Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

Thực trạng giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 2 thông qua dạy học môn đạo đức ở một số trường tiểu học khu vực sóc sơn hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (480.83 KB, 54 trang )

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới thầy giáo Th.S GVC Đỗ Xuân Đức, người đã tận tâm hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình nghiên cứu, thực hiện đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu và các giáo viên trong ba
trường: Tiểu học Thị Trấn Sóc Sơn, Tiểu học Phù Linh, Tiểu học Phù Lỗ A
đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong việc cung cấp các thông tin, số liệu về
trường Tiểu học để tôi hoàn thành đề tài này.

Hà Nội, tháng 5 năm 2012
Sinh Viên thực hiện
Phạm Thị Hương Giang


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng mình.
Các số liệu, kết quả thu thập được trong khóa luận là trung thực, rõ
ràng, chưa từng được công bố trong bất kì một công trình nghiên cứu nào.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu mọi trách nhiệm.

Hà Nội, tháng 5 năm 2012
Sinh Viên thực hiện
Phạm Thị Hương Giang


MỤC LỤC
Trang
PHẦN 1: MỞ ĐẦU ....................................................................................... 1
PHẦN 2: NỘI DUNG ................................................................................... 7
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN ................................................................... 7
1. Một số vấn đề về đạo đức ........................................................................... 7
1.1. Khái niệm đạo đức .................................................................................. 7


1.2. Tính chất đạo đức .................................................................................... 7
1.3. Chức năng của đạo đức............................................................................ 8
2. Môn Đạo đức với việc giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học ............... 10
2.1. Khái niệm giáo dục đạo đức .................................................................. 10
2.2. Con đường giáo dục đạo đức cho học sinh ............................................ 11
2.3. Môn đạo đức với việc giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học .............. 13
2.4. Các phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học .................... 13
2.5. Các hình thức tổ chức dạy học môn Đạo đức......................................... 17
3. Môn Đạo đức lớp 2 với việc giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 2 ............ 20
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC
SINH LỚP 2 THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN ĐẠO ĐỨC ..................... 23
1. Thực trạng về trình độ đội ngũ giáo viên chủ nhiệm ................................. 23
2. Thực trạng về nhận thức của giáo viên về giáo dục đạo đức cho học sinh
lớp 2 thông qua dạy học môn Đạo đức. ........................................................ 24
3. Thưc trạng khai thác nội dung môn Đạo đức trong giáo dục đạo đức cho
học sinh lớp 2. .............................................................................................. 27
4. Thực trạng khai thác phương pháp dạy học môn Đạo đức trong giáo dục
đạo đức cho học sinh lớp 2 ........................................................................... 31
5. Thực trạng về khai thác các hình thức tổ chức dạy học môn Đạo đức trong
giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 2 ............................................................. 36


6. Thực trạng khai thác tấm gương người giáo viên trong dạy học môn Đạo
đức để giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 2 ................................................. 39
CHƯƠNG 3. NGUYÊN NHÂN THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP KHẮC
PHỤC ......................................................................................................... 41
1. Nguyên nhân thực trạng ........................................................................... 41
2. Những giải pháp để đảm bảo tốt việc giáo dục đạo đức cho học sinh Lớp 2
thông qua dạy học môn Đạo đức .................................................................. 42
PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .................................................... 44

1. Kết luận .................................................................................................... 44
2. Kiến nghị.................................................................................................. 45
PHỤ LỤC.................................................................................................... 46
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 50


PHẦN 1: MỞ ĐẦU

1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
“Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan”
Câu nói của Bác vẫn còn vang vọng mãi trong tâm hồn mỗi người và
mang một ý nghĩa to lớn. Chỉ với hai câu thơ dễ thuộc nhưng để trẻ em phát
triển toàn diện cả đức và tài thì đó quả là nỗi trăn trở không chỉ của các bậc
làm cha, làm mẹ và làm thầy mà đó còn là mối quan tâm của toàn xã hội.
Đức và tài là một sự thống nhất mang tính biện chứng bởi vì đạo đức là
cơ sở để phát triển tài năng. Ngược lại, tài năng chỉ thực sự được phát huy,
cống hiến và được sử dụng hiệu quả trong con người đạo đức mà thôi. Trong
quan niệm của Hồ Chí Minh, đạo đức luôn luôn là gốc, là nền tảng của người
cách mạng, Người viết: “cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có
nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách
mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo
được nhân dân” [8; tr 252, 253]
Sự phát triển kinh tế - xã hội đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với
hệ thống giáo dục, đòi hỏi nền giáo dục phải đào tạo ra những con người
“uyên thâm về trí tuệ, cường tráng về thể lực, phong phú về tinh thần, trong
sáng về đạo đức”.
Nghị quyết hội nghị TW2 Đại hội VIII đã nêu: “Đặc biệt đáng lo ngại
là một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái về đạo đức, mờ nhạt
về lí tưởng, theo lối sống thực dụng thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp về

tương lai, bản thân và đất nước” [1; tr 4], phải chăng một trong những nguyên
nhân là từ năm 1986 đến nay việc đổi mới toàn ngành giáo dục mới chỉ chú
trọng đến nội dung chương trình, phương pháp dạy học chứ không chú trọng
-1-


