phải kể đến việc hỗ trợ cho các đối tượng là học sinh, sinh viên
(HSSV) có hoàn cảnh khó khăn, nhằm thực hiện tốt lời dậy của Bác Hồ kính yêu vì
sự nghiệp “trồng người”, góp phần thực hiện xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Có thể nói đây là chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước, đầu tư cho
giáo dục là đầu tư cho tương lai, đầu tư cho nền kinh tế tri thức“Giỏo dục là Quốc
sách hàng đầu - Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển”. Đặc biệt Đảng và Nhà
nước ta luôn quan tâm đến đối tượng là học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn,
học sinh, sinh viên nghèo, ở vựng sõu, vựng xa để giúp học có điều kiện vươn lên
học tập tốt, nhằm nâng cao địa vị xã hội, giảm bớt dần sự thiếu hụt cán bộ, rút dần
khoảng cách chênh lệch về dân trí về kinh tế giữa cỏc vựng miền.
Xuất phát từ chủ trương đường lối trên ngày 02/3/1998 Thủ tướng chính
Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số: 51/1998- QĐ/TTg thành lập quỹ tín dụng
đào tạo và giao cho Ngân hàng Công thương Việt Nam đứng ra quản lý và cho vay.
Ngày 04/10/2002 Chính phủ đó cú Nghị định số 78/ 2002/ NĐ - CP về tín dụng đối
với người nghèo và các đối tượng chính sách khác, trong đó có đối tượng học sinh,
sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, giao cho Ngân hàng chính sách xã hội
( NHCSXH) thực hiện.


Tuy nhiên hoạt động cho vay đối với HSSV có HCKK tại Sở giao dịch chỉ
mới hoạt động được 3 năm gần đây. Vì thế doanh số cho vay của Sở giao dịch còn
nhỏ. Như chúng ta đã biết mở rộng cho vay, tăng trưởng nguồn vốn và nâng cao
hiệu quả trong công tác rủi ro là một trong những mục tiêu dài hạn của Sở giao dịch.


Chính vì vậy em chọn đề tài: “Giải pháp mở rộng cho vay đối với học sinh, sinh
viên tại Sở giao dịch NHCSXH”. Chuyên đề đi từ những nội dung mang tính lý
luận trong hoạt động cho vay với một NHCSXH tới các vấn đề thực tiễn trong hoạt
động ấy của Sở giao dịch NHCSXH Việt Nam để đưa ra những giải pháp, kiến nghị
cụ thể nhằm mở rộng cho vay đối với HSSV có HCKK. Nó là một sự đóng góp vào
việc nghiên cứu một vấn đề mà cả xã hội đều quan tâm nhưng vẫn còn ít ỏi dưới quy
mô một đề tài nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kết luận đề tài được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Ngân hàng Chính sách xã hội và quỹ Tín dụng đào tạo tại
Ngân hàng Chính sách xã hội.
Chương 2: Thực trạng cho vay đối với học sinh, sinh viên tại Sở giao dịch
NHCSXH.
Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay đối với học sinh, sinh viên tại Sở
giao dịch NHCSXH.


CHƯƠNG 1:
NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI VÀ QUỸ TÍN DỤNG ĐÀO TẠO TẠI NGÂN
HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI.

1.1. Khái quát về Ngân hàng Chính sách xã hội
1.1.1. Khái niệm NHCSXH
Ngân hàng thương mại ra đời và phát triển như một tổ chức trung gian tài
chính huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để cho vay đáp ứng nhu cầu vốn
sản xuất kinh doanh và đời sống. Hoạt động của ngân hàng sẽ tồn tại và phát triển
nếu như tạo ra và tăng trưởng một cách chênh lệch dương giữa lãi suất cho vay và
lãi suất huy động của ngân hàng và lợi nhuận thu được với lãi suất vay ngân hàng
của người vay. Ngày nay, ngân hàng đã mở rộng nhiều nghiệp vụ mới như tư vấn
tài chính, bảo lãnh dịch vụ thuê mua, môI giới đầu tư chứng khoỏn… trở thành
“bỏch hoỏ tài chớnh”, song nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng vẫn là huy động và cho

vay vốn. Trong hoạt động của mỡnh, cỏc ngân hàng luôn quan tâm đến lợi nhuận,
tạo chênh lệch lớn nhất giữa lãi suất đầu ra và chi phí đầu vào. Tạo được các nguồn
vốn rẻ nhưng lại ổn định, vững chắc; giảm thấp chi phí nghiệp vụ; tìm kiếm các dự
án, khách hàng kinh doanh có hiệu quả, có tín nhiệm để cho vay có lãi, an toàn, bảo
đảm chắc chắn thu được nợ cả gốc lẫn lói… mà các biện pháp mà tất cả các ngân
hàng đều cố gắng thực hiện.
Tuy nhiên trong thực tế có một số loại hình hoạt động trong ngân hàng, chủ
yếu là ở các ngân hàng thương mại Nhà nước – thực hiện theo chỉ định, yêu cầu của
Chính phủ bao gồm các khoản cho vay bắt buộc để hỗ trợ chính sách kinh tế của
Chính phủ và cho vay các hoạt động không đáp ứng các tiêu chí thương mại nhưng


lại có tác dụng chính trị xã hội quan trọng. Đối với loại thứ nhất có thể thấy các
khoản cho vay như:
- Cho vay các nghành công nghiệp có tầm chiến lược quốc gia quan trọng
- Cho vay các công trình tuy kha thi về tài chính nhưng vỡ quỏ lớn hay thời
gian hoàn trả quá dài – như đường cao tốc và đường dây tải điện…
- Cho vay các doanh nghiệp Nhà nước thua lỗ nhưng chưa thể giải thể, xoá bỏ
được.
Loại thứ hai gồm các khoản vay:
- Cho vay các hộ gia đình nghèo để duy trì sản xuất và ổn định đời sống.
- Cho vay các hộ nông dân là nạn nhân của thiên tai, bão lụt nhằm khôi phục
sản xuất.
- Cho vay HSSV có hoàn cảnh khó khăn để đảm bảo học tập và tốt nghiệp.
Nhưng khoản cho vay trên tuy khác nhau về đối tượng, thể loại nhưng đều có
chung một đặc điểm là không đáp ứng tiêu chí thương mại của hoạt động ngân
hàng, cụ thể là khi thực hiện các khoản cho vay này, ngân hàng không những không
có lãi mà còn có thể thua lỗ. Nhưng các ngân hàng vẫn bắt buộc phải làm theo chính
sách của Chính phủ và vì vậy những khoản cho vay này được gọi là cho vay chính
sách.

