Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Dạy học chủ đề tự nhiên trong môn tự nhiên và xã hội lớp 2 bằng phương pháp trải nghiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (750.6 KB, 70 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hẳn ai cũng đã từng nghe câu “Học đi đôi với hành”. Câu nói trên đã
nói lên mối quan hệ mật thiết giữa lý thuyết và thực tế. Xét cho cùng con
người học tập chỉ có ý nghĩa khi những lý thuyết mình được học có thể ứng
dụng vào trong thực tế giúp cho cuộc sống của con người tồn tại và phát triển.
Nếu chúng ta đặt mình vào tâm lý của một học sinh khi phải học những môn
mà chúng chỉ được học tập qua lý thuyết một cách khuôn sáo, nghe cô giáo
giảng và ghi chép thì hầu như chúng sẽ đặt câu hỏi “Học cái này để làm gì?
Có tác dụng gì không?”. Thậm chí có em còn ngủ gật không buồn nghe cô
giáo giảng bài. Điều quan trọng của một nền giáo dục tiên tiến là biến người
học trở thành đối tượng tích cực, chủ động trong việc tìm tòi ra tri thức và ứng
dụng tri thức mình được học vào trong đời sống. Vì thế ngành giáo dục hiện
nay đã không ngừng đổi mới một cách toàn diện, mục tiêu, nội dung, phương
pháp, hình thức tổ chức dạy học. Trong xu thế đổi mới về phương pháp dạy
học là vấn đề nóng bỏng được xã hội quan tâm và có sức hút lớn với thực
trạng “thụ động của người học”. Theo quan điểm của Đảng “Đổi mới phương
pháp dạy học phải được thực hiện ở tất cả các cấp học, bậc học. Giáo dục
Tiểu học là bậc học nền tảng nên đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học là
thiết yếu.
Trong mắt học sinh Tiểu học có rất nhiều điều mới lạ từ thế giới xung
quanh mà học sinh muốn tìm hiểu và lý giải. Và nhu cầu đó sẽ được đáp ứng
phần nào khi học sinh được học chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và Xã
hội lớp 2. Đây là môn học có tính tích hợp cao những kiến thức về khoa học
tự nhiên, nó đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển năng
lực, đạo đức của con người. Để thực hiện được mục tiêu của giáo dục nói

1


chung và của giáo dục Tiểu học nói riêng, chương trình môn Tự nhiên và Xã


hội đã đề ra mục tiêu khơi dậy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh.
Trên cơ sở những mục tiêu này đòi hỏi giáo viên phải hướng tới việc tổ chức
các hoạt động đa dạng phong phú để học sinh tham gia. Từ đó chúng lĩnh hội
và hình thành kĩ năng học tập. Muốn hình thành tốt những mục tiêu ấy giáo
viên trong quá trình tổ chức hoạt động học tập cho học sinh phải biết kết hợp
một cách nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học khác nhau đặc biệt là
phương pháp phát huy tính tích cực trong nhận thức của người học như:
phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp đặt vấn đề, phương pháp kiến tạo,
giáo dục trải nghiệm…
Giáo dục trải nghiệm là phương pháp dạy học mới. Ở phương pháp dạy
học này, học sinh được thực hành chủ động, tự tạo kiến thức, thu thập kiến
thức, hình thành kĩ năng, thái độ cho bản thân. Bên cạnh đó chương trình môn
Tự nhiên và Xã hội ở Tiểu học nói chung, chương trình môn Tự nhiên và Xã
hội lớp 2 nói riêng có nhiều nội dung phù hợp với phương pháp dạy học bằng
giáo dục trải nghiệm. Từ những lí do trên tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “Dạy
học chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2 bằng phương
pháp trải nghiệm”.

2. Lịch sử nghiên cứu
Có thể nói học tập bằng kinh nghiệm có từ rất lâu cùng với sự xuất hiện
của loài người nhưng giáo dục trải nghiệm mới được các nhà giáo dục đưa ra
nghiên cứu từ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.
Cha đẻ của giáo dục trải nghiệm là Jonh Dewey (1890 - 1992) người đặt
nền móng cho giáo dục trải nghiệm. Thuyết trải nghiệm của Jonh Dewey dựa
trên 2 nguyên lý chủ đạo là sự liên tục và tác động ảnh hưởng lẫn nhau.

2


Sự liên tục được ông chứng minh ở luận điểm: một điều gì đó từ một trải

nghiệm kể cả điều tốt, điều dở chúng đều tích lũy thành kinh nghiệm và ảnh
hưởng tới những bản chất, bản tính của con người trong những kinh nghiệm
tương lai của mỗi cá nhân.
Sự tác động ảnh hưởng qua lại lẫn nhau được xây dựng dựa trên khái
niệm liên tục. Theo Jonh Dewey trải nghiệm trong quá khứ ảnh hưởng tới
những tình huống hiện tại.
Thuyết giáo dục trải nghiệm của Jonh Dewey sau này vẫn được các nhà
giáo dục học, nhà nghiên cứu lấy làm “điểm tựa” khi nghiên cứu về giáo dục
trải nghiệm.
Năm 1984 giáo sư David Kold người Mĩ đã công bố công trình nghiên
cứu của mình về giáo dục trải nghiệm. Ông đã xây dựng nên mô hình học tập
qua kinh nghiệm gồm bốn giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1: Khởi động bằng việc tiếp thu một kinh nghiệm.
Giai đoạn 2: Quan sát và phản hồi.
Giai đoạn 3: Hình thành khái niệm trừu tượng.
Giai đoạn 4: Thử nghiệm chủ động.
Theo David Kold trong mô hình của ông người học có thể tiếp cận ở bất
cứ giai đoạn nào trong 4 giai đoạn của chu trình học. Như vậy, giai đoạn trải
nghiệm đã có ban đầu, sau đó tiếp tục bằng quá trình phản hồi, thảo luận,
phân tích và đánh giá kinh nghiệm.
Theo Cral Rges: “Chỉ có cách học tập dựa trên sự khám phá bản thân hoặc
tự lĩnh hội thì mới giúp con người thay đổi hành vi của mình. Bản chất của nó
chính là giáo dục trải nghiệm”.
Còn Richard Ponzio và Sally Stanly cho rằng: “Giáo dục trải nghiệm
không đơn thuần là phải thực hiện một hoạt động, từ đó rút ra những kết luận
và vận dụng vào các tình huống khác nhau. Mà thông qua việc kết hợp nhiều

