Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Thực trạng và giải pháp hạnchế rủi ro trong phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.42 KB, 48 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Sự phát triển của thương mại quốc tế ngày càng được mở rộng khắp các quốc gia
trên thế giới. Đây là vấn đề nóng bỏng nằm trong chiến lược phát triển kinh tế không chỉ
ở các nước có thế lực mà còn ở các nước đang và chậm phát triển. Xu hướng khu vực
hoá, toàn cầu hoá bùng nổ buộc các ngân hàng thương mại phát triển các dịch vụ kinh tế
đối ngoại một cách tương ứng, trong đó không thể không kể đến hoạt động thanh toán
quốc tế với nhiều phương thức đa dạng và phong phú.
Trong các phương thức thanh toán quốc tế, tín dụng chứng từ tỏ ra là phương thức
ưu việt hơn hẳn và được sử dụng phổ biến trong thanh toán quốc tế. Tại Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Quân đội, sự mở rộng và phát triển các lĩnh vực về nghiệp vụ thanh
toán đã tạo tiền đề cho phương thức này đã, đang và sẽ được Ngân hàng Thương mại Cổ
phần Quân đội coi như một công cụ đắc lực trong việc đáp ứng ngày một tốt hơn mọi nhu
cầu đặt ra trong quá trình mở cửa nền kinh tế đất nước.
Tuy nhiên, tín dụng chứng từ không phải là một nghiệp vụ đơn giản, nó tiềm ẩn
không ít rủi ro gây thiệt hại cả về tài chính lẫn uy tín cho các bên tham gia. Thực tiễn
nghiên cứu hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân
hàng Thương mại Cổ phần Quân đội cho thấy việc đưa ra các giải pháp hữu hiệu nhằm
phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong phương thức tín dụng chứng từ là một yêu cầu cấp
bách.
Với mong muốn góp một phần nhỏ vào công tác phòng ngừa và hạn chế rủi ro
trong thanh toán tín dụng chứng từ, em đã chọn đề tài : “ Thực trạng và giải pháp hạn
chế rủi ro trong phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Quân đội” cho báo cáo thực tập của mình.
Báo cáo thực tập gồm ba chương:
Chương I : Khái quát về Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội
Chương II : Thực trạng rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng
chứng từ tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đôi
1


Chương III : Các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong phương thức tín dụng chứng


từ tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội
Do hạn chế về kiến thức, thời gian và kinh nghiệm thực tế, báo cáo thực tập không
thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong được sự quan tâm, góp ý của các
thầy cô giáo và các bạn để báo cáo thực tập này hoàn thiện và có ý nghĩa hơn nữa.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị Hồng - khoa Kinh tế và Kinh
doanh quốc tế - trường Đại học Ngoại Thương, cám ơn các cán bộ tại Phòng Thanh toán
quốc tế- Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội đã giúp đỡ và hướng dẫn em hoàn
thành báo cáo thực tập này.

2


CHƯƠNG I:
KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI
CƠ CẤU TỔ CHỨC

3


I. Quá trình hình thành và phát triển
Ngân hàng TMCP Quân Đội (NHQĐ) trụ sở chính toạ lạc tại số 3 Liễu Giai, Ba
Đình, Hà Nội, trải qua 13 năm hoạt động, NHQĐ luôn khẳng định vị trí dẫn đầu trên thị
trường tài chính ngân hàng Việt Nam. Giữ vững phương châm hoạt động “ Vững vàngtin cậy”, bên cạnh việc gắn bó với khối khác hàng truyền thống, NHQĐ không ngừng
mở rộng cung cấp các sản phẩm dịch vụ đến mọi đối tượng khách hàng thuộc nhiều thành
phần kinh tế và góp sức vào nhiều công trình lớn của đất nước như nhà máy Thủy điện
Hàm Thuận-Đa Mi, cảng Hàng không Nội Bài, Tân Sơn Nhất…
Tính đến ngày cuối năm 2007, vốn điều lệ của NHQĐ đạt 1.045 tỷ đồng, tăng hơn
50 lần so với ngày đầu thành lập, trong đó có hơn 4.000 cổ đông pháp nhân và thể nhân,
thể hiện sự đa dạng hoá trong sở hữu của ngân hàng. Huy động vốn tính đến ngày
31/12/2007 đạt 11.200 tỷ đồng, trong đó vốn huy động từ dân cư ngày càng tăng, chiếm

50% tỷ lệ nguồn vốn huy động, vượt kế hoạch của cả năm là 20%. Lợi nhuận trước thuế
đạt 252 tỷ đồng, vượt 25% kế hoạch. Tổng tài sản đạt 13.864 tỷ đồng, tăng 69% so với
năm 2006, dư nợ đạt xấp xỉ 6.200 tỷ đồng. Tỷ lệ lợi tức trên vốn cổ phần của NHQĐ luôn
dẫn đầu trong khối các ngân hàng TMCP. Đặc biệt, tỷ lệ chia cổ tức cho cổ đông năm
2007 là 60% trong đó 42% được chia bằng cổ phiếu và 18% được chia bằng tiền mặt.
Hiệu quả hoạt động của NHQĐ luôn được các cơ quan quản lý, đối tác cũng như
khách hàng đánh giá cao. Liên tục được Ngân hàng Nhà nước xếp hạng A và trao tặng
nhiều bằng khen cho những thành tích suất sắc; nhiều năm liền nhận được các giải
thưởng thanh toán quốc tế do các ngân hàng uy tín quốc tế trao tặng như HSBC, Standard
Chatered Baank, UBOC; đạt cúp vàng Top ten thương hiệu Việt, ngân hàng : Ngân hàng
– tài chính năm 2006;… và nhiều giải thưởng có uy tín, giá rị khác.
Các sản phẩm dịch vụ của NHQĐ không ngừng được đa dạng hoá theo hướng
hoàn thiện và phát huy dịch vụ truyền thông kết hợp với phát triển các dịch vụ hiện đại
như, hệ thống thanh toán qua thẻ, Mobile Banking, Internet Banking. Dịch vụ của ngân
hàng liên tục được cải thiện, mang lại cho khách hàng không những hiệu quả cao về tài
chính mà còn cả sự yên tâm tuyệt đối.
Song song với việc nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, NHQĐ đặc biệt chú
trọng mở rộng mạng lưới kênh phân phối tại các khu vực kinh tế trọng điểm của các
nước. Hiện nay, ngân hàng đang có 40 điểm giao dịch trên khắp đất nước, đặt quan hệ
đại lý với gần 600 ngân hàng trên thế giới để hợp tác cung cấp các dịch vụ ngân hàng
toàn cầu. Dự kiến đến cuối năm 2007, mạng lưới chi nhánh của NHQĐ sẽ tăng lên con
số 65.

4


Nhận thức được chất lượng đội ngũ nhân viên chính là sức mạnh của ngân hàng,
hàng năm, hàng ngàn lượt cán bộ, nhân viên chủ chốt của ngân hàng đã được cử đi đào
tạo trong và ngoài nước. Trong vòng từ năm 2005 đến đầu năm 2007, gần 600 cán bộ,
nhân viên đã được NHQĐ tuyển dụng vào làm việc tại ngân hàng. Bởi vậy, hiện nay

hơn 1.000 cán bộ, nhân viên đang cống hiến và làm việc tại ngân hàng với những chính
sách, chế độ đãi ngộ thoả đáng. Dự kiến đến cuối năm 2007, con số này sẽ tăng lên 5060%.
Cùng với số lượng nhân viên trẻ, dồi dào và có chuyên môn hoá cao, NHQĐ đang
phát triển trở thành ngân hàng đa năng với việc thành lập các công ty chứng khoán
Thăng Long, Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, Công ty Quản lý quỹ đầu tư Hà
nội, tham gia góp vốn đầu tư các công ty trực thuộc đã hoạt động hiệu quả, có lợi nhuận
và tạo lập được uy tín trên thị trường. Công tác quản trị rủi ro được đặt lên hàng đầu
nhằm đưa ra các giải pháp tổng thể để giảm thiểu rủi ro không chỉ cho Ngân hàng mà
cho cả khách hàng. NHQĐ luôn đảm bảo tỷ lệ an toàn theo tiêu chuẩn quốc tế và tỷ lệ
nợ xấu ở mức hợp lý.
Kế thừa bản lĩnh và đạo đức của người lính, mỗi nhân viên thuộc đại gia đình
Ngân hàng Quân Đội đang quyết tâm và đồng lòng hướng tới mục tiêu phát triển ngân
hàng trở thành một trong những ngân hàng TMCP hàng đầu tại Việt Nam, trở thành
một đối tác tin cậy, an toàn và trung thực, đem lại lợi ích tối đa cho khách hàng thông
qua việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng tiện ích và ưu việt, cung cấp các sản phẩm đa
dạng, luôn cải tiến phù hợp theo xu thế thị trường và yêu cầu ngày càng cao của khách
hàng.
II. Chiến lược hoạt động của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội đến năm
2015
Tiến trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới mở rộng cơ hội phát triển
kinh tế của Việt Nam, đồng thời cũng tạo ra những thách thức mới cho các doanh nghiệp
Việt Nam nói chung và cho NHQĐ nói riêng. Việc cổ phần hoá ngày càng tăng nên mảng
thị trường kinh doanh truyền thống của NHQĐ là các doanh nghiệp quân đội, doanh
nghiệp quốc doanh lớn đang đứng trước khả năng bị chia sẻ với các ngân hàng, định chế
tài chính khác. Sự hội nhập và sức cạnh tranh mãnh liệt giữa các định chế tài chính buộc
các ngân hàng thương mại nói chung và NHQĐ nói riêng phải thay đổi định hướng chiến
lược và phát triển các nguồn lực để tăng năng lực cạnh tranh và phát triển thị trường. Bên
cạnh đó, sức ép của các cơ quan quản lý như Ngân hàng Nhà nước, Bộ tài chính và các
cổ đông đòi hỏi NHQĐ phải phấn đấu không ngừng để phát triển bền vững.


