Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

nghiên cứu về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (782.75 KB, 84 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
-----š›&š›-----

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
NIÊN KHÓA: 2008 - 2012
TÊN ĐỀ TÀI:

NGHIÊN CỨU VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

Giảng viên hướng dẫn:
TS. Lê Thị Nguyệt Châu
Bộ môn: Kinh doanh – Thương mại

Cần Thơ, 04/2012

Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Anh Phương
MSSV: 5086067


LỜI CẢM ƠN
š›&š›
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn tốt ngiệp, người viết đã
nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của quý thầy cô trường Đại học Cần
Thơ.
Đầu tiên, người viết xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến cha, mẹ đã có công sinh
thành, dưỡng dục để người viết có được ngày hôm nay!
Người viết xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Tiến sĩ Lê Thị Nguyệt Châu đã
dành nhiều thời gian giúp đỡ và hướng dẫn tận tình để người viết hoàn thành luận văn


này!
Xin chân thành gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô trường Đại học Cần Thơ, đặc
biệt là quý thầy cô Khoa Luật đã tận tình dạy bảo người viết trong suốt thời gian học
tập tại trường!
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu trường Đại học Cần Thơ đã tạo rất nhiều
điều kiện đề người viết học tập và hoàn thành tốt khóa học!
Sau cùng, người viết cũng xin gửi lời cảm ơn đến bạn bè đã cùng đồng hành,
động viên, khuyến khích người viết trong suốt thời gian qua để người viết hoàn thành
luận văn này được tốt hơn!
Mặc dù đã có nhiều cố gằng hoàn thiện luận văn bằng tất cả sự nhiệt tình và
năng lực của mình, tuy nhiên chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất
định, rất mong nhận được ý kiến đóng góp quý báo của quý thầy cô và các bạn.
Trân trọng kính chào!
Sinh viên thực hiện

NGUYỄN ANH PHƯƠNG


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN PHẢN BIỆN
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………


Nghiên cứu về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán

MỤC LỤC

MỤC LỤC .............................................................................................................. 1
PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRANH CHẤP VÀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN ................................. 6
1.1. Tranh chấp trên thị trường chứng khoán ........................................................ 6
1.1.1. Khái niệm................................................................................................... 6
1.1.2. Nguyên nhân phát sinh tranh chấp............................................................ 9

1.1.3. Phân loại.................................................................................................. 11
1.1.4. Sự cần thiết phải giải quyết tranh chấp................................................... 14
1.1.5. Chủ thể có quyền và nghĩa vụ liên quan đến tranh chấp ........................ 16
1.2. Giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán..................................... 20
1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp ............................................................. 20
1.2.2. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp............................................................ 21
1.2.3. Hình thức giải quyết tranh chấp ............................................................. 23
1.2.4. Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp ......................... 26

CHƯƠNG 2: NỘI DUNG, THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VỀ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN................. 30
2.1. Cơ sở pháp lý của việc giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng
khoán.......................................................................................................................... 30
2.2. Thẩm quyền trong giải quyết tranh chấp ....................................................... 32
2.2.1. Hình thức thương lượng .......................................................................... 32
2.2.2. Hình thức hòa giải hòa giải..................................................................... 34
2.2.3. Hình thức trọng tài .................................................................................. 38
2.2.4. Hình thức tòa án ...................................................................................... 40
GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

SVTH: Nguyễn Anh Phương
1


Nghiên cứu về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán
2.3. Quy trình giải quyết tranh chấp ..................................................................... 45
2.3.1. Quy trình giải quyết tranh chấp bằng hòa giải ....................................... 45
2.3.2. Quy trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ...................................... 50
2.3.3. Quy trình giải quyết tranh chấp bằng tòa án .......................................... 54
2.4. Hình thức phán quyết và biện pháp xử lý của cơ quan có thẩm quyền..... 58

2.4.1. Phán quyết của trọng tài.......................................................................... 59
2.4.2. Phán quyết của tòa án ............................................................................. 61
2.5. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp trên thị
trường chứng khoán ............................................................................................... 62
2.6. Một số đề xuất cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp
trên thị trường chứng khoán ................................................................................. 66
2.6.1. Quy định rõ về việc xác định thiệt hại để xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại trong các vụ tranh chấp .......................................................... 66
2.6.2. Nâng cao hiệu lực của biên bản hòa giải thành nhằm phát huy ưu điểm
của phương thức hòa giải.................................................................................. 69
2.6.3. Hợp lý hóa thủ tục giải quyết bằng tòa án đối với các tranh chấp phát
sinh trên thị trường chứng khoán ...................................................................... 71
2.6.4. Tăng cường hoạt động thanh tra, giám sát của Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước đối với thị trường chứng khoán ................................................................ 72
2.6.5. Nâng cao vai trò hoạt động của các trung tâm trọng tài và thành lập
trung tâm trọng tài trong lĩnh vực chứng khoán ............................................... 74
2.6.6. Chuẩn hóa đội ngũ cán bộ thành viên tham gia công tác giải quyết tranh
chấp ................................................................................................................... 75
2.6.7. Nâng cao trình độ hiểu biết của công chúng về pháp luật liên quan đến
tranh chấp và giải quyết tranh chấp.................................................................. 76

KẾT LUẬN .................................................................................................................. 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................ 79

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

SVTH: Nguyễn Anh Phương
2



Nghiên cứu về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, vấn đề lớn nhất đặt
lên hàng đầu đó là cung ứng nguồn vốn cho nền kinh tế và thị trường chứng khoán
chính là giải pháp cho vấn đề này. Việc ra đời thị trường chứng khoán Việt Nam vào
tháng 07 năm 2000 được coi như một mốc phát triển quan trọng và tất yếu của hệ thống
tài chính hiện đại. Phát triển và đảm bảo sự ổn định của thị trường chứng khoán luôn là
mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia trên thế giới bởi thị trường chứng khoán giúp
khơi thông các nguồn vốn trong xã hội và phân bổ một cách có hiệu quả các nguốn vốn
này vào những dự án đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Tuy nhiên, một thị
trường chứng khoán sẽ không thể đóng vai trò là trung tâm huy động và phân bổ nguồn
vốn có hiệu quả cho nền kinh tế khi các nhà đầu tư, kinh doanh không có niềm tin vào
thị trường này hay nói cách khác là tiền bạc và các quyền lợi gắn liền của họ không
được tôn trọng và bảo vệ.
Để bảo đảm cho thị trường chứng khoán được vận hành an toàn, có hiệu quả,
công khai, công bằng, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức
tham gia thị trường và duy trì được sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường thì mọi
quan hệ phát sinh trong lĩnh vực này đều cần phải có sự điều chỉnh của pháp luật, phải
có một khung pháp lý đồng bộ cho hoạt động của thị trường.
Trong những năm qua, các cơ quan nhà nước đã có nhiều cố gắng trong việc xây
dựng khung pháp lý đồng bộ cho hoạt động của thị trường. Bên cạnh việc xây dựng các
văn bản pháp quy để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trên các lĩnh vực phát hành, kinh
doanh, dịch vụ chứng khoán… thì việc kịp thời ban hành các quy định về giải quyết
tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán là một tất yếu khách
quan. Hoạt động quản lý, phát hành, kinh doanh, dịch vụ chứng khoán chỉ thực sự có
hiệu quả và thị trường chứng khoán chỉ hoạt động an toàn, công bằng khi những tranh
chấp trên thị trường chứng khoán được giải quyết kịp thời.


GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

SVTH: Nguyễn Anh Phương
3


Nghiên cứu về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán
Thực tiễn cho thấy có rất nhiều vấn đề có thể nảy sinh tranh chấp trong hoạt
động chứng khoán như: việc thực hiện hợp đồng đã cam kết giữa công ty chứng khoán
với nhà đầu tư; các hoạt động về cầm cố, thế chấp với thành viên lưu ký; hoạt động ủy
quyền giữa nhà đầu tư với công ty chứng khoán hoặc giữa những nhà đầu tư với nhau…
Hiện nay, pháp luật về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán mới chỉ đặt ra
những quy định chung nhất. Do vậy, việc tìm ra giải pháp cho việc hoàn thiện các quy
định về giải quyết tranh chấp nói chung và tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán nói
riêng là một nhiệm vụ rất quan trọng cho cả trước mắt và lâu dài trong quá trình phát
triển thị trường chứng khoán Việt Nam. Vì vậy, người viết chọn đề tài “Nghiên cứu về
giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán” để làm luận văn tốt nghiệp của
mình nhằm góp phần vào sự phát triển ổn định và bền vững của thị trường chứng khoán
Việt Nam trong thời buổi hội nhập kinh tế.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài “Nghiên cứu về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán”
nhằm tìm hiểu những quy định cụ thể của pháp luật về giải quyết tranh chấp trên thị
trường chứng khoán đồng thời tìm ra những vướng mắc, bất cập của pháp luật về giải
quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán. Từ đó, người viết đưa ra những ý kiến
đóng góp nhằm mục tiêu hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp trên thị trường
chứng khoán, góp phần bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của những chủ thể tham
gia thị trường, làm cho thị trường chứng khoán hoạt động công bằng, công khai, minh
bạch, thông qua đó tạo lực hút thu hút, phân bổ nguồn vốn có hiệu quả cho nền kinh tế,
trở thành một kênh huy động vốn trung và dài hạn hiệu quả, lành mạnh.
3. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, người viết đã sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp,
phương pháp so sánh, phương pháp phân tích luật viết. Thông qua các hình thức như:
thu thập thông tin, tài liệu của các văn bản quy phạm pháp luật, các giáo trình của các
trường đại học, của các chuyên gia kinh tế và các thông tin tham khảo trên Internet, các
tạp chí chuyên ngành.

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

SVTH: Nguyễn Anh Phương
4


Nghiên cứu về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về các quy định của pháp luật về giải quyết tranh
chấp trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Trong phạm vi đề tài, người viết chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu trong nội dung
các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán Việt
Nam kể từ khi thị trường chứng khoán chính thức đi vào hoạt động cho đến nay (từ
ngày 28/07/2000 cho đến nay).
5. Bố cục đề tài
Kết cấu đề tài gồm có 3 phần chính: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết
luận. Trong đó phần nội dung gồm có 2 Chương:
Chương 1: Lý luận chung về tranh chấp và giải quyết tranh chấp trên thị
trường chứng khoán
Trong chương này người viết trình bày các khái niệm cần thiết và cơ bản về
tranh chấp và giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán. Từ đó làm cơ sở để
người viết tìm hiểu những quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động giải quyết tranh
chấp và đưa ra một số đề xuất hoàn thiện được trình bày ở Chương 2.
Chương 2: Nội dung, thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp trên thị

trường chứng khoán và một số đề xuất
Người viết tập trung trình bày, phân tích những quy định của pháp luật chứng
khoán và pháp luật có liên quan điều chỉnh thẩm quyền trong giải quyết tranh chấp, quy
trình giải quyết tranh chấp, hình thức phán quyết và biện pháp xử lý của cơ quan có
thẩm quyền, kèm theo những phân tích đó là những vướng mắc, thực trạng của những
quy định này. Để từ đó nhìn thấy được những khiếm khuyết của luật trong việc quy
định và điều chỉnh vấn đề giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán, làm cơ sở
để người viết trình bày những yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật về giải
quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán hiện nay và đưa ra một số đề xuất nhằm
hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán.

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

SVTH: Nguyễn Anh Phương
5


Nghiên cứu về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRANH CHẤP VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1. Tranh chấp trên thị trường chứng khoán
1.1.1. Khái niệm
Thị trường chứng khoán (TTCK) có thể được xem là “bộ mặt” của mỗi quốc gia
phát triển. Nhìn vào TTCK của một nước, người ta có thể đánh giá sự tăng trưởng kinh
tế của quốc gia đó. TTCK tự thân đã khẳng định là một bộ phận cấu thành không thể
thiếu của nền kinh tế thị trường, là đòn bẩy kích thích đầu tư và sự tăng trường kinh tế.
Nhưng do bản chất của thị trường này là một loại thị trường đặc biệt, là nơi phát hành,
chuyển nhượng, mua bán chứng khoán, được coi là môi trường đầu tư kinh doanh phức
tạp và nhạy cảm, số lượng người tham gia đông đảo, giá trị đầu tư lớn cùng độ rủi ro

cao, kéo theo tính cạnh tranh gay gắt trong các mối quan hệ lợi ích được thiết lập trên
thị trường nên tranh chấp phát sinh là hiện tượng tất yếu xảy ra.
Thuật ngữ “tranh chấp” được hiểu là sự bất đồng chính kiến, xung đột lợi ích
giữa các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật. Tranh chấp hiểu theo nghĩa
chung nhất dưới góc độ pháp lý là những xung đột, bất đồng về quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật[1].
Với tiêu chí cơ bản giải quyết tranh chấp trên TTCK, nhiệm vụ quan trọng đặt ra
cho nhà nghiên cứu và các chuyên gia là phải xác định được đầy đủ nội hàm “tranh
chấp trên TTCK”. Việc xác định này có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình giải
quyết tranh chấp. Trước hết, xác định tiêu chí nhận diện tranh chấp trên TTCK để phân
biệt với các khiếu nại hành chính về chứng khoán. Thứ hai, khi đã xác định là tranh
chấp TTCK, các chủ thể có liên quan dễ dàng xác định cơ quan có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp và trình tự tố tụng phù hợp.