3



cảm giác trong quá trình chia sẻ kinh nghiệm, tất cả người học đều được mở
rộng hiểu biết của mình”.
Như vậy trên thế giới quan niệm về giáo dục trải nghiệm đã được nhắc đến
từ lâu. Mặc dù có nhiều quan điểm nhưng đều đề cập đến cách học thông qua
hoạt động trải nghiệm sẽ giúp học sinh nhớ lâu và nó kết hợp lý thuyết với
thực hành trên thực tế.
Ở Việt Nam giáo dục trải nghiệm mới được đưa vào nghiên cứu nhiều năm
gần đây. Dự án Giáo dục Môi Trường Hà Nội phối hợp trung tâm Con người
và Thiên Nhiên biên soạn cuốn “Học mà chơi - Chơi mà học” hướng dẫn các
hoạt động môi trường trải nghiệm trong cuốn sách này tác giả đã đưa ra các
bước tổ chức thực hiện hoạt động trải ngiệm và giới thiệu một số hoạt động
trải nghiệm cụ thể.

3. Mục đích nghiên cứu
Hiểu biết sâu hơn về phương pháp trải nghiệm.
Vận dụng có hiệu quả phương pháp trải nghiệm vào dạy học chủ đề Tự
nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2.

4. Đối tượng nghiên cứu, khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Vận dụng phương pháp trải nghiệm để dạy học chủ đề Tự nhiên trong
môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Việc dạy học chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2.
5. Phạm vi nghiên cứu

4


Do thời gian và kiến thức có hạn nên phạm vi nghiên cứu đề tài này chỉ

dừng lại ở việc vận dụng phương pháp trải nghiệm vào dạy học chủ đề Tự
nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2.

6. Giả thiết khoa học
Nếu thực hiện nghiêm túc việc áp dụng phương pháp trải nghiệm trong
dạy học chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2 sẽ nâng cao
chất lượng dạy học môn Tự nhiên và Xã hội góp phần đổi mới phương pháp
dạy học ở Tiểu học.

7. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu cơ sở lí luận và thực tiễn về đổi mới phương pháp dạy học, cơ
sở lí luận của Giáo dục trải nghiệm, thực trạng vận dụng phương pháp trải
nghiệm trong dạy học chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2.

8. Phương pháp nghiên cứu
8.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
8.2. Phương pháp điều tra nghiên cứu số liệu
8.3. Phương pháp quan sát
8.4. Phương pháp trò chuyện

9. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận thì có phần Nội dung gồm có:
Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sơ thực tiễn.
Chương 2: Vận dụng phương pháp trải nghiệm vào dạy học chủ đề Tự nhiên
trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.

5



NỘI DUNG

Chương 1:CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN

1. Cơ sở lý luận
1.1. Giáo dục trải nghiệm
1.1.1. Khái niệm
- Kinh nghiệm
Kinh nghiệm là những hiểu biết do trông thấy, nghe thấy, do từng trải,
tiếp xúc với cuộc sống mà có hoặc những điều coi như những kiến thức học
được bằng lý luận, đã thu được trong quá trình thực sự hoạt động.
Kinh nghiệm là những gì liên quan tới bản chất của sự kiện đã diễn ra mà
sự kiện đó xảy ra bởi một người hoặc một nhân vật nào đó. Kinh nghiệm là
những gì xảy ra liên quan đến chúng ta trong toàn bộ thời gian mà chúng ta
tồn tại.
Kinh nghiệm tồn tại trong thời điểm hiện tại, liên quan tới bản chất chủ
thể của những gì đang tồn tại.
Kinh nghiệm được sử dụng trong thời kỳ quá khứ, liên quan tới những gì
đã được tích lũy của những kinh nghiệm trước đây.
- Học qua kinh nghiệm là gì?
Học qua kinh nghiệm là quá trình người học tạo dựng kiến thức, kĩ năng
và quan điểm về giá trị từ việc trải nghiệm trực tiếp từ chính bản thân.
Học qua kinh nghiệm bao gồm hai hoạt động học tập khác nhau:
Tự học.
Giáo dục trải nghiệm.
- Tự học (giáo dục không chính thức, tự giáo dục):

6



Tự học là hình thức học tập do người học tự tổ chức cho bản thân, phản
ánh qua sự tham gia trực tiếp của chính người học trải nghiệm với các sự việc,
sự kiện của cuộc sống diễn ra hàng ngày.
- Giáo dục trải nghiệm:
Trong khái niệm dự án giáo dục môi trường tại Hà Nội có viết: “Giáo dục
trải nghiệm (hoạt động học tập qua trải nghiệm dựa trên các hoạt động hướng
dẫn) là hình thức học tập gắn liền với các hoạt động có sự chuẩn bị ban đầu có
sự phản hồi, trong đó đề cao kinh nghiệm chủ quan của người học.
Giáo dục trải nghiệm là khoa học giáo dục. Nó tập trung vào quá trình tác
động qua lại giữa giáo viên và học sinh. Họ là đối tượng được đưa vào thử
nghiệm trực tiếp cùng với môi trường và nội dung học tập.[9]
Từ hai quan điểm cho thấy: giáo dục trải nghiệm được coi như là khoa học
cũng như phương pháp luận mà ở đó nhà sư phạm thiết lập một cách có chủ
định với người học trong hoạt động thực nghiệm trực tiếp phản ánh để nâng
cao kiến thức, phát triển kĩ năng và làm rõ kĩ năng bài học.
Như vậy chúng ta có thể hiểu khái niệm giáo dục trải nghiệm là như sau:
“Giáo dục trải nghiệm là một quá trình, trong đó với vai trò tổ chức của
giáo viên, học sinh thực hành chủ động tự tạo kiến thức, hình thành kĩ năng
và thái độ cho bản thân. Đây là hoạt động học tập có sự phản hồi và đề cao
kinh nghiệm chủ quan của người học.”
1.1.2. Bản chất của quá trình dạy học giáo dục trải nghiệm
Quá trình dạy học là một quá trình hoạt động thống nhất giữa giáo viên
và học sinh. Trong đó giáo viên giữ vai trò là người hướng dẫn, tổ chức, điều
chỉnh hoạt động của học sinh nhằm làm cho học sinh tự giác nắm vững hệ
thống tri thức, kĩ năng, kĩ xảo và trong đó phát triển năng lực nhận thức, năng
lực hoạt động và hình thành cơ sở của thế giới quan.