5


Chiến lược kinh doanh mới nhằm tiếp tục đưa NHQĐ trở thành một ngân hàng
độc lập trong tiến trình phát triển kinh tế và tự do hoá trong lĩnh vực dịch vụ tài chính ở
Việt Nam. Thực tế cho thấy chỉ có những ngân hàng hàng đầu mới có thể tiếp tục tồn tại
độc lập, đứng vững trên thị trường ngày càng cạnh tranh gay gắt. Vì vậy, NHQĐ phải hết
sức nỗ lực để đạt được mục tiêu Hội đồng quản trị đã đề ra đến năm 2015.
Định hướng chiến lược mới với những thị trường mục tiêu mới kéo theo sự thay đổi
về đối tượng phục vụ và sản phẩm phục vụ của NHQĐ. Bên cạnh việc duy trì và nâng
cao chất lượng cho nhóm khách hàng cá nhân, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, NHQĐ chủ
động hướng tới nhóm thị trường mới, sử dụng các dich vụ chứng khoán, kinh doanh tiền
tệ, ngoại hối và các thị trường mới nổi như sau:
- Thay đổi về phương thức quản lý nguồn nhân lực: Các nguồn nhân lực của NHQĐ
phải được phát triển tương xứng. Các nguồn lực vốn, công nghệ và nhân sự sẽ được quản
lý tập trung tại Hội sở chính để nâng cao hiệu quả sử dụng và phát triển nguồn lực. Các
cán bộ, nhân viên ngân hàng phải đáp ứng cao hơn yêu cầu về năng lực, trình độ, kỹ năng
cho từng đơn vị công tác.
- Thay đổi về quy trình tác nghiệp: NHQĐ tiến hành thay đổi mô hình tổ chức cho
phù hợp với chiến lược kinh doanh mới, kéo theo sự thay đổi về chức năng, nhiệm vụ,
quy trình tác nghiệp và cách thức quản lý đối với từng sản phẩm, dịch vụ cung ứng.
- Thay đổi về cách thức quản lý rủi ro: Định hướng mới, thị trường mới và những
đặc thù trong hoạt động kinh doanh buộc NHQĐ phải xây dựng một năng lực quản trị đủ
mạnh để quản lý các yếu tố rủi ro lãi xuất, rủi ro tỷ giá, rủi ro tín dụng,… NHQĐ hình
thành các uỷ ban thay mặt Hội đồng quản trị ban hành các chính sách, quy trình và các
hạn mức rủi ro. Các uỷ ban rủi ro nhân được sự giúp đỡ cần thiết từ cơ quan quản lý
nghiệp vụ đặt tại Hội sở.
- Đối với hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu, NHQĐ sẽ hoàn thiện các sản phẩm
hiện có, phát triển các sản phẩm mới, hợp tác hoá quá trình tác nghiệp, nâng cấp và ứng
dụng công nghệ thông tin hiện đại. NHQĐ tiến hành mở rộngdanh mục sản phẩm bằng

việc hoàn thiện và phát triển các sản phẩm hiện có , đặc biệt là các dịch vụ về thanh toán
xuất nhập khẩu, hoạt động tín dụng và mua bán tiền tệ….
- Phát triển thị trường vừa và nhỏ: Xác định rõ và nhắm tới các ngành kinh tế có tốc
độ tăng trưởng cao và ổn định dựa trên sản lượng hàng năm của Việt Nam. NHQĐ phấn
đấu trong thời gian tới, mỗi cán bộ dịch vụ khách hàng quản lý từ 100-120 khách hàng.
Xem xét lại quy trình phê duyệt để rút ngắn thời gian giao dịch khách hàng.

6


- Trong giai đoạn 2010-2015, NHQĐ sẽ tiếp tục đẩy mạnh huy động vốn từ dân cư
và các tổ chức kinh tế , nghiên cứu triển khai thêm các sản phẩm huy động và tăng cường
truyền bá hình ảnh ngân hàng. Đối với hoạt động tín dụng, ngân hàng sẽ tiếp tục giữ mối
quan hệ với ngân hàng truyền thống và đa dạng hoá các loại hình cho vay, trong đó đẩy
mạnh cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

7


CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG
THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
QUÂN ĐỘI
I.Tình hình hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.
1. Hoạt động thanh toán quốc tế nói chung.
Phòng thanh toán quốc tế của NHQĐ được thành lập vào ngày 15/01/1996 theo
quyết định số 37/NH-QĐ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trải qua gần 10 năm hoạt
động, công tác thanh toán quốc tế của NHQĐ đã thu được những thành tựu nhất định.
Từ khi mới thành lập, NHQĐ đã tiến hành các giao dịch ngoại tệ, nhưng hoạt động
lúc đó chỉ mang tính chất phục vụ khách hàng là chính, chưa mang tính kinh doanh. Đến

những năm gần đây, công tác thanh toán quốc tế của NHQĐ ngày càng được mở rộng,
phát triển cả về số lượng và chất lượng.Từ chỗ chỉ có có thanh toán L/C và chuyển tiền,
đến nay NHQĐ đã có thêm nhiều hình thức khác nhau như: chi trả kiều hối, bảo lãnh,
thanh toán thẻ,… Phí thu được từ dịch vụ thanh toán quốc tế đã góp phần không nhỏ vào
kết quả kinh doanh chung của Ngân hàng. Chúng ta có thể thấy điều này thông qua bảng
số liệu sau:
Bảng 1: Phí thu từ hoạt động thanh toán quốc tế trong tổng thu nhập của
NHQĐ (2003- 2008)
Đơn vị tính: tỷ VNĐ
Thu từ nghiệp vụ thanh
Tỷ trọng (%)
toán quốc tế
2003
72.46
6.40
8.83
2004
82.99
10.40
12.53
2005
93.04
1.72
1.84
2006
252.26
11.46
10.20
2007
283.46

24.17
8.50
2008(QuýI)
102.08
8.79
8.60
(Nguồn số liệu: Báo cáo của Phòng Thanh toán quốc tế, NHQĐ)
Năm

Tổng thu nhập

Nhìn vào bảng trên ta thấy, phí thu được từ dịch vụ thanh toán quốc tế có xu hướng
ngày càng tăng trong những năm gần đây, đặc biệt trong giai đoạn 2006- 2008. Mặc dù
Phòng thanh toán mới đi vào hoạt động nhưng phí dịch vụ thanh toán xuất nhập khẩu
tương đối cao, năm 2003 đạt 6.4 tỷ đồng, chiếm 8.83% tổng thu nhập. Đến năm 2005,

8


tổng thu nhập giảm mạnh còn 1.72 tỷ VNĐ, chiếm 1.8% tổng thu nhập. Do đây là thời kỳ
nền kinh tế thế giới và trong nước có nhiều biến động, ảnh hưởng bất lợi đến nền kinh tế
và hệ thống ngân hàng Việt Nam. Tỷ giá USD/VND trong thời kỳ này biến động rất
mạnh ảnh hưởng tới việc cung ứng ngoại tệ và mở L/C cho khách hàng.
Tuy nhiên, đến giai đoạn 2006 - 2008, hoạt động thanh toán quốc tế của NHQĐ đã
phục hồi nhanh chóng, phí thu được từ hoạt động này tăng mạnh (năm 2006 đạt 11.46 tỷ
đồng, tăng chiếm 10.2% tổng thu nhập) Đó là nhờ vào chính sách khách hàng của NHQĐ
có thay đổi từ chỗ tập trung chủ yếu vào các doanh nghiệp, bạn hàng truyền thống là các
doanh nghiệp quân đội sang phục vụ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đến năm 2007 thu
nhập từ hoạt động thanh toán quốc tế tăng cao với 24.17 tỷ VNĐ, đây là kết quả cố gắng
nỗ lực của NHQĐ và rất đáng được khích lệ để nâng cao hơn nữa chất lượng phục vụ và

uy tín của ngân hàng.
Hiện nay NHQĐ có khối lượng khách hàng lớn có quan hệ thanh toán quốc tế, trong
đó đặc biệt có nhiều khách hàng lớn thuộc các bộ,nghành khác nhau: Bộ Quốc phòng, Bộ
Thương mại, Bộ Xây dựng, Bưu chính viễn thông,… và các khách hàng truyền thống,
gắn bó khăng khít với Ngân hàng như Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp Vạn Xuân, Công
ty điện tử viễn thông quân đội, Công ty xăng dầu quân đội, Công ty Intimex, Unimex (Bộ
Thương mại)
Mặc dù ngân hàng thương mại chưa có bề dày kinh nghiệm trong nghiệp vụ thanh
toán quốc tế, song với chính sách khách hàng hợp lý, cộng với sự phục vụ nhiệt tình, chu
đáo của đội ngũ cán bộ chuyên môn nên số lượng khách hàng tới giao dịch tại NHQĐ
ngày càng tăng và uy tín của Ngân hàng ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.
Cũng như các ngân hàng thương mại khác, NHQĐ có ba phương thức thanh toán quốc tế
được áp dụng phổ biến, đó là: phương thức tín dụng chứng từ, nhờ thu và chuyển tiền.
Bảng 2: Tỷ trọng các phương thức thanh toán quốc tế tại NHQĐ (2004-2008)
Đơn vị tính: Triệu USD
Tín dụng chứng từ
Nhờ thu
Chuyển tiền
Năm
Tổng thu
Trị giá
%
Trị giá
%
Trị giá
%
2004
663.98
358.55
54

