Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Phương pháp thí nghiệm và việc vận dụng vào môn khoa học lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (660.89 KB, 63 trang )

1

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Bước sang thế kỷ 21, đòi hỏi con người mới cần có trí tuệ, năng động,
sáng tạo, tích cực, tính tích cực là một phẩm chất không thể thiếu của mỗi con
người trong xã hội ấy. Việc hình thành và phát triển tính tích cực của học sinh
là một nhiệm vụ quan trọng trong giáo dục. Điều 5 luật giáo dục năm 2005
ghi rõ: “Phương pháp giáo dục phải phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ
động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, kỹ năng hình
thàng, lòng say mê học tập, ý trí vươn lên.”
Ở bậc Tiểu học giúp các em có những hiểu biết về thế giới tự nhiên
xung quanh, những sự kiện lịch sử, những miền đất lạ hay những hiện tượng
khoa học là mục tiêu quan trọng mà môn Khoa học trong phân môn Tự nhiên
và Xã hội sẽ cung cấp cho các em kiến thức đó.
Môn Tự nhiên và Xã hội là một môn khoa học có tính tích hợp cao
những kiến thức của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, nó đóng vai trò
quan trọng trong việc hình thành những phẩm chất, năng lực, đạo đức của con
người.
Chương trình môn Tự nhiên và Xã hội đề ra mục tiêu dạy học tích cực,
chủ động, sáng tạo của học sinh. Trên cơ sở đó đòi hỏi giáo viên phải hướng
tới việc tổ chức các hoạt động đa dạng và có phương pháp thích hợp để học
sinh tham gia đó chiếm lĩnh kiến thức và hình thành kỹ năng học tập của bản
thân. Học sinh phải được bộc lộ, được phát triển một cách tối đa tư duy của
mình thông qua hoạt động học tập.
Hoạt động khám phá khoa học giúp học sinh có những hiểu biết về sự
vật hiện tượng trong môi trường xung quanh, đồng thời kích thích học sinh


tìm hiểu, khám phá các đối tượng xung quanh các em. Khi tham gia vào hoạt
động khám phá khoa học học sinh thường rất hào hứng và sôi nổi. Do đó giáo
viên phải biết kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học trong nhận
Dương Thị Sinh- Lớp K34B Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

2

Khóa luận tốt nghiệp

thức của người học như phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp đặt vấn
đề, phương pháp trò chơi, phương pháp thí nghiệm…
Phương pháp thí nghiệm là một trong những phương pháp mà giáo viên
có thể sử dụng để giúp học sinh chiếm lĩnh các tri thức trong môn Khoa học
lớp 4. Qua các thí nghiệm học sinh chủ động tiếp thu tri thức mới đồng thời
có niềm tin vào nguồn tri thức mà chính mình có được.
Là giáo viên Tiểu học trong tương lai với những kiến thức mà tôi đã
trau dồi trong quá trình học tập trên ghế nhà trường và trong quá trình đi thực
tập, tôi hy vọng có thể đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào việc
giảng dạy môn Tự nhiên và Xã hội và đặc biệt là phân môn Khoa học lớp 4.
Chính vì những lí do trên mà tôi chọn : “ Phương pháp thí nghiệm và
việc vận dụng vào môn khoa học lớp 4 ” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2.Mục đích nghiên cứu
Vận dụng phương pháp thí nghiệm trong dạy học môn Khoa học lớp 4
theo hướng tích cực hóa người học, nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn
Khoa học lớp 4 nói riêng môn Tự nhiên và Xã hội nói chung.
3. Đối tượng nghiên cứu
Quy trình dạy học môn Khoa học lớp 4 bằng phương pháp thí nghiệm

theo hướng tích cực hóa người học.
4.Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học môn Khoa học lớp 4.
5. Phạm vi nghiên cứu
Do thời gian có hạn nên phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ dừng lại ở
việc vận dụng phương pháp thí nghiệm vào trong dạy học môn Khoa học lớp
4.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lí luận của phương pháp thí nghiệm và việc vận dụng
vào môn Khoa học lớp 4.

Dương Thị Sinh- Lớp K34B Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

3

Khóa luận tốt nghiệp

Tìm hiểu thực trạng của việc sử dụng phương pháp thí nghiệm và việc
vận dụng vào môn Khoa học lớp 4.
Đề xuất quy trình sử dụng phương pháp thí nghiệm và việc vận dụng
vào môn Khoa học lớp 4.
7 . Giả thuyết khoa học
Phương pháp thí nghiệm và việc vận dụng vào môn Khoa học lớp 4 nếu
được vận dụng tốt sẽ phát huy tính tích cực, ham học hỏi và sự say mê với
kiến thức của học sinh, tạo niềm tin khoa học cho các em và đạt hiệu quả
giảng dạy cao.
8 . Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp điều tra
Phương pháp đọc tài liệu
Phương pháp trò chuyện
Phương pháp đọc sách
9. Cấu trúc đề tài
Đề tài nghiên cứu gồm 3phần
Phần 1:Mở đầu
Phần 2:Nội dung
Chương 1:Cơ sở lí luận và thực tiễn.
Chương 2: Phương pháp thí nghiệm và việc vận dụng vào môn Khoa
học lớp 4.
Chương 3:Những giải pháp cần thiết để năng cao chất lượng việc sử
dụng phương pháp dạy học thí nghiệm trong dạy học môn Khoa học lớp 4.
Phần 3: Kết luận

Dương Thị Sinh- Lớp K34B Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

4

Khóa luận tốt nghiệp

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.Cơ sở lí luận
1.1- Đặc điểm học sinh tiểu học
1.1.1 Đặc điểm tâm lí
Học sinh tiểu học lứa tuổi từ 6 đến 11 tuổi. Đây là lứa tuổi lần đầu tiên

đến trường- trở thành học sinh và có hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo.
Ở lứa tuổi này có những biến đổi quan trọng trong cuộc sống, lao động, học
tập, do đó những đặc điểm tâm lí thể hiện qua các hoạt động về nhận thức,
tình cảm, cảm xúc…có những thay đổi cơ bản. Lứa tuổi học sinh tiểu học
thực hiện bước chuyển từ hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo sang hoạt
động học tập là chủ đạo. Là hoạt động lần đầu tiên xuất hiện với tư cách là
chính nó, hoạt động học tập có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với
sự phát triển tâm lí của học sinh tiểu học. Cùng với cuộc sống nhà trường,
hoạt động học tập mang đến cho trẻ nhiều điều mà trước đây trẻ chưa bao giờ
có được hoặc không thể tiếp cận được.
Trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các nhà tâm lí
học khoa học xem sự phát triển tâm lí của trẻ gắn liền với việc nảy sinh, hình
thành và hoàn thiện( phát triển) của những cái mới trong đời sống tâm lí theo
từng giai đoạn lứa tuổi. Cái mới trong đời sống tâm lí có thể là năng lực hoạt
động mới,các phẩm chất tâm lí mới...Ở đây, sự phát triển tâm lí của trẻ không
chỉ đơn thuần về sự tăng về số lượng mà là một quá trình biến đổi về chất
lượng.
Hay nói một cách khác, về thực chất sự phát triển tâm lí của trẻ là quá
trình trẻ lĩnh hội nền văn hóa xã hội loài người để tạo nên những cái mới
trong đời sống tâm lí của chính mình. Khi đã được hình thành, cái mới đi vào
đời sống tâm lí, nó sẽ làm biến động toàn bộ vốn liếng tâm lí cũ bắt chúng
phải được cấu tạo lại và nhờ vậy mà nâng cao đời sống tâm lí của trẻ lên một
trình độ cao hơn.
Học sinh tiểu học ở các lớp đầu có khuynh hướng ghi nhớ một cách
máy móc, chưa có khả năng phân tích tự giác.
Học sinh tiểu học các lớp 3,4 bước đầu đã biết tìm hiểu các dấu hiệu
đặc trưng cho sự vật.
Dương Thị Sinh- Lớp K34B Tiểu học



