Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Nâng cao hiệu quả chất lượng tín dụng đối với doanhnghiệp vừa và nhỏ tại NHĐT&PT Bắc Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (449.65 KB, 67 trang )

Danh mục các chữ viết tắt
NHĐT&PT

: Ngân hàng đầu tư và phát triển

DNVVN

: Doanh nghiệp vừa và nhỏ

DNNN VVN

: Doanh nghiệp Nhà nước vừa và nhỏ

DNVVN NQD

: Doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh

TSĐB

: Tài sản đảm bảo

TDH

: Trung, dài hạn

NH

: Ngắn hạn

NQH


: Nợ quá hạn

BQ

: Bình quân

NHNN

: Ngân hàng Nhà nước


LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu và là một yêu cầu khách quan
đối với các quốc gia trong giai đoạn hiện nay. Việt Nam cũng không nằm
ngoài xu hướng đó. Sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những
thành tựu đáng khích lệ: Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và liên tục tăng qua
các năm, đời sống của nhân dân ngày càng được cài thiện và nâng cao, các
nguồn tiền tệ tích tụ trong nền kinh tế được khai thác bằng nhiều hình thức
khác nhau để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển… Trong thành công đó phải
kể đến sự đóng góp không nhỏ của các DNV&N.
Trong những năm gần đây các DNV&N ở Việt Nam được hình thành và
từng bước hoàn thiện theo xu hướng năng động tích cực, phù hợp với xu
hướng phát triển của nền kinh tế, có vị trí quan trọng trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên một trong những khó khăn lớn
mà các DNV&N gặp phải hiện nay là vấn đề vốn. Vốn là nhân tố quyết định
năng lực hoạt động sản xuất kinh doanh, năng lực tài chính, năng lực thị
trường, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp… Làm thế nào để có vốn đầu
tư và sử dụng vốn có hiệu quả là bài toán nan giải đặt ra cho các nhà quản lý
doanh nghiệp, đồng thời nó cũng thu hút sự quan tâm của các nhà tài trợ
chẳng hạn như các Ngân hàng thương mại. Bởi vì hiệu quả sử dụng vốn vay

của doanh nghiệp cao hay thấp có ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp, đến thu nhập của các nhà tài trợ trong đó phải kể đến các nhà
tài trợ là ngân hàng. Để mở rộng cho vay và không ngừng nâng cao hiệu quả
cho vay đối với các DNV&N đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải có các
giải pháp cụ thế cho vấn đề này.
Xuất phát từ tình hình thực tế trên và qua thời gian nghiên cứu công tác
tín dụng, cho vay đối với DNV&N tại chi nhánh NHĐT&PT Bắc Giang là em
đã chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả chất lượng tín dụng đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại NHĐT&PT Bắc Giang” cho chuyên đề tốt nghiệp.
Kết cấu chuyên đề gồm 3 phần :
2


Chương 1 Chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của
NHTM
Chương 2 Thực trạng chất lượng tín dụng đối với DNV&N tại
NHĐT&PT Bắc Giang
Chương 3 Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNV&N tại
NHĐT&PT Bắc Giang

CHƯƠNG I: CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DNV&N
3


CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1. Vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ và phân loại DNV&N
Hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về DNV&N ,tuy nhiên đa
phần các định nghĩa về DNV&N đều sử dụng số lượng lao động thường

xuyên như một tiêu chí ưu tiên ngoài ra còn sử dụng quy mô vốn qua mô
doanh thu…DNV&N là những DN có quy mô nhỏ bé về mặt vốn, lao động
hay doanh thu. DNV&N có thể chia thành ba loại cũng căn cứ vào quy mô đó
là DN siêu nhỏ (micro), DN nhỏ và DN vừa. Theo tiêu chí của nhóm các ngân
hàng Thế giới, DN siêu nhỏ là DN có số lượng lao động dưới 10 người, DN
nhỏ có số lượng lao động từ 10 đến dưới 50 người, còn DN vừa có từ 50 đến
300 lao động. Ở mỗi quốc gia khác nhau, lại có tiêu chí khác nhau để xác định
DN nhỏ và vừa.
TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH DNVVN Ở MỘT SỐ QUỐC GIA
Tên
nước
Nhật
Mỹ
Đức
Thái
Lan
Xin ga
po
In đo nê
xia