9.96
1.5
295.47
45
2005
72.87
36.27
50
1.02
1.4
35.58
49
2006
620.07
325.03
53
26.68
4.3
263.23
43
2007
1750.21 1039.02
59
31.14
1,8
660.17
38
2008(Quý I)
477.96 279.315
58

12.77
2.7
185.87
39
( Nguồn số liệu: Báo cáo của phòng Thanh toán quốc tế, NHQĐ)
Năm 2003, để đa dạng hóa dịch vụ ngân hàng đáp ứng nhu cầu khách hàng, NHQĐ
đã đưa phương thức nhờ thu vào sử dụng trong thanh toán quốc tế. Do mới được đưa vào
sử dụng nên giá trị thanh toán theo phương thức này còn nhỏ, tuy nhiên đến năm 2004
9


đạt 9.96 triệu USD và chiếm 1.5% tổng thu. Giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu thanh toán
qua ngân hàng liên tục tăng trong 4 năm 2006-2008. Tổng kim ngạch quốc tế đạt 620.07
triệu USD vào năm 2006 và hoàn thành xuất sắc kế hoạch đặt ra. Tất cả các giao dịch,
thanh toán đều được thực hiện đúng thời hạn và tuân thủ phong tục tập quán quốc tế.
Trong đó, phương thức thanh toán L/C chiếm một tỷ trọng khá cao, luôn chiếm trên 50%
tổng thu từ hoạt động thanh toán quốc tế. Bên cạnh đó, trong năm 2007 là năm NHQ mở
rộng hoạt động với doanh nghiệp vừa và nhỏ nên số lượng thanh toán chuyển tiền mạnh
so với năm 2006 (đạt 660.17 triệu USD, và chiếm 38% tổng thu từ hoạt động thanh toán
quốc tế).
Về công nghệ, ban đầu NHQĐ thực hiện việc mở L/C, chuyển tiền bằng telex nên
các giao dịch thường bị chậm trễ không đáp ứng nhu cầu về quy mô hoạt động ngày càng
tăng. Đến đầu năm 2001, NHQĐ đã tham gia mạng SWIFT (mạng viễn thông tài chính
liên ngân hàng toàn cầu) giúp cho việc gửi và nhận các bức điện nhanh chóng và an toàn.
Đến nay, gần 100% bức điện trong thanh toán quốc tế của NHQĐ được thực hiện thông
qua mạng SWIFT, còn Telex và thư chỉ sử dụng trong trường hợp ngân hàng liên quan
chưa tham gia mạng này và cho một số ít các giao dịch với các ngân hàng trong nước.
Kết quả đạt được trong thanh toán quốc tế đã góp phần đưa NHQĐ trở thành một
trong những ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu Việt Nam. Điều này đã tạo một
điều kiện cho NHQĐ mở rộng và phát triển các loại dịch vụ khác, trở thành một ngân

hàng đa năng như mục tiêu đã đề ra của Hội đồng quản trị.
2. Hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.
Như trên đã phân tích, L/C là một phương thức thanh toán có nhiều ưu điểm so với
các phương thức khác nên nó được áp dụng rất phổ biến trong thanh toán quốc tế. Trong
thời gian qua, tại NHQĐ, tín dụng chứng từ cũng là phương thức được sử dụng nhiều
trong thanh toán hàng hóa xuất nhập khẩu, bình quân chiếm khoản trên 50% doanh thu từ
hoạt động thanh toán quốc tế.

Bảng 3: Tỷ trọng L/C xuất nhập khẩu và nhập khẩu tại NHQĐ (2004-2008)
10


Đơn vị tính: triệu USD
L/C nhập khẩu
Năm

Tổng số tiền

Trị giá

Tỷ lệ

L/C xuất khẩu
Trị giá

Tỷ lệ

2003

149.33


172.95

89%

21.38

11%

2004

358.55

311.94

87%

46.61

13%

2005

36.27

35.32

97%

0.95


3%

2006

325.03

313.05

96%

11.98

4%

2007

1039.02

1011.72

97%

27.29

2008(Quý I)

3%

279.31

240.12
86%
39.19
(Nguồn số liệu: Báo cáo của Phòng Thanh toán quốc tế, NHQĐ)

14%

Qua bảng số liệu trên ta thấy, lượng L/C nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn, luôn luôn
trên 86% doanh số thanh toán xuất nhập khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ. Cơ
cấu nhập khẩu qua các năm chủ yếu là các mặt hàng chiến lược, đặc biệt trong lĩnh vực
quốc phòng. Những mặt hàng này có xu hướng tăng đều, giá trị cao nên giá trị thanh toán
L/C nhập khẩu qua NHQĐ chiếm tỷ trọng rất lớn (đạt 311.94 triệu USD năm 2004, tăng
80.38% so với năm 2003 và chiếm 87% tổng giá trị thanh toán theo L/C).
Năm 2007 giá trị L/C nhập khẩu tăng gần gấp 3 lần giá trị L/C năm trước đạt giá trị
1011.72 triệu USD và chiếm 97% tổng giá trị thanh toán theo L/C.
Tỷ trọng của L/C xuất nhập khẩu tuy vẫn thấp nhưng đã tăng lên một mức đáng kể.
Đặc biệt, năm 2007, giá trị L/C xuất khẩu chỉ đạt 27.29 triệu USD, chiếm 3% thì con số
này đã tăng thành 39.19 triệu USD, chiếm 14% tổng giá trị thanh toán L/C xuất nhập
khẩu vào quý I năm 2008. Sự tăng trưởng đó là do trong giai đoạn này, tỷ giá USD/VND
duy trì ở mức cao.
Việt Nam là nước nhập siêu nên việc mất cân đối giữa doanh số L/C nhập khẩu và
L/C xuất khẩu là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, sự mất cân đối như ở NHQĐ là quá
lớn. Điều này đã gây nhiều khó khăn cho việc cân đối nguồn ngoại tệ, ảnh hưởng lớn đến
hoạt động thanh toán quốc tế. Mặc dù trong những năm qua, NHQĐ đã có những cố gắng
lớn trong việc làm giảm tỷ lệ mất cân đối này song vẫn cần phải nỗ lực hơn nữa để thúc
đẩy L/C xuất khẩu phát triển.
II. Những rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.

11



Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ kể từ khi ra đời đã tỏ ra có nhiều ưu
điểm hơn hẳn so với các phương thức thanh toán khác. Đó là một tiến bộ của hoạt động
kinh doanh, nó tạo cho người bán và người mua một thế tương quan tương đối bình đẳng.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là phương thức này không hàm chứa rủi ro. Rủi ro rất
đâ dạng, muôn hình muôn vẻ và nguyên nhân gây ra chúng cũng rất phức tạp do giao
dịch tín dụng chứng từ diễn ra trong môi trường kinh doanh quốc tế đầy biến động.
Để nghiên cứu thực trạng rủi ro trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ tại
NHQĐ, báo cáo thực tập tập trung phân tích rủi ro trong hai loại L/C phổ biến: L/C trả
ngay và L/C trả chậm. Do tính chất khác nhau về thời gian thanh toán nên rủi ro xảy ra
trong hai loại L/C này có sự khác biết nhất định.
1. Rủi ro theo phương thức tín dụng chứng từ trả ngay
* Rủi ro tín dụng
Các doanh nghiệp Việt Nam tìm đến NHQĐ chủ yếu để vay vốn mở L/C nhập khẩu
máy móc thiết bị, nguyên nhiên liệu, hàng hóa hay vay để làm hàng xuất khẩu.NHQĐ
luôn là người cấp tín dụng cho các doanh nghiệp, điều này thể hiện thông qua tỷ lệ miễn
ký quỹ khá cao mà ngân hàng áp dụng cho các khách hàng của mình. Có doanh nghiệp
được NHQĐ cho vay tới 100% trị giá L/C. Một số dùng vốn tự có nhưng cũng chỉ phải
ký quỹ một phần, phần còn lại được thành lập với mục đích phục vụ các doanh nghiệp
quốc phòng nên các doanh nghiệp này thường được hưởng mức miễn ký quỹ 100%.
Đây là lợi thế cạnh tranh của Ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng
nhưng rủi ro xảy ra là điều khó tránh khỏi. Nếu trong quá trình thực hiện hợp đồng, do
những điều kiện khách quan như sự biến động của giá cả hàng hóa, tỷ lệ giá ngoại tệ, lãi
suất ngân hàng, chính sách thuế,… và do bản thân doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu
quả, làm ăn thua lỗ, dẫn đến mất khả năng thanh toán, thậm chí phá sản sẽ gây ảnh hưởng
nặng nề và lâu dài đến hoạt động chung của Ngân hàng.
Đối với các L/C dùng vốn có ký quỹ dưới 100% thì nhiều khách hàng có phương
án kinh doanh khả thi nhưng do trình độ quản lý luồng tiền không tốt nên khi đến hạn
thanh toán, bộ chứng từ đã được xuất trình tại Ngân hàng phát hành nhưng khách hàng
không có đủ tiền thanh toán và buộc NHQĐ phải cho vay bắt buộc. Trong những trường

hợp như vậy, Ngân hàng mất rất nhiều chi phí điện thoại, thời gian,… để đôn đốc , theo
dõi,làm việc với khách hàng để thanh toán cho nước ngoài. Các L/C mở bằng vốn ngân
sách rất đảm bảo về khả năng trả nợ nhưng lại rất rủi ro về khả năng thanh toán đúng hạn
vì một thực trạng hiện nay, để rút vốn từ ngân sách thường mất nhiều thủ tục, thời gian

