Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Một số biện pháp giúp học sinh tiểu học đọc diễn cảm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (548.99 KB, 75 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Khi con người giao tiếp hằng ngày với nhau, người ta có thể dùng cử
chỉ điệu bộ để trao đổi thông tin, nhưng phương tiện cơ bản nhất vẫn là ngôn
ngữ. Suy cho cùng thì không có tư tưởng tình cảm, ý chí, nguyện vọng nào
của con người lại không thể hiện qua ngôn ngữ. Văn bản là sản phẩm của hoạt
động giao tiếp mang tính hoàn chỉnh nhất, trọn vẹn nhất.
Vấn đề đọc nói chung và vấn đề đọc diễn cảm nói riêng rất đáng được
nghiên cứu như một vấn đề lớn của thời đại hiện nay. Thế kỉ XXI là thời đại
của kinh tế tri thức đã hình thành, phát triển và đang can thiệp vào đời sống
từng cá nhân, mỗi gia đình, dân tộc, khu vực và toàn thế giới. Tri thức là của
cải tinh thần của nhân loại. Thứ của cải vô giá này lộ thiên khắp các châu lục
trong trường kì lịch sử và tồn tại dưới dạng văn bản viết, vì thế ai muốn đều
có thể chiếm lĩnh. Tri thức là môi trường thực hiện sự dân chủ nhất để con
người thể hiện quyền bình đẳng xã hội. Đó là quyền được đọc (Right to Read
– Recht auf dasLesen). Thực hiện được quyền lợi to lớn này là hành trình
nhân đạo hóa con người với một quan niệm nhân văn cao cả vì thế ngoài vấn
đề kinh tế tri thức, đọc diễn cảm còn là vấn đề văn hóa đọc – đích đến của văn
hóa đọc là tạo nên người biết đọc tốt, đọc diễn cảm và đọc sáng tạo.
Đọc diễn cảm trở thành một nhu cầu văn hóa, đọc có mục đích, có biện
pháp là một thói quen nâng lên thành hứng thú, cao hơn cả là để hoàn thiện
tâm hồn, tính cách và có hướng hoạt động hiệu quả cho cá nhân và cộng
đồng. Theo tôi nhu cầu văn hóa này phải được bắt đầu từ thế hệ trẻ, những
mầm xanh tương lai của Tổ quốc, phải được hình thành và phát triển trong
học sinh ở bậc học đầu tiên.
Ngày nay, không ai cho là đầy đủ với việc học thuần túy hướng vào kĩ
thuật mà là học sáng tạo ở mức độ thường xuyên và đòi hỏi thái độ đọc phù

3



hợp với khái niệm học. Đọc diễn cảm là một hoạt động học, người giáo viên
nếu chỉ chú ý cách mở rộng vốn từ trong các giờ dạy tiếng Việt thì cũng chưa
đủ, chưa được xem là dạy đọc thực sự. Việc dạy đọc chỉ được thực hiện khi
nào mạch tinh thần, ý tưởng được thực hiện từ nội dung này đến nội dung
khác để hoàn thiện tư tưởng của văn bản.
Hơn nữa đọc diễn cảm là khả năng liên hệ những gì đang đọc với
những gì đã đọc được, lấy đó làm cơ sở để mở rộng sự hiểu biết. Thậm chí
với văn bản nghệ thuật, đọc diễn cảm còn xác định nghĩa mới cho hình tượng.
Từ đó giúp các em có khả năng cảm thụ văn học, và đó cũng là cơ hội để học
sinh “tự bộc lộ” con người mình. Ở trường mầm non tổ chức hoạt động làm
quen với văn học, giáo viên phải đọc và kể diễn cảm cho trẻ nghe và dạy cho
trẻ cảm thụ văn học, khả năng hoạt động văn học nghệ thuật. Vì vậy kĩ năng
đọc diễn cảm trở thành một kĩ năng hết sức cần thiết trong học các tác phẩm
văn học và rất quan trọng đối với giáo dục.
Nghiên cứu để tìm ra những giải pháp, kĩ năng đọc diễn cảm cho học
sinh có hiệu quả trong giảng dạy phân môn Tập đọc là một vấn đề đang được
quan tâm hiện nay. Trên thực tế đã có nhiều nhà nghiên cứu đã tìm hiểu về
vấn đề này nhưng chúng tôi vẫn thấy cần phải đi sâu hơn nữa để tìm ra được
những biện pháp giúp học sinh tiểu học đọc diễn cảm có hiệu quả hơn. Vì vậy
chúng tôi chọn đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh tiểu học đọc diễn
cảm”.
2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Kĩ năng đọc diễn cảm được bắt đầu đề cập từ lớp 4 trong chương trình
môn học. Đọc diễn cảm có thể diễn đạt cách hiểu của mình qua giọng đọc.
Lớp 4, 5 học sinh đã có thể hiểu được nội dung của đoạn văn mình đọc, hiểu
được hàm ý trong câu, giá trị nghệ thuật của văn bản văn học và có sự liên hệ
thực tế đời sống. Những kĩ năng này được rèn cho học sinh trong suốt những
năm học phổ thông.

4



Tác giả Lê Phương Nga trong cuốn Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở
tiểu học (2006) NXB ĐHSP đã cho rằng đọc diễn cảm được hiểu là đọc hay,
là một yêu cầu đặt ra khi học văn bản văn chương hoặc các yếu tố của ngôn
ngữ văn chương.
Đọc diễn cảm phản ánh cách hiểu bài văn, bài thơ là việc hiểu và cơ sở
để đọc diễn cảm. Vì vậy, đọc diễn cảm trước hết phải xác định được nội dung,
nghĩa lý của bài đọc, sắc thái tình cảm, cảm xúc, giọng điệu chung của bài.
Trong những năm 60, 70 của thế kỉ XX có rất nhiều giáo trình nói về
đọc diễn cảm. Các tác giả của các công trình nghiên cứu chia làm hai hướng.
Một hướng theo khuynh hướng ngữ văn, cho rằng nhiệm vụ chính của đọc
diễn cảm là nâng cao trình độ ngôn ngữ văn hóa của học sinh và làm cho các
giờ học tiếng mẹ đẻ trở nên sinh động. Còn hướng thứ hai đi theo khuynh
hướng nghệ thuật tâm lý. Họ cho rằng đọc diễn cảm là nghệ thuật đọc và cho
rằng nhiệm vụ hàng đầu là giáo dục thẩm mĩ.
Tác phẩm thể hiện khuynh hướng nghệ thuật- tâm lí điển hình nhất là
tác phẩm của E.V.Iagovixki “Đọc diễn cảm là một phương tiện giáo dục thẩm
mĩ” (Lêningrat 1963, xuất bản lần thứ hai). Đó là một tác phẩm nghiên cứu
âm thanh và ngữ điệu của ngôn ngữ trong các giờ học tiếng Nga (Maxcơva,
1959).Quyển sách của L.A Gorbusina “Đọc diễn cảm và kể chuyện của các
thầy giáo” (Maxcơva, 1965) dành cho thầy giáo cấp I. Tác phẩm đề cập đến:
kĩ thuật đọc và các bài tập, các quy tắc phát âm chuẩn mực, các thành phần
của ngữ điệu, vấn đề đọc diễn cảm và các hình thức kể chuyện khác nhau.
Trong cuốn Phương pháp đọc diễn cảm(2007) – Hà Nguyễn Kim
Giang – NXB ĐHSP khẳng định: đọc diễn cảm hoạt động đọc nói chung nên
nó là hoạt động lao động sáng tạo.
Như vậy đọc diễn cảm là một quá trình bao gồm quá trình tiếp nhận
văn bản viết và quá trình thông báo, truyền đạt những văn bản đọc. Đó là quá