TS. Dương Nguyệt Nga, Các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo pháp
luật Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, tạp chí Tòa án nhân dân số 16/2007, Trg.04
1

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

SVTH: Nguyễn Anh Phương
6


Nghiên cứu về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán
Luật hiện hành quy định “Tranh chấp phát sinh trong hoạt động chứng khoán và
thị trường chứng khoán tại Việt Nam có thể được giải quyết thông qua thương lượng,
hoà giải hoặc yêu cầu trọng tài hoặc toà án giải quyết theo quy định của pháp luật” [2].
Nhưng như thế nào được gọi là tranh chấp trong hoạt động chứng khoán thì luật vẫn
chưa có quy định cụ thể. Thiết nghĩ, đó cũng là điều hiển nhiên vì có lẻ do tính đa dạng,

phức tạp trong các mối quan hệ được thiết lập giữa các chủ thể trên loại thị trường đặc
biệt này nên nhà làm luật không thể liệt kê cụ thể các tranh chấp có thể phát sinh.
Như vậy, nếu căn cứ vào quy định luật hiện hành thì không thể làm rõ được
thuật ngữ “tranh chấp trên TTCK” và loại tranh chấp này có thể sẽ có nhiều quan điểm
nhận diện khác nhau.
Theo TS. Đinh Dũng Sĩ cho rằng: “tranh chấp về chứng khoán không chỉ có các
tranh chấp về mua bán chứng khoán mà còn có nhiều tranh chấp khác về sở hữu, về
phát hành, về quản lý, về giám sát...”. Nhưng TS. Phạm Thị Giang Thu nhận xét về
cách nhìn nhận tranh chấp này là “rộng” bởi lẽ bao hàm cả nội dung liên quan đến quản
lý nhà nước, kiểm tra, giám sát. Nếu coi đó là tranh chấp thì các tranh chấp này không
chỉ đơn thuần là tranh chấp kinh tế[3].
Theo người viết, tranh chấp phát sinh trên TTCK là một trong những loại tranh
chấp về kinh tế (kinh doanh, thương mại) chỉ xuất hiện khi TTCK ra đời và các tranh
chấp này rất đa đạng như: tranh chấp giữa công ty chứng khoán với khách hàng, giữa
các công ty chứng khoán thành viên với nhau, tranh chấp giữa công ty chứng khoán với
tổ chức phát hành… Các tranh chấp này liên quan đến rất nhiều lĩnh vực như phát hành,
kinh doanh, giao dịch chứng khoán. Trong mỗi loại tranh chấp này lại được biểu hiện
dưới các hình thức khác nhau. Ví dụ như tranh chấp giữa công ty chứng khoán với
khách hàng có các tranh chấp về việc không tách bạch nguồn tiền và chứng khoán của
khách hàng với tài sản của công ty, không ưu tiên thực hiện lệnh mua, bán của khách
hàng trước lệnh mua, bán của công ty…
Luật chứng khoán 2006 (Đã dược sửa đổi, bổ sung một số điều bằng uật số 62/2010/QH12) (sau đây
gọi là Luật chứng khoán 2006)
3
TS. Phạm Thị Giang Thu, Hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán,
Tạp chí Luật học số 03/2002, NXB Đại học luật Hà Nội, Trg.43
2

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu


SVTH: Nguyễn Anh Phương
7


Nghiên cứu về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán
Xét về mặt lý thuyết, tranh chấp về chứng khoán tuy có nhiều điểm tương đồng
với hầu hết các loại tranh chấp trong lĩnh vực khác. Nhưng ở mức khái quát, có thể
nhận diện tranh chấp này thông qua một số dấu hiệu mang tính đặc trưng sau:
Thứ nhất, về phạm vi chủ thể: Chủ thể của tranh chấp trên TTCK phải là các tổ
chức, cá nhân tham gia TTCK. Tổ chức, cá nhân được coi là tham gia TTCK khi họ
thực hiện một số hoạt động mà theo quy định của pháp luật những hoạt động đó chỉ
được phép diễn ra trên TTCK. Các chủ thể này bao gồm:
† Tổ chức phát hành thực hiện hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng.
Đó là các tổ chức cần vốn và thực hiện huy động vốn thông qua việc cung cấp các
chứng khoán - hàng hóa của TTCK. Thông thường tổ chức phát hành gồm: Chính phủ
và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu chính phủ và trái phiếu địa
phương; doanh nghiệp là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp; các tổ
chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như: các trái phiếu, chứng chỉ thụ
hưởng… phục vụ cho hoạt động của họ[4].
† Tổ chức kinh doanh chứng khoán: bao gồm công ty chứng khoán và công ty
quản lý quỹ đầu tư chứng khoán thực hiện một số nghiệp vụ như: môi giới, tự doanh,
bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán.
† Nhà đầu tư gồm các tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư vào TTCK
thông qua việc mua và bán chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời;
† Ngân hàng giám sát, ngân hàng chỉ định thanh toán;
† Tổ chức lưu ký chứng khoán;
† Trung tâm (Sở) giao dịch chứng khoán và các thành viên (các công ty chứng
khoán).
Thứ hai, về đối tượng tranh chấp. Đối tượng tranh chấp trên TTCK là quyền và
lợi ích giữa các chủ thể có được do TTCK. Đối tượng của tranh chấp trên TTCK bao

gồm hai nhóm: Nhóm thứ nhất bao gồm các quyền và lợi ích phát sinh trên TTCK dựa
trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên, thường được ghi nhận trong các bản hợp đồng do
các bên ký kết như hợp đồng bảo lãnh phát hành chứng khoán, hợp đồng tư vấn chứng
4

TS. Bạch Đức Hiển, Giáo trình Thị trường chứng khoán, NXB Tài chính 2008, Trg.22

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

SVTH: Nguyễn Anh Phương
8


Nghiên cứu về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán
khoán… Nhóm thứ hai bao gồm các quyền và lợi ích mặc nhiên phát sinh giữa các chủ
thể tham gia TTCK trên cơ sở quy định của pháp luật.
Thứ ba, về giá trị của tranh chấp. Không giống như việc xác định giá của các
hàng hóa giao dịch trên các loại thị trường thông thường, giá trị của chứng khoán phụ
thuộc vào nhiều yếu tố khác như thông tin thị trường, tâm lý của nhà đầu tư, tình hình
kinh tế, chính trị… và quan trọng hơn, giá chứng khoán thường không ổn định. Do vậy,
việc xác định giá trị của tranh chấp (nếu có) phát sinh trên TTCK hoàn toàn không dễ
dàng nếu xuất phát từ thời điểm, tiêu chí đánh giá khác nhau. Nhìn chung, các tranh
chấp xảy ra trên TTCK thường liên quan đến việc một bên bị thiệt hại do sự biến động
giá chứng khoán có chủ ý từ bên kia.
Từ những nhận định trên, có thể kết luận: “tranh chấp trên thị TTCK là những
xung đột về quyền và lợi ích phát sinh giữa các chủ thể khi tham gia TTCK và được thể
hiện ra bên ngoài dưới dạng nhu cầu cần giải quyết thông qua hình thức nhất định theo
quy định của pháp luật”. Tranh chấp trên TTCK không bao gồm về việc khiếu nại,
khiếu kiện hành chính trên TTCK.
1.1.2. Nguyên nhân phát sinh tranh chấp

Trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK, quan hệ pháp luật về tranh chấp chỉ phát
sinh khi một trong hai bên chủ thể của không thực hiện đúng cam kết đã thỏa thuận
(thường được thể hiện bằng hợp đồng). Việc không thực hiện đúng cam kết có thể do
nhiều nguyên nhân khách nhau. Đó có thể là nguyên nhân khách quan không phụ thuộc
vào ý chí con người như: thiên tai, điều kiện thị trường thay đổi… hoặc cũng có thể là
hành vi chủ quan của các bên như: cố tình không thực hiện đúng những điều khoản đã
cam kết trong hợp đồng hoặc không thực hiện những điều đã cam kết…
Như vậy, tranh chấp xuất hiện bởi nhiều lý do khác nhau, cả nguyên nhân chủ
quan và cả nguyên nhân khách quan. Có thể phân tích một vài nguyên nhân sau đây:
Do sự thúc đẩy của lợi nhuận. Có thể nhận thấy, nhà nước dù tham gia trên thị
trường nào đi chăng nữa thì mục tiêu lợi nhuận không được đặt ra trực tiếp, mà chủ yếu
để thực hiện các nhiệm vụ, chính sách của nhà nước trong giai đoạn nhất định. Còn
người dân, các nhà đầu tư, kinh doanh thì lại lấy mục tiêu lợi nhuận đặt lên hàng đầu và
GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

SVTH: Nguyễn Anh Phương
9


Nghiên cứu về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán
hoạt động trên nguyên tắc “mạnh ai người nấy thắng”. Và vì mục tiêu lợi nhuận họ có
thể thực hiện các hành vi trái pháp luật, trái với quy luật của thị trường, xâm phạm tới
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác, đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
tranh chấp.
Sự hạn chế kiến thức pháp luật. Không riêng gì TTCK, mà hầu hết trong các lĩnh
vực kinh doanh khác, không phải chủ thể nào khi tham gia hoạt động đầu tư, kinh
doanh đều có thể nắm vững được những quy định của pháp luật, có những chủ thể
không có khả năng hiểu và tiếp cận được với các quy định của luật, đặc biệt là những
quyền và nghĩa vụ pháp lý cơ bản của họ. Vì vậy, tranh chấp có thể xảy ra khi những
chủ thể này tham gia đầu tư trên TTCK nhưng không “đầu tư” cho kiến thức pháp luật

điều chỉnh các quan hệ của họ.
Ý thức pháp luật chưa cao. Nhìn chung, đa phần các nhà kinh doanh còn thiếu ý
thức pháp luật do coi trọng lợi ích của bản thân, chạy đua cạnh tranh, cố ý trốn tránh
trách nhiệm khi sai phạm mà không thực hiện đúng quy định của pháp luật về kinh
doanh. Chính vì thế, việc phát sinh các tranh chấp là điều không tránh khỏi.
Pháp luật vẫn còn nhiều khoảng trống. Không thể phủ nhận rằng pháp luật vốn
có vai trò và bổn phận dẫn dắt hành vi xử sự của con người trong xã hội hướng tới sự
thỏa mãn các nhu cầu riêng của từng chủ thể pháp luật cũng như các lợi ích chung
mang tính cộng đồng[5]. Pháp luật của Việt Nam nói riêng và các nước trên thế giới nói
chung vẫn còn nhiều kẻ hở không thể bao quát hết được các quan hệ có thể xảy ra trong
hoạt động kinh doanh, đặc biệt là đối với TTCK - một thị trường sôi động với các quan
hệ đa dạng, phức tạp. Nếu các quy định của luật pháp chưa được đầy đủ, rõ ràng thì các
chủ thể tham gia TTCK sẽ không có điều kiện để lựa chọn cách hành xử có lợi nhất cho
mình hoặc sẽ gây bất lợi cho lợi ích của người khác, họ phải “bơi” trong một môi
trường pháp lý kém chuẩn mực, thiếu tính định hướng chiến lược và chưa tương thích
với môi trường giao thương quốc tế đương đại. Ví dụ như thuật ngữ biến động bất
thường, thuật ngữ này nếu không được giải thích và giới hạn phạm vi cụ thể sẽ dẫn đến
TS. Nguyễn Văn Tuyến, Tính hiệu quả của Luật chứng khoán - sự tiếp cận từ góc độ kinh tế học pháp
luật, Tạp chí Luật học số 08/2006, NXB Đại học luật Hà Nội, Trg.54
5

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

SVTH: Nguyễn Anh Phương
10


Nghiên cứu về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán
tình trạng các bên giải thích thuật ngữ theo hướng có lợi cho mình, đó chính là một
trong những nguyên nhân dẫn đến tranh chấp.

Chính vì những lý do đa dạng này mà tranh chấp giữa các nhà đầu tư, kinh
doanh trên TTCK là đương nhiên xảy ra. Vì vậy, pháp luật luôn hướng đến mục tiêu
hạn chế nó, khắc phục hậu quả nó có thể xảy ra và pháp luật cho phép các bên tranh
chấp có quyền lựa chọn những biện pháp khác nhau để giải quyết tranh chấp.
1.1.3. Phân loại
Hoạt động chứng khoán diễn ra trên rất nhiều lĩnh vực như phát hành, kinh
doanh, giao dịch chứng khoán. Để những hoạt động này đạt hiệu quả, đòi hỏi các chủ
thể tham gia phải thực hiện tốt các cam kết trong hợp đồng. Tuy nhiên không phải lúc
nào cũng như vậy, nếu một trong hai bên vì lý do khách quan hay chủ quan đã không
thực hiện đúng hợp đồng, khi đó tranh chấp sẽ xảy ra. Tranh chấp về hoạt động chứng
khoán có rất nhiều loại:
† Căn cứ vào sự luân chuyển nguồn vốn:
Tranh chấp trên thị trường sơ cấp: là tranh chấp về quyền và lợi ích giữa các
chủ thể tham gia thị trường giao dịch các loại chứng khoán mới phát hành. Tranh chấp
trong giai đoạn này rất đa dạng, có thể liên quan tới các chủ thể tham gia vào phát hành
ra công chúng hoặc liên quan tới việc mua bán chứng khoán của nhà phát hành và các
cổ đông hiện hữu, tranh chấp đối với các chứng khoán phát hành riêng lẻ.
Tranh chấp trên thị trường thứ cấp: là tranh chấp về quyền và lợi ích của các
chủ thể tham gia thị trường giao dịch chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ
cấp. Thông thường, tranh chấp trên thị trường này được chia thành bốn nhóm. Nhóm
tranh chấp phát sinh giữa các nhà đầu tư với nhau; nhóm các tranh chấp phát sinh từ
việc hỗ trợ cho hoạt động hỗ trợ cho việc giao dịch chứng khoán như: hoạt dộng đăng
ký, lưu ký, thanh toán, bù trừ, hoạt động giám sát của ngân hàng giám sát, hoạt động tổ
chức thị trường giao dịch chứng khoán; nhóm các tranh chấp phát sinh từ hoạt động
kinh doanh, cung cấp dịch vụ của các tổ chức trung gian như: tư vấn, môi giới, tự
doanh, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán; nhóm