Như vậy, cho vay chính sách là hoạt động của ngân hàng không đáp ứng các
tiêu chí kinh doanh thương mại, mang lại ít hoặc không mang lại lợi nhuận cho ngân
hàng nhưng các ngân hàng được chỉ định bắt buộc phải thực hiện nhằm hỗ trợ các
chính sách kinh tế, chính trị và xã hội của Chính phủ.
Mặc dù không mang lại lợi nhuận nhưng ngân hàng chính sách và cho vay
chính sách vẫn tồn tại không chỉ ở nên kinh tế tập trung bao cấp mà cả trong nền


kinh tế thị trường, không chỉ ở các nước đang phát triển mà còn ở các nước tư bản
phát triển.

1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng Chính sách xã hội
Thực hiện Nghị quyết của Đảng lần thứ IX, Luật các Tổ chức tín dụng và
Nghị quyết kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá X về việc sớm hoàn thiện tổ chức và hoạt
động của Ngân hàng Chính sách, tách tín dụng ưu đãi ra khỏi tín dụng thương mại,
Chính phủ đã thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển (năm 2000) để thực hiện chính sách tín
dụng ưu đãi trên lĩnh vực đầu tư phát triển, lập Quỹ tín dụng Hỗ trợ xuất khẩu - tiền
thân của Ngân hàng Xuất nhập khẩu (năm 2000) để thực hiện chính sách khuyến
khích xuất khẩu và Ngân hàng Phục vụ người nghèo (năm 1995) để thực hiện chủ
trương xoỏ đúi giảm nghèo.
Qua 7 năm hoạt động, Ngân hàng phục vụ người nghèo đã huy động được
6.500 tỷ đồng và cho gần 6 triệu lượt hộ nghèo vay vốn, trong đó đó cú hàng trăm
ngàn hộ thoát khỏi ngưỡng nghèo và hàng triệu hộ khỏc cú cuộc sống được cải thiện
hơn. Tuy nhiên, do những tồn tại trong cơ chế tạo lập nguồn vốn và do tổ chức điều
hành của Ngân hàng này chưa hoàn toàn tách khỏi Ngân hàng Nông nghệp và Phát
triển nông thôn, nên Ngân hàng Phục vụ người nghèo chưa trở thành một Ngân hàng
thực thụ, chưa chủ động đáp ứng được nhu cầu vốn cho hộ nghèo vay và cản trở quá
trình lành mạnh hoá hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Việt Nam. Mặt khác, tín dụng ưu đãi cho các đối tượng chính sách xã hội do nhiều
cơ quan hành chính Nhà nước và Ngân hàng thương mại cùng thực hiện theo cỏc

kờnh khác nhau, làm cho nguồn lực của Nhà nước bị phân tán, chồng chéo trùng lắp,
thậm chí cản trở lẫn nhau.
Để tiếp tục củng cố các ngân hàng thương mại, tách tín dụng ưu đãi ra khỏi
tín dụng thương mại, Chính phủ đã xác định những nguyên tắc và nội dung cơ bản


của chính sách tín dụng ưu đãi trong lĩnh vực xã hội; đồng thời chủ trương thành lập
một ngân hàng chính sách duy nhất để cung cấp tín dụng ưu đãi cho người nghèo và
các đối tượng chính sách khỏc trờn cơ sở tổ chức lại Ngân hàng Phục vụ người
nghèo (Kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại thông báo số 79/ VPCP - TB ngày
3/5/2002 của văn phòng Chính phủ).
Ngày 04 tháng 10 năm 2002 Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 131/QĐ TTg về việc thành lập Ngân hàng chính sách xã hội để thực hiện chính sách tín dụng
với người nghèo và các đối tượng chính sách khỏc trờn cơ sở tổ chức lại Ngân hàng
Phục vụ người nghèo.
Ngân hàng Chính sách xã hội là một tổ chức tín dụng của Nhà nước, hoạt động khụng
vỡ mục tiêu lợi nhuận; được Nhà nước cấp, giao vốn và đảm bảo khả năng thanh
toán; huy động vốn có trả lãi hoặc tự nguyện không lấy lãi, vốn đóng góp tự nguyện
không hoàn trả, vốn nhận ủy thác của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Ngân
hàng Chính sách xã hội có bộ máy quản lý và điều hành thống nhất trong phạm vi cả
nước, là một pháp nhân, có vốn điều lệ, có con dấu, có tài sản và hệ thống giao dịch từ
trung ương đến địa phương, vốn điều lệ ban đầu là năm ngàn tỷ đồng, thời hạn hoạt
động là 99 năm


H thống t chc ca NHCSXH
Hội đồng quản trị
(HĐQT)

Ban
kiểm soát


Ban
chuyên
gia t vấn

Tổng giám đốc

Các phó tổng
giám đốc

Các phòng
chuyên môn
nghiệp vụ

Ban đại diện
HĐQT-NHCSXH cấp
tỉnh, thành phố
trực thuộc TW

Ban đại diện
HĐQT-NHCSXH cấp quận,
huyện, Thị xã, thành phố
thuộc tỉnh

Chi nhánh
NHCSXH
tỉnh, thành
phố trực
thuộc TW


Hệ thống
kiểm tra, kiểm
toán nội bộ

Văn
phòng
đại diện

Phòng giao dịch,
chi nhánh NHCSXH
cấp huyện

Sở giao
dịch

Trung
tâm
đào
tạo


Ngân hàng Chính sách xã hội được Nhà nước bảo đảm khả năng thanh toán, tỷ lệ dự
trữ bắt buộc bằng 0%, không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi, được miễn thuế và
các khoản phải nộp ngân sách nhà nước. Theo những quy định trên đây thì
NHCSXH được hưởng một số chế độ ưu đãi, trên cơ sở đó hạ lãi suất cho vay,
nhưng thực hiện chế độ hạch toán kinh tế và tự chịu trách nhiệm về mặt tài chính.
Ngân hàng Phục vụ người nghèo trước đây đối tượng phục vụ là người nghèo,
nay NHCSXH đối tượng được vay vốn ưu đãi bao gồm:
- Hộ nghèo.
- Học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn đang học đại học, cao đẳng, trung học