Số lao động
< 50 trong bán lẻ
<100 trong bán buôn
< 300 ngành khác
< 500
< 500

Tổng số vốn hoặc
giá trị tài sản

< 10 triệu yên
< 30 triệu yên
< 100 triệu yên

< 100

< 20 triệu bạt

< 100

< 499 triệu SD

< 100

< 0,6 tỉ ru-pi

Nguồn: Phát triển SME trong quá trình công nghiệp hoá ở Việt Nam và
Kinh nghiệm phát triển DNVVN ở Mỹ – Tạp chí NCKT.

4


Ở Việt Nam theo nghị đinh 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ, quy định
lại tiêu chí để xác định doang nghiệp vừa và nhỏ, như sau: " Doanh nghiệp
nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo pháp
luật hiện hành, có vốn đăng kí không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung
bình hàng năm không quá 300 người "
1.1.2. Đặc điểm của DNV&N
Thực tế cho thấy, trong những năm gần đây, số lượng DNV&N ngày
càng tăng mạnh. Như tên gọi của mình, DNV&N mang những đặc điểm riêng

rất khác biệt so với các DN lớn trên thị trường. DNV&N mang nhưng 3 đặc
trưng cơ bản sau:
Thứ nhất,Quy mô hoạt động nhỏ
Quy mô hoạt động của một doanh nghiệp thường được đánh giá dựa
trên hai tiêu chí cơ bản là số vốn hoạt động và số lượng lao động trung bình.
Với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, số vốn đăng kí là dưới 10 tỷ đồng và số
lượng lao động trung bình không quá 300 người. Quy mô vốn nhỏ bé, nên hầu
hết các doanh nghiệp này đều gặp khó khăn về vốn. Việc tiếp cận với các
nguồn tài chính khác với những doanh nghiệp này cũng là một vấn đề nan
giải. Nguồn vốn tự có thấp, khả năng tiếp cận với các nguồn vốn từ những tổ
chức tín dụng thấp đã khiến cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp hàng loạt
các khó khăn khác trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, Sức cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm, dịch vụ thấp:
Do đặc điểm lượng vốn hoạt động nhỏ, các doanh nghiệp chủ yếu sử
dụng vốn tự có để hoạt đông sản xuất kinh doanh cùng với việc tiếp cận các
nguồn vốn vay rất khó khăn nên việc triển khai các dự án lớn, đầu tư sản xuất
mới thường chậm trễ. Bên cạnh đó, do không đủ vốn để đầu tư nâng cấp, đổi
mới các máy móc thiết bị, càng không đủ vốn cho hoạt động nghiên cứu khoa
học kĩ thuật, các doanh nghiệp này thường sử dụng công nghệ lạc hậu, trình
độ quản lý kém. Chính vì vậy, các sản phẩm sản xuất ra thường có chất lượng
thấp mà chi phí bỏ cũng không nhỏ. Điều này làm giảm tính cạnh tranh của
5


sản phẩm. Cũng vì lý do vốn mà các doanh nghiệp này có nhiều hạn chế trong
việc marketing, quảng cáo sản phẩm, nắm bắt thông tin thị trường...Những
điều này đã hạn chế khả năng chiếm lĩnh thị trường, cũng như việc phát triển
doanh nghiệp, do đó mà sức cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
thường thấp.
Thứ ba, Tính linh hoạt và năng động cao

Với quy mô vốn nhỏ số lượng lao đông ít, các doanh nghiệp vừa và
nhỏ có thể dễ dàng chuyển hướng kinh doanh phù hợp với xu hướng của thị
trường. Việc phổ biến áp dụng các chính sách kinh tế vào DNV&N cũng dễ
dàng thực hiện hơn. Đặc biệt những DNV&N rất nhạy cảm với những biến
động của thị trường, chuyển đổi mặt hàng nhanh, phù hợp với thị hiếu của
người tiêu dùng. Họ luôn phải cập nhật các thông tin từ thị trường, từ các
doanh nghiệp lớn và từ đối thủ.
Bên cạnh đó, DNV&N là loại hình doanh nghiệp có quy mô vừa phải
nên việc đầu tư vốn sản xuất không yêu cầu quá lớn, hơn nữa chu kỳ sản xuất
của các doanh nghiệp này thường ngắn, diễn biến theo mùa, chớp thời cơ
nhanh chóng, nên tốc độ quay vòng vốn nhanh, hiệu quả kinh tế cao. Tuy
nhiên, việc tiếp cận nguồn vốn lại luôn là vấn đề khó khăn của các doanh
nghiệp này, vì vậy nếu được đánh giá đúng khả năng, có dự án khả thi thì việc
đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ đem lại lợi nhuận cao cho các
NHTM
1.1.3.