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

SVTH: Nguyễn Anh Phương

11


Nghiên cứu về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán
các tranh chấp liên quan dến hoạt động của công ty có chứng khoán giao dịch trên thị
trường thứ cấp.
† Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường:
Tranh chấp trên thị trường tập trung. Xuất phát từ nguyên tắc trung gian của
thị trường tập trung, các chủ thể thực hiện giao dịch, hưởng các quyền có liên quan đến
chứng khoán khác so với các giao dịch thông thường, làm cho nguy cơ xảy ra tranh
chấp trong khoảng thời gian các chủ thể tham gia giao dịch lớn. Thực tế trên TTCK
trong thời gian qua cho thấy nhiều trường hợp, quyền lợi của các bên không đảm bảo,
nếu không tự "thu xếp" được thì tranh chấp sẽ xảy ra, đa số các tranh chấp xảy ra giữa
công ty chứng khoán với khách hàng là thường liên quan đến hoạt động tư vấn, môi
giới chứng khoán.
Tranh chấp ngoài thị trường tập trung. Do đặc điểm của TTCK Việt Nam và
ngay cả tâm lý của các nhà đầu tư Việt Nam, giao dịch về chứng khoán ngoài thị trường
tập trung sẽ tồn tại trong thời gian lâu dài và chiếm tỉ trọng không nhỏ trong tổng giá trị
chứng khoán được giao dịch. Nếu như các giao dịch tại thị trường tập trung còn có
những chuẩn mực nhất định, có sự quản lý nhà nước ở mức độ nhất định thì giao dịch
tại thị trường này có độ rủi ro cao, tính tự do thể hiện ở rất nhiều khía cạnh khác nhau.
Bằng những phân tích trên người viết muốn chỉ ra nguy cơ tiềm tàng của các tranh chấp
liên quan đến chứng khoán tại bộ phận thị trường này. Đời sống pháp lý liên quan đến
chứng khoán ở TTCK Việt Nam đã chỉ ra rằng tranh chấp trên TTCK đầu tiên diễn ra
liên quan đến thị trường riêng lẻ mà không phải là thị trường tập trung. Trường hợp của
công ty cổ phần Hữu Nghị, Ngân hàng cổ phần ACB đã cho chúng ta thấy điều đó.
† Căn cứ vào chủ thể:
Thứ nhất, tranh chấp giữa nhà đầu tư với các tổ chức có liên quan
Do tính chất đa dạng trong các quan hệ được thiết lập giữa nhà đầu tư với các tổ
chức có liên quan nên cũng có rất nhiều loại tranh chấp nảy sinh. Các loại tranh chấp

này gồm: tranh chấp về hợp đồng mở tài khoản giữa công ty chứng khoán với khách
hàng; môi giới chứng khoán; tư vấn đầu tư chứng khoán… tranh chấp về quản lý danh
mục đầu tư; cầm cố chứng khoán.
GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

SVTH: Nguyễn Anh Phương
12


Nghiên cứu về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán
Thứ hai, tranh chấp giữa các tổ chức tham gia thị trường chứng khoán
Công ty chứng khoán có thể tranh chấp với công ty chứng khoán khác trong các
hoạt động kinh doanh, môi giới, bảo lãnh phát hành (đồng bảo lãnh) khi tiến hành tự
doanh; tranh chấp với với tổ chức lưu ký về quyền và lợi ích liên quan đến chứng khoán
lưu ký… tranh chấp với ngân hàng chỉ định thanh toán trong trường hợp thực hiện các
lệnh thanh toán.
Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán này tranh chấp với công ty quỹ đầu tư
chứng khoán khác trong quá trình chuyển giao/chuyển nhượng hoạt động quản lý quỹ
đầu tư; tranh chấp giữa công ty quản lý quỹ với công ty chứng khoán trong quá trình
đặt mua, bán chứng khoán với tư cách là nhà đầu tư chuyên nghiệp… tranh chấp giữa
công ty quản lý quỹ với ngân hàng giám sát về những yêu cầu hoặc kết luận của ngân
hàng giám sát về quá trình quản lý quỹ của công ty quản lý quỹ.
Tranh chấp về quyền và lợi ích giữa Trung tâm (Sở) giao dịch chứng khoán với
các thành viên. Khi tiến hành hoạt động chứng khoán, Trung tâm (Sở) giao dịch có thể
gây ra thiệt hại cho các công ty thành viên hoặc có những hoạt động không đảm bảo lợi
ích của hai bên, đó chính là nguy cơ gây ra tranh chấp giữa hai loại chủ thể này. Ví dụ
như tranh chấp giữa công ty chứng khoán trong hoạt động niêm yết chứng khoán tại các
các Trung tâm (Sở) giao dịch.
Thứ ba, tranh chấp giữa tổ chức phát hành với các tổ chức khác. Có các tranh
chấp về thực hiện cam kết bảo lãnh phát hành chứng khoán hoặc đại lý phát hành; tranh

chấp liên quan đến tư vấn phát hành chứng khoán… tranh chấp về quyền, lợi ích có liên
quan đến các chứng khoán mà mà công ty chứng khoán tự doanh đang nắm giữ.
Các loại tranh chấp khác. Tranh chấp về hợp đồng giữa tổ chức phát hành trái
phiếu với đại diện người sở hữu trái phiếu; hợp đồng mở tài khoản giữa thành viên lưu
ký là ngân hàng và khách hàng… tranh chấp về hợp đồng mà một bên tham gia là các
tổ chức, cá nhân nước ngoài.
Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trong hoạt động chứng
khoán và TTCK có thể phát sinh những tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng. Đó thường là thiệt hại do người của các pháp nhân gây ra trong khi thực hiện
GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