chuyên nghiệp và học nghề. (Tiếp nhận từ Ngân hàng Công thương Việt Nam sang)
- Các đối tượng cần vay vốn để giải quyết việc làm theo Nghị quyết số 120/
HĐBT ngày 11 tháng 4 năm 1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ); (tiếp
nhận từ hệ thống kho bạc).
- Các tổ chức kinh tế và hộ sản xuất, kinh doanh thuộc hải đảo; thuộc khu vực II,
III miền núi và thuộc Chương trình phát triển kinh tế xã hội cỏc xó đặc biệt khó
khăn miền núi, vựng sõu, vựng xó (gọi là chương trình 135); (tiếp nhận từ các Ngân
hàng thương mại sang).
- Các đối tượng chính sách đi lao động có thời hạn ở nước ngoài.
- Các đối tượng khác khi có quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
1.1.3. Đặc điểm chính của NHCSXH
NHCSXH là tổ chức tín dụng Nhà nước, hoạt động khụng vỡ lợi nhuận, thực
hiện cho vay với lãi suất ưu đãi, vì mục tiêu chủ yếu là xoỏ đúi giảm nghèo. Lãi suất
cho vay của NHCSXH hiện nay là từ 0,5%/tháng đến 0.65%/tháng, thường hấp dẫn
hơn lãi suất của ngân hàng thương mại.
Các mức lãi suất ưu đãi do Thủ tướng Chính phủ quyết định cho từng thời kỳ,
chênh lệch lãi suất huy động và cho vay được Bộ tài chính cấp bù; những tổn thất
trong cho vay cũng được Bộ tài chính xem xét xử lý… Như vậy đây là tổ chức tín


dụng thực hiện hoạt động ngân hàng (huy động và cho vay) song còn dựa vào nguồn
vốn chi NSNN, tức là Nhà nước thực hiện bao cấp một phần cho hoạt động của
NHCSXH.
Quyền quyết định cao nhất thuộc về Hội đồng quản trị, gồm các thành viên kiêm
nhiệm và chuyên trách thuộc các cơ quan Chính phủ và một số tổ chức chính trị xã
hội (Hội nông dân, Hội phụ nữ…) tại các tỉnh, thành phố, quận huyện có ban đại
diện Hội đồng quản trị do Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch UBND làm trưởng ban.
1.1.4. Hoạt động của Ngân hàng chính sách xã hội
Việt Nam là một trong những nước nghèo có tỷ lệ hộ nghèo đói cao, theo số
liệu điều tra của Ngân hàng thế giới (WB) thời điểm năm 1993 nước ta có klhoảng

59% sú hộ nghèo, trong đó có khoảng 22,5 % số hộ sống dưới mức nghèo khổ.
Thực hiện công tác đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng chuyển từ nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Những
năm qua nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, đời sống nhân
dân được cải thiện rõ rệt qua các năm. Trên cơ sở chủ trương của Đảng về Xoỏ đúi
giảm nghèo Chính phủ đã đề ra nhiều giải pháp đồng bộ để hỗ trợ người nghèo và
các đối tượng chính sách khác. Tuy nhiên việc hỗ trợ bằng tài chính cho người
nghèo và các đối tượng chính sách khác theo các phương thức tín dụng: Tín dụng
Nhà nước và tín dụng Ngân hàng khối lượng còn nhỏ hiệu quả chưa cao. Tín dụng
nhà nước thông qua các chương trình bị hạn chế, bởi nguồn vốn qua nhiều kênh
khác nhau, với nhiều phương thức và quản lý khác nhau, chồng chéo kém hiệu quả.
Tín dụng Ngân hàng thực hiện theo lãi suất thị trường cho vay vốn theo các điều
kiện tín dụng thương mại nờn cỏc hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác rất
khó có thể tiếp cận được với tín dụng Ngân hàng thương mại. Từ tình hình thực tiễn
trên đây, việc hình thành một Ngân hàng Chính sách xã hội là một tất yếu khách


quan nhằm tách bạch tín dụng chính sách ra khỏi tín dụng thương mại, đồng thời tập
trung các nguồn vốn để quản lý cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác.
Nghị định số 78/2002 NĐ- CP ngày 04/10/2002 của Chính phủ về tín dụng
đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khỏc cú quy định rõ việc thành lập
Ngân hàng Chính sách xã hội, để thực hiện chính sách tín dụng đối với người nghèo
và các đối tượng chính sách khác để sử dụng các nguồn lực tài chính do nhà nước
huy động để cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác vay ưu đãi phục vụ
sản xuất kinh doanh, tạo việc làm, cải thiện đời sống, góp phần thực hiện mục tiêu
Quốc gia XĐGN, ổn định xã hội.
Khác với các Ngân hàng thương mại hoạt động trong cơ chế thị trường,
NHCSXH là một định chế tài chính của Nhà nước theo các mục tiêu và phương thức
hoạt động sau:
Hoạt động của NHCSXH khụng vỡ mục đích lợi nhuận, được Nhà nước đảm

bảo khả năng thanh toán, tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng không (0%) và không phải tham
gia bảo hiểm tiền gửi, được miễn thuế và các khoản phải nộp Ngân sách Nhà nước.
- Được Nhà nước cấp vốn điều lệ, Ngân sách nhà nước cấp bù lãi suất huy
động hàng năm theo kế hoạch.
- Đối tượng phục vụ được quy định là hộ nghèo và các đối tượng chính sách
khác, được ưu đãi về lãi xuất cho vay, điều kiện vay vốn, thủ tục, thời hạn và mức
cho vay.
- Các khoản nợ rủi ro, bất khả kháng được Chính phủ xem xét xử lý.
- Thực hiện cho vay chủ yếu theo phương thức uỷ thác như qua: NHNo &
PTNT Việt Nam, Hội liên hiệp Phụ nữ Việt nam, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh
và các tổ chức đoàn thể khác.
1.1.5. Các loại hình cho vay của NHCSXH
- Cho vay xoỏ đúi giảm nghèo đặc biệt là các hộ nông dân nghèo. Đây là một
chương trình kinh tế xã hội rộng lớn ở nhiều nước đang phát triển nhất là các nước


Đông Nam á. Do nhiều nguyên nhân kinh tế xã hội ở các nước này tồn tại một bộ
phận dân cư, chủ yếu trong khu vực nông thôn, có thu nhập thấp và một trong các
nguyên nhân chính của tình trạng này là do thiếu vốn để làm ăn. Chính phủ nhận
thức được rằng: nếu không có biện pháp trợ giúp vốn và các điều kiện làm ăn cho
những người nghèo thì họ sẽ tiếp tục đúi nghốo và điều này sẽ dẫn đến mất ổn định
xã hội. Từ đó kéo theo các biến động cả về chính trị và kinh tế. Chính vì vậy Chính
phủ đã thành lập hoặc trợ giúp thành lập các ngân hàng chuyên hoặc chủ yếu phục
vụ người nghèo và các hộ nông thôn ví dụ như ở ấn Độ, Thái Lan, Malaysia,
Philippins…
- Cho vay hỗ trợ các chính sách xã hội, giáo dục, y tế, tạo công ăn việc làm.
Chính phủ hỗ trợ các đối tượng thuộc chính sách xã hội thông qua cho vay với các
điều kiện ưu đãi giúp họ có cơ hội về học tập, chữa bệnh, học nghề hoặc xuất khẩu
lao động… loại cho vay này khác với cho vay tiêu ding ở chỗ điều kiện và lãi suất
vay ưu đãi.