đến việc hình thành ở học sinh những phẩm chất đạo đức cần thiết. Trong
“chương trình tọa đàm về nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ
thông” (TPHCM, 14- 15/2/2006) GS Trần Thanh Đạm đã đưa ra ý kiến: “Tôi
nghĩ, chúng ta không lo con trẻ thiếu tri thức mà lo chúng hư hỏng nhân
cách”. Với thực trạng đạo đức của học sinh như hiện nay thì câu nói của GS
Trần Thanh Đạm quả là một vấn đề nhức nhối mà ngành giáo dục và toàn xã
hội phải quan tâm.
Bậc Tiểu học là bậc học nền tảng nhằm hình thành ở học sinh những cở
sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mĩ và kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên bậc trung học cơ sở.
Đối với học sinh lớp 2, các em đã bước vào môi trường học tập được một
năm, được làm quen với thầy cô bạn bè. Có thể nói, trường lớp không còn xa
lạ với các em nhưng cần phải bắt đầu chú trọng giáo dục đạo đức cho các em
ngay từ lớp 2 vì ở độ tuổi này các em còn rất nhỏ, các em dễ dàng học được
điều tốt và cũng dễ dàng tiêm nhiễm điều xấu. Một trong những con đường
giáo dục đạo đức cho học sinh là con đường dạy học và một trong những môn
học trực tiếp giáo dục đạo đức cho các em là môn Đạo đức nhưng đây lại là
môn học chưa thật sự được chú trọng, còn bị coi nhẹ, điều đó làm ảnh hưởng
lớn tới chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh. Vậy thì thực trạng giáo dục
đạo đức cho học sinh lớp 2 thông qua dạy học môn Đạo đức ở tiểu học là như
thế nào?
Đối với tôi, một giáo viên tiểu học trong tương lai sẽ tiếp tục sự nghiệp
“trồng người” của những người thầy đi trước tôi rất coi trọng đến phẩm chất
đạo đức con người, đặc biệt những mầm xanh tôi sẽ ươm trồng sau này thì

cần phải phát triển đầy đủ cả về đức và tài, đúng như lời bác nói: “Có tài mà
không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc cũng
khó.” Chính vì vậy mà em đã lựa chọn đề tài “thực trạng giáo dục đạo đức

-2-


cho học sinh lớp 2 thông qua dạy học môn Đạo đức ở một số trường tiểu học
khu vực thị trấn Sóc Sơn” nhằm tìm hiểu sâu hơn kĩ hơn để từ đó nắm được
thực trạng giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 2 ở các trường này và có thể tìm
ra hướng giải quyết phù hợp làm hành trang cho bản thân thêm vững bước
vào nghề.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Bàn về giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học có rất nhiều tác giả đề
cập đến như:
- Hà Thế Ngữ - Một số vấn đề về phương pháp giáo dục đạo đức và
giáo dục môn đạo đức ở Tiểu học.
- Lưu Thu Thủy – Giáo dục hành vi đạo đức cho học sinh tiểu học qua
trò chơi.
- Lưu Thu Thủy – Đổi mới phương pháp dạy học đạo đức ở tiểu học.
- Nguyễn Thị Thanh Thủy – Giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học
thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Khi nói đến giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học các tác giả mới chỉ
đề cập đến việc giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua các trò chơi, qua
hoạt động ngoài giờ và một số phương pháp dạy học Đạo đức ở tiểu học mà
chưa tìm hiểu về thực trạng giáo dục đạo đức của học sinh thông qua một
môn học. Ngoài ra, cũng có những đề tài nghiên cứu về thực trạng giáo dục
đạo đức cho học sinh thông qua môn Đạo đức ở các khu vực khác nhau nhưng
ở khu vực thị trấn Sóc Sơn thì chưa có ai nghiên cứu. Trong đề tài này, tôi tìm
hiểu về thực trạng giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua môn Đạo đức,

nhưng do điều kiện thời gian có hạn nên tôi chỉ nghiên cứu trong phạm vi đối
với học sinh lớp 2 ở một số trường tiểu học khu vực Sóc Sơn- Hà Nội.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Phát hiện ra thực trạng giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua dạy học
môn Đạo đức ở các trường Tiểu học khu vực Sóc Sơn- Hà Nội.
-3-


Tìm hiểu nguyên nhân thực trạng để từ đó đề xuất những phương pháp
giải pháp trong dạy học phân môn Đạo đức nhằm khắc phục thực trạng.
4. KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
Giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học.
5. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng giáo dục đạo đức.
- Phạm vi nghiên cứu: thông qua việc dạy học môn Đạo đức cho học
sinh Tiểu học.
6. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học thông qua dạy học
phân môn Đạo đức cho học sinh chưa đảm bảo tốt. Một trong số những
nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là do giáo viên chưa thực sự chú trọng
tới dạy học môn Đạo đức, chưa sử dụng các phương pháp dạy học tích cực.
7. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Tìm hiểu cơ sở lí luận giáo dục đạo đức.
- Tìm hiểu thực trạng của giáo dục đạo đức trong dạy học Đạo đức.
Tìm hiểu nguyên nhân và đề xuất giải pháp khắc phục thực trạng.
8. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp trò chuyện
- Phương pháp đọc sách

9. KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU
Tháng 11: nhận đề tài và hoàn thành đề cương.
Tháng 12 đến tháng tháng 2: tìm hiểu cơ sở lí luận.
Tháng 2 đến tháng 4: tìm hiểu thực trạng.
Tháng 5: tổng kết số liệu, hoàn thành đề tài và bảo vệ đề tài.
-4-


10. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
Gồm 3 phần:
- Phần 1: Mở đầu
- Phần 2: Nội dung
Chương 1. Cơ sở lí luận
1. Một số vấn đề về đạo đức
1.1. Khái niệm về đạo đức.
1.2. Tính chất của đạo đức.
1.3. Chức năng của đạo đức.
2. Môn Đạo đức với việc giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học
2.1. Khái niệm giáo dục đạo đức.
2.2. Các con đường giáo dục đạo đức.
2.3. Môn Đạo đức với việc giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học.
2.4. Một số phương pháp giáo dục đạo đức trong dạy học môn Đạo đức.
2.5. Các hình thức tổ chức dạy học môn Đạo đức.
3. Môn Đạo đức lớp 2 với việc giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 2
Chương 2. Thực trạng về giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 2 thông qua
dạy học môn Đạo đức ở một số trường thị trấn Sóc Sơn- Hà Nội
1. Thực trạng về trình độ đội ngũ giáo viên.
2. Thực trạng về nhận thức của giáo viên về giáo dục đạo đức cho học sinh
lớp 2 thông qua dạy học môn Đạo đức.
2.1. Nhận thức của giáo viên về tầm quan trọng của dạy học môn Đạo đức lớp 2.