Trường ĐHSP Hà Nội 2

5

Khóa luận tốt nghiệp

Ở các lớp cuối cấp (lớp 4,5) việc ghi nhớ được hình thành và phát triển
do đó khi lên lớp giảng dạy lý thuyết cũng như thực hành, giáo viên cần chú ý
sử dụng linh hoạt các phương phương pháp để kích thích tư duy của học sinh,
sáng tạo, ý thức tự giác tích cực học tập.
Về mặt tình cảm thái độ cư xử trong sinh hoạt, học tập của học sinh
chưa ổn định các em thường hay xúc động thay đổi tâm trạng trong một thời
điểm.
1.1.2 Đặc điểm sinh lí
Cơ thể của trẻ em là nề tảng vật chất của trí tuệ và tâm hồn. Nền tảng
có vững thì trí tuệ và tình cảm mới có khả năng phát triển tốt. “ Thân thể khỏe
mạnh thì chứa đựng một tinh thần sáng suốt” ngược lại “Tinh thần sáng suốt
thì cơ thể có điều kiện phát triển”.
Trẻ tiểu học có thể tiến hành những vận động cơ bản của người ( đi,
đứng, chạy, nhảy, bò, giữ thăng bằng...) một cách mềm mại, nhanh và chính
xác. Bộ xương của trẻ tuy bước vào giai đoạn cứng dần nhưng còn nhiều mô
sụn và phát triển chưa hoàn thiện, cân đối, đặc biệt là xương bàn tay, ngón tay
còn yếu. Vì thế cần quan tâm đến tư thế đi đứng, chạy, nhảy của các em đề
phòng cong vẹo cột sống.
Hệ thần kinh của học sinh tiểu học đang trong thời kì phát triển mạnh.
Đây là thời kì não bộ phát triển cả về chất lượng, khối lượng, cấu tạo. Đây
cũng là giai đoạn mà sự hình thành các phản xạ có điều kiện diễn ra nhanh và
nhiều. Do bộ óc và hệ thần kinh đang phát triển tiến dần đến hoàn thiện nên
các em dễ bị kích thích. Thầy cô giáo cần chú ý đến đặc điểm này để giúp trẻ
hình thành tính tự chủ, kiên trì, kìm hãm bản thân trước những kích thích của

hoàn cảnh xung quanh.
Hệ tuần hoàn chưa hoàn chỉnh,các em chóng mệt và dễ xúc động vì vậy
tránh gây cho các em những xúc động mạnh.
1.1.3 Đặc điểm nhận thức
Nhận thức là một trong ba mặt cơ bản của đời sống tâm lí con người
(nhận thức, tình cảm, hành động). Nó là tiền đề của hai mặt kia và đồng thời
có quan hệ chặt chẽ với chúng cũng như các hiện tượng tâm lí khác. Hoạt
động nhận thức là hoạt động mà trong kết quả của nó con người có được
những tri thức (hiểu biết) về thế giới xung quanh.
Dương Thị Sinh- Lớp K34B Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

6

Khóa luận tốt nghiệp

Tri giác là quá trình nhận thức phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc
tính bên ngoài của sự vật, hiện tượng khi chúng đang trực tiếp tác động vào
các giác quan của ta.
Trong quá trình tri giác học sinh thường tập trung vào một vài chi tiết
nào đó của đối tượng và cho đó là tất cả.Tri giác của học sinh tiểu học phụ
thuộc và đặc điểm của chính đối tượng. Cái trực quan, cái rực rỡ, cái sinh
động được tri giác rõ ràng hơn những hình ảnh tượng trưng và sơ lược.
Tri giác của học sinh tiểu học mang tính đại thể, toàn bộ, ít đi sâu vào
các chi tiết (lớp 1,2), tuy nhiên trẻ cũng bắt đầu có khả năng phân tích các dấu
hiệu , chi tiết nhỏ của một đối tượng nào đó. Tư duy của trẻ mới đến trường là
tư duy cụ thể, mang tính hình thức dựa vào đặc điểm bên ngoài, nhờ hoạt
động học tập tư duy dần mang tính khái quát. Học sinh tiểu học thường dựa

vào chức năng, công dụng của sự vật hiện tượng trên cơ sở này chúng tiến
hành phân loại, phân dạng và hoạt động phân tích tổng hợp còn sơ đẳng.
Trí nhớ trực quan hình tượng phát triển hơn trí nhớ từ ngữ loogic, học
sinh có khuynh hướng phát triển trí nhớ máy móc.
Đối với trẻ lớp 4,5 việc ghi nhớ được hình thành một cách có hệ thống
và phát triển hơn. Học sinh có khả năng phân tích, so sánh, tổng hợp cao hơn
so với các lớp đầu. Tri giác của học sinh tiểu học phát triển trong quá trình
học tập. Sự phát triển này diễn ra theo hướng ngày càng chính xác hơn, đầy
đủ hơn, phân hóa rõ ràng hơn, có chọn lọc hơn. Do đó học sinh các lớp cuối
tiểu học đã biết tìm ra những dấu hiệu đặc trưng của đối tượng, biết phân biệt
sắc thái của các chi tiết để đi đến phân tích, tổng hợp, so sánh và tìm ra mối
liên hẹ giữa chúng. Tri giác ở đây mang tính mục đích và có phương hướng rõ
ràng. Trong sự phát triển tri giác của học sinh tiểu học vai trò của người giáo
viên là rất lớn. Họ không chỉ là người dạy học sinh kĩ năng nhìn mà còn
hướng dẫn các em xem xét; không chỉ dạy nghe mà còn dạy học sinh biết lắng
nghe; không chỉ cho học sinh nhận biết hay gọi tên đối tượng mà còn dạy cho
học sinh nhận biết những thuộc tính bản chất của đối tượng.
Dương Thị Sinh- Lớp K34B Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