5


trình tái tạo chuyển đổi nội dung ý nghĩa nghệ thuật của văn bản âm thanh,
nhịp điệu, tốc độ, sự ngừng nghỉ và sắc thái thẩm mĩ, cảm xúc thẩm mĩ và thái
độ thẩm mĩ của người đọc.
Việc nghiên cứu để tìm ra những biện pháp giúp học sinh tiểu học đọc
diễn cảm không còn là vấn đề mới mẻ, nó đã được đề cập một cách khách
quan hay cụ thể trên các bài báo, tạp chí, trong các cuốn sách và các công
trình khoa học. Mỗi ý kiến, quan niệm, công trình nghiên cứu đều đề cập sâu
sắc một khía cạnh nhất định, tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một công
trình nào nghiên cứu sâu để tìm ra được các biện pháp giúp học sinh tiểu học
đọc diễn cảm. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài Một số biện pháp giúp học sinh
tiểu học đọc diễn cảm nhằm đưa ra những biện pháp để giúp cho các em học
sinh tiểu học đọc diễn cảm các văn bản một cách hiệu quả hơn.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài đưa ra các biện pháp giúp học sinh tiểu học đọc diễn cảm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: các biện pháp đọc diễn cảm.
- Phạm vi: kĩ năng đọc diễn cảm của học sinh tiểu học.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lí luận của đọc diễn cảm.
- Các biện pháp giúp học sinh tiểu học đọc diễn cảm.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp chung: quy nạp, diễn dịch.
- Phương pháp cụ thể:
+ Phương pháp phân tích
+ Phương pháp thống kê phân loại
+ Phương pháp tổng hợp
+ Phương pháp hệ thống

6


7.Cấu trúc khóa luận
Khóa luận bao gồm ba phần: Mở đầu, Nội dung, Kết luận. Phần Nội
dung của khóa luận được tổ chức thành ba chương
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Thực trạng của việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm ở các trường
tiểu học hiện nay
Chương 3: Một số biện pháp giúp học sinh tiểu học đọc diễn cảm

7


Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN

1.1 Vị trí và nhiệm vụ của dạy đọc ở tiểu học
1.1.1 Vị trí của dạy đọc ở tiểu học
1.1.1.1 Khái niệm đọc
Suốt thời gian học tập từ nhỏ đến lớn, học sinh sử dụng hoạt động đọc
nhiều nhất. Các em đọc bài học, đọc bài ghi, đọc sách giáo khoa, đọc truyện,
đọc bài tập, đọc sách báo, đọc báo cáo trong các cuộc hội thảo…Khi lớn lên,
học tập và hoạt động trong mỗi nghành nghề lại có hoạt động đọc khác nhau.
Có người nhìn vào tấm phim để đọc (bác sĩ nhìn vào tấm phim chụp X
quang), có người lại nhìn vào các hình vẽ, những con số để đọc đó là kiến trúc
sư, những kế toán, đọc trên bản vẽ kĩ thuật và bảng số liệu thống kê. Đó cũng
là hoạt động đọc, nhưng trong đề tài này chúng tôi đề cập đến đọc chữ, đọc
văn bản, xem xét đọc trong phân môn Tập đọc.
Về khái niệm đọc đã có nhiều quan niệm, định nghĩa về đọc. Theo từ

điển tiếng Việt: “Đọc là hành động nhìn vào chữ hoặc kí hiệu, dấu hiệu để
hiểu nội dung” [17;520]. Như vậy theo định nghĩa này đọc được hiểu theo
nghĩa rộng, bao hàm cả đọc chữ, đọc số liệu, bản vẽ…
Tác giả Nguyễn Trí cho rằng: “ Đọc cũng là một quá trình vừa tạo cảm
xúc, vừa thể hiện tình cảm của mình với nhân vật, với bức tranh cuộc sống
hoặc với nội dung được nêu trong bài văn” [13;7]. Quá trình đọc gắn liền với
những biểu hiện cảm xúc của người đọc. Đọc là suy ngẫm để thấy được cái
hay trong ngôn từ.
Ông M.R.Lơrôp đã định nghĩa: “ Đọc là một dạng hoạt động ngôn ngữ,
là quá trình chuyển dạng thức chữ viết sang lời nói có âm thanh và thông hiểu
nó (ứng với hình thức đọc thành tiếng) là quá trình chuyển trực tiếp từ hình
8


thức chữ viết thành các đơn vị nghĩa không có âm thanh (ứng với đọc thầm)
[8;8]. Đây là một định nghĩa rất phù hợp với dạy Tập đọc ở tiểu học.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói trong bài “Dạy văn là một quá trình
rèn luyện toàn diện” đã nhắc đến việc đọc như sau: “Phải làm sao có sách và
hướng dẫn học sinh đọc, phải đọc rất nhiều, đọc gấp mấy mươi lần những
điều ông thầy giảng dạy ở lớp…Và chốt lại yêu cầu đạt được là phải gợi ý suy
nghĩ, tìm tòi, rèn luyện óc thông minh, sáng tạo. Phải làm cho học sinh thấy
được trong bài văn người ta nói như vậy, và đó là cái hay phải thấy” [1;17].
Ông cho rằng đọc chính là hoạt động tư duy, đọc để thấy cái hay, cái đẹp
trong bài văn.
Sau khi xem xét các định nghĩa, quan niệm khác nhau về đọc, chúng
tôi nhận thấy định nghĩa thường nhấn mạnh những khía cạnh khác nhau của
đọc. Đọc không chỉ là “đánh vần”, phát âm thành tiếng theo đúng các kí hiệu
chữ viết, cũng không chỉ là quá trình nhận thức để có khả năng thông hiểu
những gì được đọc. Đọc chính là sự tổng hợp của hai quá trình đó. Như vậy
hoạt động đọc phải xem xét đồng thời hai mặt ngôn ngữ và tư duy. Định

nghĩa của viện sĩ M.R.Lơrôp đã xem xét việc đọc ở cả hai khía cạnh đó. Do
vậy, chúng tôi đã chọn và sử dụng định nghĩa này để làm cơ sở thực hiện đề
tài.
Như vậy, đọc chính là biến hình thức chữ viết của văn bản thành hình
thức âm thanh để người đọc, người nghe hiểu được những điều mà tác giả nói
qua chữ viết.
1.1.1.2 Ý nghĩa của việc đọc
Đọc là một hoạt động của con người. Đọc không phải chỉ là hành động
nhận thức nội dung ý tưởng từ văn bản mà còn là hoạt động trực quan sinh
động giàu cảm xúc, có tính trực giác và khái quát trong nếm trải của con
người. Vì thế xuất hiện kinh nghiệm đọc và sự biến đổi cách thức và chất