SVTH: Nguyễn Anh Phương
13


Nghiên cứu về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán
nhiệm vụ được giao. Về nguyên tắc thì sau khi pháp nhân đã bồi thường thiệt hại thì có
quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây ra thiệt hại phải hoàn trả số tiền mà pháp
nhân đã bồi thường cho người bị thiệt hại. Thực tế, việc thực hiện nghĩa vụ này có thể
phát sinh tranh chấp.
1.1.4. Sự cần thiết phải giải quyết tranh chấp
TTCK là kênh huy động vốn trung và dài hạn thông qua trung gian chủ yếu phục
vụ cho nhu cầu đầu tư phát triển nền kinh tế, nó đóng vai trò thiết yếu trong việc huy
động, phân phối và kiển soát vốn một cách có hiệu quả trong nền kinh tế hiện đại. Đây
là thị trường phức tạp, hoạt động mang tính riêng biệt với các quy luật chi phối khá
khắc nghiệt so với các thị trường khác. Hoạt động của thị trường có thể ảnh hưởng toàn
diện đến tình hình phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia và tùy thuộc vào
trình độ phát triển nền kinh tế thị trường của mỗi nước sẽ có tác động, ảnh hưởng đến
môi trường và thị trường quốc tế.
Những ưu việt của TTCK là thông qua thị trường này Chính phủ, các doanh

nghiệp và các tổ chức kinh tế có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu để huy động vốn cho
sản xuất, kinh doanh, cho đầu tư phát triển, cho các nhu cầu khác của ngân sách nhà
nước, khuyến khích tiết kiệm và đầu tư, phát triển thông qua thu nhập, lợi tức và giá cả
cổ phiếu, trái phiếu. Thông qua TTCK, nhà đầu tư chứng khoán lựa chọn đầu tư khoản
tiền tiết kiệm của mình vào những lĩnh vực kinh tế, những doanh nghiệp làm ăn có hiệu
quả. TTCK cũng thúc đẩy, khuyến khích cạnh tranh phát triển thông qua giá cả cổ
phiếu, trái phiếu, từ đó doanh nghiệp tự điều chỉnh lại sản xuất kinh doanh. Ngoài ra,
TTCK còn là công cụ để tham gia hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới.
Bên cạnh những ưu việt nêu trên, TTCK cũng có những mặt trái của nó. Do
TTCK là một thể chế tài chính bậc cao, rất nhạy cảm của nền kinh tế thị trường, luôn
tiền ẩn rủi ro và bất ổn định nên mỗi hành vi vi phạm trên TTCK hay mỗi tranh chấp về
quyền và lợi ích của nhà đầu tư nếu không được xử lý và giải quyết kịp thời sẽ góp
phần làm mất ổn định thị trường dẫn đến thị trường bị chao đảo và sụp đổ. Vì vậy, các
nhà quản lý thị trường cần phải có biện pháp ngăn ngừa và hạn chế những khuyết tật,
rủi ro của TTCK nhằm mục đích đảm bảo cho thị trường hoạt động an toàn, công bằng,
GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

SVTH: Nguyễn Anh Phương
14


Nghiên cứu về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán
minh bạch và giảm thiểu rủi ro hệ thống, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu
tư.
Vấn đề giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực chứng khoán đã được Luật
chứng khoán ở một số nước quy định và đưa ra các hình thức, căn cứ giải quyết tranh
chấp trong hoạt động kinh doanh chứng khoán như: Luật chứng khoán (1933), Luật
giao dịch chứng khoán (1934), Luật chứng khoán Chính Phủ (1986), Luật Công ty,
Luật bảo vệ nhà đầu tư của Mỹ; Luật chứng khoán (1948 sửa đổi, bồ sung 1992), Luật
Tín thác đầu tư (1957), Luật Công ty (1971), Luật Quản lý tư vấn đầu tư chứng khoán

(1986) của Nhật Bản; Luật chứng khoán (1998 sửa đổi, bồ sung 2004) và Luật trọng tài
(1995) của Trung Quốc; Luật chứng khoán của Thái Lan, Luật chứng khoán của Hàn
Quốc… Các luật này là cơ sở giải quyết tranh chấp trong tất cả các lĩnh vực kinh
doanh, dịch vụ về chứng khoán.
Ở Việt Nam, vấn đề giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực thương mại được quy
định tại Điều 29 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2005 (BLTTDS), trong đó vấn đề giải quyết
tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực chứng khoán được quy định tạị Điều 131 Luật
chứng khoán. Những văn bản quy phạm pháp luật này chỉ mới dừng lại ở những quy
định mang tính nguyên tắc, chung chung chưa rõ ràng, cụ thể.
Thực tế các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực chứng khoán rất hay xảy ra và
việc giải quyết các tranh chấp này ở các nước có TTCK thường gặp không ít khó khăn
do tính chất đặc thù của loại tranh chấp đó. Nói chung, việc giải quyết tranh chấp trong
lĩnh vực chứng khoán đòi hỏi phải được tiến hành nhanh gọn, kịp thời với thủ tục đơn
giản, chặt chẽ, ít tốn kém chi phí và được tiến hành bởi một cơ quan có chuyên môn cao
về TTCK. Vì vậy, việc tiến hành giải quyết các tranh chấp này nếu theo trình tự, thủ tục
và cơ quan giải quyết tranh chấp như đối với các tranh chấp thông thường khác thì sẽ
không đáp ứng được yêu cầu.
Thêm nữa, đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Khi tiến hành đầu tư vào Việt
Nam, ngoài các yếu tố đảm bảo về mặt pháp lý cho hoạt động kinh hoanh, hiệu quả
kinh doanh thì các chủ đầu tư cũng đặc biệt quan tâm đến việc giải quyết tranh chấp
phát sinh trong hoạt động kinh doanh. Giải quyết tranh chấp nhanh chóng, có hiệu lực
GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

SVTH: Nguyễn Anh Phương
15


Nghiên cứu về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán
mới bảo đảm quyền lợi chính đáng của họ, có như vậy mới tạo được lòng tin cho nhà
đầu tư, từ đó thu hút được nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường Việt Nam, góp

phần phát triển nền kinh tế.
Tóm lại, để tạo điều kiện cho TTCK hoạt động công bằng, công khai, minh bạch
và bảo vệ nhà đầu tư, tạo điều kiện để thúc đẩy, phát triển nền kinh tế, việc đặt ra những
quy định cụ thể về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán và giải quyết
nhanh chóng, kịp thời các tranh chấp này sẽ góp phần vào sự ổn định và phát triển của
TTCK. Đó là yêu cầu cần thiết và cấp bách trong thời kì hội nhập.
1.1.5. Chủ thể có quyền và nghĩa vụ liên quan đến tranh chấp
Các chủ thể hoạt động trên TTCK rất đa dạng. Bên cạnh những chủ thể là các cơ
quan quản lý Nhà nước còn có các chủ thể là cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước như:
nhà đầu tư, tổ chức phát hành chứng khoán, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ
đầu tư, các công ty liên doanh… Tuy nhiên, chủ thể có quyền và nghĩa vụ liên quan đến
tranh chấp chỉ là những cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước tham gia trên thị trường.
Cụ thể là:
Thứ nhất, nhóm chủ thể là nhà đầu tư
Luật chứng khoán được áp dụng chung cho tất cả các tổ chức, cá nhân trong
nước và nước ngoài tham gia đầu tư và hoạt động trên TTCK Việt Nam, tuy nhiên, có
quy định trường hợp Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác với
quy định của Luật chứng khoán thì áp dụng Điều ước quốc tế đó[6].
Như vậy, theo khái niệm nêu trên thì nhà đầu tư có thể được hiểu là cá nhân, tổ
chức trong và ngoài nước. Tùy theo đối tượng đầu tư mà pháp luật quy định chế độ
pháp lý khác nhau cho phù hợp để đảm bảo sự quản lý của Nhà nước và sự an toàn,
bình đẳng của TTCK.