7

Khóa luận tốt nghiệp

Với những đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học như vậy thì
chúng ta biết được rằng để cho trẻ có thể nhận thức được bài học một cách
đầy đủ và hiệu quả nhất thì nhất thiết trong hoạt động giảng dạy của giáo viên
cần phải có những phương tiện trực quan để học sinh không chỉ nắm được

kiến thức ngay ở trên lớp mà còn khắc sâu được kiến thức đó.
Chúng ta biết rằng phương pháp thí nghiệm là một phương pháp dạy
học tích cực mang tính trực quan rất cao. Qua các thí nghiệm học sinh có thể
nắm được kiến thức từ đó củng cố, nâng cao khả năng phân tích, so sánh, tư
duy tổng hợp. Ta thấy được rằng phương pháp thí nghiệm được sử dụng trong
giảng dạy là rất phù hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học.
1.2- Một số vấn đề về phương pháp thí nghiệm
1.2.1 Khái niệm phương pháp dạy học
- Phương pháp dạy học là phương pháp được xây dựng vào một quy
trình cụ thể.-quy trình dạy học . Đây là quy trình được đặc trưng bởi tính chất
hai mặt, nghĩa là bao gồm 2 hoạt động: hoạt động của thầy và hoạt động của
trò. Hai hoạt động này tồn tại và hoạt động trong mối quan hệ biên chứng:
hoạt động của thầy đóng vai trò chủ đạo (tổ chức, điều khiển) và hoạt động
của trò đóng vai trò tích cực, chủ động (tự tổ chức ,tự điều khiểm).
- Phương pháp dạy học phải thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học
 Trang bị cho học sinh hệ thống tri thức khoa học phổ thông, cơ bản
hiện đại phù hợp với thưc tiễn đất nước và kỹ năng ,kỹ sảo tương ứng.
 Phát triển ở các em năng lực hoạt động trí tuệ.
 Hình thành ở các em thế giới quan khoa học và phẩm chất đạo đức của
con người.
Vậy : Phương pháp dạy học là tổ hợp những cách thức hoạt động của thầy ,
trò trong quá trình dạy học, được tiến hành dưới vai trò chủ đạo của thầy
nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học.

Dương Thị Sinh- Lớp K34B Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

8


Khóa luận tốt nghiệp

1.2.2 Khái niệm thí nghiệm
Theo từ điển Tiếng Việt của tác giả Hoàng Phê thì: “Thí nghiệm là gây
ra một hiện tượng, một sự biến đổi nào đó trong điều kiện xác định để tìm
hiểu, kiểm tra hay chứng minh.”
Hay “Thí nghiệm có nghĩa là làm thử để rút kinh nghiệm”
Theo giáo trình phương pháp thí nghiệm của Nguyễn Thị Lan thì: “Thí
nghiệm là những công việc để tạo ra hiện tượng nhằm phát hiện được đầy đủ
bản chất nguyên nhân của hiện tượng đó”.
Thí nghiệm có vai trò quan trọng trong nghiên cứu khoa học và trong
dạy học. Thí nghiệm là một phần của hiện thực kết quả được thực hiện hoặc
tái tạo lại trong điều kiện đặc biệt trong đó con người có thể chủ động điều
khiển các yếu tố tác động vào quá trình sảy ra để phục vụ cho các mục đích
nhất định. Thí nghiệm giúp con người kiểm chứng, làm sáng tỏ những giả
thiết khoa học.
Thí nghiệm là cầu nối giữa lý thuyết và thực tiễn, là tổ chức đánh giá
tính chân thực của kiến thức, hỗ trợ đắc lực cho tư duy, sáng tạo. Nó là
phương tiện duy nhất giúp hình thành kỹ năng kỹ xảo và tư duy sáng tạo.
1.2.3 Khái niệm phương pháp thí nghiệm
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về phương pháp thí nghiệm:
 Theo giáo trình phương pháp cho trẻ làm quen với môi trường xung
quanh của tác giả Trần Thị Thanh thì: “Phương pháp thí nghiệm là sự
tự mày mò tìm kiếm, thí nghiệm trong thực tiễn để đi đến kết luận về
điều dự đoán trước hoặc trả lời những thắc mắc trong suy nghĩ” .
 Theo giáo trình phương pháp cho trẻ làm quen với môi trường xung
quanh của T.s Hoàng Thị Oanh và T.s Nguyễn Thị Xuân thì: “Phương
pháp thí nghiệm là việc tổ chức cho học sinh hoạt động tác động vào
đối tượng làm thay đổi đối tượng nhằm kiểm nghiệm một tính chất nào

đó của sự vật hoặc tạo dựng lại một hiện tượng nào đó trong tự nhiên.”

Dương Thị Sinh- Lớp K34B Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

9

Khóa luận tốt nghiệp

 Theo giáo trình lí luận và phương pháp hướng dẫn cho trẻ làm quen với
môi trường xung quanh của T.s Hoàng Thị Phương thì: “Phương pháp
thí nghiệm được coi như là một loại hình quan sát diễn ra trong điều
kiện nhất định. Thí nghiệm đòi hỏi sự tác động tích cực lên đối tượng
làm thay đổi cho nó phù hợp với mục đích đặt ra”.
Phương pháp thí nghiệm có sự hợp tác giữa thầy và trò để thực hiện thành
công thí nghiệm phát hiện ra tri thức của bài học. Với phương pháp thí
nghiệm làm thay đổi quan niệm, cách nhìn nhận của giáo viên và học sinh về
vai trò của mình trong quá trình dạy và học. Học sinh sẽ là người trực tiếp
thực hiện thí nghiệm từ đó phát hiện ra tri thức của bài học.
Tóm lại có thể nói:
Phương pháp thí nghiệm là phương pháp giáo viên tổ chức cho học
sinh sử dụng các dụng cụ thí nghiệm tái tạo lại những hiện tượng xảy ra trong
thực tế để tìm hiểu và rút ra kết luận khoa học.
1.2.4. Phân loại thí nghiệm trong dạy học
Có rất nhiều cách để phân loại. Sau đây là cách phân loại của Trần Văn
Biểu( trường ĐHSPTPHCM-Khoa Hóa)
Thí nghiệm trong hệ thống phương tiện dạy học: các phương tiện dạy học
cơ bản phổ biến rộng rãi trong nhà trường gồm 3 loại:

 Phương tiện kỹ thuật dạy học:các phương tiện nghe nhìn và máy móc
 Phương tiện trực quan:đồ dùng trực quan
 Thí nghiệm ngoại khóa
Thí nghiệm được sử dụng dưới các hình thức
 Thí nghiêm do giáo viên tự tay biểu diễn trước học sinh gọi là thí
nghiệm biểu diễn của giáo viên.
 Thí nghiệm do học sinh tự làm gọi là thí nghiệm của học sinh.
 Thí nghiệm ngoại khóa là thí nghiệm vui dùng trong các buổi hội vui,
thí nghiệm thực hành ở nhà của học sinh.
Thí nghiệm là nền tảng của dạy học .Thí nghiệm giúp học sinh chuyển từ
tư duy cụ thể sang tư duy trừu tượng và ngược lại. Khi làm thí nghiệm học
Dương Thị Sinh- Lớp K34B Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