Vai trò của DN vừa và nhỏ

DNV&N có vai trò lớn trong sự tăng trưởng kinh tế của rất nhiều quốc
gia, kể cả các nước phát triển và đang phát triển. Trong bối cảnh đang chuyển
đổi sang nền kinh tế thị trường và hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới,
DNV&N đã và đang đóng vai trò quan trọng về nhiều mặt. Điều này được thể
hiện qua các vai trò sau:
Thứ nhất,tạo ra công ăn việc làm với mức chi phí thấp
Điều này có được là do đặc tính phân bố rải rác khắp các vùng miền các
6


địa phương vùng sâu vùng xa với các lao động có trình độ tay nghề còn

thấp.Nhờ vậy vừa giải quyết được nạn thất nghiệp góp phần giảm tải số lao
động ở các thành phố lớn
Thứ hai,các DNV&N có vai trò quan trọng trong việc tăng trưởng kinh
tế,chúng đóng góp vào sự gia tăng thu nhập quốc dân của các nước trên thế
giới,bình quân là 50%.Ở Việt nam Theo thống kê của Hiệp hội doanh nghiệp
vừa và nhỏ Việt Nam các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam cùng với
133.000 hợp tác xã và 3 triệu hộ kinh doanh cá thể đang đóng góp đến 60%
GDP, đóng góp 40% ngân sách, 40% hàng hóa tiêu dùng và xuất khẩu cũng
như giải quyết 50% lao động của xã hội. Hàng năm, các doanh nghiệp vừa và
nhỏ đã tạo ra khoảng một triệu việc làm mới!
Thứ ba, Cung cấp cho xã hôi một khối lượng hàng hóa đa dạng và phong phú :
Bởi các tập đoàn lớn thường bỏ qua những hàng hóa, thị trường có
doanh thu thấp.Chính điều đó đã tạo cơ hội cho những DNV&N tận dụng
được các thế mạnh của mình để đa dạng hóa sản phẩm của họ.Nhằm tạo thêm
điều kiện cho người tiêu dùng được lựa chọn
Thứ tư,Sự ra đời của DNV&N đã thu hút được nguồn vốn trong dân.
Để thành lập các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì yêu cầu về vốn là không
lớn do đó các doanh nghiệp này được thành lập một cách dễ dàng, nằm phân
tán trong dân, đi vào tận các làng xóm. Vì vậy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ
đóng vai trò quan trọng trọng việc thu hút nguồn vốn từ dân, tận dụng những
nguồn vốn nhỏ bé này cho sản xuất kinh doanh không để chúng nhàn rỗi
Việc phát triển không ngừng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo ra sự
cạnh tranh không nhỏ giữa các doanh nghiệp kể cả với các doanh nghiệp lớn
trong nền kinh tế. Trong một thị trường cạnh tranh, những sản phẩm được sản
xuất ra phải không ngừng nâng cao chất lượng nếu không muốn bị đào thải.
Mà doanh nghiệp vừa và nhỏ lại nhạy cảm với sự biến động của thị trường, có
tính linh hoạt trong sản xuất, các sản phẩm sản xuất ra luôn bám sát với yêu
cầu của thị trường với chi phí thấp. Đây là thách thức rất lớn với những doanh
7