· Đối với cá nhân:
Tư cách pháp lý của cá nhân trong nước có thể tham gia quan hệ mua bán, giao
dịch chứng khoán hiện nay pháp luật chưa quy định cụ thể. Nhưng theo quy định của
Bộ luật Dân sự 2005 thì người đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có
6

Khoàn 2 Điều 3, Khoản 10 Điều 6 Luật chứng khoán 2006


GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

SVTH: Nguyễn Anh Phương
16


Nghiên cứu về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán
thể tham gia vào các quan hệ pháp luật. Ngoài ra, pháp luật còn quy định “trong trường
hợp người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có tài sản riêng để đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ dân sự thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không cần
phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác”[7] Như vậy, theo quy định luật thì đương nhiên người đủ 18 tuổi có quyền
tham gia vào các giao dịch chứng khoán, còn người từ đủ 15 tuổi đến 18 tuổi nếu có tài
sản riêng đảm bảo thì cũng có thể tham gia vào các quan hệ này.
Tư cách pháp lý của cá nhân nước ngoài tham gia vào các quan hệ pháp luật dân
sự hiện nay luật cũng chưa có quy định cụ thể (trừ một số Hiệp định về tương trợ tư
pháp được ký kết giữa Việt Nam và một số nước). Việc xác định cá nhân nước ngoài
tham gia đầu tư trên TTCK được quy định tại Quy chế hoạt động của nhà đầu tư nước
ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam (Ban hành kèm theo Quyết định số
121/2008/QĐ-BTC ngày 24/08/2008 của Bộ trưởng Bộ Tài chính), theo đó nhà đầu tư
nước ngoài là cá nhân được xác định là người có quốc tịch nước ngoài, cư trú tại nước
ngoài hoặc tại Việt Nam, bao gồm cả người gốc Việt Nam có quốc tịch nước ngoài.
Tuy nhiên, trên thực tế, cá nhân muốn tham gia trước hết họ phải có đủ năng lực pháp
luật và năng lực hành vi của nước sở tại.

· Đối với tổ chức:
Tổ chức trong nước tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán trước hết phải
là pháp nhân (theo quy định của Luật dân sự hoặc Luật thương mại). Theo quy định của
Bộ luật Dân sự 2005, để được công nhận là pháp nhân phải có đủ 4 điều kiện:

+ Được thành lập hợp pháp:
+ Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
+ Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài
sản đó;
+ Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập[8]

7
8

Khoản 2 Điều 20 Bộ luật Dân sự 2005
Điều 84 Bộ luật Dân sự 2005.

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

SVTH: Nguyễn Anh Phương
17


Nghiên cứu về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán
Theo tinh thần của Luật chứng khoán thì tất cả các pháp nhân đều có quyền tham
gia trên thị trường (trừ một số pháp nhân đặc biệt mà pháp luật có quy định khác).
Đối với tổ chức nước ngoài tham gia hoạt động TTCK được quy định là tổ chức
thành lập và hoạt động theo pháp luật nước ngoài và chi nhánh của tổ chức này, bao
gồm cả chi nhánh hoạt động tại Việt Nam; tổ chức thành lập và hoạt động theo pháp
luật Việt Nam có 100% vốn góp nước ngoài và các chi nhánh của tổ chức này[9].
Ngoài ra, pháp luật Việt Nam còn quy định tỷ lệ tham gia của các cá nhân, tổ
chức tham gia TTCK Việt Nam, theo đó nhà đầu tư nước ngoài mua, bán chứng khoán
trên TTCK Việt Nam được nắm giữ tối đa 49% tổng số cổ phiếu của công ty cổ phần
đại chúng; tối đa 49% tổng số chứng chỉ quỹ đầu tư của một quỹ đầu tư chứng khoán
đại chúng; tối đa 49% vốn điều lệ của một công ty đầu tư chứng khoán đại chúng; còn

đối với trái phiếu thì tổ chức phát hành có thể quy định giới hạn tỷ lệ nắm giữ đối với
trái phiếu lưu hành của tổ chức phát hành[10].
Thứ hai, nhóm chủ thể là công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư
chứng khoán (hay công ty quản lý quỹ)
Theo quy định của Luật chứng khoán 2006 thì công ty chứng khoán, công ty
quản lý quỹ được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty cổ
phần[11] theo quy định của Luật doanh nghiệp có đủ vốn pháp định theo từng loại hình
kinh doanh.
Công ty chứng khoán có thể thực hiện một số loại hình kinh doanh như: môi
giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán, ngoài ra công ty chứng
khoán còn được nhận ủy thác tài khoản giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư cá nhân,
cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính và các dịch vụ tài chính khác theo quy định của Bộ tài
chính[12]. Các hoạt động này của công ty chứng khoán chỉ có thể được thực hiện thông
qua các hợp đồng ký kết với các tổ chức, cá nhân liên quan. Vì vậy, trong quá trình
Quy chế hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam (Ban hành kèm
theo Quyết định số 121/2008/QĐ-BTC ngày 24/08/2008 của Bộ trưởng Bộ Tài chính).
10
Điều 2 Quyết định số: 55/2009/QĐ-TTg về tỷ lệ tham gia của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường
chứng khoán Việt Nam.
11
Điều 59 Luật chứng khoán 2006.
12
Điều 60 Luật chứng khoán 2006
9