10

Khóa luận tốt nghiệp

sinh rút ra được các khái niệm, định luật. Thí nghiệm được sử dụng theo
đúng mục đích sẽ là nguồn học sinh khai thác, tìm tòi, phát hiện kiến thức,
giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và phát triển năng
lực nhận thức tư duy khoa học.
Điểm mới của phương pháp thí nghiệm khi sử dụng theo quan điểm
phát huy tính tích cực của học sinh chính là giáo viên đặt học sinh vào tình
huống có vấn đề( dưới dạng câu hỏi). Từ đó học sinh có nhu cầu giải quyết
vấn đề được nêu ra.
Như chúng ta biết thì có rất nhiều cách để phân loại phương pháp thí
nghiệm và sự phân loại các hình thức tổ chức thí nghiệm. Việc phân chia này

không chỉ giúp cho học sinh nắm được tri thức mà còn giúp học sinh rèn
luyện những kĩ năng cần thiết.
Đối với đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học thì hoạt động giảng
dạy nên đưa vào các phương tiện trực quan để học sinh có thể nắm bắt được
tri thức. Phương tiện trực quan có thể từ hoạt động của giáo viên, từ đồ dùng
trực quan. Những thí nghiệm khó giáo viên biểu diễn để học sinh có thể nắm
được. Còn đối với những thí nghiệm đơn giản, phù hợp với năng lực của học
sinh thì giáo viên hướng dẫn học sinh để học sinh có thể tự làm, giáo viên nêu
ra tình huống có vấn đề để học sinh có thể giải quyết tình huống đưa ra từ đó
nắm được tri thức của bài học.
Sự phân chia phương pháp thí nghiệm ở trên mang tính khái quát. Đối
với Tiểu học ta có thể phân chia cho phù hợp như sau:
 Thí nghiệm thực hành của học sinh.
 Thí nghiệm tự nghiên cứu của học sinh.
1.2.5. Quy trình tiến hành thí nghiệm
Người ta phân biệt thí nghiệm đại trà và thí nghiệm cá nhân
Khi thực nghiệm thí nghiệm đại trà, sau khi giáo viên trình bày ngắn
gọn lí thuyết dưới cách thức đối thoại hoặc giải thích, toàn thể học sinh cả lớp
dưới sự lãnh đạo của giáo viên đồng thời thực hiện những hoạt động như nhau
với cùng một loại thiết bị, khi thiếu thiết bị, công cụ thí nghiệm giáo viên có
Dương Thị Sinh- Lớp K34B Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

11

Khóa luận tốt nghiệp

thể cho học sinh làm theo nhóm. Mỗi nhóm không quá 2 đến 3 em, có nhiệm

vụ hoàn thành các bài tập thí nghiệm mà một học sinh khó lòng hoàn
thành(do tính chất phức tạp của thiết bị, do phải quan sát và ghi chép kết
quả…) học sinh trong nhóm sẽ thay phiên nhau làm các phần công việc.
Thí nghiệm cá nhân được thực hiện khi mỗi học sinh phải đồng thời
hoàn thành các phần công việc khác nhau và thậm chí là các công việc giống
nhau. Tất nhiên, việc giáo viên lựa chọn cách thức tiến hành thí nghiệm này
hay khác là tùy thuộc vào tính chất công việc, vào trình độ của học sinh, vào
tình trạng thiết bị dùng để hoàn thành công việc thí nghiệm nói chung hoặc
các phần riêng biệt của công việc.
Khi sử dụng phương pháp thí nghiệm có các mức độ sau:
 Mức độ 1: giáo viên tiến hành thí nghiệm trước sau đó giáo viên hướng
dẫn cách làm học sinh quan sát và nêu kết quả thí nghiệm.
 Mức độ 2: giáo viên vừa tiến hành thí nghiệm vừa nêu cách làm, học
sinh quan sát và nêu kết quả.
 Mức độ 3: giáo viên hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm, học sinh làm
thí nghiệm, quan sát và nêu kết quả.
Mức độ 4: giáo viên không hướng dẫn cách làm thí nghiệm , yêu cầu học sinh
tự làm và nêu kết quả của thí nghiệm.
Mức độ 1 và mức độ 2 giáo viên là người chủ động, học sinh là người bị động
nắm bắt tri thức mới.
Mức độ 3 giáo viên là người hướng dẫn, điều khiển, học sinh là người chủ
động chiếm lĩnh tri thức.
Mức độ 4 học sinh tích cực, tự lực chiếm lĩnh tri thức mới.
Quy trình thực hiện
Bước 1:

Dương Thị Sinh- Lớp K34B Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2


12

Khóa luận tốt nghiệp

Giáo viên xác định rõ đề tài, mục đích, yêu cầu của thí nghiệm, chỉ dẫn
nội dung và các giai đoạn thí nghiệm với các công cụ , thiết bị cần thiết. Lưu
ý học sinh đảm bảo tính an toàn, bảo vệ các công cụ, tiết kiệm hóa chất và các
nguyên vật liệu khác.
Bước 2:
Giáo viên phân chia học sinh thành từng nhóm nếu( cần thiết)
- Học sinh độc lập tiến hành thí nghiệm, ghi chép, vẽ hình. Giáo viên
quan sát, kiểm tra kịp thời uốn nắn lệch lạc, giúp đỡ học sinh cá biệt.
- Học sinh viết bản tường trình.
Bước 3:
Giáo viên chỉ định học sinh báo cáo về tiến trình và kết luận thí
nghiệm, cho học sinh nhận xét lẫn nhau và đưa ra tổng kết đáng giá chung.
Nếu thí nghiệm có tính chất thực nghiệm thì cần có đối tượng, cần quan
sát, ghi chép nhật ký, phân tích tài liệu và số liệu, báo cáo kết quả và đánh giá.
1.2.6. Ý nghĩa của việc sử dụng thí nghiệm trong dạy học
Thí nghiệm có vai trò quan trọng trong nghiên cứu khoa học và trong
giảng dạy.
- Thí nghiệm có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển
nhận thức của con người về thế giới. Thí nghiệm là một phần của hiện thực
kết quả được thể hiện hoặc tái tạo lại trong những điều kiện đặc biệt, trong đó
con người có thể chủ động điều khiển các yếu tố tác động vào quá trình xảy ra
để phục vụ cho mục đích nhất định. Thí nghiệm giúp con người gạt bỏ những
cái phụ, không bản chất để tìm ra cái bản chất của sự vật hiện tượng. Thí
nghiệm giúp con người phát hiện ra những quy luật còn ẩn náu trong tự nhiên.
Mặt khác nó còn giúp con người kiểm chứng làm sáng tỏ giả thiết khoa học.