nghip ln, khin cho cỏc doanh nghip ny khú cú th lng on th trng.
Do ú, cỏc doanh nghip va v nh lm cho nn kinh t tr nờn nng ng,
linh hot hn, l trỡnh hi nhp vi kinh t th gii cng vỡ th c rỳt ngn
hn.
1.1.4. Tớn dng ngõn hng i vi doanh nghip va v nh
1.1.4.1. Khỏi nim tớn dng ngõn hng
Tín dụng đợc coi là mối quan hệ vay mợn lẫn nhau giữa ngời cho vay và
ngời đi vay trong điều kiện có hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất
định. Trong quan hệ mua bán chịu, thông thờng giá bán chịu hàng hoá cao
hơn giá bán trao tiền ngay, phần chênh lệch này chính là lãi của hàng hoá đem
bán chịu. Quan hệ mua bán chịu chỉ diễn ra giữa các đơn vị liên quan trực tiếp
với nhau. Vì vậy nó không đáp ứng đợc nhu cầu vay mợn ngày càng tăng của
nền sản xuất hàng hoá. Mặt khác, do đặc điểm tuần hoàn vốn trong quá trình
tái sản xuất, xã hội thờng xuyên xuất hiện hiện tợng thừa vốn tạm thời ở các tổ
chức cá nhân này và nhu cầu thiếu vốn ở các tổ chức cá nhân khác. Hiện tợng
thừa thiếu vốn phát sinh do có sự chênh lệch về thời gian sử dụng vốn của tổ
chức hay cá nhân đó. Trong khi đó số lợng các khoản thu nhập và chi tiêu ở
các tổ chức cá nhân trong quá trình tái sản xuất đòi hỏi phải đợc tiến hành liên
tục. Vậy để khắc phục tình trạng này thì chỉ có ngân hàng một tổ chức
chuyên kinh doanh tiền tệ mới có khả năng giải quyết đợc những mâu thuẫn
đó.
Do ú, Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ mà một
bên là ngân hàng một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với
một bên là tất cả các tổ chức, cá nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng giữ vai
trò vừa là ngời đi vay, vừa là ngời cho vay.
1.1.2.2 Cỏc hỡnh thc tớn dng ngõn hng i vi DNV&N
Cn c vo thi hn tớn dng
Cn c vo thi hn tớn dng, ngi ta chia tớn dng thnh 3 loi:
Tớn dng ngn hn: l loi tớn dng cú thi hn tớn dng di 12

thỏng. Tớn dng ngn hn nhm ti tr cho ti sn lu ng hoc nhu cu s
dng vn ngn hn ca Nh nc, doanh nghip, h sn xut, v phc v nhu
cu sinh hot ca cỏ nhõn.

8


 Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm.
Tín dụng trung hạn nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm trang thiết bị, xây dựng
với qui mô nhỏ, cải tiến kĩ thuật, mua công nghệ hay để đầu tư cho các dự án
trung hạn. Ngoài ra, ngân hàng còn cấp tín dụng trung hạn cho người tiêu
dùng nhằm thoả mãn nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền như nhà cửa,
phương tiện vận chuyển.
 Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Loại tín
dụng này được sử dụng nhằm cấp vốn cho các dự án lớn, đầu tư xây dựng cơ
bản, cải tiến khoa học công nghệ....
Tại các NHTM, tín dụng ngắn hạn thường được ưu tiên hơn và chiếm tỷ
trọng cao hơn tín dụng trung, dài hạn do nguồn vốn dành cho tín dụng trung,
dài hạn thường đắt và khan hiếm hơn. Hơn thế nữa, tín dụng trung, dài hạn lại
thường có rủi ro cao hơn. Việc phân chia các loại hình tín dụng theo thời gian
giúp cho ngân hàng có thể tính toán một cách tương đối rủi ro có thẻ xảy ra,
khả năng sinh lời của tài sản. Điều này cung liên quan mật thiết đến công tác
quản lý thanh khoản của các NHTM.
 Căn cứ vào đối tượng khách hàng
Căn cứ vào đối tượng khách hàng, tín dụng ngân hàng được chia làm
2 loại như sau:
 Tín dụng cho khách hàng là các tổ chức kinh tế- xã hội: các tổ chức
kinh tế-xã hội bao gồm các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, các tổ chức tín
dụng khác, các hộ sản xuất kinh doanh...
 Tín dụng cho khách hàng cá nhân: là loại tín dụng chỉ cấp cho nhu

cầu của từng cá nhân nhỏ lẻ.
Hiện nay, các ngân hàng thường phân chia các đối tuong khách hàng
thành khách hàng cá nhân, khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng
doanh nghiệp lớn. Việc phân chia này giúp cho ngân hàng quản lý khách hàng
và các khoản vay tốt hơn do mỗi đối tượng này lai có nhu cầu tín dụng khác