12


mà Ngân hàng phát hành chỉ có 07 ngày làm việc kể từ ngày nhậnchừng từ để kiểm tra và
tiến hành thanh toán.
Chúng ta có thể thấy phần nào tình trạng rủi ro tín dụng tại NHQĐ thông qua bảng
số liệu sau về dư nợ cho vay xuất khẩu tại NHQĐ:
Bảng 4: Dư nợ cho vay xuất nhập khẩu tại NHQĐ (2004-2007)
Đơn vị: tỷ VNĐ
Chỉ tiêu

2004

2005

2006

2007

Dư nợ

198.8

426.6


718.2

1020.5

Quá hạn

3.5

7.0

5.0

5.12

%

1.7

1.6

0.70

0.50

(Nguồn số liệu: Báo cáo của Phòng thanh toán quốc tế, NHQĐ)
Qua bảng số liệu trên ta thấy, số nợ quá hạn cho vay xuất nhập khẩu của NHQĐ đã
giảm qua các năm. Năm 2004, tỷ trọng quá hạn còn chiếm tỷ lệ cao (1,76%) trong tổng
dư nợ cho vay xuất nhập khẩu, thì đến những năm 2005-2007 tỷ lệ này giảm xuống rõ rệt
(đặt biệt năm 2007 còn 0.50%). Điều này chứng tỏ rủi ro tín dụng tại NHQĐ đã có chiều
hướng giảm sút qua các năm.

*Rủi ro đạo đức
Thanh toán quốc tế là lĩnh vực Việt Nam còn rất ít kinh nghiệm so với thế giới nên
đây là một rủi ro đáng kể. Trong phương thức L/C, việc thanh toán chỉ dựa trên cơ sở
chứng từ, không căn cứ vào thực tế giao hàng và các giao dịch khác có liên quan. Khách
hàng nước ngoài thường lợi dụng khe hở này để tiến hành lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài
sản của Ngân hàng phát hành, người nhập khẩu hoặc cố tình trì hoãn thanh toán. Dưới
đây là 3 trường hợp điển hình về rủi ro đạo đức mà NHQĐ đã gặp phải trong những năm
qua:
Trường hợp1: Người xuất khẩu kết hợp với hãng tàu phát hành hai bộ vận đơn cho
một lô hàng để lừa Ngân hàng phát hành. NHQĐ phát hành L/C nhập khẩu xe ôtô cũ với
trị giá 21.400 USD cho Kook Dong International hưởng. NHQĐ nhận được bộ chứng từ
nhờ thu D/P (gồm 3/3 vận đơn gốc) trị giá: 21.400 USD từ Ngân hàng Kookmin, Hàn
Quốc, người gửi là công ty KookDong International. Công ty nhập khẩu Việt Nam đã
chấp nhận thanh toán cho bộ chứng từ nhờ thu và đi nhận hàng. Sau đó, bộ chứng từ trị

13


giá lô hàng 17.600 USD được xuất trình tại NHQĐ theo L/C trên. NHQĐ đã kiểm tra và
thấy bộ chứng từ còn sai sót. Người nhập khẩu đã từ chối không nhận chứng từ và xin
giải phóng tiền ký quỹ. Tại thời điểm này, ô tô cũ của Hàn Quốc đang bán rất chạy trên
thị trường Việt Nam. Thấy có điểm nghi ngờ, NHQĐ tiến hành tìm hiểu và được biết
người nhập khẩu đã nhận hàng theo bộ chứng từ nhờ thu với số vận đơn và nội dung của
vận đơn hoàn toàn trùng với vận đơn của L/C. NHQĐ nhận được điện từ Ngân hàng
Kookmin Bank yêu cầu chuyển lại bộ chứng từ theo L/C với điều kiện “NHQĐ phải đảm
bảo chắc chắn là hàng chưa được giao cho bất cứ ai”. Điều này hoàn toàn trái với điều
4UCP-600 là Ngân hàng chỉ giao dịch trên chứng từ. NHQĐ đã đại diện chi Kookmin
Banhk yêu cầu người hưởng lợi trả toàn bộ chi phí liên quan đến việc chuyển trả lại
chứng từ và không chịu trách nhiệm về hàng hóa được ghi trên vận đơn. Như vậy, người
xuất khẩu và người chuyên chở ( Deawoo Line) đã có hành động lừa đảo thông qua việc

phát hành 6 bản vận đơn gốc cho lô hàng thay vì 3/3 bản vận đơn gốc n hư đã ghi trên bề
mặt của vận đơn. Trong trường hợp này, nếu bộ chứng từ được xuất trình hoàn hảo thì
NHQĐ đã phải thanh toán cho người xuất khẩu.
Trường hợp 2: Người xuất khẩu lừa ngân hàng mở hai L/C cho một hợp đồng.
Người hưởng lợi L/C – Công ty Yibin Chemical Co.Ltd, Trung Quốc lấy lý do nhận được
L/C gốc quá chậm nên không kịp giao hàng và fax đề nghị người nhập khẩu hủy L/C thứ
nhất (đã được thông báo qua Ngân hàng ABN AMRO, Trung Quốc), đồng thời mở ngay
L/C thứ thông báo qua ngân hàng Standard Chartered Bank, Trung Quốc để kịp giao
hàng. Do nhu cầu gấp về hàng hóa, người nhập khẩu yêu cầu NHQĐ hủy L/C cũ và phát
hành L/C mới. NHQĐ đã yêu cầu người hưởng lợi xác nhận việc hủy L/C qua ngân hàng
ABN AMRO nhưng không nhận được hồi âm. Khoảng 15 ngày sau, NHQĐ nhận được
bộ chứng từ hoàn hảo xuất trình theo L/C thứ nhất (L/C mà NHQĐ đã đề nghị
hủy).NHQĐ đã phải thanh toán bộ chứng từ vì theo UCP-600 người hưởng lợi đã không
chấp nhận hủy L/C. Như vậy, NHQĐ đã có hai cam kết thanh toán cho người xuất khẩu
trên cùng một lượng ký quỹ.
Trường hợp 3: NHQĐ đã phát hành bảo lãnh nhận hàng cho công ty A. Khi bộ
chứng từ được xuất hành cho NHQĐ, bộ chứng từ có sai sót thay vì xuất trình vận đơn
gốc, người hưởng lợi đã xuất trình bản copy. Người hưởng lợi thông báo mất vận đơn
gốc và nhiều lần gây sức ép yêu cầu NHQĐ thanh toán bộ chứng từ vì đã phát hành bảo
lãnh nhận hàng. Tuy nhiên , NHQĐ quyết định từ chối thanh toán và yêu cầu người
hưởng lợi xuất trình vận đơn gốc để gửi lại hãng tàu đổi lấy bảo lãnh nhận hàn. Ý định
lừa đảo không thành, người hưởng lợi đã phải xuất trình vận đơn gốc và NHQĐ đã thanh
toán bộ chứng từ. Như vậy, nhờ vào tinh thần cảnh giác mà NHQĐ đã tránh được một vụ
lừa đảo có thể có, bảo vệ quyền lợi của ngân hàng và khách hàng.