2.2. Nhận thức của giáo viên về tác dụng của môn Đạo đức trong giáo dục
đạo đức cho học sinh lớp 2.
3. Thực trạng về khai thác nội dung môn Đạo đức trong giáo dục đạo đức cho
học sinh lớp 2.
4. Thực trạng khai thác phương pháp dạy học môn Đạo đức trong giáo dục
đạo đức cho học sinh lớp 2.
-5-


5. Thực trạng khai thác hình thức tổ chức dạy học môn Đạo đức trong giáo
dục đạo đức cho học sinh lớp 2
6. Thực trạng khai thác tấm gương người giáo viên trong dạy học môn Đạo
đức để giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 2
Chương 3. Nguyên nhân thực trạng và đề xuất giải pháp khắc phục
1. Nguyên nhân thực trạng
2. Những giải pháp để đảm bảo tốt việc giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 2
thông qua dạy học môn Đạo đức
Phần 3: Kết luận và kiến nghị

-6-


PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐẠO ĐỨC
1.1 Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một bộ phận quan trọng trong các hình thái ý thức xã hội.
Theo quan niệm Macxit: “Đạo đức là hệ thống các quy tắc chuẩn mực của
đời sống xã hội và hành vi của con người. Nó quy định nghĩa vụ của người
này với người khác, nghĩa vụ của con người với xã hội nguồn”.

Đạo đức là một hiện tượng xã hội đầu tiên xuất hiện khi loài người mới
hình thành. Đạo đức ra đời và phát triển cùng với quá trình phát triển kinh tế
- xã hội và sự tiến bộ về văn hóa, vật chất tinh thần của con người. Hiện nay,
có rất nhiều quan niệm khác nhau về nguồn gốc bản chất của đạo đức. Theo
quan điểm triết học Mác Lenin, Đạo đức là mội hình thái ý thức xã hội có
quan hệ với các hình thái xã hội khác nảy sinh từ tồn tại xã hội. Nhưng, đạo
đức khác với các hình thái xã hội khác ở chỗ nó điều chỉnh hoạt động của con
người trong các mối quan hệ xã hội giúp con người tự hoàn thiên nhân cách
của mình.
Có thể nói một các khái quát “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội,
là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người
tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc
của con người và sự tiến bộ xã hội trong quan hệ giữa con người với con
người, giữa cá nhân với xã hội”.
1.2. Tính chất của đạo đức
Đạo đức có tính lịch sử. Khi điều kiện kinh tế xã hội sinh ra nó thay
đổi thì tất yếu các quan hệ xã hội và các quan hệ đạo đức cũng thay đổi theo
với tư cách như một sự định hướng cho các quan hệ xã hội, vừa với tư cách
-7-


phản ánh quan hệ đạo đức của xã hội mới thì sớm hay muộn ý thức đạo đức
cũng thay đổi.
Khi xã hội phân chia giai cấp thì đạo đức phản ánh quyền lợi của giai
cấp thống trị và giải quyết mọi mối quan hệ giữa con người với con người
giữa cá nhân với xã hội theo quan điểm của giai cấp thống trị. Nhưng, ngày
nay dưới chế độ xã hội mới – chế độ xã hội chủ nghĩa thì nền đạo đức mới đã
xuất hiện. Đó là nền đạo đức cộng sản chủ nghĩa kế thừa và phát huy các
chuẩn mực nhân đạo của loài người. Đồng thời khẳng định và đề cao những
phẩm chất mới của loài người đang đấu tranh xóa bỏ áp bức bóc lột, giải

phóng con người và lao động, đem lại hạnh phúc cho mọi người.
Mỗi một đất nước, một dân tộc lại mang những nét văn hóa đặc trưng
riêng. Những nét văn hóa riêng này ảnh hưởng đến những nguyên tắc, quy
tắc chuẩn mực xã hội của từng dân tộc ấy. Từ đó, tạo nên tính dân tộc cho
đạo đức.
1.3. Chức năng của đạo đức
Đạo đức là tổng hợp các nguyên tắc, quy tắc chuẩn mực xã hội mà con
người thực hiện. Đạo đức tồn tại trong xã hội với ba chức năng là chức năng
nhận thức, chức năng định hướng và điều chỉnh hành vi, chức năng đánh giá.
Cả ba chức năng này có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Đạo đức giúp con người nhận thức về thế giới xung quanh liên quan
đến cách ứng xử của mình với người khác với cộng đồng xã hội. Mỗi người
phải nhận thức được rằng: mình là một thành viên trong xã hội nên phải cư
xử theo những quy tắc chuẩn mực đạo đức mà xã hội yêu cầu, những việc
mình làm không được phép gây tổn hại cho người khác, cho cộng đồng xã
hội. Với nhận thức đúng đắn, con người biết được sự cần thiết của việc thực
hiện những hành vi đạo đức phù hợp, những hành vi nhận được sự đồng tình
của những người xung quanh, của cộng đồng xã hội…
-8-


Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là bất kì một cá nhân nào trong xã
hội cũng có nhận thức đúng như nhau. Điều đó còn phụ thuộc vào khả năng
nhận thức của mỗi người, sự tác động của giáo dục, kinh nghiệm đạo đức,
điều kiện cuộc sống… Hay nói cách khác, chức năng nhận thức của đạo đức
được thực hiện qua quá trình giáo dục và tự giáo dục, trải nghiệm cuộc sống
của từng cá nhân.
Nhận thức đúng đắn có tác dụng định hướng, điều chỉnh hành vi và
giúp con người đánh giá hành vi của người khác và hành vi của bản thân một
cách khách quan.