7



Giáo dục trải nghiệm là quá trình học tập dựa trên những kinh nghiệm.
Nó khác với phương pháp giáo dục truyền thống ở chỗ: quá trình giáo dục
theo cách truyền thống thu nhận thông tin thông qua việc nghiên cứu các chủ
thể mà không cần trải nghiệm thực tế. Ở giáo dục trải nghiệm kinh nghiệm
của người học được tích lũy và phản hồi thông qua những kiến thức và hiểu
biết mới mà tiếp thu được từ những trải nghiệm thực tế. Điều đáng lưu ý là
“Giáo dục trải nghiệm không đơn thuần là thực hiện một hoạt động. Trải
nghiệm trở thành một quá trình học khi nó được học sinh động não và phản
hồi, từ đó rút ra các kết luận để ghi nhớ và vận dụng vào các tình huống khác
nhau”.
Như vậy bản chất của giáo dục trải nghiệm là cách dạy học lấy hoạt động
của học sinh làm trung tâm thực sự và toàn diện. Cả lớp học tự nguyện thực
hiện một tiến trình giáo dục trải nghiệm cụ thể. Hay nói cách khác, bản chất
của giáo dục trải nghiệm là quá trình giáo dục dựa trên việc học tập từ kinh
nghiệm trực tiếp và sử dụng tất cả mọi giác quan. Như vậy, giáo dục trải
nghiệm là tập trung vào người học và kinh nghiệm của người học.
1.1.3. Đặc điểm của giáo dục trải nghiệm
Một là: Vai trò của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học thông
qua giáo dục trải nghiệm.
Giáo dục trải nghiệm là một khoa học, nó tập trung nhấn mạnh vào quá
trình tác động qua lại giữa giáo viên và học sinh là đối tượng được đưa vào
thử nghiệm trực tiếp cùng với môi trường và nội dung học tập.
Giáo dục trải nghiệm làm thay đổi cách nhìn nhận của giáo viên và học
sinh về kiến thức và cách nhìn nhận vai trò của mình trong quá trình học tập.
Trong quá trình giáo dục trải nghiệm thì: giáo viên chỉ đóng vai trò là
người tổ chức, hướng dẫn và thúc đẩy việc trực tiếp trải nghiệm đảm bảo quá

8



trình học tập và lĩnh hội kiến thức của học sinh có ý nghĩa và giữ được lâu dài
chứ không phải là người cung cấp các từ có sẵn.
Học sinh trở thành người tự tạo kiến thức, thu thập kiến thức cho bản
thân. Những kiến thức học sinh tiếp thu được không chỉ là những kiến thức
trong nhà trường mà còn là những kiến thức ngoài xã hội - kiến thức tổng
hợp. Không những thế học sinh còn được tạo điều kiện để đóng góp tiếng nói
của mình vào mục đích học tập, cho phép học sinh soạn thảo chương trình
học tập và thực hiện dự án của mình, thậm chí cả tự đánh giá kết quả của bản
thân.
Như vậy có thể nói trong giáo dục trải nghiệm giáo viên là một chuyên gia
trong việc thiết kế, tổ chức hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm
để học sinh trải nghiệm tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các
mục tiêu kiến thức, kĩ năng thái độ theo chương trình, qua đó cũng hình thành
nét tính cách tích cực cho bản thân.
Hai là: Dạy học thông qua các tổ chức hoạt động cho học sinh.
Đặc trưng của giáo dục trải nghiệm thông qua các hoạt động cụ thể.
Xuất phát từ mục tiêu từng bài học mà giáo viên có kế hoạch tổ chức cho học
sinh các hoạt động thích hợp giúp học sinh chủ động chiếm lĩnh tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo cần thiết. Học sinh luôn bị cuốn vào các hoạt động cụ thể của
giáo viên mà các hoạt động thì luôn vận động điều đó tạo ra sự thích thú, thay
đổi tích cực và thành công ở mỗi học sinh tham gia.
Do tính chất như vậy mà giáo dục trải nghiệm rất thích hợp để học sinh
tiếp thu những kĩ năng thực hành thông qua những thực hành thí nghiệm và
những bài tập thực tế. Cũng thông qua việc học sinh được trải nghiệm bằng
các hoạt động cụ thể học sinh sẽ tạo dựng sự tự tin và bộc lộ các điểm mạnh
cũng như các kĩ năng của mình (lãnh đạo, tổ chức).
Ba là: Học tập qua sai lầm