9


lượng đọc. Đọc còn là hành động mang tính chất tâm lí, một hoạt động tinh
thần của độc giả, bộc lộ rõ năng lực văn hóa của từng người.
Những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn hóa, khoa học,
tư tưởng, tình cảm của các thế hệ trước và cả những người đương thời phần
lớn đã được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết đọc thì con người không
thể tiếp thu nền văn minh của nhân loại. Biết đọc con người đã nhân khả năng
tiếp nhận lên nhiều lần, từ đây con người có thể đánh giá cuộc sống, nhận
thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội, tư duy. Biết đọc con người có khả năng
chế ngự một phương tiện văn hóa cơ bản giúp họ giao tiếp được với thế giới
bên trong của người khác. Đặc biệt khi đọc các tác phẩm văn chương, con
người không chỉ được thức tỉnh nhận thức mà còn rung động tình cảm, nảy nở
những ước mơ tốt đẹp, khơi dậy năng lực hành động, sức mạnh sáng tạo cũng
như bồi dưỡng tâm hồn. Không biết đọc con người sẽ không có điều kiện
hưởng thụ sự giáo dục mà xã hội dành cho họ, không thể hình thành được một
nhân cách toàn diện. Đặc biệt trong thời đại bùng nổ thông tin thì biết đọc

ngày càng quan trọng vì nó sẽ giúp người ta sử dụng các nguồn thông tin. Đọc
chính là học, học nữa, học mãi, đọc để tự học, học cả đời.
Vì những lẽ trên dạy đọc có ý nghĩa to lớn ở tiểu học. Đọc trở thành
một đòi hỏi cơ bản, đầu tiên đối với mỗi người đi học. Trước hết trẻ phải học
đọc, sau đó trẻ phải đọc để học. Đọc giúp trẻ chiếm lĩnh một ngôn ngữ để
dùng trong giao tiếp và học tập. Nó là công cụ để học các môn khác. Nó tạo ra
hứng thú và động cơ học tập. Tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và
học tập cả đời. Nó là khả năng không thể thiếu được của con người trong thời
đại văn minh.
Đọc một cách có ý thức cũng sẽ tác động tích cực tới trình độ ngôn
ngữ cũng như tư duy của người đọc. Việc dạy sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn,
bồi dưỡng ở các em lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết suy

10


nghĩ một cách logic cũng như biết tư duy có hình ảnh. Như vậy đọc có ý
nghĩa to lớn còn vì nó bao gồm các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát
triển.
1.1.2 Nhiệm vụ của dạy đọc ở tiểu học
Dạy đọc ở tiểu học với tư cách là một phân môn của môn Tiếng Việt
có nhiệm vụ hình thành và phát triển năng lực đọc cho học sinh. Tính đa
nghĩa của “đọc”, kéo theo tính đa nghĩa của “biết đọc”. Biết đọc được hiểu
theo nhiều mức độ. Một em bé mới đi học biết đánh vần “cờ _ơ_ cờ” ngập
ngừng đọc từng tiếng một, thế cũng gọi là biết đọc. Đọc, thâu tóm được tư
tưởng của một cuốn sách trong vài ba trang cũng gọi là biết đọc. Trong một
ngày nắm được tinh thần của hàng chục cuốn sách cũng gọi là biết đọc.
Những năng lực này không phải tự nhiên mà có. Nhà trường phải từng bước
hình thành cho học sinh năng lực này và trường tiểu học nhận nhiệm vụ đặt
viên gạch đầu tiên.

Tập đọc là một phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó
là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kĩ
năng cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của “đọc”: đọc đúng, đọc nhanh (đọc
lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình
đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Bốn kĩ năng này được hình
thành từ hai hình thức đọc: đọc thành tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn
luyện đồng thời và hỗ trợ lẫn nhau. Sự hoàn thiện một trong những kĩ năng
này sẽ có tác động tích cực đến những kĩ năng khác. Ví dụ, đọc đúng là tiền
đề của đọc nhanh cũng như cho phép thông hiểu nội dung văn bản. Ngược lại,
nếu không hiểu điều mình đang học thì không thể đọc nhanh và diễn cảm
được. Nhiều khi khó nói được rạch ròi kĩ năng nào làm cơ sở cho kĩ năng nào,
nhờ đọc đúng mà hiểu đúng hay chính nhờ hiểu đúng mà đọc đúng. Vì vậy
trong dạy học, không thể xem nhẹ yếu tố nào.

11


Dạy đọc là giáo dục lòng ham đọc sách, hình thành phương pháp và
thói quen làm việc với văn bản, làm việc với sách cho học sinh. Làm cho sách
được tôn kính trong trường học, đó là một trong những điều kiện để trường
học thực sự trở thành trung tâm văn hóa. Nói cách khác, thông qua việc dạy
đọc, phải làm cho học sinh thích thú đọc và thấy được khả năng đọc là có ích
cho các em trong cả cuộc đời, thấy được đó là một trong những con đường
đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển.
Vì việc đọc không thể tách rời những nội dung được đọc nên bên cạnh
những nhiệm vụ rèn kĩ năng đọc, giáo dục lòng yêu sách, tập đọc còn có
nhiệm vụ:
- Làm giàu kiến thức về ngôn ngữ, đời sống và kiến thức văn học cho
học sinh.
- Phát triển ngôn ngữ và tư duy cho học sinh.

- Giáo dục tư tưởng, đạo đức, tình cảm, thị hiếu thẩm mĩ cho học sinh.
1.2 Quan niệm về đọc diễn cảm
1.2.1. Đọc diễn cảm
Đọc diễn cảm là một kĩ năng được đặt trong phân môn Tập đọc được
đề cập đến từ bậc Tiểu học – THPT (Lớp 4 – 12). Ở tiểu học thì đọc diễn cảm
được đặt ra đối với học sinh lớp 4, 5 khi học sinh đã có thể hiểu được nội
dung của đoạn văn mà mình học, hiểu được hàm ý trong câu giá trị nghệ thuật
của văn bản văn học và có sự liên hệ với thực tế đời sống. Vì đọc diễn cảm
nằm trong hoạt động đọc nói chung nên nó cũng là lao động và sáng tạo.
Đọc diễn cảm là một quá trình, bao gồm quá trình tiếp nhận văn bản và
quá trình thông báo, truyền đạt những văn bản viết thành văn bản đọc. Đó là
quá trình tái tạo chuyển đổi nội dung ý nghĩa nghệ thuật của văn bản thành âm
thanh, nhịp điệu, tốc độ, sự ngừng nghỉ và sắc thái thẩm mĩ, cảm xúc thẩm mĩ
và thái độ thẩm mĩ của người đọc. Ngoài ra, đọc diễn cảm bao gồm cả quá