Như Ăngghen đã nói “Trong nghiên cứu khoa học tự nhiên, cũng như lịch sử,
phải xuất phát từ những sự thật đã có, từ những hình thái, hình thức khác nhau
của sự vật, cho nên trong khoa học lý luận về tự nhiên chúng ta không thể tạo
ra mối liên hệ để ghép chúng vào sự thật, mà phải từ những sự thật đó phát
Dương Thị Sinh- Lớp K34B Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

13

Khóa luận tốt nghiệp

hiện ra mối liên hệ ấy, rồi phải hết sức chứng minh mối liên hệ ấy bằng thực
nghiệm.”
- Thí nghiệm là nền tảng của việc dạy học các môn tự nhiên. Nó giúp
học sinh chuyển từ tư duy cụ thể sang tư duy trừu tượng và ngược lại khi làm
thí nghiệm học sinh sẽ làm quen với các đối tượng và trực tiếp nắm bắt các
đặc điểm, tính chất …của chúng. Nếu không có thí nghiệm thì :
+ Giáo viên tốn nhiều thời gian để giảng dạy nhưng vẫn không rõ và
hết ý vì không phải mọi thứ đều có thể diễn đạt trọn vẹn bằng lời. Lời nói rất
trừu tượng còn thí nghiệm thì rất cụ thể.
+ Học sinh tiếp thu kiến thức thiếu chính xác và vững chắc. Các em sẽ
khó hiểu bài vì không có những biểu tượng rõ ràng, cụ thể về tính chất, hiện
tượng.
+ Học sinh sẽ chóng quên khi không hiểu bài, không có ấn tượng sâu
sắc bằng hình ảnh cụ thể.
- Thí nghiệm là cầu nối giữa lý thuyết và thực tiễn. Nhiều thí nghiệm
rất gần gũi với đời sống, với các quy trình công nghệ. Chính vì vậy thí nghiệm
giúp học sinh vận dụng những điều đã học vào trong thực tế cuộc sống.

- Thí nghiệm giúp học sinh rèn luyện các kỹ năng thực hành (các thao
tác, cách thức tiến hành thí nghiệm) hình thành những đức tính cần thiết của
người lao động mới: cẩn thận, khoa học, kỷ luật.
- Thí nghiệm giúp học sinh phát triển tư duy, hình thành thế giới quan
duy vật biện chứng khi tự làm thí nghiệm hoặc tận mắt nhìn thấy các hiện
tượng sảy ra học sinh sẽ tin tưởng vào kiến thức đã học và cũng thêm tin
tưởng vào chính bản thân mình.
- Làm thí nghiệm gây hứng thú học tập, học sinh không thể yêu thích
bộ môn và không thể say mê khoa học với những bài giảng lý thuyết khô
khan.
1.2.7. Ưu –nhược điểm của phương pháp thí nghiệm.
*Ưu điểm.

Dương Thị Sinh- Lớp K34B Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

14

Khóa luận tốt nghiệp

- Phương pháp thí nghiệm được sử dụng như một nguồn dẫn giúp học
sinh tìm hiểu tri thức mới. Học sinh đi sâu, tìm hiểu sâu vào bản chất của sự
vật hiện tượng từ đó tạo niềm tin khoa học, phát triển tư duy của học sinh
trong thực tế.
- Làm quen và dần dần hình thành các kỹ năng sử dụng dụng cụ thí
nghiệm, rèn năng lực làm việc theo nhóm của học sinh vận dụng kiến thức lý
thuyết vào thực hành.
- Phương pháp thí nghiệm rèn kỹ năng thực hành, hình thành những

đức tính cần thiết của người lao động mới.
- Thí nghiệm là cầu nối giữa lý thuyết và thực tế nên nhiều thí nghiệm
rất gần gũi chính vì vậy mà nó giúp học sinh vận dụng những điều đã học vào
trong cuộc sống.
- Kích thích sự tìm tòi, khám phá, niềm tin, tình yêu khoa học.
* Nhược điểm:
- Có thể xảy ra nguy hiểm cho người làm thí nghiệm nếu chuẩn bị dụng
cụ thí nghiệm không tốt.
- Cồng kềnh, tốn kém về thời gian, tài chính, phương tiện vật chất.
- Thí nghiệm không thành công dễ gây mất niềm tin khoa học.
1.2.8 Những yêu cầu cơ bản của thí nghiệm.
- Thí nghiệm phải đơn giản, đơn giản, phù hợp với lứa tuổi. Nội dung
và phương tiện tiến hành thí nghiệm phải phù hợp với thực tiễn và kỹ năng
thực hành của từng lứa tuổi, phù hợp với thực tiễn của từng trường hợp cụ
thể. Thí nghiệm phải an toàn không gây nguy hiểm với người học.
- Thí nghiệm phải phù hợp với mục đích, nội dung bài học.
- Trong khi tiến hành thí nghiệm nếu học sinh lúng túng giáo viên phải
có biện pháp gợi ý để học sinh giải quyết.
1.2.9 Vai trò của giáo viên và học sinh trong phương pháp thí nghiệm.
*Vai trò của giáo viên:
- Vai trò của giáo viên trong một giờ học có sử dụng thí nghiệm là vô
cùng quan trọng. Mọi công tác chuẩn bị của giáo viên và học sinh phải thật an
toàn và chu đáo. Phải xác định được vị trí của từng thí nghiệm, số lượng thí
Dương Thị Sinh- Lớp K34B Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

15


Khóa luận tốt nghiệp

nghiệm cần sử dụng để áp dụng phối hợp vào các bài học cụ thể tiết kiệm thời
gian nhưng vẫn hiệu quả, đảm bảo tính trực quan, khoa học.
- Giáo viên căn cứ vào nội dung bài học, khả năng của học sinh để xây
dựng thí nghiệm và xác định mục đích thí nghiệm cho phù hợp. Giáo viên đưa
học sinh vào các tình huống có vấn đề (câu hỏi) để từ đó học sinh nảy sinh
nhu cầu muốn tiến hành thí nghiệm để giải quyết các vấn đề đã nêu ra. Giáo
viên đề ra những gợi ý, hướng dẫn để học sinh thực hiện thành công.
- Giáo viên chuẩn bị phiếu học tập cho học sinh ghi lại những dự đoán,
kết quả, tiến trình thí nghiệm, đồng thời giáo viên cũng cần dự đoán các kết
quả thí nghiệm của học sinh (căn cứ vào nội dung bài học).
- Khi sử dụng phương pháp thí nghiệm giáo viên hướng dẫn học sinh
diễn đạt đúng đắn, chính xác những ý tưởng của mình. Cần hướng dẫn học
sinh sử dụng ngôn ngữ chính xác.
- Cần lấy học sinh làm trung tâm để kích thích động cơ, hứng thú học
tập, kỹ năng sáng tạo, đồng thời giáo viên sẽ là người trợ giúp, hướng dẫn
trong suốt các hoạt động thí nghiệm của học sinh.
*Vai trò của học sinh:
- Học sinh là người trực tiếp hoặc cùng giáo viên thực hiện các thí
nghiệm. Học sinh tự tay làm thí nghiệm nên có sự phối hợp giữa hoạt động trí
óc và hoạt động chân tay trong hoạt động nhận thức, học sinh tích cực tham
gia xây dựng bài, phân tích các dấu hiệu, hiện tượng cụ thể bằng kinh nghiệm
của mình.
- Học sinh tự nghiên cứu, tranh luận, trao đổi với nhau xây dựng thí
nghiệm với tư cách là tác giả của những hoạt động khoa học đó. Học sinh cần
dự kiến trước thí nghiệm cần làm gì, tập giải thích các hiện tượng thí nghiệm
để rút ra kết luận đúng đắn.
1.3. Môn khoa học lớp 4
1.3.1 Nội dung chương trình môn khoa học lớp 4