9



Bản chất của quá trình giáo dục trải nghiệm là quá trình giáo dục dựa
trên việc học tập từ kinh nghiệm trực tiếp và sử dụng tất cả mọi giác quan và
muốn có được kinh nghiệm thì người học phải trực tiếp được trải nghiệm
thông qua các hoạt động cụ thể. Giáo dục trải nghiệm không đơn thuần là
thực hiện một hoạt động cụ thể. Trải nghiệm trở thành một quá trình học khi
nó được học sinh động não và phản hồi, từ đó rút ra những kinh nghiệm để
ghi nhớ và vận dụng vào các tình huống khác nhau… Mục đích của việc động
não và phản hồi là có được một sự đánh giá trung thực nhưng không bắt lỗi về
toàn bộ hoạt động, trong đó mọi sai lầm đều được nhìn nhận là tất yếu xảy ra
và thậm chí còn có giá trị. Vì có thể từ những sai lầm trong học tập học sinh
thấy rằng còn có những biến cố khác nào đó liên quan ở trong trạng thái chưa
được phân tích đầy đủ. Mặt khác sai lầm còn giảm bớt một trong số những
con đường và thúc đẩy học sinh tìm một con đường khác. Như vậy có thể nói
sai lầm trong quá trình học tập của học sinh cũng là một động thái giúp học
sinh tìm ra chân lí.
Từ những phân tích trên cho thấy, khi vận dụng giáo dục trải nghiệm giáo
viên luôn khuyến khích học sinh trải nghiệm, tự phát hiện ra tri thức mới và
chấp nhận kết quả sai lầm trong quá trình hình thành kinh nghiệm.
Bốn là: Đánh giá trong giáo dục trải nghiệm
Muốn biết các phương pháp dạy học có được sử dụng hiệu quả không
hay hình thức dạy học có phù hợp với bài dạy, môn học hay không thì phải
thông qua đánh giá. Việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận
định thực trạng và điều chỉnh hoạt động của thầy.
Có những điểm khác nhau rõ rệt trong cách đánh giá truyền thống và
đánh giá trong giáo dục trải nghiệm. Nếu trong dạy học truyền thống cách
đánh giá là cho điểm thông qua các bài thi viết hoặc phần trả lời của học sinh
về một vấn đề giáo viên đưa ra thì trong giáo dục trải nghiệm ngoài đánh giá

10



tri thức của học sinh bằng các bài thi viết còn đánh giá kĩ năng thực hành của
học sinh thông qua việc vận dụng tri thức vào việc giải quyết các vấn đề trong
thực tiễn cuộc sống.
Trong giáo dục truyền thống giáo viên giữ vai trò độc quyền đánh giá
còn trong giáo dục trải nghiệm ngoài giáo viên đánh giá học sinh thì học sinh
được tham gia đánh giá lẫn nhau, tự đánh giá kết quả của mình.
Đánh giá trong giáo dục trải nghiệm khuyến khích sự suy ngẫm và hoạt
động có đích hướng tới mục tiêu hữu ích, học sinh có trách nhiệm với việc
học tập của bản thân hơn và sự đánh giá lẫn nhau giữa các học sinh tạo ra sự
cạnh tranh giữa các học sinh góp phần thúc đẩy học sinh có ý thức cố gắng
hơn.
Năm là: Phân biệt giáo dục trải nghiệm với các hình thức học tập khác
Giáo dục trải nghiệm có những đặc điểm đặc trưng khác với các hình
thức học tập khác ở chỗ:
Quá trình giáo dục truyền thống thu thập thông tin qua việc nghiên cứu
các chủ đề mà không cần sự trải nghiệm thực tế. Còn trong giáo dục trải
nghiệm kinh nghiệm của người học được tích lũy và phản hồi thông qua
những kiến thức và hiểu biết mới mà họ tiếp thu được từ những trải nghiệm
thực tế.
Trong giáo dục truyền thống khi vai trò của giáo viên chỉ là truyền đạt
thông tin và kiến thức cho học sinh theo một chiều và việc dạy học là một
hoạt động được thực hiện riêng lẻ giữa các đồng nghiệp đằng sau cánh cửa
khép kín thì ở giáo dục trải nghiệm cả giáo viên và học sinh đều thích ứng với
việc hoạt động theo nhóm.
Giáo dục trải nghiệm là một chiếc dù để liên kết các phương pháp khác
nhau trong một tổng thể. Giáo dục trải nghiệm có tính linh động của hoạt
động thảo luận nhóm, thảo luận dựa trên nguyên lý hợp tác, bồi dưỡng kĩ


11


năng lãnh đạo và quản lí của học sinh. Bản chất của quá trình giáo dục trải
nghiệm là quá trình giáo dục dựa trên việc học tập từ kinh nghiệm trực tiếp và
sử dụng tất cả các giác quan nên quan sát là một kĩ năng quan trọng trong quá
trình trải nghiệm. Chính vì những đặc điểm vừa nêu trên mà giáo dục trải
nghiệm thường bị hiểu nhầm với thảo luận nhóm, quan sát,... Nhưng thực chất
không phải vậy, giáo dục trải nghiệm nhấn mạnh vào kinh nghiệm chủ quan
của người học, nó yêu cầu sự trải nghiệm thực tế và sự phản ánh kinh nghiệm,
vì vậy quan sát và thảo luận chỉ là một phần trong giáo dục trải nghiệm.
1.1.4. Một số quy trình dạy học bằng phương pháp trải nghiệm
1.1.4.1. Trong cuốn “Học mà chơi - Chơi mà học” Hướng dẫn các hoạt động
môi trường trải nghiệm do Dự án Giáo dục Môi trường Hà Nội phối hợp với
trung tâm Con người và Thiên nhiên biên soạn có đưa ra quy trình tổ chức
một hoạt động giáo dục trải nghiệm gồm 3 bước cơ bản sau:
* Bước 1: Chuẩn bị
Gồm các việc:
Việc 1: Lựa chọn hoạt động sẽ tổ chức cho học sinh.
Việc 2: Khảo sát địa điểm sẽ tổ chức hoạt động.
Việc 3: Chuẩn bị các đồ dùng dạy học.
Việc 4: Tham khảo các tài liệu, nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến
hoạt động sẽ tổ chức.
*Bước 2: Giới thiệu hoạt động
Gồm các việc:
Việc 1: Cho học sinh biết tên của hoạt động.
Việc 2: Giải trích luật chơi và cách thức tiến hành hoạt động.
Việc 3: Tóm tắt xem học sinh đã hoàn toàn hiểu chưa? Nếu còn học sinh
chưa hiểu cần hướng dẫn lại một lần nữa.
Việc 4: Giáo viên làm mẫu hoạt động nếu cần thiết.