Đạo đức định hướng cho con người thực hiện một hành vi đạo đức sao
cho phù hợp với nguyên tắc, quy tắc chuẩn mực xã hội. Trong từng tình
huống cụ thể mỗi cá nhân sẽ phải tự xác định cho mình một cách ứng xử sao
cho thích hợp. Việc nào nên làm, việc nào không nên làm; làm bằng cách này
hay làm bằng cách khác để được người khác đồng tình, mang lại niềm vui,
hạnh phúc cho những người xung quanh, không bị xã hội lên án và bản thân
cảm thấy thanh thản thoải mái. Trong thực tiễn, mỗi người khó tránh khỏi
những điều mình làm chưa phù hợp với quy tắc chuẩn mực nào đó. Khi đó,
hành động của người đó có thể bị lên án, chê cười hoặc dẫn đến những kết
cục không tốt xảy ra. Trong những trường hợp đó, cá nhân đó sẽ điều chỉnh
hành vi của mình bằng cách rút kinh nghiệm trong những tình huống tương
tự xảy ra sau này. Đó chính là sự điều chỉnh của đạo đức từ phía cộng đồng
xã hội và từ phía bản thân. Sự điều chỉnh hành vi còn được thể hiện trong
những trường hợp con người làm được việc tốt. Khi đó, người ấy sẽ được
khen ngợi, nêu gương hoặc tự người đó cảm thấy thoải mái, từ đó sẽ tự nhủ
bản thân tiếp tục thực hiện những hành vi tương tự.
Qua đây chúng ta thấy, sự định hướng hành vi đạo đức phụ thuộc phần
lớn vào nhận thức, sự điều chỉnh phụ thuộc vào sự đánh giá của nó.
-9-


Bất kì một hành vi đạo đức nào cũng được đánh giá từ những người
xung quanh và từ chính bản thân mình với thước đo không chỉ là những quy
tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội mà còn phụ thuộc vào điều kiện thực hiện,
động cơ, kết quả… Những đánh giá từ phía xã hội có thể là khen ngợi, đồng
tình (nếu hành vi đó phù hợp với chuẩn mực, mang lại những kết quả tốt đẹp)
hay sẽ bị lên án, phê phán (nếu hành vi đó đi ngược lại với chuẩn mực). Đánh
giá từ phía bản thân chính là “tòa án lương tâm”.
Ngoài ra, đạo đức giúp con người đánh giá hành vi của những người
xung quanh. Sự đánh giá này phụ thuộc không chỉ những quy tắc, chuẩn mực

đạo đức xã hội, mà còn ý thức đạo đức, lương tâm trách nhiệm… của người
đánh giá.
Những đánh giá trên dẫn đến sự điều chỉnh hành vi đạo đức của người
được đánh giá.
2. MÔN ĐẠO ĐỨC VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC
SINH TIỂU HỌC
2.1. Khái niệm giáo dục đạo đức
Giáo dục đạo đức là quá trình chuyển văn hóa đạo đức xã hội thành
văn hóa đạo đức cá nhân. Đó là quá trình chuyển những tri thức, những kinh
nghiệm, những chuẩn mực và lí tưởng đạo đức xã hội thành những phẩm chất
đạo đức cá nhân, làm phát triển ý thức cũng như năng lực đánh giá và thực
hiện hành vi đạo đức, năng lực tham gia vào các quan hệ đạo đức xã hội.
Đạo đức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội của cộng đồng người xác
định. Đạo đức cá nhân là đạo đức của từng cá nhân riêng lẻ trong cộng đồng.
Như vậy, mỗi người sống trong một cộng đồng cần phải hòa nhập được đạo
đức cá nhân với đạo đức xã hội. Nhưng từ khi sinh ra mỗi người không thể tự
nhiên có đầy đủ mọi phẩm chất đạo đức của xã hội mà muốn thu nhận được
nó là cả một quá trình chuyển hóa để từ đó biến kinh nghiệm, lý tưởng, chuẩn
- 10 -


mực đạo đức xã hội thành kinh nghiệm bản thân và khi bản thân thể hiện
những kinh nghiệm, những chuẩn mực đạo đức đó chính là thể hiện đạo đức
của xã hội ấy.
2.2. Các con đường giáo dục đạo đức cho học sinh
Giáo dục đạo đức cho học sinh là một quá trình giáo dục tổng thể, cần
được tiến hành có kế hoạch với những con đường và phương thức sau đây:
a. Giáo dục thông qua việc giảng dạy các môn học trong nhà trường
Thông qua giảng dạy các bộ môn Lí luận chính trị, các môn khoa học
tự nhiên, xã hội và nhân văn giúp học sinh hình thành thế giới quan và nhân

sinh quan. Thế giới quan là hệ thống quan điểm về thế giới, là sản phẩm của
nhận thức khoa học và hoạt động xã hội.
Thông qua giảng dạy các bộ môn Lịch sử và Địa lí giúp học sinh hiểu
biết về cội nguồn đất nước và sự phát triển của lịch sử Việt Nam qua các thời
đại. Từ đó mà tạo nên niềm tự hào dân tộc, hình thành lòng yêu quê hương
đất nước, sẵn sàng lao động để bảo vệ tổ quốc.
Thông qua các bộ môn Đạo đức, giáo dục kĩ năng sống… giúp học
sinh nhận thức, hình thành các khái niệm đạo đức, tạo lập thói quen tư duy và
hành động theo chuẩn mực hành vi đạo đức, theo hiến pháp và pháp luật.
b. Đưa học sinh tham gia vào lao động và các hoạt động xã hội đa dạng,
phong phú
Lao động và các hoạt động xã hội bản thân nó là trường học lớn rèn
luyện con người. Tư tưởng chính trị, đạo đức, ý thức pháp luật được hình
thành từ cuộc sống thực tiễn.
Nhà trường cần đưa học sinh vào các hoạt động đa dạng ngoài xã hội,
trong các phong trào vận động văn hóa xã hội như “Xây dựng gia đình văn
hóa”, “Xây dựng môi trường xanh, sạch, đẹp”. Tham gia các cuộc vận động
chính trị, các cuộc quyên góp, ủng hộ người nghèo… đều có ý nghĩa giáo dục.
- 11 -