14


Các rủi ro phát sinh trong quá trình thanh toán hàng nhập khẩu bằng phương thức
L/C không chỉ bắt nguồn từ sự không trung thực của người bán nước ngoài mà còn do

doanh nghiệp Việt Nam gây ra. Nhiều người lợi dụng ngân hàng mới thành lập, còn non
trẻ, ít kinh nghiệm để tiến hành lừa đảo.
Khi mới thành lập, NHQĐ chi nhánh TP Hồ Chí Minh tiếp nhận một hồ sơ xin mở
L/C yêu cầu mức ký quỹ thấp (10%). Sau khi xem xét hợp đồng, thanh toán viên nhận
thấy chữ ký của người xuất khẩu đã được cắt dán và photocopy. Người nhập khẩu giải
thích đó là chữ ký qua fax. Thấy nghi ngờ chi nhánh Hồ Chí Minh tiến hành điều tra thấy
đây là một công ty “ma”, số điện thoại và số fax trên hợp đồng không có thực nên đã từ
chối mở L/C. Do có tinh thần cảnh giác cao mà NHQĐ đã tránh được rủi ro mở L/C cho
một công ty “ma”, chuyên lứa đảo.
Cũng có nhiều doanh nghiệp chỉ quan tâm đến mối lợi trước mắt mà không chịu giữ
chữ tín trong quan hệ kinh doanh lâu dài. Sau khi kí kết hợp đồng mua bán, người nhập
khẩu đã mở L/C nhưng giá cả hàng hoá giảm xuống theo hướng bất lợi hay hàng hoá bị
rủi ro trên đường vận chuyển, người nhập khẩu lại yêu cầu ngân hàng tìm những lỗi
chứng từ để từ chối, gây sức ép để người xuất khẩu phải giảm tiền thanh toán. Thậm chí
có nhiều doanh nghiệp còn không chịu nộp tiền cho ngân hàng để thanh toán cho người
hưởng lợi ngay cả khi hàng hoá đã được giao đúng như hợp đồng và bộ chứng từ hoàn
toàn hợp lệ. Điều này đã đẩy ngân hàng vào tình huống tiến thoái lưỡng nan. Nếu không
thanh toán cho người hưởng lợi, ngân hàng sẽ mất uy tín trên trường quốc tế. L/C mở ra
có thể bị từ chối hay bị người hưởng lợi yêu cầu xác nhận làm phát sinh chi phí cao và sẽ
dẫn đến mất những khách hàng có uy tín. Nếu thanh toán thì ngân hàng phải dùng tiền
của mình để trả thay và việc đòi tiền gặp rất nhiều khó khăn.
Dưới đây là một ví dụ điển hình về rủi ro đạo đức của ngân hàng phát hành.NHQĐ
chiết khấu bộ chứng từ theo L/C số CENG1275 do ngân hang Chohung, Hàn Quốc phát
hành. Bộ chứng từ hoàn hảo và ngân hàng Chohung không có một thông báo nào về lỗi
sai sót của bộ chứng từ. Tuy nhiên, ngân hàng Chohung sau tám ngày làm việc kể từ
ngày nhân được chứng từ mới thanh toán cho NHQĐ. NHQĐ đã điện cho ngân hàng
Chohung yêu cầu làm rõ việc thanh toán chậm và yêu cầu thanh toán lãi phạt chậm trả
nhưng ngân hàng Chohung đã không chịu trả lời điện của NHQĐ và không thanh toán lãi
phạt chậm trả.
Rủi ro đạo đức ẩn mình dưới nhiều hình thức khác nhau xảy ra tại nhiều thời điểm

khác nhau trong tiến trình thực hiện L/C. Và đây chính là một khó khăn rất lớn để các
ngân hàng thương mại nói chung và NHQĐ nói riêng có thể kiểm soát hiệu quả loại rủi
ro này.

15


* Rủi ro hàng hoá
Đây là loại rủi ro rất dễ xảy ra do người nhập khẩu và xuất khẩu thường ở cách xa
nhau về địa lý, hàng hoá phải vận chuyển qua một chặng đường dài. Trong thực tiễn hoạt
động, NHQĐ đã gặp phải những tình huống như sau: Ngân hàng tài trợ cho một doanh
nghiệp quân đội ở Hải Phòng để nhập khẩu lô hàng theo L/C số 01N1308A12340065 với
nội dung:
Hàng hoá: thép cuộn
Trị giá: 510.067 USD
Điều kiện cơ sở giao hàng: CFR cảng Hải Phòng, Việt Nam.
Thông báo giao hàng: trong vòng 03 ngày sau ngày giao hàng lên tàu.
Theo điều kiện cơ sở giao hàng CFR, Incoterm 2000, nhà xuất khẩu và nhập khẩu
không có nghĩa vụ mua bán bảo hiềm cho hàng hoá. Trong quy chế cũng như hướng dẫn
nghiệp vụ, NHQĐ không yêu cầu khách hàng phải mua bảo hiểm cho những lô hàng mà
giá cả không gồm phí bảo hiểm, Do đó,thanh toán viên đã không kiểm soát việc mua bảo
hiểm của người nhập khẩu và cũng không chú ý đến những rủi ro phát sinh do việc người
nhập khẩu thông báo về việc giao hàng sau ngày giao hàng lên tàu. Sau khi giao hàng lên
tàu một ngày, người xuất khẩu mới thông báo cho nhà nhập khẩu chi tiết về lô hàng và
nhà nhập khẩu đã mua bảo hiểm sau 03 ngày so với ngày giao hàng lên tàu. Hai ngày sau,
tàu gặp bão và chủ tàu đã phải vứt bớt một số thép xuống biển. Hãng bảo hiểm tuyên bố
không bồi thường vì rủi ro phát sinh trước ngày người nhập khẩu mua bảo hiểm. Rất may
mắn là bộ chứng từ có lỗi do biên lai cùa DHL không ghi số và ngày L/C theo như yêu
cầu nên đã tránh cho NHQĐ và người nhập khẩu phải thanh toán cho một lô hàng mà
chắc chắn là lỗ. Tuy nhiên, cũng cần phải nói rằng nếu bộ chứng từ hoàn hảo thì không

có cách nào khác là NHQĐ phải thanh toán và việc thu hồi nợ sẽ gặp nhiều khó khăn.
Bài học rút ra ở đây là các doanh nghiệp Việt Nam phần lớn không giỏi về nghiệp
vụ ngoại thương nên họ không ý thức được các rủi ro phát sinh liên quan. Hơn nữa, trên
thực tế vì muốn tiết kiệm chi phí, có nhiều doanh nghiệp không muốn mua bảo hiểm cho
hàng hoá. Khi rủi ro phát sinh thì không chỉ khách hàng mà ngân hàng cũng phải gánh
chịu hậu quả.
*Rủi ro pháp lý
Hệ thống khác nhau giữa hệ thống pháp luật của các nước đã làm nảy sinh những
bất đồng trong việc thực hiện các giao dịch theo phương thức tín dụng chứng từ và do đó

16


dẫn đến rủi ro, thiệt hại cho một hay một số bên tham gia phương thức này. Ở một số
quốc gia, luật pháp cho phép toà án áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhằm đảm bảo
quyền lợi của người nhập khẩu trong nước bất kể quyết định đó có trái với UCP-600.
Điển hình là trường hợp một công ty xuất nhập khẩu tổng hợp ở Thành phố Hồ Chí
Minh xuất khẩu khá cá đao sang Hàn Quốc thanh toán bằng L/C do ngân hàng Hàn Quốc
phát hành và L/C cho phép triết khấu tại bất cứ ngân hàng nào ở Việt Nam. Theo uỷ
quyền, NHQĐ kiểm tra thấy bộ chứng từ hoàn hảo đã triết khấu có truy đòi bộ chứng từ
và sau đó gửi bộ chứng từ đòi tiền ngân hàng phát hành. Ít ngày sau, NHQĐ nhận được
điện ngân hàng phát hành thông báo không thể thanh toán cho NHQĐ vì toà án đã ra lệnh
ngừng thanh toán toàn bộ số tiền của L/C là 145,257.43 USD để giải quyết món nợ của
Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp này với một công ty khác của Hàn Quốc. Trường hợp
này NHQĐ đã thực hiện đúng theo UCP-600 và được quyền đòi tiền ngân hàng phát
hành theo L/C đã được mở và bộ chứng từ nay thuộc NHQĐ chứ không còn thuộc công
ty xuất nhập khẩu tổng hợp trên. Tuy nhiên, ngân hàng phát hành trả lời rằng họ không
thể thanh toán cho NHQĐ vì họ không làm trái với phán quyết của toà được, mặc dù bộ
chứng từ hoàn hảo. Cuối cùng, sau khi thương lượng, đàm phán, Công ty xuất nhập khẩu
tổng hợp đã chấp nhận thanh toán cho người xuất khẩu theo phương thức chuyển tiền

ngoài L/C.
* Rủi ro ngoại hối
Trên thực tế ở Việt Nam, có rất ít doanh nghiệp vừa làm hàng nhập khẩu vừa làm
hàng xuất khẩu. Do vậy, hầu như tất cả các khách hàng mở L/C tại NHQĐ thường không
thể tự cân đối ngoại tệ để thanh toán L/C. Thậm chí ngay cả khi khách hàng kinh doanh
cả hai mặt hàng xuất nhập khẩu, họ cũng không thể cân đối đủ lượng ngoại tệ cho nhập
khẩu và cần ngân hàng hỗ trợ trong việc tìm kiếm nguồn ngoại tệ bổ sung.
Trong những thời điểm khan hiếm nguồn ngoại tệ, khi tỷ giá đồng USD so với
VND đột ngột tăng lên, nhu cầu thanh toán L/C lại rất lớn, nên để đảm bảo uy tín trong
thanh toán, NHQĐ đã phải tạm ứng một khối lượng lớn ngoại tệ để bán cho khách hàng
lấy tiền thanh toán L/C song không thể mua được lượng ngoại tệ thiếu hụt với giá đã bán
ra và phải gánh chịu những rủi ro về tỷ giá.
Mặt khác, tại thời điểm đó, NHQĐ không thể mua được ngoại tệ từ các ngân hàng
trong nước vì cầu USD/VND tăng lên từng ngày nên các ngân hàng trong nước găm
không bán ngoại tệ ra mà chỉ mua vào. Nhưng VND lại không phải là đồng tiền tự do
chuyển đổi nên NHQĐ phải mua JPY, DEM, FRF,… rồi đổi lấy USD trên thị trường
quốc tế. Song khách hàng Việt Nam chỉ có VND để mua ngoại tệ theo tỷ giá trong nước