12


Việc 5: Có thể cho một vài học sinh thực hiện trước khi cho cả lớp thực
hiện.
Việc 6: Bắt đầu hoạt động.
* Bước 3: Tổng kết hoạt động
Gồm các việc:
Việc 1: Giáo viên sử dụng câu hỏi kích thích học sinh phát biểu suy nghĩ,
ý kiến, quan điểm, kinh nghiệm hoạt động của mình.
Ví dụ: Các câu hỏi như:
Em cảm thấy như thế nào? Các em đã thực hiện như thế nào?...
Việc 2: Cho học sinh tóm tắt lại những gì mình đã thực hiện và có thể
trình bày kết quả cho cả lớp xem
Việc 3: Giáo viên tóm tắt ý và có thể đưa ra một số thông tin có liên quan
đến nội dung hoạt động.
Tác giả của quy trình trên cho rằng: tổng kết hoạt động là bước quan
trọng nhất trong mỗi hoạt động giáo dục trải nghiệm vì hoạt động này giúp
cho học sinh hiểu được ý nghĩa thực sự của những gì các em đã thực hiện
được. Việc các em trao đổi, thảo luận, chia sẻ những kinh nghiệm và kết quả
của mình chính là một hoạt động học tập, trong đó chính các học sinh tự học
và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, giáo viên đóng vai trò là người chỉ đạo, dẫn
dắt và hướng dẫn học sinh.
Về cơ bản quy trình tổ chức một hoạt động giáo dục trải nghiệm trên đã
đầy đủ. Tuy nhiên nó chưa được chi tiết, cụ thể với việc thiết kế các hoạt động
dạy học chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2 bằng phương
pháp trải nghiệm. Vì vậy trong quá trình tổ chức hoạt động giáo dục trải
nghiệm giáo viên đôi khi không kiểm soát được những diễn biến của hoạt
động. Chính vì vậy mà ở từng bài giáo viên cần lập kế hoạch chi tiết, cụ thể


13


cho phù hợp và ở đó giáo viên là người học chủ động, thí nghiệm như học
sinh.
1.1.4.2. Quy trình của giáo dục trải nghiệm áp dụng vào dạy học chủ đề Tự
nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2 ở Tiểu học.
Gồm 6 bước cơ bản sau:
* Bước 1: Học sinh tiếp nhận nhiệm vụ mà giáo viên đưa ra là những yêu cầu,
vấn đề cần tìm hiểu của hoạt động trải nghiệm (nhiệm vụ này phải mới lạ với
người học)
- Học sinh tiếp nhận nhiệm vụ.
*Bước 2: Trải nghiệm
Học sinh thực hiện các hoạt động trong quá trình trải nghiệm.
Học sinh huy động tối đa các giác quan, các kinh nghiệm sẵn có vào giải
quyết các nhiệm vụ.
* Bước 3: Chia sẻ - phản hồi
- Học sinh chia sẻ các kết quả, phản hồi, tiến hành thảo luận và phân tích
kinh nghiệm như:
+Trải nghiệm đã diễn ra như thế nào?
+ Những vấn đề nào thu được từ trải nghiệm?
+ Cảm tưởng của cá nhân sau khi tiến hành trải nghiệm?
- Giáo viên để cá nhân hay các nhóm phát biểu tự do và ghi nhận những ý
kiến học sinh tổng hợp được.
* Bước 4: Tổng hợp
Liên hệ kinh nghiệm với những vấn đề thực tế.
- Tìm ra những đặc điểm chung, quy luật từ kinh nghiệm.
- Xác định nguyên lý từ thực tiễn có liên quan.
- Liệt kê những khái niệm chính thâu tóm được từ quá trình học tập.

* Bước 5: Vận dụng

14


Vận dụng những điều đã học vào tình huống khác.
Học sinh thảo luận theo các vấn đề:
- Những điều mới học vào những tình huống khác nhau như thế nào?
- Những vấn đề nêu ra có ích lợi gì trong tương lai?
- Những hành vi có thể được phát triển như thế nào từ quá trình học tập?
- GV giúp học sinh nắm chắc những điều đã học được.
* Bước 6: Đánh giá
Học sinh tự đánh giá sau đó giáo viên tự nhận xét, đánh giá chung.
- Học sinh đã học được những gì từ trải nghiệm?
- Những gì là có ích và khả thi?
- Học sinh có thể thay đổi điều gì?
1.2. Chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2
1.2.1. Nội dung chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2
Chủ đề: Tự nhiên (8 bài)
Bài 24: Cây sống ở đâu.
Bài 25: Một số loài cây sống trên cạn.
Bài 26: Một số loài cây sống dưới nước.
Bài 27: Loài vật sống ở đâu.
Bài 28: Một số loài vật sống trên cạn.
Bài 29: Một số loài vật sống dưới nước.
Bài 30: Nhận biết cây cối và các con vật.
Bài 31: Mặt Trời.
Bài 32: Mặt Trời và phương hướng.
Bài 33: Mặt Trăng và các vì sao.
Bài 34+35: Ôn tập: Tự nhiên.