c. Thông qua các cuộc kỉ niệm lịch sử, các lễ hội dân tộc để giáo dục
truyền thống dân tộc
Truyền thống lịch sử chống ngoại xâm và đấu tranh cách mạng của
nhân dân ta thật hào hùng. Truyền thống văn hóa, lao động sáng tạo của nhân
dân ta cũng đậm đà bản sắc dân tộc. Cần tiến hành giáo dục truyền thống dân
tộc cho học sinh để họ hiểu biết, kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa và
lịch sử dân tộc Việt Nam.
Thông qua các cuộc kỉ niệm lịch sử, các ngày lễ hội truyền thống mà
giáo dục lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc. Các cuộc sinh hoạt chính trị,

văn hóa độc đáo này rất phù hợp với đặc điểm tâm lí thanh, thiếu niên cho
nên dễ dàng thu hút họ vào những hoạt động chung có ý nghĩa giáo dục ấy.
d. Tổ chức các sinh hoạt đoàn thể
Đoàn Thanh niên, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh là các tổ
chức chính trị của tuổi trẻ, đây là trường học để giáo dục chính trị đạo đức,
văn hóa và pháp luật cho học sinh.
Sinh hoạt đoàn thể với nội dung phong phú, hấp dẫn theo lứa tuổi, tính
kỉ luật nghiêm, dư luận lành mạnh, truyền thống đẹp… có tác dụng giáo dục
về nhiều mặt.
Giao tiếp, thảo luận, tranh luận tập thể, thi đua, hợp tác đều có tác dụng
tích cực với việc hình thành ý thức công dân.
e. Tổ chức các cuộc thi hấp dẫn
Tổ chức các cuộc thi vui trong tập thể, ở địa phương, trong cả nước,
trên các phương tiện thông tin đại chúng như: báo chí, đài phát thanh và
truyền hình… có tác dụng giáo dục rất lớn, nó không những thu hút thanh
thiếu niên tham gia, mà còn cả các tầng lớp nhân dân khác quan tâm theo dõi.
Nội dung các cuộc thi hướng về các mục tiêu tìm hiểu các sự kiện xã
hội, lịch sử, chính trị, pháp luật, văn hóa và giáo dục… Các kì thi tập thể trên
- 12 -


hệ thống thông tin đại chúng là phương pháp hấp dẫn và lại đạt tới mục tiêu
giáo dục có hiệu quả cao.
2.3. Môn Đạo đức với việc giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học
Trước sự phong phú đa dạng của cuộc sống, với học sinh tiểu học khả
năng nhận thức và phân biệt giữa cái tốt với cái xấu, cái thiện với cái ác…
còn nhiều hạn chế. Vì vậy, ngoài việc được giáo dục đạo đức từ phía gia đình
thì nhà trường là một môi trường quan trọng để các em học tập và trau dồi
thêm tri thức đạo đức cho bản thân.
Tri thức đạo đức là một trong những thành tố quan trọng của ý thức

đạo đức. Nó được hình thành và phát triển trong toàn bộ hoạt động sống của
con người nhưng đối với học sinh Tiểu học thì nó được hình thành một cách
trực tiếp và rõ rệt nhất là thông qua hình thức truyền đạt giảng giải. Việc
truyền đạt và giảng giải cho học sinh trong nhà trường Tiểu học thông qua
nhiều hoạt động nhiều môn học khác nhau nhưng cụ thể nhất là môn Đạo
đức. Thông qua môn học này nhằm cung cấp cho các em những tri thức sơ
đẳng dưới dạng mẫu hành vi về các chuẩn mực đạo đức gắn liền với kinh
nghiệm đạo đức từ đó giúp các em bắt đầu hình thành năng lực nhận thức
định hướng giá trị đạo đức, biết phân biệt cái đúng, cái sai, làm theo cái đúng,
ủng hộ các đúng, tránh cái sai, đấu tranh với những biểu hiện sai trái, xấu xa
tội ác. Bồi dưỡng cho các em những cảm xúc đạo đức, biến những chuẩn
mực đạo đức sơ giản thành động cơ bên trong, thôi thúc các em hành động
theo những chuẩn mực đã quy định. Từ đó, giúp các em rèn luyện hành vi và
thói quen hành vi phù hợp với chuẩn mực đạo đức đã học.
2.4. Các phương pháp giáo dục đạo đức trong dạy học môn đạo đức
Để giáo dục đạo đức cho học sinh có rất nhiều phương pháp được sử
dụng nhưng trong dạy học môn Đạo đức chủ yếu sử dụng các phương pháp
như phương pháp đàm thoại, phương pháp giảng giải, phương pháp tranh
luận, phương pháp kể chuyện, phương pháp đóng vai.
- 13 -


a. Phương pháp đàm thoại
Phương pháp đàm thoại là phương pháp tổ chức trò chuyện chủ yếu là
giữa giáo viên và học sinh về các vấn đề đạo đức dựa trên hệ thống câu hỏi
đã được chuẩn bị hoặc có thể trao đổi một cách thoải mái để thông qua đó
giáo viên có thể hiểu được tâm tư tình cảm cũng như nhận thức của học sinh
về một vấn đề đạo đức. Trong thực tiễn dạy môn Đạo đức, phương pháp này
thường được sử dụng ở tiết 1 sau phương pháp kể chuyện, nhằm giúp học
sinh phân tích truyện kể- nắm được đầy đủ nội dung truyện, phát hiện chính