12


trình ngôn ngữ và văn học, quá trình tâm lí và sư phạm, quá trình thông tin và
giao tiếp.
Theo tác giả Lê Phương Nga – Đặng Kim Nga đã nêu ra trong cuốn
Phương pháp dạy Tiếng Việt ở tiểu học cho rằng: “ Đọc diễn cảm ở đây được
hiểu là đọc hay là một yêu cầu đặt ra khi đọc những văn bản văn chương hoặc
các yếu tố ngôn ngữ văn chương”.
Còn theo tác giả Hà Nguyễn Kim Giang nêu ra trong cuốn Phương
pháp đọc diễn cảm, cho rằng: “ Đọc diễn cảm là làm nổi bật đặc điểm, cảm
xúc thẩm mĩ và đời sống tinh thần của tác phẩm, tạo ra mối quan hệ xúc động
riêng của người đọc với tác phẩm”.
Từ những đặc điểm trên, đọc diễn cảm đã đảm bảo tính chân thực và
màu sắc của cá nhân trong cảm thụ, thể hiện được cái tinh thần và cái hồn của

bài văn. Đọc diễn cảm đã tận dụng được các hình thức biểu hiện của người
đọc, thống nhất được nội tâm và ngoại hình, từ đó chinh phục được người
nghe.
Vì vậy có thể hiểu ngắn gọn về đọc diễn cảm như sau:
Đọc diễn cảm là cách sử dụng giọng đọc có kèm theo cử chỉ, điệu bộ,
nét mặt để truyền đạt những ý nghĩ, tư tưởng, tình cảm của tác giả gửi gắm
trong tác phẩm và cả những ý nghĩ, thái độ, tâm trạng, cảm xúc của người đọc
đến với người nghe.
1.2.2. Bản chất của việc đọc diễn cảm
Việc đọc nói chung và đọc diễn cảm là biến hình thức chữ viết của văn
bản thành hình thức âm thanh của tiếng nói, là làm cho người nghe hiểu được
ý của người viết. Các nhà ngôn ngữ học đã đưa ra định nghĩa sau đây về đọc
diễn cảm. “ Đọc tức là biến hình thức chữ viết của văn bản thành hình thức
âm thanh của ngôn ngữ để làm cho người nghe hiểu được điều mà tác giả nói
qua chữ viết”.

13


Chữ viết là một phương tiện ghi âm, dù hoàn mĩ đến đâu cũng chỉ ghi
âm một cách khái quát. Khi đọc người đọc phải lệ thuộc vào văn bản, nhưng
sự lệ thuộc này cũng không hạn chế được sự sáng tạo của người đọc. Một câu
thơ, câu văn dù giữ nguyên số câu chữ, dấu chấm câu cũng có năm, bảy cách
đọc. Về vấn đề này nhà văn A.P.Tsêkhôp trong truyện ngắn Những cảm xúc
mãnh liệt đã từng nói: “Tôi dám chắc rằng một từ nào cũng có đến một nghìn
nghĩa và sắc thái khi xem xét từ góc độ nó được đọc lên như thế nào”. Đọc là
sự phân tích, nắm bắt, đoán nhận kí hiệu.
Đọc diễn cảm cũng là một nghệ thuật có đặc điểm riêng, nó không lặp
lại người khác, không chỉ truyền đạt trung thành, máy móc bài văn mà còn ghi
đậm dấu ấn cá nhân. Đọc như thế sẽ gây được chấn động tâm hồn trên cơ sở

những mĩ cảm ngôn ngữ văn học và khả năng biểu diễn. Lối đọc này sẽ có
sức hấp dẫn, lôi cuốn người nghe và làm sáng tỏ thêm nội dung, ý nghĩa của
tác phẩm văn chương. Rõ ràng đọc diễn cảm mang đầy đủ tính nghệ thuật của
nó.
Đọc diễn cảm là hình thức đặc biệt của đọc văn chương. Đặc biệt nó
vượt qua việc đọc những tín hiệu ngôn ngữ, từ kí hiệu chữ viết sang kí hiệu
âm thanh tạo ra năng lực đọc văn.
Đọc diễn cảm là hình thức riêng của việc đọc văn có sự tham gia bổ
sung, hỗ trợ của năng lực diễn đạt bằng cử chỉ, điệu bộ, tâm thế, dáng vẻ,
giọng điệu, ngữ điệu, âm sắc, màu sắc của cảm xúc ngôn ngữ. Cho nên đọc
diễn cảm là một nghệ thuật. Nghệ thuật đọc diễn cảm đòi hỏi phải có một quá
trình rèn luyện lâu dài và liên tục.
Vấn đề mối quan hệ qua lại giữa đọc diễn cảm với đọc biểu diễn nghệ
thuật rất phức tạp vì ngay trong nghệ thuật biểu diễn đọc có hai khuynh
hướng: một số nghệ sĩ diễn xuất thiên về biểu diễn, một số khác lại sử dụng
phong cách của người kể chuyện.

14


Thế nhưng trong nghệ thuật đọc không phải chỉ có hai khuynh hướng
trên. Xuren Kotrarian viết: “Cuộc sống của con người thể hiện ở nhiều tính
cách muôn vẻ khác nhau. Cũng như những tính cách đó được thể hiện dưới
nhiều hình thức đa dạng trong nghệ thuật của người diễn viên. “tưởng tượng”
và “rung động”, “đọc suông” và “kể lại”, “nhập vai” và “biểu diễn”, trong
cuộc sống tất cả những cái đó gắn chặt với nhau, ít khi gặp những cái riêng
biệt dưới hình thức nguyên dạng “không biến hóa”, và nếu như có trường hợp
đơn điệu nào đó thì nó sẽ dẫn đến sự buồn tẻ và chán ngắt.
Nếu như trong nghệ thuật biểu diễn đọc không khẳng định một
“trường phái” nào, thì trong việc đọc diễn cảm lại càng không cần khẳng định

nó. Chỉ có sự khác nhau là đặc điểm riêng biệt của nhà trường phổ thông đòi
hỏi các phương pháp đọc cần phải được xem xét từ góc độ thích hợp đối với
từng trường hợp cụ thể, có nghĩa là có tính đến thể loại, khuynh hướng văn
học, thế giới quan và tư tưởng của tác giả, mà còn từ góc độ sư phạm của
những tác phẩm đó và sự dễ hiểu của chúng đối với từng lứa tuổi học sinh.
Từ những điều trình bày trên ta có thể khái quát lại về bản chất của
đọc diễn cảm như sau:
+ Đọc diễn cảm là lao động sáng tạo
+ Là biểu diễn nghệ thuật đọc
+ Truyền đạt mọi cái hay cho người nghe
+ Phát huy màu sắc của tác phẩm
+ Đó là một phương pháp sư phạm và là một khoa học
1.3. Các cơ sở lí luận của đọc diễn cảm
1.3.1. Cơ sở ngôn ngữ học của đọc diễn cảm
1.3.1.1. Ngữ điệu của lời nói
Trong khi nói về nghệ thuật đọc, người ta thường xác định rằng đó là
nghệ thuật của ngữ điệu. Sự tồn tại của các ngữ điệu đa dạng khác nhau đã