15


1.2.2. Đặc điểm của chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2
Một là: Nội dung chủ đề Tự nhiên cũng giống như môn Tự nhiên và Xã hội,
nó được xây dựng theo quan điểm tích hợp thể hiện ở các mặt sau:
Chủ đề Tự nhiên bao gồm các nội dung về: Thực vật và động vật, một số
cây cối và một số con vật sống trên mặt đất, dưới nước, trên không, bầu trời
ban ngày và ban đêm: Mặt trời, cách tìm phương hướng bằng mặt trời, mặt
trăng và các vì sao.
Kiến thức trong chủ đề Tự nhiên là các kiến thức tích hợp của nhiều kiến
thức thuộc nhiều ngành khoa học khác nhau: Vật lý, Địa lý, Thiên văn…
Quá trình nhận thức của học sinh lớp đầu Tiểu học mang tính trực quan,
cụ thể. Tư duy gắn liền với hoạt động trực tiếp, hình ảnh cụ thể. Để học sinh
tiếp thu được kiến thức tổng hợp trên thì giáo viên phải tổ chức cho học sinh
được hoạt động trực tiếp, được sử dụng các giác quan để trực tiếp sờ, mó,
nghe, ngửi, nếm… những thứ cần thiết trong phạm vi có thể. Có như vậy học
sinh mới tìm ra được tri thức, nắm được nó và có niềm tin sâu sắc vào những
kiến thức khoa học đó.
Hai là: Nội dung chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2 chủ
yếu là những bài học giúp học sinh có những hiểu biết về thế giới xung quanh
học sinh, những sự vật như: cây cối, con vật, mặt trời, mặt trăng và các vì sao
rất gần gũi với học sinh. Chính vì vậy muốn học sinh có những hiểu biết về
thế giới xung quanh, tạo ở các em tình cảm tích cực ở thiên nhiên, môi trường
xung quanh thì phải tạo điều kiện cho các em được trực tiếp tìm hiểu, khám
phá tri thức và nắm bắt chúng. Vì vậy trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội
nói chung và dạy học chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2
nói riêng cần áp dụng nguyên lý của giáo dục trải nghiệm.


16


1.3. Vai trò của giáo dục trải nghiệm đối với dạy học chủ đề Tự nhiên
trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2
Thế giới nội tâm của con người rất đa dạng và phong phú. Nó biến đổi
không chỉ theo đối tượng mà còn theo từng giai đoạn phát triển của mỗi đối
tượng. Nghiên cứu chúng tôi thấy, ở lứa tuổi Tiểu học, học sinh có những đặc
điểm tâm lý mà việc dạy học môn Tự nhiên và Xã hội nói chung và dạy học
chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2 nói riêng bằng giáo dục
trải nghiệm là rất cần thiết.
Ở học sinh Tiểu học nhân cách đang dần được hình thành. Học sinh có
những biến đổi không ngừng trong đời sống tinh thần, điều này thể hiện rõ
trong nhu cầu cũng như tính cách và đời sống tình cảm của mỗi học sinh.
Trong hệ thống các nhu cầu, nhu cầu nhận thức nổi lên giữ vai trò chủ đạo.
Nhu cầu tự đánh giá là một loạt thói quen hành vi, đạo đức của con người dần
hình thành ở học sinh. Học sinh cũng rất dễ xúc động trước một đối tượng
trực tiếp, bất kì một sự vật nào các em được tiếp xúc trực tiếp cũng để lại ấn
tượng sâu sắc trong các em. Đặc điểm này có thể khẳng định các em rất yêu
thích tự nhiên, ham muốn tìm hiểu khám phá thế giới xung quanh. Quá trình
dạy học bằng giáo dục trải nghiệm luôn đặt học sinh vào những hoạt động
trực tiếp, luôn tạo ra “thách thức” hấp dẫn người học, tạo nhiều cơ hội cho
học sinh tìm hiểu, khám phá và trong quá trình hoạt động trải nghiệm học sinh
được tự nhận xét, tự đánh giá, học hỏi lẫn nhau. Như vậy dạy học bằng
phương pháp trải nghiệm hết sức cần thiết, nó thúc đẩy nhu cầu nhận thức,
đáp ứng nhu cầu nhận thức từ đó giúp học sinh mở rộng nhận thức và hình
thành nhân cách ở học sinh.
Quá trình nhận thức của học sinh Tiểu học mang tính trực quan, cụ thể.
Tri giác của học sinh gắn với hoạt động thực tiễn, trí nhớ mang tính chất hình
ảnh, cụ thể, trực tiếp. Các em còn chịu sự “ám thị” nặng nề của tri thức kinh


17


nghiệm khi tư duy phải dựa vào các đối tượng hành động cụ thể để xây dựng
nên hình ảnh tưởng tượng của mình. Chính những đặc điểm này là cơ sở
thuận lợi để áp dụng giáo dục trải nghiệm vào dạy học đồng thời cũng cho
thấy sự cần thiết phải vận dụng giáo dục trải nghiệm trong dạy học Tiểu học
nói chung cũng như dạy học chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội
lớp 2 nói riêng. Vì vậy muốn học sinh nắm bắt về thiên nhiên xung quanh, có
ý thức bảo vệ thiên nhiên thì học sinh cần được hoạt động, cần được quan sát
nhiều, cần được phát huy tính sáng tạo, những hiểu biết của mình - điều này
chỉ có được trong quá trình giáo dục trải nghiệm.
Ở Tiểu học sự chín muồi của các cơ quan trong cơ thể diễn ra một
cách tích cực, thể hiện rõ ràng ở sự phát triển chiều cao, cân nặng, sự cốt hóa
bộ xương… Tất cả những đặc điểm trên cho phép hoàn thiện sự phối hợp và
phát triển các phẩm chất: dũng cảm, nhanh nhẹn, khéo léo, mềm dẻo, mạnh
mẽ, đặc biệt là sức chịu đựng - phẩm chất có quan hệ chặt chẽ với khả năng
lao động. Trong giáo dục trải nghiệm học sinh luôn ở trạng thái vận động, sử
dụng mọi giác quan, điều này sẽ giúp học sinh không chỉ lĩnh hội được nhiều
thông tin tri thức, kĩ năng mà còn giúp học sinh phát triển về thể chất - đây
chính là mục đích luôn tiến tới của giáo dục ở Tiểu học: giúp học sinh phát
triển một cách toàn diện.
Mặt khác từ những nghiên cứu về giáo dục cho thấy: dựa vào các phương
pháp dạy học truyền thống khả năng ghi nhớ kiến thức của học sinh là dưới
20% còn học tập bằng phương pháp thực hành sẽ đem lại kết quả giáo dục rất
cao, khả năng ghi nhớ của học sinh lên tới 75%. Giáo dục trải nghiệm là một
quá trình học tập trong đó học sinh được thực hành chủ động tự tạo kiến thức,
thu thập kiến thức, hình thành kĩ năng và thái độ cho bản thân. Thông qua
giáo dục trải nghiệm các kĩ năng cần thiết của học sinh như: quan sát, thu thập

thông tin, đo đếm, phân tích thông tin… được rèn luyện.