Nội dung chương trình môn khoa học lớp 4 gồm có 3 chủ đề chính đó là:
- Con người và sức khỏe gồm 19 bài
Dương Thị Sinh- Lớp K34B Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

16

Khóa luận tốt nghiệp

Ở chủ đề này học sinh sẽ biết được để duy trì sự sống con người cần
những yếu tố gì? Một khi thiếu những yếu tố đó con người sẽ không tồn tại và
trong quá trình tồn tại con người phải có mối quan hệ với môi trường xung
quanh và đó là quá trình trao đổi chất.
Trong chủ đề này học sinh còn biết thức ăn mà chúng ta ăn hàng ngày
có những chất dinh dưỡng nào? Biết được vai trò của các chất dinh dưỡng đó
và để có đầy đủ các chất dinh dưỡng một cách an toàn chúng ta cần ăn uống
như thế nào? Câu trả lời cũng có trong chủ đề này.
Vẫn trong chủ đề này, học sinh biết được một số bệnh do thiếu chất
dinh dưỡng gây nên và một số bệnh lây qua đường tiêu hóa đặc biệt nếu biết
được tình trạng như thế nào khi bị bệnh và khi mắc bệnh thì cần ăn uống ra
sao? Bài học cuối cùng trong chủ đề này cho ta biết được những việc làm để
phòng tránh tai nại đuối nước và có ý thức phòng tránh.
- Vật chất và năng lượng gồm 38 bài.
Ở chủ đề này học sinh sẽ biết được nước có tính chất gì? Tồn tại như
thế nào? Biết được vòng tuần hoàn của nước trong tự nhiên, vị trí vai trò của
nước trong cuộc sống, những việc làm cần thiết để bảo vệ nguồn nước.
Nước và không khí là hai yếu tố quan trọng của sự sống vì vậy trong
chủ đề này cung cấp cho học sinh những kiến thức liên quan tới không khí

như: Cách nhận ra không khí, không khí có những tính chất gì, có những
thành phần nào, vai trò tác dụng của không khí v.v…
Ngoài nước và không khí thì âm thanh cũng được đề cập đến trong chủ
đề này. Biết được sự hình thành của âm thanh, cách phát hiện ra âm thanh, tác
dụng và tác hại của âm thanh trong cuộc sống của chúng ta. Ánh sáng là yếu
tố không thể thiếu của sự sống trên trái đất vì vậy học sinh cũng được tìm
hiểu trong chủ đề này. Ngoài ra học sinh còn biết được nhiều về các hiện
tượng như nóng, lạnh, vật dẫn nhiệt…
Ở chủ đề này học sinh được hình thành khái niệm kiến thức thông qua
phương pháp thí nghiệm chiếm số lượng lớn. Phương pháp thí nghiệm phát
huy tối đa vai trò của mình trong việc nghiên cứu bài mới rút ra những kết

Dương Thị Sinh- Lớp K34B Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

17

Khóa luận tốt nghiệp

luận khoa học v.v…Ở chủ đề này cần quan tâm đến thí nghiệm thực hành và
thí nghiệm tự nghiên cứu của học sinh.
- Thực vật và động vật gồm 14 bài
Học sinh có những kiến thức về động vật và thực vật tồn tại xung
quanh chúng ta. Động vật thực vật cần gì để sống, chúng có nhu cầu về nước
như thế nào? Nhu cầu về dinh dưỡng? nhu cầu về không khí? Sự trao đổi chất
ở thực vật như thế nào có giống với sự trao đổi chất ở động vật không ?.
1.3.2: Đặc điểm của môn khoa học lớp 4:
Môn Khoa học lớp 4 được xây dựng trên cơ sở nối tiếp những kiến thức

về tự nhiên của môn Tự nhiên và Xã hội các lớp 1, 2, 3. Nội dung chương
trình được cấu trúc đồng tâm mở rộng và nâng cao dần theo 3 chủ đề:
 Con người và sức khỏe
 Vật chất và năng lượng
 Thực vật và động vật
Môn Khoa học lớp 4 chú trọng tới tiếp cận tính tích hợp. Kiến thức
được lựa chọn gần gũi thiết thực với học sinh. Hình thành và phát triển các kỹ
năng học tập khoa học như quan sát, dự đoán, giải thích các hiện tượng tự
nhiên đơn giản và khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc sống.
Trong mỗi bài thường có những sự vật, hiện tượng, những vấn đề thực
tế được trình bày một cách khoa học. Học sinh quan sát và trả lời hay liên hệ
thực tế và trả lời, có các trò chơi học tập, thực hành…
Các quan sát thí nghiệm được trình bày trong sách giáo khoa một cách
“ mở ” hơn, đòi hỏi học sinh tích cực hoạt động từ đó xác định kiến thức
khoa học cũng như hình thành và phát triển kỹ năng học tập khoa học như
quan sát, dự đoán, giải thích.
Chúng ta biết rằng đặc điểm môn Khoa học lớp 4 là đại đa phần cho
học sinh được tiếp xúc với các sự vật, sự việc,các hiện tượng tự nhiên. Các
em bước đầu được làm quen với thế giới tự nhiên xung quanh. Ở đây học sinh
được thỏa sức mình để đưa ra những ý kiến, những phỏng đoán, dự đoán về
Dương Thị Sinh- Lớp K34B Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