15


cho phép người ta phân biệt lời nói diễn cảm với lời nói không diễn cảm.
“Người nói cần phải biết sử dụng thành thạo những phương tiện không có
tính ngôn ngữ nhưng lại rất quan trọng về mặt tâm lí để biểu hiện ý nghĩ.
Trước hết đó là ngữ điệu”. Thế nào là ngữ điệu? Theo định nghĩa của nhà tâm
lí học thì ngữ điệu của lời nói là hệ thống âm thanh của câu nói chung. Ngữ
điệu bao gồm tất cả các dấu hiệu âm thanh phức tạp: sự thay đổi của giọng nói
cơ bản, độ vang to, âm sắc, độ dài. Ngoài ra còn có những chỗ nghỉ hơi,
những chỗ ngắt câu. Ngữ điệu biểu thị mối quan hệ tình cảm, ý chí của con
người trong quá trình giao tiếp với nhau nhưng không phải tất cả những tính

chất quan trọng của ngữ điệu đều được xem là cơ sở của sự diễn cảm. Ngữ
điệu không những diễn tả mối quan hệ tình cảm, ý chí của con người mà còn
được xác định bởi những mối quan hệ đó. Chính mối quan hệ giao tiếp này đã
góp phần xác định ngữ điệu của người đọc, có thể sôi nổi hơn, đam mê hơn,
có thể gần gũi thống thiết, bi lụy, âu sầu hơn…Người bắt chước ngữ điệu, trở
nên nực cười bởi vì ngữ điệu xuất hiện tự nhiên nhờ mối quan tâm đầy đủ và
hiểu biết của người đọc với đặc trưng cơ bản của tác phẩm văn học.
Bởi vậy Ôzarôpxki đã phản đối sự tìm tòi các ngữ điệu. Còn Ginkin thì
viết “Nếu ai đặt câu hỏi rằng làm thế nào để tìm tòi được ngữ điệu và có thể
học ngữ điệu đúng và hay được không thì có thể trả lời sẽ không có. Không
thể đọc ngữ điệu được cũng giống như không thể học khóc, học cười, học
sung sướng, học đau khổ…”. Ngữ điệu của lời nói tự bản thân nó sẽ đến với
chúng ta trong hoàn cảnh nhất định.
Chúng ta không nên nghĩ đến nó, không nên quan tâm đến nó. Nhưng
sẽ có phương pháp tìm kiếm ngữ điệu khi nhiệm vụ đọc một đoạn văn nào đó
đặt ra cho chúng ta chứ không phải chúng ta đặt ra cho nó.
1.3.1.2. Cơ sở về âm thanh của ngôn ngữ khi đọc
1.3.1.2.1. Chính âm
Mục đích của dạy đọc cần hướng tới là đọc diễn cảm đó cũng chính là
nội dung của luyện đọc thành tiếng. Đọc đúng được thì mới có đọc diễn cảm,

16


vì vậy đọc đúng trước hết là đọc đúng chính âm, để dạy đọc đúng chúng ta
cần có hiểu biết về chính âm.
Chính âm là các chuẩn mực phát âm của một ngôn ngữ có giá trị và
hiệu lực về mặt xã hội. Chính âm sẽ quy định nội dung luyện phát âm ở tiểu
học. Hiện nay, trong trường học chưa có văn bản quy định về chuẩn chính âm.
Điều này làm cho việc xác định nội dung đọc thành tiếng ở tiểu học gặp nhiều

khó khăn, không tránh khỏi những lúng túng khi xác định nội dung đọc đúng,
đọc diễn cảm.
Vấn đề đặt ra là phải giải quyết như thế nào những nét khác biệt trên
bình diện ngữ âm giữa các phương ngữ, một hiện tượng có liên quan trực tiếp
đến việc xác định chuẩn chính âm. Trong bốn thập kỉ nay, giới Việt ngữ học
có nhiều quan điểm khác nhau về chuẩn mực ngữ âm tiếng Việt, trong đó ý
kiến cho rằng nên lấy phương ngữ Bắc Bộ (chuẩn là Thủ đô Hà Nội) làm cơ
sở để xác định chuẩn mực ngữ âm tiếng Việt đồng thời bổ sung một số ngữ
âm tích cực của các phương ngữ khác. Đây là quan điểm được nhiều người
tán thành. Hiện nay trong trường học, một cách tự nhiên, hệ thống ngữ âm
được phản ánh trên chữ viết được coi là hệ thống ngữ âm chuẩn mực của
tiếng Việt hiện tại. Đó là cách phát âm lấy phương ngữ Bắc Bộ (tiêu biểu là
tiếng Hà Nội) bổ sung thêm ba phụ âm đầu của miền Trung, những âm được
biểu hiện trên chữ viết bằng các con chữ tr, s, r và hai vần ươu, ưu. Đây là
cách phát âm có sự khu biệt âm vị học tối đa của chữ viết để khắc phục những
âm đã mất đi hoặc đã bị biến dạng của tiếng địa phương.
1.3.1.2.2. Trọng âm
Trọng âm là độ vang và độ mạnh khi phát âm ra âm tiết (tiếng). Dựa
vào sự phát âm một tiếng mạnh hay yếu, kéo dài hay không kéo dài, đường
nét thanh điệu rõ hay không rõ, người ta chia các tiếng thành chuỗi lời nói,
thành tiếng có trọng âm (là tiếng có trọng âm mạnh) và không có trọng âm

17


(tiếng có trọng âm yếu). Trọng âm mạnh rơi vào các từ truyền đạt thông tin
mới hoặc có tầm quan trọng trong câu. Trọng âm yếu đi với các từ không có
hoặc có ít thông tin mới. Đây là căn cứ để chúng ta đọc rõ, nhấn giọng hay
kéo dài những từ quan trọng trong bài.
Loại từ và hư từ mang trọng âm yếu. Thực từ mới có trọng âm. Trong

câu mỗi ngữ đoạn (mà đường ranh giới là những chỗ ngắt, nghỉ) được kết
thúc bằng một trọng âm, trừ khi ngữ đoạn kết thúc bằng một ngữ khí từ. Đây
là căn cứ quan trọng để xác định chỗ ngắt nghỉ trong câu văn, câu thơ, cũng là
căn cứ để xác định những chỗ cần luyện ngắt giọng trong bài.
1.3.1.2.3. Hoạt động ngôn ngữ
Khoa học hiện đại coi ngôn ngữ là một trong những hình thức hoạt
động của con người “hoạt động ngôn ngữ” còn những lời nói riêng biệt được
gọi là “những hành động nói năng”. Trong khoa học nghiên cứu những loại
phát sinh, ngôn ngữ xuất hiện và phát triển như một phương tiện để thông
báo, một phương tiện dùng để tác động đến những người xung quanh. Khi
một đứa trẻ nói từ “bố” thì từ đó không những chỉ dùng để gọi một người nào
đó, mà còn muốn người đó làm cho một việc gì cụ thể. Tùy theo từng hoàn
cảnh cụ thể, từ “bố” có nghĩa là: “Bố ơi, dạy con tập xe” hay “Bố ơi, đưa con
đi học”…
Mục đích rõ ràng của hoạt động lời nói được xác định bằng những cách
phân chia sự nhấn giọng trong câu, bởi tính đa dạng của ngữ điệu, bởi sắc thái
nhịp điệu của giọng, tức là bởi tất cả những phương tiện bởi lời nói diễn cảm.
Ngoài ra trong khi trả lời và trong khi học thuộc lòng, học sinh thường máy
móc hoặc đọc lúng túng. Thói quen này của học sinh cần phải được khắc
phục. Cần phải làm sao cho khi đọc bài văn, học sinh phải truyền đạt được nội
dung đã được tiếp thu một cách cụ thể (như tư tưởng, hình ảnh, sự đánh giá và
ý định của tác giả), làm cho người nghe có thể hiểu được những điều đã nói