18


Trong dạy học chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2,
việc giúp học sinh tìm hiểu về thế giới tự nhiên xung quanh các em là mục
tiêu quan trọng. Để đạt được mục tiêu ấy thì việc vận dụng giáo dục trải
nghiệm vào dạy học chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2 nói
riêng là hết sức phù hợp và cần thiết.

2. Cơ sở thực tiễn
Để nắm được thực trạng sử dụng các phương pháp dạy học và việc vận
dụng giáo dục trải nghiệm trong dạy học chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên
và Xã hội lớp 2 nói riêng, chúng tôi đã tiến hành điều tra tại 2 trường Tiểu
học:
1, Trường Tiểu học Ngô Quyền - Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc.
2, Trường Tiểu học Trưng Nhị - Phúc Yên - Vĩnh Phúc.
Theo các nội dung sau:
2.1. Nhận thức của giáo viên về giáo dục trải nghiệm
Trước tiên chúng tôi điều tra về sự hiểu biết của giáo viên về giáo dục
trải nghiệm. Để có được kết quả chính xác, khách quan tôi đã sử dụng phiếu
điều tra kết hợp với trao đổi trò chuyện với giáo viên.
Nội dung phiếu điều tra câu 1 (phụ lục 1)
Kết quả điều tra được tôi tổng kết bằng biểu đồ 1

Biểu đồ 1: Quan niệm
của giáo viên về giáo
dục trải nghiệm


19


Biểu đồ cho thấy sự hiểu biết của giáo viên về giáo dục trải nghiệm
còn rất hạn chế. Có tới 53% giáo viên được hỏi hiểu chưa đầy đủ về giáo dục
trải nghiệm. Chỉ có 47% hiểu đúng, hiểu đầy đủ về giáo dục trải nghiệm. Các
thầy cô giáo đều nhận thấy đây là phương pháp dạy học mới và chưa được áp
dụng rộng rãi và phổ biến trong dạy học ở Tiểu học.
2.2. Mức độ và hiệu quả sử dụng các phương pháp, hình thức dạy học
trong môn Tự nhiên và Xã hội
Với mục đích thăm dò thực trạng sử dụng các phương pháp dạy học
trong dạy học môn Tự nhiên và xã hội chúng tôi đã tiến hành điều tra theo 3
câu hỏi, từ câu 2 đến câu 4 (phụ lục 1).
Kết quả thu được như sau:

Thường xuyên

Thỉnh thoảng

Hiếm k hi

Chưa bao giờ

Biểu đồ 2: Mức độ sử dụng các phương pháp dạy học ở Tiểu học

20


Thông tin của biểu đồ 2 cho thấy mức độ sử dụng các phương pháp
dạy học môn Tự nhiên và xã hội ở trường Tiểu học. Các phương pháp đưa ra

khảo sát là những phương pháp thường được giáo viên sử dụng trong quá
trình dạy học ở Tiểu học.
Cũng từ biểu đồ cho ta thấy hiện nay các phương pháp dạy học được
giáo viên sử dụng chủ yếu vẫn là các phương pháp dạy học truyền thống.
Phương pháp chiếm ưu thế nhất vẫn là phương pháp thuyết trình (có 63% số
giáo viên được hỏi cho rằng thường xuyên sử dụng phương pháp này, phương
pháp dạy học trực quan là 53%).
Trong khi đó, các phương pháp hiện đại phát huy tốt tính chủ động,
sáng tạo như: phương pháp dạy học kiến tạo, phương pháp nêu vấn đề... được
các giáo viên sử dụng ở mức độ khiêm tốn (mức độ thường xuyên sử dụng
phương pháp dạy học nêu vấn đề là 23%, phương pháp kiến tạo là 10%).
Từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận, nghiên cứu nội dung môn Tự nhiên
và xã hội ở Tiểu học chúng tôi thấy nếu vận dụng giáo dục trải nghiệm vào
dạy học là rất hợp lý và sẽ đem lại hiệu quả cao. Tuy nhiên việc vận dụng
giáo dụng trải nghiệm để dạy học môn Tự nhiên và Xã hội ở các trường Tiểu
học hiện nay còn rất thấp: 83% giáo viên khẳng định hiếm khi và chưa bao
giờ áp dụng giáo dục trải nghiệm vào dạy học.
Đi kèm với phương pháp dạy học là các phương tiện và thiết bị dạy
học. Phương tiện dạy học là điều kiện cần để thực hiện thành công các
phương pháp. Do đó để đánh giá một cách toàn diện, chính xác về tiến trình
đổi mới các phương pháp dạy học ở Tiểu học hiện nay, chúng tôi đã tiến hành
điều tra việc sử dụng các phương tiện dạy học của các giáo viên trong quá
trình dạy học.
Kết quả thu được thể hiện ở biểu đồ 3:

21


Thường xuyên


Thỉnh thoảng

Hiếm khi

Chưa bao giờ

Biểu đồ 3: Biểu đồ thể hiện mức độ sử dụng các phương tiện dạy học
Theo biểu đồ 3 ta thấy phương tiện chủ yếu được giáo viên sử dụng
trong dạy học hiện nay chủ yếu vẫn là bảng, phấn. Các phương tiện dạy học
có khả năng tiết kiệm thời gian mang lại đầy đủ thông tin, tăng tính sinh động
hấp dẫn, tạo hứng thú học tập cho học sinh như: máy tính, băng hình, băng
tiếng, máy chiếu lại chưa được sử dụng nhiều trong dạy học.
Như vậy muốn đẩy mạnh đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học
phải kết hợp với việc nâng cao mức độ, hiệu quả sử dụng các phương tiện
thiết bị dạy học hiện đại trong quá trình dạy học, nhất là đối với môn khoa
học .