- Cho vay các doanh nghiệp nhà nước thua lỗ hoặc không đủ điều kiện vay
thông thường hoặc với các điều kiện ưu đãi. Đây là những khoản cho vay không có
tinh thương mại, thực hiện theo lệnh của Chính phủ nhằm trợ giúp các Doanh
nghiệp Nhà nước khó khăn hoặc những khư vực kinh tế Nhà nước bắt buộc phải duy
trì vì lợi ích quốc gia. Ngay cả ở các nước phát triển như Nhật, Mỹ vẫn tồn tại loại
cho vay này.

1.1.6. Vai trò của cho vay chính sách
* Đối với các đối tượng chính sách xã hội ( như người nghèo, HSSV, người
có nhu cầu công ăn việc làm…) cho vay chính sách tạo hiệu quả hơn so với phương
thức cấp thoát vốn. Sở dĩ như vậy là vì:
Thứ nhất là do việc chuyển tải vốn theo phương thức hoàn trả (tín dụng) nên
nguồn vốn được sử dụng nhiều lần, quay vòng, giúp nhiều được người hưởng lợi.


Thứ hai quan trọng hơn nó tạo các tác động tích cực tới người hưởng lợi.
Người vay vốn tím cách sử dụng vốn vào sản xuất kinh doanh năng động tạo ra
được thu nhập để cải thiện đời sống và trả được nợ. Mặt khác nó giỳp cho người vay
khắc phục tư tưởng tự ti, ỷ lại khi nhận vốn cấp phát. Ngược lại Nhà nước cần tăng
cường đầu tư cấp phát các công trình hạ tầng, phúc lợi công cộng tạo nền tảng cho
xã hội phát triển. Tuy nhiên rõ ràng là đối với những người được hưởng lợi là đối
tượng cụ thể thì phương thức cho vay tỏ ra hiệu quả hơn.
* Đối với sự tồn tại và phát triển của các khu vực sản xuất, các doanh nghiệp
cần sự hỗ trợ phát triển. Điều này không có nghĩa là trở về thời bao cấp. Trên thực
tế, có nhưng ngành, những doanh nghiệp bản thân nó hoạt động không có lãI nhưng
lại rất cần cho đất nước hoặc tạo ra sự phát triển kinh tế chung, đòi hỏi Nhà nước
phải có sự trợ giúp thông qua việc vay vốn với điều kiện ưu đãi. Ngân hàng xuất
nhập khẩu ( Eximbank ) ở các nước tư bản phát triển được coi như ngân hàng chính
sách khi thực hiện cho vay với điều kiện ưu đãi (thế chấp, lãi suất…) đối với các
công ty xuất khẩu của nước đó và các nhà nhập khẩu nhằm giúp đẩy mạnh xuất khẩu

chiếm lĩnh thị trường thế giới.

1.2. Quỹ tín dụng đào tạo tại NHCSXH
1.2.1. Lịch sử hình thành và phảt triển của Quỹ tín dụng đào tạo
Cho vay HSSV được triển khai từ năm 1994, ngày 2/1/1994 Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước đó cú Quyết định số 270 - QĐ -NHNN về việc cho vay HSSV các
trường đại học, cao đẳng và giao cho các Ngân hàng thương mại Nhà nước dùng
nguồn vốn của mình cho vay với các nội dung được quy định chủ yếu sau:
+ Đối tượng được vay: HSSV các trường đại học , cao đẳng có kết quả học
tập loại khá trở lên.
+ Mức cho vay bình quân tối đa là 120 000 đồng/thỏng/sinh viờn.


+ Thời hạn cho vay: 10 năm bao gồm cả thời gian phát tiền vay và thời gian
thu hết nợ.
+ Lãi suất cho vay: áp dụng thống nhất chung theo nguyên tắc lãi suất cho vay
bằng chỉ số trượt giá hàng năm +1,2 % năm.
Đây là thời điểm thử nghiệm chương trình cho vay sinh viên trong phạm vi 15
Chi nhánh NHCT với 20 trường đại học, cao đẳng: Số sinh viên được vay vốn năm
thứ hai (1996) tăng tới 39% nhưng đến năm sau lại giảm chỉ còn 7 %, tốc độ giải
ngân chậm. Doanh số cho vay của giai đoạn này là 5,7 tỷ đồng, doanh số thu nợ là
567 triệu đồng.
Thực hiện Quyết định trên trong quá trình cho vay cho thấy: Nhiều Ngân
hàng cùng thực hiện việc cho vay dẫn đến vốn vay bị phân tán chồng chéo khó quản
lý, hiệu quả thấp. Chính vì vậy đến năm 1998 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết
định số 51/1998/QĐ - TTg ngày 02/3/1998 về việc thành lập quỹ tín dụng đào tạo và
giao cho Ngân hàng Công thương thực hiện. Đây là thời điểm Quỹ tín dụng đào tạo
chính thức khai trương đi vào hoạt động trên phạm vi cả nước, điều kiện tín dụng
được mở rộng bao gồm cả các sinh viên có học lực trung bình của tất cả các trường
đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Với các điều kiện như vậy

nên năm thứ nhất (1999) tổng số sinh viên được vay vốn đã tăng 728 %, doanh số
cho vay đã tăng 200 %, năm 2000 Quỹ đã thực hiện cho 13.160 sinh viên vay vốn
với tổng số tiền 23 382 triệu đồng, có tháng tốc độ giải ngân lên tới 2 tỷ đồng. Tớnh
riờng trong 6 tháng đầu năm 2001 đã giải ngân cho hơn 4.000 sinh viên với số tiền
13 tỷ đồng chứng tỏ hoạt động của quỹ đã thực sự đi vào đời sống của từng sinh
viên.
Quỹ tín dụng đào tạo được thành lập để cho vay ưu đãi đối với học sinh, sinh
viên. Trước đây Quỹ này được giao cho Ngân hàng Công thương Việt Nam đứng ra
quản lý theo chỉ tiêu chỉ định của Nhà nước. Quỹ tín dụng đào tạo có vốn thành lập
ban đầu là 100 tỷ đồng, phương thức hoạt động khụng vỡ mục tiêu lợi nhuận, được