18


trong văn bằng những hình ảnh cụ thể, nghĩa là làm cho người đọc giao tiếp
với người nghe một cách chân thực và có mục đích rõ ràng. Đây là một thủ
thuật rất quan trọng, có tính chất tích cực, một mặt nó nâng cao được tính linh
hoạt và diễn cảm của ngôn ngữ, mặt khác là cho người nghe thêm chú ý và dễ

ghi nhớ.
1.3.1.2.4. Ngôn ngữ và tư duy
Tư duy là một quá trình tâm lí, có tính xã hội về sự tìm tòi và phát
triển những cái mới, là quá trình phản ánh thực tiễn một cách gián tiếp và khái
quát trong quá trình phân tích và tổng hợp, tư duy gắn một cách hữu cơ với
ngôn ngữ.
Tư duy và ngôn ngữ có mối quan hệ đặc biệt trong quá trình hoạt động
của ngôn ngữ bên trong (ngôn ngữ câm). Đặc điểm của nó là những cấu âm
ẩn kín mà từ đó những sự kích thích yếu ớt của vận động được chuyển vào
não để tư duy bình thường.
Thông thường người ta chia tư duy ra thành tư duy hình tượng và tư
duy khái niệm. Trong thực tế cả hai loại tư duy này có mối quan hệ lẫn nhau.
Nó có liên quan đến một quá trình rất quan trọng đối với sự sáng tạo – đó là
sự tưởng tượng.
1.3.1.2.5. Tính hình tượng của ngôn ngữ
Tưởng tượng là sự sáng tạo ra một hình ảnh, một khái niệm, một tư
tưởng mới, sau đó chúng được thể hiện vào sự vật hoặc trong hoạt động thực
tiễn. Trong lĩnh vực đọc diễn cảm thì đó là sự sáng tạo hình tượng hay khái
niệm được thể hiện bằng lời nói. Không có tưởng tượng thì không có một sự
sáng tạo nghệ thuật nào. Cơ sở sinh lí học của tưởng tượng là sự hình thành
những tổ hợp mới trên cơ sở những liên kết tạm thời được hình thành trong
những kinh nghiệm cũ. Vì vậy kinh nghiệm càng phong phú thì càng có nhiều
khả năng để tưởng tượng. Sự quan sát tất cả các hiện tượng có trong cuộc

19


sống là nền tảng của tưởng tượng. Tưởng tượng khác với quá trình ghi nhớ
bình thường ở chỗ hình ảnh thu nhận được nhờ những liên kết mới là hình ảnh
chưa có trong kinh nghiệm của chúng ta. Thiếu đi những yếu tố cần thiết

trong trí nhớ của người nói hay người tiếp thu thì sẽ gây khó khăn cho sự nảy
sinh hình tượng. Đó cũng là khó khăn của học sinh trong khi tiếp thụ văn học
cổ điển trước cách mạng.
Khi chúng ta đọc hay nghe một tác phẩm văn học, nếu như chúng ta
không nỗ lực gắng hết sức thì các hình tượng sẽ xuất hiện trong trí tưởng
tượng của chúng ta một cách tùy tiện. Hơn nữa những hình tượng đó có tính
chính xác và rõ ràng ở các mức độ khác nhau. Người đọc hay người kể cần
phải cố gắng gợi ra một cách có ý thức trong tưởng tượng của người nghe
những hình tượng cụ thể và rõ ràng hoặc như người ta thường gọi chúng là
năng lực nhìn thấy. Nhưng điều đó chỉ thấy được khi chính bản thân người
nói hay người đọc nhìn thấy một cách cụ thể và rõ ràng tất cả những gì mà
mình kể ra. Trong trí tưởng tượng của người đọc hay người kể chuyện cần
phải đưa ra một cuốn phim về các hình ảnh tưởng tượng mà người đọc sẽ mở
ra trước mặt người nghe.
Với ý nghĩa trên chúng ta cần phải ghi nhớ lời khuyên của
K.X.Xtanhixlapxki “không phải nói vào tai, mà phải nói vào mắt”. Quá trình
tưởng tượng sẽ mở rộng kinh nghiệm cá nhân của người nói và người nghe.
Tưởng tượng có một ý nghĩa rất lớn trong việc tổ chức và thực hiện hoạt
động, và chính bản thân sẽ được hình thành trong các hình thức hoạt động
khác nhau, trong đó có cả việc đọc tác phẩm văn học nghệ thuật.
1.3.1.2.6. Tính biểu cảm của của lời nói và của việc đọc diễn cảm
Đôi khi thầy giáo thường bảo học sinh: “Hãy đọc cho có tình cảm”
mà không biết rằng mình đã đặt ra cho học sinh một nhiệm vụ không thể nào
thực hiện được và đã đẩy học sinh vào con đường bắt chước một cách giả tạo.
Lĩnh vực cảm xúc là lĩnh vực không chịu sự ra lệnh trực tiếp.

20


Phản ứng tình cảm của con người là một hành động phản xạ phức tạp

trong đó bao gồm nhiều yếu tố vận động và sinh dưỡng kết hợp hữu cơ với
nhau. Cảm xúc nảy sinh khi có nhu cầu và có những hoạt động để thỏa mãn
nhu cầu.
Vai trò quyết định trong sự khởi động của các phản ứng tình cảm là ở
vỏ bán cầu đại não, ở đó xuất hiện sự liên kết các tín hiệu bắt nguồn từ các bộ
phận bên trong cơ thể với những tín hiệu vận động. Như vậy tình cảm cũng
như những quá trình tâm lí khác do trung tâm của não bộ điều khiển. Tình
cảm của con người thể hiện trong những hành động vận động muôn vẻ như
điệu bộ, cử chỉ, những sự vận động của cơ thể và những sự thay đổi của giọng
nói, lời nói. Sự thay đổi này không phải lấy ý chí để dập tắt. Nó mang tính tự
nhiên. Nói như Ximônôp “Trong đọc diễn cảm thì hệ thống cảm xúc cá nhân
có được nhờ tương giao với tác phẩm văn học, phải chiếm ưu thế hơn hệ
thống khái niệm”.
Muốn đọc cho được tình cảm thì phải truyền đạt được tình cảm, như một
nhà tâm lí học đã nói: “không thể ra lệnh cho tình cảm mà phải đi đến tình cảm
bằng nhiều con đường khác nhau…khi trạng thái tâm lí có khả năng làm nảy
sinh mối quan hệ tình cảm của con người đối với các hiện tượng xung quanh
xuất hiện thì mối quan hệ biểu cảm được tạo nên và đó sẽ là cảm xúc”.
1.3.2. Cơ sơ giao tiếp của đọc diễn cảm
Từ diễn cảm có chứa một ý nghĩa là diễn xuất, là thể hiện ra bên ngoài
những cảm xúc.
Giao tiếp hằng ngày đòi hỏi phần lớn phải sử dụng ngôn ngữ nói và
những yếu tố phi ngôn ngữ như: ánh mắt, nụ cười, nét mặt, lắc đầu, thở
dài,…Những sự xúc cảm đó chỉ sinh ra trong tình huống giao tiếp và trong
mục đích giao tiếp. Nó bắt nguồn từ ý đồ chủ quan của ngôn ngữ giao tiếp (có