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

SVTH: Nguyễn Anh Phương
18



Nghiên cứu về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán
thực hiện hợp đồng có thể xảy ra các tranh chấp như: tranh chấp giữa công ty chứng
khoán với khách hàng về hợp đồng mở tài khoản giao dịch chứng khoán, tranh chấp
giữa công ty chứng khoán với công ty phát hành về hợp đồng bảo lãnh phát hành, tranh
chấp về hợp đồng tư vấn đầu tư chứng khoán…
Công ty quản lý quỹ tham gia hoạt động trên TTCK có mức vốn pháp định là 25
tỷ đồng trở lên[13]. Công ty có thể là chủ thể trong các tranh chấp liên quan đến hoạt
động quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán, tư vấn
đầu tư chứng khoán, tranh chấp trong hoạt động đầu tư chứng khoán với tư cách là nhà
đầu tư chuyên nghiệp.
Thứ ba, nhóm chủ thể là tổ chức phát hành
Tổ chức phát hành chứng khoán là một pháp nhân được phát hành chứng khoán
ra công chúng theo quy đinh của Luật chứng khoán. Có quan điểm cho rằng công ty
trách nhiệm hữu hạn có thể là chủ thể phát hành chứng khoán (trái phiếu). Nhưng cũng
có quan điểm cho rằng công ty chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép (Luật
doanh nghiệp không quy định công ty trách nhiệm hữu hạn được phép phát hành trái
phiếu). Theo quan điểm của người viết, nên tạo sự thông thoáng cho các doanh nghiệp
tham gia hoạt động trên thị trường, quan điểm này cũng phù hợp khi xây dựng Luật
doanh nghiệp, những gì luật không quy định nên để công ty được phép làm. Do vậy,
công ty trách nhiệm hữu hạn cũng nên được phép phát hành trái phiếu.
Tổ chức phát hành là một chủ thể trong một quan hệ tranh chấp khi có những
vướng mắc trong việc thực hiện hợp đồng bảo lãnh phát hành, hay đại lý phát hành. Tổ
chức phát hành cũng có thể là một chủ thể trong quan hệ với người đầu tư chứng khoán
khi thực hiện quyền mua cổ phiếu với họ. Ngoài ra, tranh chấp liên quan đến việc thực
hiện quan hệ mua bán chứng khoán đã đăng ký mua với nhà đầu tư; tranh chấp về việc
thực hiện lợi ích của người đầu tư cũng có khả năng xảy ra.

Khoản 3 Điều 18 Nghị định 14/2007/NĐ-CP ngày 19 thàng 01 năm 2007 Quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật chứng khoán

13

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

SVTH: Nguyễn Anh Phương
19


Nghiên cứu về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán
Thứ tư, nhóm các tổ chức trung gian khác
Các tổ chức trung gian khác tham gia thị trường như tổ chức lưu ký, ngân hàng
giám sát… cũng có thể là các chủ thể trong quan hệ tranh chấp khi các tổ chức này thực
hiện các địch vụ theo ủy quyền có chứng khoán lưu ký. Ví dụ: dịch vụ cầm cố chứng
khoán.
1.2. Giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán
1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp
Theo Từ điển tiếng Việt, thuật ngữ “giải quyết” được hiểu là làm cho không còn
thành vấn đề nữa”[14]. Hiểu theo nghĩa đơn giản nhất thì giải quyết tranh chấp là tổng
hợp những cách thức, biện pháp được áp dụng để loại bỏ các mâu thuẫn, bất đồng về
quan điểm của các bên về việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ.
Giải quyết tranh chấp khác với việc xử lý vi phạm hành chính. Giải quyết tranh
chấp là việc một cơ quan hay tổ chức có thẩm quyền đứng ra làm trung gian giải quyết
tranh chấp giữa các chủ thể hoàn toàn bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, các chủ thể có
quyền thỏa thuận, lựa chọn hình thức cũng như cơ quan giải quyết tranh chấp. Việc giải
quyết tranh chấp thường thông qua hình thức thương lượng, trung gian hòa giải, trọng
tài và tòa án.
Xử lý vi phạm thường thể hiện một quan hệ bất bình đẳng giữa một bên là nhà
nước và một bên là cá nhân, tổ chức vi phạm. Xử lý vi phạm có thể là xử lý hành chính
hay xử lý hình sự tùy theo mức độ vi phạm mà các đối tượng phải nghiêm chình chấp
hành quyết định xử lý. Cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật hình sự bị áp đụng các biện

pháp cưỡng chế được quy định tại Bộ luật Hình sự, còn nếu vi phạm hành chính bị áp
dụng các hình thức xử lý hành chính được quy định tại Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính.
Giải quyết tranh chấp cũng khác với việc giải quyết khiếu nại, giải quyết tố cáo.
Giải quyết khiếu nại là việc xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết của người
giải quyết khiếu nại về quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ
14

Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2001, Trg.338

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

SVTH: Nguyễn Anh Phương
20


Nghiên cứu về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán
luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp
luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại. Giải quyết tố cáo là việc
xác minh, kết luận về nội dung tố cáo và việc quyết định xử lý của người giải quyết tố
cáo về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ, cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ
quan, tổ chức[15].
Đối với việc giải quyết tranh chấp trên TTCK, như người viết đã nhận diện tranh
chấp trên TTCK ở phần đầu nên có thể hiểu thuật ngữ “giải quyết tranh chấp trên
TTCK là tổng hợp các cách thức, biện pháp do các bên tranh chấp áp dụng trên cơ sở
quy định của pháp luật nhằm loại bỏ xung đột về quyền và lợi ích phát sinh trên
TTCK”. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có tranh chấp, đảm bảo hoạt
động ổn định của toàn thị trường, các tranh chấp cần được giải quyết một cách kịp thời,
đúng pháp luật. Tuy nhiên, việc giải quyết những tranh chấp trong lĩnh vực chứng

khoán này như thế nào để có hiệu quả tốt nhất đang là vấn đề gây nhiều tranh cãi.
1.2.2. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp
Nguyên tắc giải quyết tranh chấp là các tư tưởng chỉ đạo được quy định nhằm
thống nhất việc giải quyết tranh chấp với mong muốn đạt được hiệu quả cao nhất trong
quá trình giải quyết tranh chấp. Điều này có nghĩa, các tranh chấp khi được đưa vào quá
trình giải quyết phải tuân thủ những nguyên tắc mà pháp luật quy định.
Thông thường, việc giải quyết tranh chấp được thực hiện theo những nguyên tắc
sau:
Thứ nhất, nguyên tắc tự định đoạt. Đây là nguyên tắc cơ bản của giải quyết
tranh chấp. Đây không chỉ đơn thuần là nguyên tắc giải quyết tranh chấp mà còn là cơ
sở để thực hiện tự do kinh doanh, tự do hợp đồng theo pháp luật. Nội dung của nguyên
tắc này trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp được hiểu các bên tự lựa chọn hình thức
giải quyết tranh chấp thích hợp; có thể tự mình hoặc yêu cầu người khác thay mặt mình
Khoản 1,Khoản 2, Khoản 13, Khoản 14, Điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo 1998 (Được sửa đổi, bổ sung
vào các năm 2004,2005)
15

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

SVTH: Nguyễn Anh Phương
21


×