17


của thị trường liên ngân hàng. Do đó, nếu tỷ giá trên thị trường Việt Nam thì NHQĐ sẽ
phải gánh chịu rủi ro.
Trong thời kỳ khan hiếm USD, NHQĐ đã phải đề nghị khách hàng ký hợp đồng
bằng các ngoại tệ bớt căng thẳng khác như JPY, DEM,… nhưng không phải người xuất
khẩu nào cũng đồng ý. Vì hiện nay USD vẫn được dùng phổ biến nhất trong thanh toán
quốc tế. Mặt khác, việc đàm phán này còn tuỳ thuộc vào tỷ giá USD và đồng tiền được
quy định trong hợp đồng tại nước người xuất khẩu.
* Rủi ro tác nghiệp
Đây là rủi ro phổ biến trong tất cả các khâu của quá trình giao dịch theo phương

thức L/C. Phương thức tín dụng chứng từ đòi hỏi rất nghiêm ngặt về tính phù hợp của
chứng từ nên phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong việc lập
một bộ chứng từ hoàn hảo. Chỉ cần một sai sót nhỏ trong bộ chứng từ cũng có thể bị ngân
hàng phát hành, ngân hàng xác nhận, người nhập khẩu từ chối thanh toán. Ví dụ như
trong L/C thường xuyên yêu cầu “ chứng nhận kiểm tra chất lượng do đại diện của người
nhập khẩu ký”. Chứng từ này thường được làm theo mẫu và người xuất khẩu Việt Nam
rất ít khi kiểm tra trước xem mẫu này có phù hợp với những yêu cầu của L/C hay không.
Chỉ đến khi xuất trình bộ chứng từ, nhà xuất khẩu mới phát hiện ra sai biệt và khi đó đại
diện của người nhập khẩu đã về nước và người hưởng lợi không thể sửa chứng từ được.
Rủi ro tác nghiệp đối với L/C xuất khẩu không chỉ do sự thiếu cẩn thận trong quá
trình thực hiện L/C của người xuất khẩu Việt Nam mà còn có những nguyên nhân từ
ngân hàng. Do không cẩn trọng trong khâu kiểm tra chứng từ, ngân hàng đã không phát
hiện ra những lỗi sai sót mà hoàn toàn có thể sửa chữa được để thông báo kịp thời cho
khách hàng nên khi gửi chứng từ ra nước ngoài thì bị từ chối. Điều này gây nên thiệt hại
cho khách hàng cũng như cho chính bản thân ngân hàng. Đây là những rủi ro không đáng
có.
Một trường hợp hợp đã xảy ra tại NHQĐ là thanh toán viên thay vì gửi bộ chứng từ
cho ngân hàng phát hành lại gửi cho người nhập khẩu và phải rất mất thời gian và công
sức để đòi tiền thanh toán cho bộ chứng từ. Hay trường hợp một số nhân viên mới thấy
L/C cho phép đòi tiền bằng điện đã điện đòi tiền ngân hàng hoàn trả trong khi bộ chứng
từ có lỗi và bị ngân hàng phát hành phạt. Do cẩu thả, có nhân viên đã đòi tiền ngân hàng
hoàn trả nhưng lại đòi tiếp ngân hàng phát hành do đã copy mẫu hướng dẫn gửi ngân
hàng phát hành của một bộ chứng từ theo L/C khác. Hậu quả là thanh toán viên đó phải
chịu phạt và làm ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng.

18


Union Bank of California có dịch vụ thu hộ tiền hàng xuất khẩu NHQĐ. Theo đó,
khi gửi chứng từ cho ngân hàng phát hành, NHQĐ phải fax văn phòng đại diện của

Union Bank of California tại Việt Nam tờ hướng dẫn mà NHQĐ đã gửi cho ngân hàng
phát hành. Trên cơ sở số tham chiếu của NHQĐ mở tại Union Bank of California, New
York. Nhưng thanh toán viên đã quên không fax tờ hướng dẫn trên. Khi ngân hàng phát
hành trả tiền, Union Bank of California, New York không thể ghi có cho NHQĐ nên đã
chuyển trả lại Ngân hàng phát hành số tiền nhận được. Quá hạn thanh toán, NHQĐ tra
soát mới phát hiện ra đã quên không fax cho Union Bank of California bản hướng dẫn.
Hậu quả là thanh toán viên đó đã bị khấu trừ thêm khoản phí thanh toán lại không đáng
có và thời hạn thanh toán bị kéo dài.
Không chỉ có L/C xuất khẩu chịu rủi ro tác nghiệp mà cả L/C nhập khẩu cũng chịu
rủi ro này. Hiện nay, ngoài L/C doanh nghiệp sử dụng vốn có do Phòng thanh toán quốc
tế thẩm định, NHQĐ còn có L/C vay vốn do phòng tín dụng thẩm định. Nhiều nhân viên
rất cẩn trọng trong việc xem xét L/C dùng vốn tự có nhưng lại cẩu thả khi phát hành L/C
sử dụng vốn vay. Họ cho rằng Phòng tín dụng đã thẩm định và chịu trách nhiệm mà
không xét đến yếu tố Phòng tín dụng chỉ thẩm định trên cơ sở khả năng thanh toán, còn
những yếu tố rủi ro tiềm ẩn trong L/C thì không thể kiểm soát được. Những nhân viên
này cứ đưa nguyên văn toàn bộ nội dung đơn xin mở vào L/C bất chấp cả những điều bất
lợi như “những lỗi sai sót thuộc vận đơn được chấp nhận”. Như vậy, người xuất nhập
khẩu có thể lợi dụng giao sai hàng hoá trong hợp đồng (Ví dụ: thay vì xuất khẩu ô tô
người xuất khẩu có thể giao thép phế liệu,…) mà ngân hàng không thể từ chối.
Có những trường hợp nhập khẩu máy móc, xe ô tô đã qua sử dụng, L/C chỉ quy
định máy (ô tô) đã qua sử dụng mà không quy định chất lượng của máy móc, ô tô phải
còn từ 80% trở lên nhưng do L/C không quy định rõ, ngân hàng vẫn phải thanh toán cho
người hưởng lợi mặc dù chứng từ còn thể hiện chất lượng hàng dưới 80%.
Không chỉ điện mở, sửa đổi L/C mà ngay cả điện thanh toán cũng phải kiểm tra hết
sức cẩn thận. Có thanh toán viên đã đánh nhầm số tiền thanh toán (Ví dụ: số tiền thanh
toán là 61,715 thì lại đánh là 61.175 USD,…). Nếu số tiền trong điện thấp hơn số tiền
thực phải thanh toán thì lại phải điện cho ngân hàng nước ngoài đề nghị họ chuyển trả lại
số tiền đã chuyển thừa.Việc này rất tốn chi phí và thời gian như chi phí điện, thời gian
kiểm soát,… Cũng có trường hợp, điện thanh toán ghi sai ngày giá trị hiệu lực 1 năm và
phải điện sửa đổi nhưng bị chậm thanh toán một ngày và bị phạt gần 200 USD,…

Không chỉ trong khâu phát hành mà khâu thu tiền thanh toán cũng có rủi ro. Như
trường hợp của chi nhánh Hải Phòng, khi nhận được bộ chứng từ chuyển giao từ Hội sở
đã chuyển ngay cho khách hàng mà không yêu cầu nộp tiền. Đến khi ngân hàng nước

19


ngoài điện đòi tiền thì mới quay sang đòi tiền khách hàng. Rất may đây là khách hàng uy
tín, có tình hình tài chính lành mạnh nên ngân hàng vẫn đòi được tiền và việc thanh toán
cho ngân hàng nước ngoài vẫn được bảo đảm.
Việc kiểm tra và thông báo lỗi chứng từ trong thanh toán quốc tế theo phương thức
L/C đòi hỏi rất nghiêm ngặt. Nhưng trên thực tế, có thanh toán viên đã quên bộ chứng từ
không kiểm tra hay không thông báo sai sót trong thời hạn quá 07 ngày cho phép. Khi đó,
không còn cách nào khác là NHQĐ phải thanh toán cho người xuất khẩu dù bộ chứng từ
đó thế nào và ý kiến của người nhập khẩu ra sao. Trong những tình huống đó, NHQĐ
phải rất vất vả đàm phán với người nhập khẩu để họ chấp nhận bộ chứng từ.
* Rủi ro công nghệ
Công nghệ góp phần làm tăng hiệu quả làm việc, tăng sức cạnh tranh, đảm bảo độ
chính xác, an toàn cho các giao dịch. Tuy nhiên, trình độ công nghệ là một vấn đề nan
giải hiện nay của NHQĐ. Riêng trong thanh toán quốc tế, hiện nay phần mềm còn nhiều
trục trặc cần phải cải tiến. Có nhiều điện phát ra từ chi nhánh Hồ Chí Minh nhưng Hội sở
chính và chi nhánh mất nhiều chi phí điện thoại cho việc xác nhận tổng số điện chi nhánh
đã phát và số điện Hội sở nhận được. Nếu không làm như vậy thì có thể dẫn đến tình
trạng những điện mở, thanh toán L/C của chi nhánh không được phát đi kịp thời trong khi
chi nhánh vẫn yên tâm là điện đã được Hội sở phát đi. Hậu quả là chậm mở L/C và mất
uy tín. Có tình trạng chi nhánh không thể phát hiện ra Hội sở do trục trặc hệ thống mạng,
đường truyền chi nhánh đã phải fax điện thanh toán L/C để Hội sở đánh lại trên máy Hội
sở. Điều này không đảm bảo tính chính xác và an toàn trong quá trình mở và thanh toán
L/C.
* Rủi ro uy tín

Rủi ro uy tín do nhiều nguyên nhân gây ra như tình hình kinh tế chính trị của quốc
gia, trình độ nhân viên, kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, quá trinh thực hiện
cam kết với các ngân hàng và người hưởng lợi nước ngoài,…Rủi ro uy tín được đo lường
bằng tỷ lệ L/C bị từ chối hay phải xác nhận.