21


ngôn ngữ phát tin và người nhận). Đó là xúc cảm tự nhiên và cục bộ thực

dụng theo mục đích giao tiếp.
Đọc diễn cảm cũng là hình thức giao tiếp, nó nhắm tới đối tượng nghe
mình đọc. Nguồn xúc cảm trong khi đọc văn là nguồn xúc cảm thẩm mĩ phát
sinh từ hai chủ thể: chủ thể nhà văn gửi trong tác phẩm với thế giới tâm hồn
xúc động và thế giới thẩm mĩ cảm nghệ thuật của tác phẩm. Ngôn ngữ đọc
khác với ngôn ngữ nói ở chỗ nó chịu sự chi phối của văn bản (nghĩa văn bản –
đến nghệ thuật văn bản – đến ý tưởng, nội dung tư tưởng tác giả tiềm ẩn sâu
trong văn bản hoặc tác phẩm).
Lời nói hằng ngày tự nhiên cũng có những thuộc tính như diễn cảm,
tạo hình, đôi khi cả tính hình tượng. Giao tiếp hàng ngày chỉ là đơn nghĩa như
vậy, chỉ là phẩm chất thẩm mĩ do liên tưởng so sánh hàng ngày mà có.
Ngôn ngữ hình tượng phải trải qua tưởng tượng để tạo ra hình ảnh, nó
có giá trị thẩm mĩ (không chỉ là thuộc tính phẩm chất như ở lời nói giao tiếp).
“Song vấn đề là ở mối tương quan giữa các chức năng. Chức năng chủ yếu
quyết định trong tất cả các phong cách ngôn ngữ vẫn là chức năng giao tiếp.
Những phẩm chất thẩm mĩ trong giao tiếp hàng ngày nếu có cũng chỉ đóng
vai trò phụ thuộc thứ yếu. Còn trong ngôn ngữ nghệ thuật tác phẩm văn học
thì chức năng thẩm mĩ xuất hiện ở bình diện thứ nhất, nó đẩy chức năng giao
tiếp xuống bình diện thứ hai”.
Sự phản ánh thế giới trong tác phẩm văn học đi đôi với sự hư cấu
trong sáng tạo nghệ thuật cho nên từ đó nảy sinh ra khả năng thông tin kép
vừa hướng vào khách thể thẩm mĩ của tác phẩm văn học, vừa hướng vào tác
giả (chủ thể sáng tạo), hướng về những đặc điểm trong cách quan sát, cảm thụ
chiếm lĩnh và diễn tả thế giới đời sống trong tác phẩm của tác giả. Quan niệm
nghệ thuật của chủ thể nhà văn về thế giới hiện thực làm nên nội dung quan
niệm trong tác phẩm văn học hay còn gọi là “hạ văn bản”. Đọc diễn cảm phải
chú ý đến nội dung tư tưởng của nhà văn gửi gắm trong tác phẩm.

22



Đọc diễn cảm cho một đối tượng nghe về một số đối tượng thẩm mĩ.
Phải tạo dựng được mối quan hệ khăng khít với tác phẩm và với người nghe.
Do đó có hai công đoạn: cảm thụ + hiểu biết tác phẩm và truyền thụ + hiểu
biết người nghe.
Vì vậy để đọc diễn cảm tốt cần phải thực hiện việc đọc diễn cảm trong
các giờ văn học giúp cho việc cảm thụ, tiếp nhận văn học tốt hơn, giúp hiểu
sâu sắc nghệ thuật viết văn tạo ra sức hấp dẫn và hiệu quả dạy văn. Việc đọc
diễn cảm trong quá trình dạy tiếng Việt làm cho các em thấy rõ sự phong phú
và khả năng vận dụng ngôn ngữ dân tộc vào các lĩnh vực. Qua đó các em thấy
rõ mối quan hệ đồng bộ, hệ thống, cụ thể của tiếng mẹ đẻ.
1.3.3. Cơ sở sinh lí học và tâm lí học của đọc diễn cảm
Muốn giải quyết vấn đề cần phải dạy đọc diễn cảm cho ai, nhất thiết
phải chú ý đến vấn đề tâm lí học và sinh lí học. Thực tế trong các giờ dạy đọc
hiện nay cho thấy chỉ có thể dạy đọc một cách diễn cảm cho một số học sinh
có năng khiếu mà thôi. Nhà trường hiện nay là nhà trường chung cho tất cả
con em chúng ta và chưa có một văn bản nào đưa ra vấn đề chia học sinh ra
làm hai loại: loại có năng khiếu và loại không có năng khiếu. Nhưng thực tế
trong giờ thực hành lại có sự phân chia đó. Thường thường một lớp học chỉ
một số em biết đọc diễn cảm, còn đa số các em khác thì không biết đọc diễn
cảm và thầy cô giáo cũng chỉ chú trọng tới một vài em có năng khiếu đó.
Vì vậy một vấn đề cấp bách được đặt ra là có thể đọc diễn cảm cho tất
cả các em học sinh được không, và có cần thiết phải làm điều đó không ?
Khoa học hiện đại đã phân tích các hiện tượng như khả năng, năng khiếu,
thiên tài, trực giác và khí chất như thế nào.
Không nên phủ nhận một sự thật là có những trẻ em có năng khiếu và
những học sinh không có năng khiếu. Tâm lí học hiện đại thừa nhận có sự
khác nhau về năng lực của học sinh, nhưng không cho điều đó là hiện tượng

23



bẩm sinh. Những đặc điểm bẩm sinh chỉ có thể là những đặc điểm về tâm lí
học giải phẫu, tức là những tư chất làm cơ sở cho sự phát triển của tài năng,
chính tài năng lại là kết quả của sự phát triển. Tài năng không chỉ được thể
hiện trong quá trình hoạt động mà điều chủ yếu là nó được hình thành ngay
trong quá trình hoạt động đó.
Tâm lí học hoạt động học tập cũng đã chỉ ra rằng những điều kiện bẩm
sinh về tài năng chỉ có thể thuộc về sinh lí học giải phẫu, tức đó chỉ là những
tư chất làm cơ sở cho sự phát triển tài năng, năng khiếu. Mặt khác tài năng
phần lớn là do quá trình rèn luyện thích hợp mà thành và chính quá trình hoạt
động của con người đã hình thành nên tài năng. Khi nói về đặc điểm của quá
trình sáng tạo nghệ thuật trong đó bao gồm cả việc dạy đọc văn, người ta
thường nói đến vai trò của trực giác. Trong tâm lí học hiện đại, trực giác được
hiểu như là một hình thức đặc biệt của quá trình tư duy, khác với hình thức tư
duy logic có vỏ bọc bằng ngôn ngữ dù chỉ là ngôn ngữ bên trong. Quá trình tư
duy được gắn liền với cái mà Páplôp gọi là: “Dấu vết rõ ràng của nhận
thức”. Sự tư duy bình thường sẽ được diễn ra trong khuôn khổ của vùng nhận
thức đó. Bên ngoài vùng nhận thức đó cũng có những quá trình được diễn ra
không có sự kiểm tra của nhận thức vì thế kết quả của tư duy này có tính chất
bất ngờ, không được tính toán trước. Trong thực tế tài năng bất ngờ của giây
phút sáng tạo là kết quả của sự chuẩn bị trước thậm chí là kết quả của một quá
trình tư duy lâu dài và căng thẳng. Như vậy, nếu như yếu tố trực tiếp của sáng
tạo không chịu sự tác động của nhận thức thì quá trình chuẩn bị trực giác của
tư duy phải hoàn toàn do tác động của con người và giáo dục. Có thể nói:
“Trực giác là tư duy không có dấu vết rõ ràng của nhận thức”.
Trực giác là một khái niệm còn chứa đầy bí ẩn đối với khoa học nhất là
lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật, lĩnh vực tâm lí học giao tiếp, lĩnh vực tiếp nhận
văn học, lĩnh vực cắt nghĩa luận giải tác phẩm văn học. Tuy nhiên các nhà
nghiên cứu thường có quan niệm thống nhất với nhau về trực giác.