miễn các khoản thu về sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước. Trường hợp có lãi được xét
giảm thuế lợi tức để bổ sung vào vốn của quỹ. Quỹ tín dụng đào tạo chịu sự quản lý
của Bộ tài chính, phải chấp hành các quy định về quản lý tài chính hiện hành, pháp
lệnh thống kê và các quy định khác có liên quan.
Về nguồn vốn hoạt động của Quỹ: Nguồn vốn của Quỹ khi thành lập là 100 tỷ
đồng, được hình thành từ các nguồn sau:
+ Ngân sách Nhà nước cấp 30 tỷ đồng
+ Phần còn lại do: Ngân hàng Nhà nước cho vay, các Ngân hàng thương mại
tự nguyện góp vốn, nguồn đóng góp ủng hộ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước.
+ Ngoài nguồn vốn ban đầu kể trên Quỹ còn được bổ sung nguồn vốn hàng
năm theo chỉ tiêu kế hoạch Chính phủ giao, từ Ngân hàng Nhà nước chuyển sang,
vốn từ các Ngân hàng thương mại và vốn đóng góp từ các tổ chức cá nhân.
Tính đến 31/12/2003 tổng nguồn vốn hoạt động của quỹ là: 160 tỷ đồng, trong
đó NSNN 30 tỷ đồng, số còn lại 130 tỷ đồng do NHNN chuyển sang.
* Quản lý sử dụng Quỹ:
- Tính đến ngày 31/12/2003 tổng dư nợ cho vay học sinh, sinh viên là 66
tỷ đồng: gồm 123 trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy

nghề trong phạm vi cả nước, với số học sinh, sinh viên có dư nợ là: 39.950
HSSV, nợ quá hạn là 5 tỷ đồng chiếm tỷ lệ là 7,6 % tổng dư nợ. Dư nợ cho vay
HSSV chủ yếu tập trung tại một số tỉnh, thành phố lớn, nơi tập trung các trường
đại học, cao đẳng của Trung ương: thành phố Hà Nội dư nợ khoảng 9 tỷ đồng,
Thừa Thiên Huế 8 tỷ đồng, thành phố Hồ Chí Minh 11 tỷ đồng, Đà Nẵng 4 tỷ
đồng, Cần Thơ 5 tỷ đồng.
- Theo quy định, thời hạn cho vay, lãi xuất cho vay, mức tiền cho vay tối đa,
phương thức cho vay… phải được thực hiện theo đúng thể lệ tín dụng do Thống đốc
NHNN ban hành áp dụng từng thời kỳ.


- Nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của quỹ chỉ được phép gửi tại Ngân hàng quản
lý quỹ với lãi suất bằng lãi suất của quỹ cho vay ra.
- Ngân hàng quản lý quỹ có trách nhiệm quản lý quỹ, sử dụng nguồn vốn
đúng mục đích cho vay và thu hồi vốn đúng thể lệ tín dụng đúng đối tượng và có
hiệu quả.
* Nguyên tắc quản lý thu chi tài chính của Quỹ
- Ngân hàng có trách nhiệm thực hiện thu đúng, đủ các khoản thu phát sinh để
hạch toán vào thu nhập của quỹ, thực hiện việc theo dõi và hạch toán riờng cỏc
khoản thu nhập và chi phí phát sinh từ hoạt động của Quỹ.
- Việc sử dụng quỹ dự trữ, sử dụng nguồn vốn và bù đắp rủi ro tín dụng trong
hoạt động của Quỹ đựơc thực hiện đúng theo thông tư của Bộ tài chính.
- Quỹ tín dụng đào tạo được thành lập để cho vay ưu đãi đối với học sinh, sinh
viên. Trước đây quỹ này được giao cho Ngân hàng Công thương Việt Nam đứng ra
quản lý theo chỉ tiêu chỉ định của Nhà nước. Quỹ tín dụng đào tạo có vốn thành lập
ban đầu là 100 tỷ đồng, phương thức hoạt động khụng vỡ mục tiêu lợi nhuận, được
miễn các khoản thu về sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước. Trường hợp có lãi được xét
giảm thuế lợi tức để bổ sung vào vốn của quỹ. Quỹ tín dụng đào tạo chịu sự quản lý
của Bộ tài chính, phải chấp hành các quy định về quản lý tài chính hiện hành, pháp
lệnh thống kê và các quy định khác có liên quan.

- Về nguồn vốn hoạt động của Quỹ: Nguồn vốn của Quỹ khi thành lập là 100
tỷ đồng, được hình thành từ các nguồn sau:
+ Ngân sách Nhà nước cấp 30 tỷ đồng
+ Phần còn lại do: Ngân hàng Nhà nước cho vay, các Ngân hàng thương mại
tự nguyện góp vốn, nguồn đóng góp ủng hộ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước.


+ Ngoài nguồn vốn ban đầu kể trên Quỹ còn được bổ sung nguồn vốn hàng
năm theo chỉ tiêu kế hoạch Chính phủ giao, từ Ngân hàng Nhà nước chuyển sang,
vốn từ các Ngân hàng thương mại và vốn đóng góp từ các tổ chức cá nhân.
Tính đến 31/12/2005, tổng nguồn vốn hoạt động của quỹ là: 160 tỷ đồng,
trong đó NSNN 30 tỷ đồng, số còn lại 130 tỷ đồng do NHNN chuyển sang.


1.2.2. Sự cần thiết phải cho vay HSSV tại NHCSXH
Trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến sự nghiệp
giáo dục, đào tạo. Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Nhà
nước và của toàn dân. Để phát triển sự nghiệp giáo dục, tăng cường hiệu lực quản lý
Nhà nước về giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài
phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo
vệ tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Trong
tổng số học sinh, sinh viên theo học tại các trường đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp (tính đến thời điểm 31/12/2003 tổng số học sinh này trong phạm vi
toàn quốc là: 226.401 học sinh) thì một bộ phận không nhỏ khoảng 30% có hoàn
cảnh khó khăn, nếu không được sự hỗ trợ của nhà nước thì bộ phận học sinh, sinh
viên này khó có thể tiếp tục theo học được, Nhà nước sẽ mất đi một số lượng lớn
nhân tài, những vựng sõu vựng xa, vùng miền núi hải đảo không có điều kiện tiếp
nhận được cán bộ. Bài học rút ra từ một số nước trên thế giới cho thấy những nước
có nền kinh tế phát triển là những nước đã quan tâm đầu tư cho giáo dục, đào tạo

cao.
Từ những quan điểm và chủ trương chính sách trên, ngày 02/03/1998 Thủ
tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 51/1998/QĐ - TTg thành lập Quỹ tín dụng và
đào tạo để hỗ trợ vốn cho HSSV có hoàn cảnh khó khăn nhằm mục đích:
- Cho vay học sinh, sinh viên giúp học sinh, sinh viên giải quyết những khó
khăn trong thời gian học sinh, sinh viên học tập tại trường, để tiếp tục theo học, giải
quyết những khó khăn cho cha mẹ học sinh, không phải đi vay nặng lãi để cho con
em mình ăn học.
- Giúp cho học sinh, sinh viên xác định rõ trách nhiệm của mình trong quan hệ
vay mượn, khuyến khích người vay sử dụng vốn vào mục đích học tập tốt để sau
này ra trường có việc làm tạo thu nhập trả nợ Ngân hàng.
- Xét về mặt xã hội:


Tín dụng cho học sinh, sinh viên góp phần giảm tỷ lệ thất học, phục vụ cho sự
phát triển nền kinh tế tri thức, đào tạo những tài năng cho đất nước, tạo điều kiện để
phát triển giáo dục đáp ứng yêu cầu sự nghiệp “công nghiệp hoá, hiện đại hoỏ” đất
nước; góp phần cân đối đào tạo cho cỏc vựng miền và các đối tượng là người học có
hoàn cảnh khó khăn vươn lên; giảm bớt dần sự thiếu hụt cán bộ, rút dần khoảng
cách chênh lệch về dân trí về kinh tế giữa cỏc vựng miền, tạo ra khả năng đáp ứng
yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trong giai đoạn mới, cải tạo đời
sống của một bộ phận học sinh, sinh viên, góp phần bảo đảm an ninh, trật tự, hạn chế
được những mặt tiêu cực.
- Tăng cường mối quan hệ giữa Nhà trường, Ngân hàng và học sinh, sinh
viên... Nêu cao tinh thần tương thân tương ái giúp đỡ lẫn nhau trong sinh hoạt và
học tập, tạo niềm tin của thế hệ trẻ trí thức đối với Đảng và Nhà nước.
1.2.3. Quy chế cho vay HSSV tại NHCSXH
Căn cứ vào các văn bản của Thống đốc NHNN về ban hành Quy chế cho vay đối
với HSSV trước đây vẫn còn hiệu lực; căn cứ vào điều lệ của NHCSXH khi được
thành lập. Ngày 02/5/2003, Tổng Giám đốc NHCSXH đã ban hành văn bản số

318/NHCSXH - KH về hướng dẫn nghiệp vụ cho vay đối với HSSV có hoàn cảnh
khó khăn. Nội dung cơ bản bao gồm:
* Mục đích cho vay
Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện cho vay đối với học sinh, sinh viên có
hoàn cảnh khó khăn đi học nhằm nâng cao nhận thức và địa vị xã hội, góp phần xây
dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
* Đối tượng cho vay
Các học sinh có hoàn cảnh khó khăn đang theo học hệ chính quy tập trung tại
các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề công lập, bỏn
cụng hoặc dân lập (sau đây gọi chung là các trường), có thời gian đào tạo từ một
năm trở lên.


* Nguyên tắc cho vay
- Người vay phải sử dụng vốn vay đúng mục đích xin vay.
- Người vay phải trả nợ đúng hạn cả gốc và lãi.
* Điều kiện vay vốn
Để được vay vốn học sinh, sinh viên phải cú cỏc điều kiện sau:
- Học sinh phải được chính quyền đại phương nơi đăng ký hộ khẩu thường trú
trước khi nhập trường xác nhận là học sinh có hoàn cảnh khó khăn hiện đang theo
học ở các trường đào tạo trong nước có thời hạn trên một năm. - Học sinh phải
được chính quyền đại phương nơi đăng ký hộ khẩu thường trú trước khi nhập trường
xác nhận là học sinh có hoàn cảnh khó khăn hiện đang theo học ở các trường đào tạo
trong nước có thời hạn trên một năm.
- Mục đích sử dụng vốn vay để chi phí học tập trong thời gian theo học tại các
trường.
- Học sinh, sinh viên phải có điểm học trung bình chung mở rộng đánh giá kết
quả học kỳ I (đối với học sinh năm thứ nhất) hoặc điểm trung bình chung mở rộng
của năm trước liền kè (đối với học sinh năm thứ hai trở đi) theo quy định sau đây:
+ Đối với học sinh, sinh viên thuộc diện chính sách, học sinh là người nghèo

hoặc thuộc hộ nghèo, học sinh không thuộc diện chính sách có hộ khẩu thường trú
trước khi nhập trường thuộc khu vực I : điểm trung bình chung mở rộng từ 5,0 điểm
trở lên.
+ Đối với học sinh không thuộc diện chính sách, có hộ khẩu thường trú trước
khi nhập trường thuộc khu vực II : điểm trung bình chung mở rộng từ 6,0 trở lên.
+ Đối với học sinh không thuộc diện chính sách, có hộ khẩu thường trú trước
khi nhập trường thuộc khu vực III : điểm trung bình chung mở rộng từ 7,0 trở lên.
+ Đại diện gia đình HSSV hoặc người đỡ đầu hợp pháp của học sinh ở Việt
Nam (sau đây gọi tắt là người cam kết trả nợ thay trong giấy đề nghị vay vốn của
HSSV) về trách nhiệm trả nợ thay cho học sinh trong trường hợp học sinh chuyển


trường, bỏ học, bị xoỏ tờn khỏi danh sách học sinh, hoặc sau khi kết thúc khoá học
tại các trường mà HSSV không trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng kỳ hạn đã cam kết
hoặc không trả hết nợ khi đến kỳ hạn trả nợ cuối cùng.
+ Đối với HSSVđang theo học tại các trường đã được vay vốn của quỹ tín
dụng đào tạo nhưng có hoàn cảnh khó khăn, không thể tiếp tục theo học được Ban
giám hiệu các trường chấp thuận cho nghỉ học có thời hạn và được bảo lưu kết quả
học tập để có thể tiếp tục theo học sau này, khi HSSV trở lại tiếp tục theo học thì
việc vay vốn được căn cứ vào kết quả học tập của năm học của năm học liền kề
trước khi nghỉ học.
* Quy định về HSSV thuộc diện chính sách thực hiện theo Điểm 1 mục 1
thông tư liên tịch số 26/ 1999/ TTLT- BLĐTBXH - BGD&ĐT, ngày 2 tháng 11 năm
1999 của Bộ lao động thương binh và xã hội, Bộ giáo dục và Đào tạo.
* Quy định về chuẩn nghèo thực hiện theo Quyết định 1143-2000/ QĐLĐTBXH ngày 10 tháng 11 năm 200 của Bộ lao động thương binh xã hội .
* Quy định về HSSV thuộc khu vực 1, 2, 3 thực hiện theo quy định tuyển sinh
ban hành kèm theo quyết định số 05/ 1999 / QĐ - Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 23
tháng 5 năm 1999 của Bộ Giáo dục và đào tạo).
* Mức cho vay
+ Mức cho vay cho vay tối đa 300.000 đồng / tháng.