18

Khóa luận tốt nghiệp

điều đưa ra. Các em biết được cái này bắt đầu từ đâu, cái kia bắt đầu từ đâu,

trả lời được những câu hỏi mang tính chất “ tại sao” . Qua những hoạt động
học tập vô cùng phong phú và gần gũi với học sinh như vậy sẽ làm cho các
em đam mê với môn Khoa học này hơn.
Những quan sát, tìm tòi của các em nếu chỉ dừng lại ở trên sách vở thì
những kiến thức đó không thể khắc sâu được. Nhưng nếu ta cho học sinh mày
mò, hoạt động với thực tiễn để hình thành tri thức thì những kiến thức đó sẽ
được khắc sâu và có thể tái tạo lại ngay khi cần thiết.
Phương pháp dạy học thí nghiệm là một phương pháp dạy học có tính
tích cực và tính trực qua rất cao. Với những đặc điểm về nội dung của chương
trình môn Khoa học lớp 4 như trên thì việc áp dụng phương pháp thí nghiệm
vào trong dạy học phân môn này là rất phù hợp.
1.3.3.Vai trò của phương pháp thí nghiệm trong dạy học môn Khoa học lớp
4
Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm, bản chất của phương pháp thí nghiệm
và đặc điểm nội dung của môn Khoa học tôi thấy vận dụng phương pháp thí
nghiệm vào giảng dạy môn Khoa học là rất cần thiết vì nó phù hợp với nội
dung kiến thức của môn học. Do Khoa học là một môn học tích hợp kiến thức
của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội nên nội dung của nó mang tính thực
tiễn rất cao. Những hiểu biết mà học sinh tiếp thu được sẽ ứng dụng được rất
nhiều vào trong cuộc sống. Học sinh có thể tư duy và tranh luận để giải quyết
các vấn đề nảy sinh trong thực tế từ đó tìm ra kiến thức cuả bài học, hình
thành niềm tin khoa học. Phương pháp thí nghiệm đóng vai trò quan trọng
giúp các em hiểu chúng và làm sáng tỏ những giả thiết khoa học này.
Quá trình nhận thức của học sinh mang tính trực quan cụ thể, tri giác
của học sinh gắn liền với hoạt động thực tiễn, trí nhớ mang tính chất hình ảnh,
cụ thể, trực tiếp. Quá trình dạy học bằng phương pháp thí nghiệm luôn đặt
học sinh vào những hoạt động trực tiếp, lấy hoạt động của học sinh làm trung
tâm dưới sự chỉ đạo của giáo viên, học sinh thực hành thí nghiệm dựa vào
Dương Thị Sinh- Lớp K34B Tiểu học



Trường ĐHSP Hà Nội 2

19

Khóa luận tốt nghiệp

kiến thức kinh nghiệm sẵn có để hình thành thí nghiệm. Vì vậy việc dạy học
bằng phương pháp thí nghiệm rất phù hợp. Bằng các hoạt động tự lực hoạt
động thí nghiệm học sinh sẽ nắm bắt kiến thức ghi nhớ kiến thức một cách
vững chắc và sâu sắc. Phương pháp thí nghiệm còn tạo cơ hội cho học sinh
tìm hiểu, khám phá, đánh giá, học hỏi lẫn nhau thông qua bài tập thực tế và
các thí nghiệm thực hành thúc đẩy, đáp ứng và mở rộng nhu cầu nhận thức.
Còn một điều đáng chú ý nữa, với phương pháp thuyết trình khả năng ghi nhớ
của học sinh đạt 25%, còn với phương pháp thí nghiệm thì kết quả đạt 75%.
Như vậy chúng ta thấy được sự cần thiết của việc áp dụng phương pháp này
vào trong dạy học.
Phương pháp thí nghiệm còn giúp học sinh hiểu được bản chất của vấn
đề một cách nhanh chóng và chính xác. Học sinh được đặt vào tình huống có
vấn đề và tự mình lựa chọn thí nghiệm, tự tổ chức thí nghiệm thông qua sự
hướng dẫn của giáo viên. Học sinh tự thực hiện thí nghiệm và trình bày trước
lớp, dù làm hỏng hay làm tốt, các em đều được trình bày, giải thích kết luận
của mình. Chính qua những lần thử nghiệm liên tiếp ấy, qua những sai lầm
học sinh sẽ rút ra được những kinh nghiệm và hiểu sâu bản chất vấn đề.
Phương pháp thí nghiệm có tác dụng kích thích động cơ học tập của
học sinh. Khi nhận được các vấn đề học sinh nảy sinh nhu cầu muốn tiến hành
thí nghiệm để giải quyết vấn đề được nêu ra. Học sinh tự nghiên cứu, nêu ra
các ý tưởng rồi dần dần chiếm lĩnh tri thức. Hơn thế nữa, trong phương pháp
thí nghiệm học sinh luôn ở trạng thái vận động, sử dụng mọi giác quan điều
này giúp học sinh không chỉ lĩnh hội được nhiều thông tin, kiến thức, kĩ năng

mà còn giúp học sinh phát triển về thể chất. Đó là mục tiêu phát triển toàn
diện mà mục đích giáo dục nêu ra.
Phương pháp thí nghiệm góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn
Khoa học nhằm đạt được mục tiêu dạy học đề ra. Vì vậy cần vận dụng
phương pháp thí nghiệm một cách sáng tạo nhằm phát huy tính tích cực của
học sinh.
Dương Thị Sinh- Lớp K34B Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

20

Khóa luận tốt nghiệp

2.Cơ sở thực tiễn
Để tìm hiểu thực trạng của việc thực hiện các phương pháp dạy học và
thực trạng của việc thực hiện phương pháp thí nghiệm trong môn khoa học
lớp 4. Tôi đã tiến hành điều tra ở 2 trường Tiểu học:
- Trường Tiểu học Bá Hiến A – Bá Hiến – Bình Xuyên – Vĩnh Phúc.
- Trường Tiểu học Thị trấn Sóc Sơn – Hà Nội.
2.1. Nhận thức của giáo viên về phương pháp thí nghiệm.
Đầu tiên, tôi điều tra sự hiểu biết của giáo viên về phương pháp thí
nghiệm. Để có kết quả chính xác, khách quan, tôi sử dụng phiếu điều tra kết
hợp với trao đổi trò chuyện với giáo viên .
Nội dung điều tra:
Câu 1
Thầy cô hiểu như thế nào về phương pháp thí nghiệm?( Hãy khoanh
vào ý kiến mà thầy cô cho là đúng).
1.Phương pháp thí nghiệm là phương pháp mà học sinh và giáo viên

cùng sử dụng dụng cụ thí nghiệm để tái tạo lại những hiện tượng trong thực
tế.
2. Phương pháp thí nghiệm là phương pháp tái tạo lại những hiện tượng
trong thực tế để hướng dẫn học sinh tiếp thu tri thức khoa học.
3. Phương pháp thí nghiệm là phương pháp giáo viên hướng dẫn học
sinh sử dụng cụ tái tạo các hiện tượng đã sảy ra trong thực tế để tìm hiểu và
rút ra những kết luận khoa học.
Kết quả thu được tổng kết qua biểu đồ sau:

Dương Thị Sinh- Lớp K34B Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

21

90%

Khóa luận tốt nghiệp

82%

80%
70%
60%
50%
40%
30%
20%
10%

10%

8%

Biểu đồ 1: Nhận thức của giáo viên về phương pháp thí nghiệm.
Qua kết quả ta thấy đại đa số các giáo viên đều nhận thức đúng đắn về
phương pháp thí nghiệm. Thể hiện đó là 82% giáo viên hiểu rõ phương pháp
thí nghiệm. Số phần trăm giáo viên chưa hiểu rõ thí nghiệm chiếm tỉ lệ rất ít .
Như vậy phần lớn các giáo viên đều nhận thức đầy đủ về phương pháp thí
nghiệm. Đây là điều kiện thuận lợi để áp dụng phương pháp thí nghiệm vào
dạy học.
2.2. Thực trạng việc sử dụng các phương pháp dạy học và hình thức tổ
chức dạy học môn khoa học lớp 4.
Như chúng ta đã biết thì việc tổ chức các hình thức dạy học và các
phương pháp dạy học trong nhà trường Tiểu học là rất phong phú. Mỗi
phương pháp hay hình thức tổ chức dạy học khác nhau khi sử dụng sẽ mang
lại những hiệu quả khác nhau.
Để tìm hiểu thực trạng việc sử dụng các phương pháp dạy học và hình
thức tổ chức dạy học môn Khoa học lớp 4 tôi đã sử dụng câu hỏi điều tra như
sau:

Dương Thị Sinh- Lớp K34B Tiểu học


22

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp


Câu 2: Thầy cô có thường xuyên sử dụng các phương pháp dạy học sau
vào dạy môn Khoa học lớp 4?
STT Các phương pháp
1

Thuyết trình

2

Thảo luận nhóm

3

Dạy học nêu vấn đề

4

Thí nghiệm

5

Các

phương

Thương

Thỉnh

xuyên


thoảng

Hiếm khi

Chưa bao
giờ

pháp

dạy học khác (vui
lòng ghi rõ).

Kết quả thu được như sau:

100
90
80
70
60
50
40
30
20
10
0

86

80


42

42
32

20

14

32

26

26

Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Hiếm khi
Chưa bao giờ

0
Thuyết trình Thảo luận
nhóm

DH nêu vấn
đề

PP Thí
nghiệm


Biểu đồ 2: Thực trạng việc sử dụng các phương pháp
và hình thức tổ chức dạy học.

Dương Thị Sinh- Lớp K34B Tiểu học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

23

Khóa luận tốt nghiệp

Từ biểu đồ ta thấy mức độ sử dụng các phương pháp dạy học trong
môn khoa học lớp 4 ở tiểu học. Các phương pháp đưa ra khảo sát là những
phương pháp thường được giáo viên sử dụng trong quá trình dạy học ở tiểu
học. Cũng từ biểu đồ ta ra rút nhận xét hiện nay phương pháp dạy học được
giáo viên dạy học chủ yếu vẫn là phương pháp dạy học truyền thống. Phương
pháp ưu thế nhất vẫn là phương pháp thuyết trình chiếm 86%. Hầu hết giáo
viên được hỏi đều cho rằng thường xuyên sử dụng phương pháp này đa số
giáo viên cho rằng phương pháp hiện đại chưa được áp dụng. Một số phương
pháp hiện đại như dạy học dự án, dạy học theo vấn đề… giáo viên đều sử
dụng hết sức khiêm tốn thể hiện 26% giáo viên chưa bao giờ sử dụng phương
pháp nêu vấn đề.
Phương pháp thí nghiệm với mức độ sử dụng thường xuyên chiếm
42%, thỉnh thoảng 32%, hiếm khi 26% , chưa bao giờ chiếm 0%. Từ việc
nghiên cứu lí luận và nghiên cứu nội dung môn khoa học lớp 4 cho thấy nếu
vận dụng phương pháp thí nghiệm vào dạy học hợp lí sẽ đem lại hiệu quả cao.
Tuy nhiên việc vận dụng phương pháp này chưa cao chiếm 42%.
2.3. Mức độ và hiệu quả việc dạy học môn Khoa học lớp 4 bằng phương

pháp thí nghiệm.
Để tìm hiểu vấn đề này tôi sử dụng câu hỏi điều tra như sau:
Câu 3: Trong dạy học môn Khoa học lớp 4 thầy (cô) thường sử dụng
phương pháp thí nghiệm ở mức độ như thế nào?
1. Thường xuyên
2. Thỉnh thoảng
3. Hiếm khi
4. Chưa bao giờ
Kết quả cho ta thấy:

Dương Thị Sinh- Lớp K34B Tiểu học


24

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

70
58

60
50
40

26

30


16

20
10

0

0
thường xuyên

thỉnh thoảng

hiếm khi

chưa bao giờ

Biểu đồ 3:Mức độ và hiệu quả việc sử dụng phương pháp dạy học
trong môn Khoa học lớp 4.
Dựa vào nội dung và đặc điểm chương trình môn khoa học ta thấy việc
sử dụng phương pháp thí nghiệm là hiệu quả. Tuy nhiên mức độ sử dụng của
phương pháp này là chưa cao. Khi được hỏi giáo viên cho biết sử dụng
phương pháp này phải chuẩn bị dụng cụ thí nghiệm, phương tiện thí nghiệm
chu đáo và mất nhiều thời gian của tiết học. Môi trường lớp học nhiều khi
không cho phép sử dụng phương pháp này.
Đây cũng là một khó khăn để áp dụng thí nghiệm vào dạy học môn
khoa học lớp 4.
2.4. Nhận thức của giáo viên về tác dụng của phương pháp thí nghiệm
trong dạy học môn khoa học lớp 4.
Chúng ta đều đã biết về tác dụng, hiệu quả sử dụng của phương pháp
thí nghiệm trong dạy học. Nhưng trên thực tế mức độ sử dụng phương pháp

này trong dạy học như thế nào và đặc biệt trong dạy học môn Khoa học lớp 4
ra sao thì chúng ta chưa biết. Để có một cách nhìn khái quát về thực tế này tôi
đã tiến hành đi tìm hiểu bằng phương pháp điều tra sử dụng câu hỏi sau:
Câu 4: Trong dạy học môn Khoa học lớp 4 phương pháp thí nghiệm có
tác dụng như thế nào?

Dương Thị Sinh- Lớp K34B Tiểu học


25

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

1. Rất tốt
2. Tốt
3. Bình thường.
Kết quả cho thấy:
76

80
70
60
50
40
24

30
20

10

0

0
Rất tốt

Tốt

Bình thường

Biểu đồ 4: Mức độ nhận thức của giáo viên về tác dụng của phương
pháp thí nghiệm trong dạy học Khoa học lớp 4.
Qua điều tra cho thấy đại đa số giáo viên tiểu học đều nhận thức được
tác dụng của phương pháp thí nghiệm trong việc dạy học môn khoa học lớp 4
( 24% giáo viên được hỏi cho rằng phương pháp thí nghiệm rất tốt, 76% cho
rằng nó có tác dụng tốt ). Hầu hết giáo viên cho rằng đây là phương pháp dạy
học truyền thống nhưng vị trí, vai trò, tác dụng của nó trong môn khoa học thì
không có phương pháp nào thay thế được. Và tất cả các giáo viên cũng cho
rằng nên áp dụng phương pháp này vào dạy môn khoa học 4. Đây cũng là điều
kiện thuận lợi để áp dụng phương pháp thí nghiệm vào dạy học.
2.5. Thuận lợi và khó khăn khi sử dụng phương pháp thí nghiệm trong dạy
môn khoa học lớp 4.
2.5.1. Thuận lợi:
Đổi mới phương pháp dạy học không chỉ sử dụng các phương pháp dạy
học mới mà còn phải kết hợp các phương pháp dạy học truyền thống trên cơ
Dương Thị Sinh- Lớp K34B Tiểu học



×