xác các tình huống trong truyện và chỉ ra các hành vi ứng xử của các nhân vật
trong các tình huống đó và kết quả tương ứng. Từ đó, các em rút ra kết luận
về chuẩn mực hành vi cần thực hiện. Nói chung, kết luận này có thể phản ánh
ba nội dung:
+ Yêu cầu chuẩn mực hành vi đạo đức.
+ Sự cần thiết thực hiện chuẩn mực hành vi đạo đức đó.
+ Cách thực hiện chuẩn mực hành vi đạo đức đó.
Ở tiết 2 trong quá trình thực hành đàm thoại được vận dụng như là biện
pháp của các phương pháp khác khi liên hệ thực tế, nhận xét hành vi, xử lí
tình huống….
b. Phương pháp giảng giải
Phương pháp giảng giải là phương pháp giáo viên dùng lời của mình
để trình bày, giải thích, làm rõ những vấn đề liên quan đến bài học đạo đức.
Trong dạy học môn Đạo đức, giảng giải giúp học sinh hiểu được nội
dung bài học một cách cặn kẽ, sâu sắc, nắm được bản chất của chuẩn mực
hành vi. Nhờ đó các em sẽ hình thành được niềm tin đạo đức tự giác và tránh
được niềm tin “máy móc”, “mù quáng”.
Hạn chế cố hữu của phương pháp này là dễ làm cho bài học trở thành lí
thuyết khô khan, trừu tượng, kém hấp dẫn, dễ làm giảm hứng thú, tính tích
- 14 -


cực, độc lập của học sinh. Bởi lẽ, khi giảng giải, giáo viên là người làm việc
chủ yếu, còn học sinh là người nghe lời giảng đó. Do đó, vai trò của học sinh
khá thụ động. Hơn nữa, lời giảng của giáo viên thường diễn ra tương đối
nhanh, nội dung giảng giải nhiều khi mang tính khái quát cao, trong lúc đó,
khả năng tư duy trừu tượng và kinh nghiệm sống của học sinh Tiểu học còn
hạn chế. Cho nên, chất lượng dạy học không cao. Vì vậy, phương pháp này
chỉ nên được vận dụng với những bài khó với những chuẩn mực hành vi mà
đối tượng liên quan khá xa lạ với học sinh Tiểu học.

Trong thực tiễn dạy học môn Đạo đức, phương pháp này chủ yếu được
vận dụng ở tiết 1 nhằm giúp học sinh hiểu được bản chất của chuẩn mực
hành vi.
c. Phương pháp tranh luận
Phương pháp tranh luận là phương pháp hình thành cho học sinh
những phán đoán, đánh giá và niềm tin đạo đức dựa trên sự va chạm các ý
kiến, các quan điểm khác nhau, nhờ đó nâng cao được tính khái quát, tính
vững vàng và mềm dẻo của các tri thức thu được. Trong dạy học môn Đạo
đức phương pháp này thường được sử dụng tổ chức cho học sinh thảo luận
nhóm để xử lý các tình huống hay bày tỏ thái độ với một hành vi đạo đức.
Các nghiên cứu về thảo luận nhóm đã chứng minh rằng, nhờ việc thảo
luận trong nhóm nhỏ:
- Kiến thức của học sinh sẽ giảm bớt phần chủ quan, phiến diện, làm
tăng tính khách quan khoa học.
- Tri thức của các em trở nên sâu sắc, bền vững, dễ nhớ và nhớ nhanh
hơn.
- Học sinh đặc biệt là những em nhút nhát, trở nên bạo dạn hơn, các em
học được cách trình bày ý kiến của mình, biết lắng nghe có phê phán ý kiến
của bạn. Từ đó, giúp trẻ dễ hòa nhập vào cộng đồng nhóm, tạo cho các em sự
tự tin, hứng thú trong học tập và sinh hoạt…
- 15 -


Vì vậy, hiện nay, phương pháp này được vận dụng rộng rãi vào quá
trình dạy học Tiểu học. Đối với dạy học môn Đạo đức thì tổ chức thảo luận
nhóm có thể được thực hiện ở cả 2 tiết.
d. Phương pháp kể chuyện
Phương pháp kể chuyện là phương pháp dùng lời để thuật lại truyện kể
đạo đức nhằm giúp học sinh nắm được nội dung và từ đó rút ra bài học cần
thiết.

Trong những truyện kể này, một hay một số nhân vật cần giải quyết
một số tình huống đạo đức gặp phải. Cách ứng xử của nhân vật sẽ dẫn đến
những kết quả hay hậu quả nhất định theo luật nhân quả. Nếu đây là kết quả
tích cực thì học sinh rút ra bài học là: cần noi theo hành vi, việc làm tương tự.
Nếu đó là hậu quả tiêu cực thì bài học được rút ra là: cần tránh những hành
vi, việc làm đó.
Truyện kể này có thể được lấy từ vở bài tập, sách giáo khoa, sách giáo
viên môn Đạo đức hoặc từ một nguồn khác (từ đài báo, ti-vi, thực tiễn xung
quanh…).
Phương pháp này thường được vận dụng ở tiết 1 nhằm giới thiệu cho
học sinh một biểu tượng cụ thể về chuẩn mực hành vi đạo đức theo bài học.
Do đó, nó thường được tiến hành vào đầu tiết 1 sau kiểm tra bài cũ. Trong
thực tế, kể chuyện được kết hợp với trình bày trực quan. Qua sử dụng phương
pháp kể chuyện giúp học sinh hình thành niềm tin đạo đức.
e. Phương pháp đóng vai
Phương pháp đóng vai là phương pháp làm cho học sinh lĩnh hội chuẩn
mực hành vi đạo đức bằng cách thực hành, làm thử một số các ứng xử nào đó
trong một tình huống giả định. Đây là phương pháp giảng dạy nhằm giúp học
sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự kiện cụ
thể mà các em quan sát được. Sử dụng phương pháp này trong giảng dạy sẽ