+ Tổng số tiền cho vay tối đa được xác định tại hợp đồng tín dụng trên cơ sở
nhu cầu của HSSV, khoảng thời gian kể từ khi HSSV được vay cho đến khi kết thúc
khoá học .
+ Số tiền cho vay cụ thể được xác định căn cứ và nhu cầu của HSSV, kết quả
học tập của từng năm và số năm đủ tiêu chuẩn được vay vốn.
+ Vốn vay được sử dụng vào việc nộp học phí, chi phí để mua sách vở,
phương tiện học tập và nghiên cứu và các chi phí khác phục vụ cho việc học tập của
HSSV trong thời gian học tập tại trường.


*

* Thời hạn cho vay
- Thời hạn

- Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi HSSV

nhận món vay đầu tiên cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vay đã được ghi
trong hợp đồng tín dụng. Thời hạn cho vay bao gồm thời hạn ân hạn và thời hạn
trả nợ.
- Thời hạn ân hạn: là khoảng thời gian tính từ ngày HSSV nhận món vay
đầu tiên cho đến khi kết thúc khoá học (ngày kết thúc kỳ thi tốt nghiệp hoặc bảo
vệ luận văn tốt nghiệp).
+ Thời hạn ân hạn bao gồm cả thời gian học sinh được nhà truờng cho
phép nghỉ học có thời hạn và được bảo lưu kết quả học tập (nếu có).
+ Trong thời gian ân hạn HSSV chưa phải trả nợ gốc và lãi tiền vay Ngân
hàng.
+ Thời hạn trả nợ: được tính bằng số năm học HSSV được Ngân hàng cho
vay vốn trong thời gian học tại trường.
* Lãi suất cho vay


* Lãi suất cho vay

Lãi suất cho vay ưu đãi đối với HSSV có hoàn cảnh khó khăn do Thủ tướng
Chính phủ quyết định cho từng thời kỳ, thống nhất một mức trong phạm vi cả nước.
Mức lãi suất cho vay cụ thể có thông báo riêng của NHCSXH.
* Phương thức cho cho vay
Khi cho HSSV vay vốn, NHCSXH áp dụng phương thức cho vay từng lần.
Hợp đồng tín dụng giữa học sinh và NHCSXH được ký một lần tại lần vay vốn đầu
tiên và được sử dụng cho cả khoá học.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay đối với HSSV tại
NHCSXH
* Nhân tố xã hội
Là nhõn tó ảnh hưởng trực tiếp đến cho vay HSSV, là các tác nhân trực tiếp
tham gia quan hệ với Ngân hàng, đó là sinh viên đến ngân hàng xin vay vốn. Cho


vay HSSV hình thành trên cơ sở sự tín nhiệm, lòng tin. Điều đó có nghĩa là công tác
cho vay HSSV của Ngân hàng là sự kết hợp giũa 3 yếu tố: nhu cầu, khả năng và sự
tin tưởng lẫn nhau giữa Ngân hàng và HSSV. Vì vậy, công tác cho vay HSSV phụ
thuộc vào cả 3 yếu tố: sinh viên, Ngân hàng và sự tín nhiệm. Trong đó sự tín nhiệm
là cầu nối mối quan hệ giữa Ngân hàng và HSSV. Ngân hàng có tín nhiệm càng cao
thì thu hút được sinh viên càng nhiều. Sinh viên có tín nhiệm với Ngân hàng thường
được vay vốn dễ dàng và có thể được vay với lãi suất thấp hơn so với các đối tượng
khác.
* Công tác quản trị điều hành của Ngân hàng
Quản trị điều hành phải được thực hiện một cách khoa học, đảm bảo sự phối
hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban trong từng Ngân hàng, trong toàn bộ
hệ thống Ngân hàng, cũng như giưa các Ngân hàng với các cơ quan khác như tài
chính, pháp lý,… nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng đặc biệt là HSSV,

giúp Ngân hàng theo dõi quản lý sỏt cỏc khoản cho vay, các khoản huy đọng vốn,
thực hiện tốt các dịch vụ Ngân hàng. Đây là cơ sở để tiến hành hoạt động cho vay
HSSV một cách lành mạnh và có hiệu quả.
* Chất lượng nhân sự
Con người là nhân tố quyết định đến sự thành bại trong hoạt động nghiệp vụ
và quản lý Kinh doanh Ngân hàng. Xã hội ngày càng phát triến đòi hỏi chất lượng
nhân sự ngày càng cao đẻ có thể đáp ứng kịp thời. Việc tuyển nhân sự có đạo đức
nghề nghiệp tốt và giỏi về chuyên môn ( có năng lực phân tích và xử lý đơn xin vay,
đánh giá điều kiện vay vốn, giám sát số tiền vay ngay từ khi cấp tiền cho tới khi thu
hồi được nợ hoặc xử lý xong món nợ theo chính sách cho vay của Ngân hàng, hoặc
thực hiện công tác thanh toán, dịch vụ Ngân hàng… ) sẽ giúp cho Ngân hàng có thể
ngăn ngừa được những sai phạm có thể xảy ra khi thực hiện hoạt động cho vay đối
với HSSV.
* Công tác thông tin


Thông tin có vai trò quan trọng trong hoạt động cho vay đối với HSSV. Nhờ
thông tin, người quản lý có thể đưa ra những quyết định cần thiết có liên quan đến
huy động và cho vay vốn đối với HSSV; theo dõi và quản lý HSSV; thông tin có thể
thu được từ những nguồn sẵn có ở Ngân hàng ( hồ sơ vay vốn, phân tích của cán bộ
Ngân hàng…), từ HSSV, từ các cơ quan chuyên về thông tin cho vay đối với HSSV
ở trong nước và ngoài nước, từ các nguồn tin khác ( báo chí, truyền hỡnh…). Số
lượng, chất lượng của thông tin thu thập được liên quan đến mức độ chính xác trong
phân tích, nhân định tình hình thị trường, tình hình của HSSV… để đưa ra nhưng
quyết định phù hợp. Vì vậy thông tin càng đầy đủ, nhanh nhạy, chính xác và toàn
diện thì việc cho vay HSSV của Ngân hàng càng có hiệu quả.
Như vậy hoạt động cho vay HSSV chịu tác động của nhiều yếu tố. Để hoạt
động cho vay HSSV phát huy được vai trò của mình trong việc thúc đẩy nền kinh tế
tri thức, vấn đề quan trọng là các tổ chức tín dụng phải đánh giá được mức độ ảnh
hưởng của từng nhân tố tới hoạt động cho vay HSSV, để phát huy những mặt tích