24


Các nhà nghiên cứu phương tây cho trực giác là tri thức cao nhất, xem
trực giác là bước nhảy vọt của cảm tính, là bước sóng xuất thần, người ta gọi
trực giác – tổng giác (tổng nhận thức con người). Họ diễn đạt trực giác không
phải là trở về cái đã có mà là đạt đến cái mới cao hơn nhận thức và không thể
diễn đạt bằng lời.
Trực giác là sự sáng tạo bởi có cái mới bằng sức mạnh tổng hợp của
con người.
Páplôp nói: “Tôi thấy rằng cần phải hiểu trực giác như vậy tức là con
người chỉ nhớ kết quả cuối cùng còn toàn bộ con đường mà nó đã đi để đến
kết quả đó, đã chuẩn bị cho kết quả đó lúc này nó chưa ý thức được”.
Như vậy trực giác có vai trò quan trọng trong đọc diễn cảm, nó cũng là một
yếu tố có tính quyết định trong việc đọc diễn cảm diễn ra trong một khoảng
thời gian ngắn. Một lần nữa chúng ta có thể khẳng định, những đặc điểm
thuộc về tâm lí cá nhân như năng khiếu, thiên tài không phải hoàn toàn do
bẩm sinh mà là kết quả của một quá trình học tập, hoạt động rèn luyện. Vì thế,
có thể dạy và nhất thiết cần phải dạy cho trẻ ở mọi lứa tuổi đọc diễn cảm. Kĩ
năng đọc diễn cảm, sự hoàn thiện ngôn ngữ của con người sẽ được hình thành
trong quá trình đọc diễn cảm.
1.3.4. Đọc diễn cảm là một nghệ thuật đọc văn trong nhà trường tiểu học
Đọc diễn cảm cũng là một nghệ thuật có tính độc lập như âm nhạc và
hội họa. Mỗi loại hình nghệ thuật đó đều được sử dụng trong khi học ngôn
ngữ và văn học. Chúng chỉ khác nhau ở chỗ sức hấp dẫn của đọc diễn cảm là
cần thiết hơn, có kết quả hơn sức hấp dẫn của bất kì loại hình nghệ thuật nào
khác. Việc sử dụng hình thức đọc diễn cảm trong quá trình nghiên cứu ngôn
ngữ hay văn học có thể coi là một thủ thuật hoặc là một phương pháp tùy theo
từng trường hợp cụ thể. Nếu như trong khi giảng một câu có các thành phần

cùng loại và chứng minh ngữ điệu kể, thầy đọc câu văn đó, thì đó chỉ là một

25


thủ thuật. Còn khi thầy giáo tiến hành phân tích một tác phẩm với mục đích
dạy học sinh đọc tác phẩm đó một cách diễn cảm thì lúc này đọc diễn cảm trở
thành phương pháp.
Nếu như đọc diễn cảm không được xem như là một nghệ thuật, thì
những giờ dạy đọc sẽ không còn ảnh hưởng sinh động đối với quá trình sư
phạm và sẽ dẫn đến tình trạng nhồi nhét vào trí nhớ. Kết quả lớp học mất hết
không khí sôi động, làm cho sức hấp dẫn của tác phẩm trở nên buồn tẻ. Khi
học sinh đọc được diễn cảm các em sẽ có hứng thú và say mê với các tác
phẩm văn học, các văn bản nghệ thuật.
1.3.5.Vai trò của đọc diễn cảm với sự hình thành phát triển nhân cách
học sinh tiểu học
1.3.5.1. Đọc diễn cảm là phương tiện nâng cao trình độ ngôn ngữ nói
Trong chương trình phổ thông việc đọc diễn cảm gắn liền với phần
phát triển ngôn ngữ.
Đọc diễn cảm sau đó là đọc thuộc lòng và kể chuyện có nghệ thuật, có
tác dụng làm phong phú và trau dồi ngôn ngữ nói của học sinh.
1.3.5.2. Đọc diễn cảm là một phương tiện giáo dục đạo đức thẩm mĩ
Khi phân tích vai trò của đọc diễn cảm người ta thường đưa nó vào
phần đầu tiên của giáo dục thẩm mĩ. Trong khi giáo dục năng lực cảm thụ
thẩm mĩ các tác phẩm văn học và phát triển năng khiếu thẩm mĩ, việc đọc
diễn cảm sẽ làm tăng thêm và làm sâu sắc thêm sự xúc cảm.
Đọc diễn cảm giúp cho học sinh cảm thụ được cái hay cái đẹp của
văn học, làm cho học sinh thêm yêu thích văn học, và từ đó nảy sinh ra ý
muốn đọc thật diễn cảm tác phẩm nghệ thuật mà mình đã yêu thích. Kết
quả đầu tiên đó sẽ là nhân tố tích cực cho quá trình hoàn thiện kĩ năng

trong lĩnh vực đọc diễn cảm và phát triển những tình cảm đạo đức, thẩm mĩ
của học sinh.

26


1.3.5.3. Đọc diễn cảm và giáo dục lao động
Trong hệ thống giáo dục của chủ nghĩa cộng sản, giáo dục lao động giữ
một vai trò chủ đạo. Theo quan điểm của chúng ta con người được đánh giá
cao nhất trước tiên đó là một người lao động, một người hoạt động và một
người sáng tạo. Lênin coi lao động là một ý nghĩa rất to lớn và đưa lao động
vào một hệ thống giáo dục cộng sản chủ nghĩa.
Nhà sư phạm thiên tài A.X.Makarenkô cho giáo dục lao động là
phương pháp chủ đạo trong hệ thống giáo dục của mình. Ông nói: “Dạy lao
động có sáng tạo là một nhiệm vụ đặc biệt của giáo dục. Lao động sáng tạo
chỉ có thể có được khi con người có lòng yêu thích công việc, khi con người
nhận thấy một cách có ý thức niềm vui trong lao động, hiểu được sự cần thiết
và lợi ích của lao động khi lao động trở thành một hoạt động cơ bản thể hiện
nhân cách và tài năng con người. Thái độ đối với lao động như vậy chỉ có thể
có được khi con người hình thành được một cách vững chắc thói quen nỗ lực
lao động, khi con người yêu thích bất cứ một hình thức lao động nào, nếu như
nó có một ý nghĩa nhất định”.
Cái khó là làm sao cho học sinh yêu thích việc đọc diễn cảm để giờ
học có thể đem lại cho các em niềm vui sướng trong sáng tạo. Nhiệm vụ của
người giáo viên là giúp học sinh có thói quen nỗ lực lao động, nếu chưa làm
được điều này thì chưa thể dạy đọc diễn cảm có kết quả cho học sinh.

27



×