- 16 -


giúp học sinh thể hiện cách ứng xử của mình với tình huống đạo đức đưa ra
từ đó các em sẽ ghi nhớ sâu sắc hơn những chuẩn mực hành vi này.
Ngoài những phương pháp trên trong dạy học môn đạo đức ở tiểu học
còn sử dụng những phương pháp dạy học riêng như phương pháp điều tra,
phương pháp rèn luyện, phương pháp trò chơi, phương pháp tập luyện theo
mẫu hành vi,…Những phương pháp này đều nhằm mục đích thông qua các

hoạt động khác ngoài giờ học trên lớp để các em tự rèn luyện bản thân trong
việc thực hiện các hành vi đạo đức.
2.5. Các hình thức tổ chức dạy hoc môn đạo đức
Hình thức tổ chức dạy học là biểu hiện bên ngoài của hoạt động phối
hợp giữa giáo viên và học sinh được thực hiện theo trình tự và chế độ xác
định. Hình thức tổ chức dạy học môn Đạo đức được vận dụng cụ thể từ
những hình thức tổ chức dạy học nói chung nhưng có những nét riêng do tính
chất của quá trình dạy học môn Đạo đức quy định.
Cũng như các môn học khác, bài lên lớp được coi là hình thức tổ chức
dạy học cơ bản, bên cạnh đó còn có hình thức tham quan, hình thức tổ chức hoạt
động ngoại khóa… cũng được vận dụng vào quá trình dạy học môn Đạo đức.
a. Bài lên lớp
Bài lên lớp môn Đạo đức giữ một vai trò quan trọng với giáo dục đạo
đức cho học sinh Tiểu học. Đó là do hoạt động chủ đạo của học sinh Tiểu học
vừa chuyển từ tuổi mẫu giáo sang tuổi nhi đồng với hoạt động chủ đạo là học
tập. Một trong những nhiệm vụ chủ yếu của của bậc Tiểu học là dạy cho học
sinh cách học. Vì vậy, bài lên lớp chính là nơi tập trung diễn ra quá trình dạy
cách học cho các em.
Bài lên lớp môn Đạo đức ở bậc Tiểu học giúp các em hiểu biết các
chuẩn mực hành vi đạo đức để từ đó có thể ứng xử trong các mối quan hệ.
Bài học về đạo đức tập trung vào một chủ điểm về đạo đức và được chia
thành 2 tiết:
- 17 -


- Tiết 1 có nhiệm vụ chủ yếu là cung cấp cho học sinh những tri thức
cơ bản về chuẩn mực hành vi đạo đức.
- Tiết 2 có nhiệm vụ chủ yếu là tổ chức cho học sinh luyện tập để hình
thành kĩ năng ứng xử, kĩ năng phê phán, đánh giá hành vi của bản thân, của
người khác phù hợp hay không phù hợp với các chuẩn mực hành vi đạo đức

đã học. Việc dạy hai tiết này có thể tiến hành ở trong lớp, ở ngoài sân trường,
vườn trường,... có thể kết hợp hình thức học theo nhóm, theo lớp, theo cá
nhân.
b. Tham quan học tập
Tham quan trong dạy học môn Đạo đức ở Tiểu học giúp cho học sinh
có điều kiện trực tiếp quan sát các sự vật, hiện tượng trong thực tiễn. Nhờ đó,
các em gắn bài học đạo đức với thực tiễn xung quanh mình, quan tâm đến
việc giải quyết những vấn đề mà cuộc sống đòi hỏi, làm cho các quá trình
nhận thức, hành động thống nhất với quá trình nhận thức của mình.
Khi tham quan học sinh có thể thực hiện những công việc cụ thể như
sau:
- Quan sát chăm chú những sự vật, hiện tượng liên quan đã được quy
định.
- Nghe báo cáo những vấn đề đã được “đặt hàng” trước.
- Ghi chép những nội dung cần thiết, nếu có điều kiện thì có thể chụp
ảnh.
- Thu thập một số hiện vật…
Sau khi tham quan nên tổ chức cho học sinh báo cáo, thảo luận, vạch
ra những chương trình cụ thể để cải thiện tình hình, thực hiện những hành vi
đạo đức cụ thể…
Một số yêu cầu sư phạm khi tổ chức cho học sinh tham quan học tập:
- Nơi tham quan phải phù hợp với tính chất bài đạo đức, hứng thú và
khả năng học tập của học sinh và nằm ở vị trí không quá xa.
- 18 -


- Quá trình tham quan phải mang lại những điều mới lạ, bổ ích, có tác
dụng giáo dục thiết thực cho học sinh, không nên tổ chức cho các em thăm
quan ở những nơi quá quen thuộc với học sinh.
- Việc tham quan cần được xác định rõ mục tiêu, nội dung, đối tượng,