22


2.3. Mức độ và hiệu quả của việc dạy học chủ đề Tự nhiên trong môn Tự
nhiên và Xã hội lớp 2 bằng việc tổ chức các hoạt động giáo dục trải
nghiệm
Dựa theo những điều tra ở mục 2.1 và 2.2, kết hợp với trao đổi trò
chuyện với các giáo viên về việc áp dụng giáo dục trải nghiệm để dạy học chủ
đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2 chúng tôi thấy mức độ vận
dụng còn rất thấp.
Kết quả điều tra được chúng tôi cụ thể hóa bằng biểu đồ 4:

Biểu đồ 4: Mức độ sử dụng giáo dục trải nghiệm trong dạy học Tự nhiên và

Xã hội lớp 2
Từ biểu đồ 4 chúng ta thấy được rằng: Mức độ sử dụng giáo dục trải
nghiệm để dạy học môn Tự nhiên và xã hội nói chung và chủ đề Tự nhiên
trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2 còn hạn chế. Có tới 83% giáo viên cho
biết hiếm khi và chưa bao giờ vận dụng nguyên lý giáo dục trải nghiệm vào
dạy học. Trong khi đó, nghiên cứu chúng tôi thấy chủ đề Tự nhiên trong môn
Tự nhiên và Xã hội lớp 2 được xây dựng nhằm mục đích giúp các em tìm
hiểu, biết về thế giới tự nhiên xung quanh mình, từ đó hình thành kĩ năng, yêu

23


thích, chăm sóc và bảo vệ thiên nhiên. Muốn đạt được mục tiêu ấy, trong quá
trình học tập học sinh phải được trực tiếp quan sát, sử dụng mọi giác quan để
tìm hiểu về thế giới tự nhiên. Điều này khẳng định giáo dục trải nghiệm với
những hoạt động có sự chuẩn bị ban đầu và có phản hồi trong đó đề cao kinh
nghiệm của người học. Nếu được vận dụng vào dạy học chủ đề này sẽ đem lại
hiệu quả rất cao. Các giáo viên trực tiếp đứng lớp cũng nhận thấy rất rõ điều
đó. Vì vậy khi được hỏi ý kiến các thầy cô về sự cần thiết áp dụng giáo dục
trải nghiệm vào dạy học chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2
có tới 87% giáo viên được hỏi cho là cần thiết. Đây cũng là điều kiện thuận
lợi để áp dụng giáo dục trải nghiệm vào dạy học ở Tiểu học.
2.4. Khó khăn và thuận lợi của việc vận dụng giáo dục trải nghiệm để dạy
học chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2
2.4.1. Thuận lợi
Trong giáo dục trải nghiệm, kiến thức mà học sinh thu được là những
kiến thức từ trải nghiệm thực tế chứ không phải là những kiến thức lý thuyết
trừu tượng. Vì vậy nó kích thích học sinh chủ động và tích cực hơn trong quá
trình học tập. Người học luôn ở trạng thái vận động, giải tỏa sức ỳ, khuyến
khích người học vượt qua khó khăn, bộc lộ được năng lực, sở trường của bản

thân, tạo không khí học tập vui vẻ, dễ tìm thấy “tiếng nói chung” và phát
triển mối quan hệ học tập một cách nhanh chóng.
Thực tế các hoạt động trải nghiệm trực tiếp yêu cầu học sinh phải sử
dụng các giác quan, điều này làm cho các em lĩnh hội được nhiều kiến thức,
thông tin và kĩ năng về tự nhiên và xã hội. Khuyến khích học sinh tích cực
trong các kinh nghiệm đem lại kết quả thực tế.
Trong điều kiện hiện nay khi điều kiện kinh tế ngày càng phát triển, sự
tiến bộ vượt bậc của khoa học kĩ thuật, khoa học xã hội, sự bùng nổ thông
tin… thì khả năng nhận thức của học sinh ngày càng phát triển, đồng thời

24


những kinh nghiệm của học sinh cũng được nâng lên. Điều này tạo điều kiện
thuận lợi cho việc vân dụng giáo dục trải nghiệm vào dạy học ở Tiểu học nói
chung và chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và xã hội nói riêng.
Mặt khác ở giáo dục trải nghiệm học sinh được làm việc theo nhóm,
trong các nhóm học sinh hoạt động trải nghiệm lĩnh hội kiến thức dựa trên
khả năng của mình, học sinh được rèn luyện, trải nghiệm và tạo cơ hội để các
nhóm có thể thảo luận đánh giá được những mặt yếu và đưa ra ý kiến chung
phát triển kĩ năng của người lãnh đạo, người quản lý, kĩ năng quan sát, làm
việc theo nhóm... Vì vậy có thể nói giáo dục trải nghiệm là độc nhất.
2.4.2. Hạn chế
Bên cạnh những thuận lợi trong quá trình vận dụng giáo dục trải
nghiệm vào dạy học chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 2 vẫn
còn những khó khăn.
Để học sinh có thể thu được nhiều kết quả từ trải nghiệm, đòi hỏi giáo
viên phải lựa chọn kĩ các hoạt động, hoạt động đó phải đảm bảo thực hiện
được mục tiêu bài học và đảm bảo tính vừa sức với học sinh. Mặt khác trong
quá trình hoạt động trải nghiệm nhiều khi giáo viên không thể lường trước

được diễn biến của hoạt động. Vì vậy muốn tiến hành thành công một giờ dạy
đòi hỏi giáo viên phải có một trình độ nhất định.
Mất nhiều thời gian chuẩn bị cho giờ học, chuẩn bị địa điểm học tập.
Trong giáo dục trải nghiệm giáo viên còn gặp khó khăn trong việc quản lý
học sinh trong quá trình hoạt động trải nghiệm, mất nhiều chi phí cho giờ học.

25


×