cực, giảm thiểu các tác động tiêu cực tới hoạt động cho vay HSSV.
1.3. Kinh nghiệm cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác của
một số nước
Tất cả các quốc gia trên thế giới kể cả nước giàu và nước nghèo đều phải coi
việc giải quyết vấn đề nghèo đói, vấn đề chính sách xã hội như một chiến lược xây
dựng kinh tế xã hội toàn cầu. Nhưng tuỳ theo điều kiện về chính trị và kinh tế mà
mỗi quốc gia có một chính sách khác nhau:
+ Tại Trung Quốc
Tháng 11/1993, quyết định về việc thành lập một Ngân hàng chính sách tách
bạch khỏi các Ngân hàng chuyên biệt của Nhà nước đã được đưa ra. Điều này thể
hiện quyết tâm thực hiện thương mại hoỏ cỏc Ngân hàng chuyên biệt của Nhà nước,
đồng thời thể hiện chính sách ưu đãi của Nhà nước Trung Hoa đối với người nghèo
và các đối tượng chính sách xã hội khác.


+ Tại Bangladesh
Ở đây có ngân hàng Grameen (GB) là ngân hàng chuyên phục vụ người
nghèo, chủ yếu là phụ nữ nghèo. Để phát triển, GB phải tự bù đắp các chi phí hoạt
động. Như vậy, GB hoạt động như các ngân hàng thương mại khác không được
bao cấp từ phía Chính phủ. GB thực hiện cơ chế lãi suất thực dương, do vậy lãi
suất cho vay tới các thành viên luôn cao hơn lãi suất trên thị trường. GB cho vay
tới các thành viên thông qua nhóm tiết kiệm và vay vốn. GB cho vay không áp
dụng biện pháp thế chấp tài sản mà chỉ cần tín chấp qua cỏc nhúm tiết kiệm và vay
vốn. Thủ tục vay vốn của GB rất đơn giản và thuận tiện, người vay vốn chỉ cần
làm đơn và nhóm bảo lãnh là đủ. Nhưng ngân hàng có cơ chế kiểm tra rất chặt chẽ,
tạo cho người nghèo sử dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả. Để phục vụ đúng
đối tượng người vay phải đủ chuẩn mực đúi nghốo, nghĩa là hộ gia đình phải có
dưới 0,4 acre đất canh tác và mức thu nhập bình quân đầu người dưới 100 USD/
năm. GB được quyền đi vay để cho vay và được ủy thác nhận tài trợ từ các tổ chức
trong và ngoài nước, huy động tiền gửi, tiết kiệm của các thành viên, quản lý các

quỹ của nhóm và được phát hành trái phiếu vay nợ. GB hoạt động theo cơ chế lãi
suất thực dương, được Chính phủ cho phép hoạt động theo luật riêng, không bị chi
phối bởi luật tài chính và luật ngân hàng hiện hành của Bangladesh.
+ Tại Thái Lan
Ngân hàng nông nghiệp và hợp tác xã tín dụng (BAAC) là ngân hàng thương
mại quốc doanh do Chính phủ thành lập. Hàng năm được Chính phủ tài trợ vốn để
thực hiện chương trình hỗ trợ vốn cho nông dân nghèo. Những người có mức thu
nhập dưới 1.000 Bath/ năm và những người nông dân có ruộng thấp hơn mức trung
bình trong khu vực thì được ngân hàng cho vay mà không cần phải thế chấp tài sản,
chỉ cần thế chấp bằng sự cam kết bảo đảm của nhóm, tổ hợp tác sản xuất. Lãi suất
cho vay đối với hộ nông dân nghèo thường được giảm từ 1-3%/ năm so với lãi suất
cho vay các đối tượng khác. Kết quả là năm 1995 BAAC tiếp cận được 85% khách


hàng là nông dân và có tổng nguồn vốn là 163.210 triệu Bath. Sở dĩ có được điều
này là một phần do Chính phủ đã quy định các ngân hàng thương mại khác phải
dành 20% số vốn huy động được để cho vay lĩnh vực nông thôn. Số vốn này có thể
cho vay trực tiếp hoặc gửi vào BAAC nhưng thông thường các ngân hàng thường
gửi BAAC.
+ Tại Malaysia
Trên thị trường chính thức hiện nay của Malaysia, việc cung cấp tín dụng
cho lĩnh vực nông thôn chủ yếu do ngân hàng nông nghiệp Malaysia (BPM) đảm
nhận. Đây là ngân hàng thương mại quốc doanh, được Chính phủ thành lập và
cấp 100% vốn tự có ban đầu. BPM chú trọng cho vay trung và dài hạn theo các
dự án và các chương trình đặc biệt. Ngoài ra BPM còn cho vay hộ nông dân
nghèo thông qua các tổ chức tín dụng trung và dài hạn theo các dự án và các
chương trình đặc biệt. Ngoài ra, ngân hàng cũn cú cho vay hộ nông dân nghèo
thông qua các tố chức tín dụng trung gian khác như: Ngân hàng nông thôn và hợp
tác xã tín dụng. Ngoài ra, Chính phủ còn buộc các ngân hàng thương mại khác
phải gửi 20,5% số tiền huy động được vào ngân hàng trung ương (trong đó có 3%

dự trữ bắt buộc) để làm vốn cho vay đối với nông nghiệp - nông thôn. BPM
không phải gửi tiền dự trữ bắt buộc ở ngân hàng Trung ương và không phải nộp
thuế cho Nhà nước.
* Bài học kinh nghiệm có khả năng vận dụng vào Việt Nam
Từ thực tế ở một số nước trên thế giới, các nước trong khu vực với lợi thế của
người đi sau, Việt Nam chắc chắn sẽ học hỏi và rút ra được nhiều bài học bổ ích cho
mình làm tăng hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng.
Tuy vậy, vấn đề là áp dụng như thế nào cho phù hợp với tình hình Việt Nam
lại là vấn đề đáng quan tâm; bởi lẽ mỗi mô hình phù hợp với hoàn cảnh cũng như là
điều kiện kinh tế của chính nước đó. Đối với Việt Nam không chỉ có tỷ lệ hộ nghèo
đói cao mà còn có nhiều đối tượng thuộc diện chính sách lớn. Vì vậy, khi áp dụng


×