địa điểm, thời gian tham quan… và phổ biến rõ kế hoạch, nhiệm vụ có thể
cho học sinh.
- Trong khi tham quan cần đảm bảo tính kỉ luật, an toàn, tạo điều kiện
cho học sinh được quan sát một cách dễ dàng.
- Thời gian tham quan cần được tính toán cho phù hợp, tránh việc kéo
dài thời gian dài gây mệt mỏi cho học sinh.
- Cần phối hợp các lực lượng giáo dục, đặc biệt là gia đình, cơ quan
chủ quản điểm tham quan… để nâng cao hiệu quả giáo dục của tham quan.
- Tránh hiện tượng ngại khó, ngại mất thời gian nên không muốn tổ
chức cho học sinh tham quan.
c. Hoạt động ngoại khóa
Hoạt động ngoại khóa trong dạy học môn Đạo đức là những hoạt động
được tổ chức vào thời gian ngoài giờ lên lớp cho học sinh nhằm giúp các em
thực hiện những hành vi, việc làm trong thực tiễn cuộc sống của mình theo
chuẩn mực hành vi đạo đức quy định. Như vậy, điều quan trọng nhất của hình
thức tổ chức này là, khi tham gia hoạt động ngoại khóa, học sinh không dừng
lại ở hình thành kĩ năng mà là rèn luyện được hành vi đạo đức đích thực.
Những hoạt động ngoại khóa được tổ chức cho các em vào thời gian
giữa các tiết Đạo đức không chỉ tại trường học mà còn tại những nơi khác
thích hợp.
Trước khi tham gia hoạt động ngoại khóa, học sinh được biết kế hoạch
một cách chi tiết - cần làm những công việc gì, ở đâu, khi nào, kết quả cần
đạt được là gì,…
- 19 -


Khi tham gia hoạt động ngoại khóa học sinh có những nhiệm vụ:
- Thực hiện những công việc, hành vi đạo đức cụ thể theo chuẩn mực
quy định.
- Ghi chép lại quá trình, công việc mình làm, kết quả, những ý kiến đề

nghị vào phiếu báo cáo…
Sau khi thực hiện xong những công việc theo yêu cầu, học sinh báo
cáo, thảo luận về quá trình tham gia hoạt động ngoại khóa trước lớp nhằm rút
ra được những điều bổ ích.
Một số yêu cầu sư phạm cần tuân theo khi tổ chức hoạt động ngoại
khóa cho học sinh là:
- Nội dung hoạt động phải phù hợp với tính chất và mục tiêu bài đạo
đức, khả năng của học sinh, điều kiện thực tế khách quan.
- Hoạt động ngoại khóa phải được tổ chức chặt chẽ
- Tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh thể hiện rõ vai trò chủ thể tích
cực trong suốt quá trình tham gia, thực hiện hoạt động ngoại khóa.
- Cần có biện pháp kiểm tra, đánh giá khách quan, kịp thời quá trình
tham gia hoạt động ngoại khóa của học sinh.
- Phối hợp và tận dụng sự hỗ trợ của gia đình và các tổ chức xã hội để
nâng cao hiệu quả giáo dục của hoạt động ngoại khóa.
- Tránh hiện tượng ngại khó, ngại vất vả nên không tổ chức hoạt động
ngoại khóa cho học sinh.
3. MÔN ĐẠO ĐỨC LỚP 2 VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO
HỌC SINH LỚP 2
Môn Đạo đức có một vị trí đặc biệt quan trong trong nhà trường Tiểu
học bởi lẽ, chức năng của nó là giáo dục đạo đức cho học sinh Tiểu học với hệ
thống chuẩn mực hành vi đạo đức được quy định trong chương trình môn học
này.
- 20 -


Đối với học sinh lớp 2 thì môn Đạo đức lại càng chiếm vị trí quan trọng
mà không một môn học nào có thể thay thế. Ở lớp 2 các em vẫn còn đang
trong giai đoạn chuyển hoạt động từ chơi sang học, tư duy còn nặng về cảm
tính, độ bền của sức chú ý còn ít, dễ chán, chóng thuộc song lại mau quên.

Tuy nhiên, nhận thức của các em có phần phát triển hơn ở lớp 1 và bắt đầu
quen dần với nền nếp học tập, lao động, vui chơi, sinh hoạt trong nhà trường.
Vì vậy mà phạm vi chương trình môn học Đạo đức của các em ở lớp 2 có
phần mở rộng hơn.
Môn Đạo đức lớp 2, cung cấp cho các em các tri thức đạo đức về quan
hệ với bản thân, qua các bài: “học tập, sinh hoạt đúng giờ”; “gọn gàng, ngăn
nắp”; “biết nhận lỗi và sửa lỗi”, các em được học cách làm việc theo giờ giấc,
biết thế nào là đúng giờ, thế nào là gọn gàng, ngăn nắp. Ngoài ra, các em còn
học cách nhận lỗi khi mắc lỗi và sửa lỗi của mình.
Môn Đạo đức lớp 2 cung cấp cho các em các tri thức đạo đức về quan
hệ với người khác. Qua các bài : “quan tâm giúp đỡ bạn bè”; “trả lại của rơi”;
“biết nói lời yêu cầu đề nghị”; “lịch sự khi nhận và gọi điện thoại”; “lịch sự
khi đến nhà người khác”; “giúp đỡ người khuyết tật”, giúp học sinh biết cần
phải đoàn kết quan tâm giúp đỡ bạn bè, những người có hoàn cảnh khó khăn
và biết cách thể hiện sự quan tâm đó như thế nào. Giúp học sinh hiểu thế nào
là lịch sự khi nói lời yêu cầu, đề nghị, biết lịch sự khi nhận và gọi điện thoại,
khi đến nhà người khác.
Môn Đạo đức lớp 2 cung cấp cho các em tri thức đạo đức về mối quan
hệ hàng ngày. Qua các bài : “chăm làm việc nhà”; “chăm chỉ học tập”; “giữ
gìn trường lớp sạch đẹp”. Từ đó, giúp học sinh nắm được cần phải làm những
việc trong gia đình phù hợp với sức của mình để giúp đỡ ông, bà, cha, mẹ,
biết vệ sinh trường lớp sạch đẹp và cần có ý thức tự giác trong việc học tập
thường ngày và trong lao động.
- 21 -


×