Bảng 5: Tỷ lệ L/C bị từ chối hoặc phải xác nhận lại tại NHQĐ (2004-2007)
Năm

Số L/C phát hành

Số L/C bị từ chối hoặc
20

Tỷ trọng (%)


2004
2005
2006
2007

phải xác nhận
28
4
18
19

1167
138
1400

2553

2.4
2.8
1.2
0.7

(Nguồn số liệu: Báo cáo của phòng Thanh toán quốc tế, NHQĐ)
Trong năm do những biến động trên thị trường và chưa có nhiều uy tín trên trường
quốc tế nên số lượng L/C phát hành thấp và tỷ lệ L/C bị từ chối là 2.4%. Sang năm 20062007 số lượng L/C phát hành tăng cao tỷ lệ L/C bị từ chối giảm đáng kể (với tổng số là
1400 L/C và tỷ lệ L/C bị từ chối hoặc phải xác nhận lại là 1.2%_ năm 2006) Điều này
chứng tỏ được sự cố gắng và nỗ lực của NHQĐ trong việc phát hành L/C đã hạn chế
được một số lượng lớn những L/C bị từ chối hoặc phải xác nhận lại.
2. Rủi ro theo phương thức tín dụng chứng từ trả chậm
Tại NHQĐ, nghiệp vụ bảo lãnh L/C trả chậm phát sinh ngay từ những ngày đầu mới
thành lập Phòng thanh toán quốc tế. Đây cũng là thời kỳ L/C trả chậm phát triển mạnh
nhất ở Việt Nam. Trong những năm 1996, mặc dù mới thực hiện nghiệp vụ thanh toán
quốc tế song đến 31/12/1996 tổng dư nợ bảo lãnh L/C trả chậm tại NHQĐ đã lên tới
11,93 triệu USD.
Phương thức tín dụng chứng từ trả chậm cũng tiềm ẩn những loại rủi ro như phương
thức tín dụng chứng từ trả ngay.Tuy nhiên, do tính chất đặc thù của L/C trả chậm là
khách hàng nhận hàng và một thời gian sau mới phải thanh toán nên phương thức này có
những rủi ro chủ yếu sau:
* Rủi ro hàng hoá
Trong phương thức L/C trả chậm, tiền hàng bao gồm cả lãi chậm trả. Do lãi suất
không được ghi cụ thể nên người mua không biết và thường phải chịu lãi suất cao hơn lãi
suất NHQĐ nên giá hàng hoá nhập khẩu thường cao hơn giá hàng hoá thực tế gây ảnh
hưởng đến khả năng tiêu thụ hàng hoá và trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp nhập khẩu.
Trường hợp của công ty VIMEXCO và công ty ELOPI là ví dụ điển hình.
Năm 2004, NHQĐ mở L/C số KR049/HN và KR0097 với tổng giá trị 699.556,00

USD nhập khẩu dầu DOP cho công ty VIMEXCO, Vũng Tàu. Cũng trong năm này, công
ty ELOPI nhập khẩu máy điều hoà nhiệt độ của Thái Lan theo L/C số 52B226/09 với trị
giá gần 500.000 USD. Trong thời gian này, các doanh nghiệp VN bắt đầu nhập khẩu ồ ạt

21


máy điều hoà nhiệt độ của Trung Quốc với giá chỉ bằng nửa giá nhập khẩu của công ty
ELOPI. Do giá hàng cao hơn giá thị trường, thêm vào đó sự biến động mạnh của tỷ giá
USD/VND làm giá hàng trở nên quá cao, công ty ELOPI và VIMEXCO không thể tiêu
thụ hết hàng nên không đủ tiền thanh toán khi L/C đến hạn. Cuối cùng, NHQĐ đã phải
trả thay và yêu cầu hai công ty trên nhận nợ vay bắt buộc.
Rủi ro hàng hoá không chỉ bởi giá cao mà còn bởi chất lượng hàng hoá không đảm
bảo. Nhiều hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam theo phương thức L/C trả chậm là hàng
hoá đã qua sử dụng, hàng hoá ế thừa, chất lượng kém khó tiêu thụ ở nước ngoài. Đối với
máy móc thiết bị, do ít vốn, nhiều doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu dây chuyền sản
xuất đã qua sử dụng lại không có chuyên gia có đủ trình độ để đánh giá chất lượng nên
máy móc không đáp ứng được yêu cầu sản xuất. Chính vì vậy, hàng hoá doanh nghiệp
sản xuất ra không tiêu thụ được và gây ra tình trạng tồn đọng lớn về vốn lưu động kéo
theo nhiều rủi ro cho các Ngân hàng Thương mại, trong đó có NHQĐ.
* Rủi ro đạo đức
Đây là loại rủi ro chiếm tỷ lệ lớn nhất trong nghiệp vụ bảo lãnh L/C trả chậm tại
NHQĐ. Do chưa phải thanh toán ngay với nước ngoài nên các doanh nghiệp nhập khẩu
có tâm lý lợi dụng luôn số tiền hàng bán được để kinh doanh lô hàng khác hay mặt hàng
khác để thu lợi mà không tính đến thời hạn và nghĩa vụ thanh toán. Thậm chí có doanh
nghiệp còn sử dụng tiền bán hàng trả chậm để đầu tư kinh doanh bất động sản. Hậu quả
là doanh nghiệp không có tiền để thanh toán theo L/C để giữ uy tín NHQĐ đã phải đứng
ra trả thay nhiều khoản tiền của L/C trả chậm khi khách hàng không có khả năng thanh
toán. Điển hình là khoản nợ của công ty ELOPi nhập thép trả chậm 270 ngày trị giá hơn
1,5 triệu USD công ty này đã bán hết thép sau đó dùng tiền kinh doanh mặt hàng khác và

không có tiền để thanh toán cho nhà nhập khẩu khi L/C đáo hán. NHQĐ đã phải trả thay
gần 400.000 USD, tốn kém nhiều chi phí và thời gian để thu hồi hết số nợ kể trên.
Thậm chí có khách hàng còn lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của ngân hàng, đẩy ngân
hàng vào tình thế khó khăn khi phải thực hiện cam kết thanh toán với nước ngoài. Điển
hình là trường hợp công ty TNHH Mỹ nghệ Hoàng Long và công ty ELOPI: Trong
những năm 1996-1997, khi NHQĐ chi nhánh Hồ Chí Minh mới thành lập, công ty Hoàng
Long đã tiến hành mở nhiều L/C nhập ô tô và máy xúc đã qua sử dụng của Hàn Quốc.
Ban đầu, Công ty Hoàng Long mở 6 L/C trả ngay và đã thanh toán rất đúng hạn. Sau đó,
công ty này đề nghị mở thêm 3 L/C trả chậm 12 tháng với tổng giá trị 579.159 USD. Xét
thấy công ty thanh toán đúng hạn các L/C đã mở nên NHQĐ đồng ý cho công ty mở L/C
trả chậm ký quỹ 10%, thế chấp lô hàng nhập khẩu với cam kết nộp tiền đến đâu, giải
phóng hàng đến đó. Khi hàng về đến Việt Nam, NHQĐ đã thuê kho để quản lý lô hàng.
22


Năm 1997 cũng là năm có nhiều biến động về tỷ giá USD/VND. Lấy lý do là tỷ giá tăng
quá cao, bị thua lỗ nhiều nên không có tiền nộp vào để giải phóng hàng, Hoàng Long đề
nghị ngân hàng cho thế chấp bằng hàng hoá khác để lấy xe ra tiêu thụ, thu hồi vốn để
thanh toán. Thấy lý do chính đáng, ngân hàng đã cho công ty lấy xe ra để tiêu thụ. Tuy
nhiên, sau khi bán được xe, công ty TNHH Hoàng Long đã chiếm dụng luôn số tiền đó
của NHQĐ, không chịu thanh toán như đã cam kết. Sau này ngân hàng phát hiện tài sản
thế chấp mới cũng chỉ là những giấy tờ, hoá đơn giả. Cho đến nay, số tiền công ty còn
chưa thanh toán cho L/C trả chậm tại NHQĐ lên tới 450.250 USD, giám đốc công ty đã
bị bắt, kết án vì tội lừa đảo.
Trong thời gian này, không chỉ khách hàng của NHQĐ mà nhiều ngân hàng khác
cũng rơi vào tình trạng tương tự. Những L/C trả chậm có vấn đề đều là những L/C trả
chậm nhập hàng tiêu dùng, sắt thép, phân đạm… Đứng trước tình hình này, đề trấn chỉnh
công tác mở L/C trả chậm, Ngân hàng Nhà nước đã có công văn số 343/CV-NHNN7
ngày 19/04/1999 quy định “Từ nay (19/04/1999) đến hết năm 1999 không được mở L/C
trả chậm cho các doanh nghiệp để nhập khẩu hàng tiêu dùng và một số vật tư nhập khẩu

(phôi thép, PVC nguyên liệu, thanh nhôm và cấu kiện bằng nhôm”.
Trước tình hình rủi ro trong phương thức L/C trả chậm tăng lên trong năm 1997,
NHQĐ đã chủ trương tạm dừng không mở L/C trả chậm, rút kinh nghiệm những L/C đã
mở và đề ra biện pháp khắc phục hậu quả như đàm phán giảm số tiền thanh toán với nước
ngoài, xử lý tài sản thế chấp… Đến năm 2001, NHQĐ mới bắt đầu cho mở lại L/C trả
chậm. Kết quả là từ năm 1998 trở lại đây không phát sinh L/C trả chậm nào mà NHQĐ
phải trả thay khách hàng, mọi L/C trả chậm mới phát hành đều được các doanh nghiệp
thanh toán đầy đủ và đúng hạn. NHQĐ đã thu hồi được toàn bộ số tiền trả thay khách
hàng trong năm 1997. Từ năm 2006 đến nay, NHQD đã không phải trả thay cho khách
hàng những phát sinh L/C trả chậm và lượng L/C phát hành ngày càng tăng cao cả về mặt
số lượng lẫn chất lượng.
* Rủi ro tác nghiệp
Sau khi đã chấp nhận thanh toán thì ngân hàng phát hành phải thực hiện nghĩa vụ
của mình vào ngày đáo hạn. Tuy nhiên, có nhân viên sau khi điện chấp nhận thanh toán
cho ngân hàng chiết khấu đã không lập lịch theo dõi thời hạn thanh toán hay có những
biện pháp hợp lý để theo dõi thời hạn thanh toán và đã quên không thanh toán cho ngân
hàng chiết khấu. Đến khi ngân hàng chiết khấu tra soát thì mới phát hiện ra là chưa thanh
toán. Hậu quả là NHQĐ phải thanh toán lãi phạt chậm trả và làm ảnh hưởng đến uy tín
của ngân hàng. Theo quy trình mở L/C trả chậm thế chấp bằng lô hàng nhập khẩu, thanh
toán viên phải chuyển bộ chứng từ gửi hàng cho Phòng tín dụng để quản lý lô hàng.
23


Nhưng có thanh toán viên lại không thực hiện đúng quy trình, chuyển ngay bộ chứng từ
cho người nhập khẩu dẫn đến phải rất vất vả mới quản lý được lô hàng.
3. Đánh giá thực trạng rủi ro trong phương thức tín dụng chứng từ .
3.1. Những rủi ro đã khắc phục.
Thực trạng rủi ro trong phương thức tín dụng chứng từ tại NHQĐ đã cho thấy rằng
rủi ro xảy ra từ nhiều góc độ khác nhau, muôn hình muôn vẻ, luôn tồn tại và đồng hành
với mọi hoạt động của ngân hàng. Song NHQĐ đã đạt được những thành tựu đáng kể,

hạn chế được phần nào thiệt hại và ngăn chặn kịp thời những rủi ro tiềm ẩn trong phương
thức thanh toán này. Công tác hạn chế và phòng ngừa rủi ro trong phương thức tín dụng
chứng từ của NHQĐ đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận sau:
• Hạn chế được rủi ro, nâng cao năng lực cạnh tranh của NHQĐ trong thanh toán
quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ. Rủi ro tín dụng trong phương thức L/C đã
giảm mạnh (18 lần). Tỷ lệ nợ quá hạn trong cho vay xuất nhập khẩu đã cải thiện rất
nhiều, từ chỗ trên 12% trong năm 2004 nay xuống còn 0,50%. NHQĐ đã thu hồi được
1,65 triệu USD mà trước đây trả nợ thay khách hàng. Từ năm 2006 đến nay, NHQĐ
không phát sinh thêm L/C quá hạn phải trả nợ thay.
Điều đáng nói đến đầu tiên là hạn chế rủi ro trong phương thức L/C trả chậm.Năm
1997-1998 tỷ giá USD/VND biến động mạnh, việc mở L/C trả chậm với thời hạn dài
(360 ngày) đã gây ra rủi ro hối đoái cho khách hàng và dẫn đến rủi ro tín dụng cho ngân
hàng do khách hàng không thể thanh toán L/C đúng hạn. Do đó, NHQĐ đã phải quyết
định tạm dừng mở L/C trả chậm để rút kinh nghiệm và tìm giải pháp khắc phục. Nhờ đó,
NHQĐ đã hạn chế được lượng L/C phải trả thay khách hàng, đàm phán giảm được tới
40% số tiền phải thanh toán. Điều này đã góp phần hạn chế thiệt hại cho NHQĐ. Các tài
sản thế chấp đã được sử lý và các món tiền ngân hàng thanh toán thay đã được thu hồi.
Cũng trong giai đoạn này, NHQĐ đã ban hành được quy chế mở L/C trả chậm của riêng
mình. Đến năm 2001,sau khi rút kinh nghiệm từ những L/C trả chậm mở trong thời gian
đầu thành lập Phòng Thanh toán Quốc tế, ban lãnh đạo NHQĐ quyết định cho phép mở
L/C trả chậm trở lại. Tuy nhiên phần lớn các L/C trả chậm có thời hạn ngắn (90 ngày kể
từ ngày giao hàng) nên NHQĐ không phát sinh một L/C trả chậm nào phải thanh toán
thay hay bị quá hạn.
Hạn chế rủi ro trong phương thức L/C trả ngay cũng đạt được nhiều thành tích đáng
kể. Ban lãnh đạo ngân hàng đã yêu cầu các phòng ban nghiệp vụ rà soát, đánh giá lại toàn

24


bộ khách hàng và chỉ mở L/C cho những khách hàng truyền thống, chủ yếu là các doanh

nghiệp quân đội, tránh tình trạng mở L/C tràn lan như trong năm 1996-1997.
• NHQĐ đã nâng cao được uy tín của mình trên thị trường quốc tế. Tỷ lệ L/C bị từ
chối xác nhận trong tổng số L/C phát hành giảm hơn 10 lần, từ 21,88% xuống còn 1,97%.
Lúc đầu, có rất nhiều L/C người xuất khẩu đã yêu cầu xác nhận, nhưng sau khi đàm phán
với NHQĐ người xuất khẩu đã đồng ý mở mà không phải xác nhận. Một thành tựu đáng
kể nữa là đã có ngân hàng nước ngoài yêu cầu NHQĐ xác nhận L/C do họ mở.
• NHQĐ đã giảm thiểu được rủi ro tác nghiệp, rủi ro ngoại hối, rủi ro năng lực cán
bộ và trình độ công nghệ. Ngân hàng cũng đã áp dụng được các biện pháp rào chắn rủi ro
ngoại hối như: mua bán có kỳ hạn, SWAP, … Năm 2001, ngân hàng đã tham gia vào hệ
thống SWIFT và đưa một số cán bộ đi đào tạo ở các ngân hàng nước ngoài.
• Hoạt động thanh toán quốc tế phát triển nên đã hỗ trợ cho các dịch vụ khác phát
triển như: dịch vụ ngoại hối, cho vay, … doanh số cho vay xuất nhập khẩu tăng hơn 8
lần, từ 99,35 tỷ năm 2004 lên 801,75 tỷ VND năm 2006.
3.2 Những rủi ro còn tồn tại.
Bên cạnh những ưu điểm đã đạt được thì NHQĐ cũng còn một số hạn chế:
• Vẫn tồn tại L/C phải trả nợ thay còn vướng mắc chưa được giải quyết.
• Rủi ro tác nghiệp còn phổ biến và chưa có biện pháp khắc phục hiệu quả. Nhiều
thanh toán viên mắc lỗi chính tả khi tiến hành mở L/C cho khách hàng. Có thanh toán
viên ghi sai ngày giá trị thanh toán, sai số tiền thanh toán nên NHQĐ phải bồi thường
thiệt hại cho đối tác.Vì vậy, NHQĐ đã phải tiến hành kiểm tra tay tất cả các bức điện.
Tuy nhiên, việc kiểm tra tay không mang tính chất bắt buộc và không ràng buộc trách
nhiệm của người kiểm tra.
• Rủi ro uy tín còn cao: tỷ lệ L/C bị từ chối xác nhận trong tổng số L/C phát hành
còn cao (1,97%).Nhiều L/C xác nhận phải ký quỹ 100% trị giá thanh toán đặc biệt là các
thị trường mới như Mỹ, Italia, …
• NHQĐ chưa ngăn chặn được rủi ro hàng hoá. Vẫn còn xảy ra tình trạng hàng hoá
bị rủi ro trên đường vận chuyển nhưng khách hàng không mua bảo hiểm cho hàng hoá.
NHQĐ chưa có biện pháp quản lý hiệu quả việc mua bảo hiểm của khách hàng, đôi khi
còn có tình trạng xuê xoa buông lỏng với những khách hàng có doanh số lớn trong việc
yêu cầu mua bảo hiểm.

25


×