9


nhau. Bên cạnh đó, quy trình nghiệp vụ tín dụng cho khách hàng doanh
nghiệp và khách hàng cá nhân rất khác nhau.
 Căn cứ vào hình thức cấp tín dụng
Căn cứ vào hình thức cấp tín dụng, người ta có những loại tin dụng sau:


Cho vay: đây là tài sản lớn nhất trong khoản mục tín dụng và cũng là

khoản mục mang lai nhiều lợi nhuận nhất cho ngân hàng. Trong cho vay,
người ta lại chia ra thành các loại: cho vay thấu chi, cho vay trực tiếp từng
lần, cho vay theo hạn mức, cho vay luân chuyển, cho vay gián tiếp, cho vay
trả góp...


Cho thuê tài chính: là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua

việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản
khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê và bên thuê. Tổng số
tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít nhất phải
tương đương với giá trị của tải sản đó tại thời điểm kí hợp đồng.



Bảo lãnh: bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới

hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách
hàng của ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam
kết. Bảo lãnh của ngân hàng có nghĩa ngân hàng là bên bảo lãnh; khách hàng
của ngân hàng là người được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh là bên thứ ba.
Tóm lại: hiện nay, các NHTM đều thực hiện đa dạng hoá các hình thức
tín dụng từ cho vay ngắn, trung và dài hạn, bảo lãnh cho khách, mua các tài
sản để cho thuê...Để mở rộng tín dụng có hiệu quả, các ngân hàng không chỉ
xây dựng và thực hiện đúng đắn chính sách tín dụng mà phải luôn đa dạng
hoá cá hình thức tín dụng cho phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách
hàng. Việc phân loại các hình thức tín dụng theo các tiêu chí khác nhau giúp
cho ngân hàng quản lý thanh khoản tốt hơn, tăng khả năng dự báo và phong
ngừa rủi ro, trên cơ sở đó thu được lợi nhuận tối đa.
1.1.4.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ

10


Trong nền kinh tế thị trường sự tồn tại và phát triển của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ là một tất yếu khách quan và cũng như các loại hình doanh
nghiệp khác trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp
này cũng sử dụng vốn tín dụng ngân hàng để đáp ứng nhu cầu thiếu hụt vốn
cũng như để tối ưu hoá hiệu quả sử dụng vốn của mình. Vốn tín dụng ngân
hàng đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò rất quan trọng,nó
chẳng những thúc đẩy sự phát triển khu vực kinh tế này mà thông qua đó tác
động trở lại thúc đẩy hệ thống ngân hàng, đổi mới chính sách tiền tệ hoàn
thiện các cơ chế chính sách về tín dụng, thanh toán ngoại hối… Để thấy được
vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ,

ta xét một số vai trò sau:
+ Tín dụng ngân hàng góp phần đảm bảo cho hoạt động của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ được liên tục.
Trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp luôn cần phải
cải tiến kỹ thuật thay đổi mẫu mã mặt hàng, đổi mới công nghệ máy móc thiết
bị để tồn tại đứng vững và phát triển trong cạnh tranh. Trên thực tế không một
doanh nghiệp nào có thể đảm bảo đủ 100% vốn cho nhu cầu sản xuất kinh
doanh. Vốn tín dụng của ngân hàng đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm máy móc thiết bị cải tiến phương thức kinh
doanh. Từ đó góp phần thúc đẩy tạo điều kiện cho quá trình phát triển sản
xuất kinh doanh đựơc liên tục.
+ Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Khi sử dụng vốn tín dụng ngân hàng các doanh nghiệp phải tôn trọng
hợp đồng tín dụng phải đảm bảo hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng hạn và phải tôn
trọng các điều khoản của hợp đồng cho dù doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả
hay không. Do đó đòi hỏi các doanh nghiệp muốn có vốn tín dụng của ngân
hàng phải có phương án sản xuất khả thi. Không chỉ thu hồi đủ vốn mà các
doanh nghiệp còn phải tìm cách sử dụng vốn có hiệu quả, tăng nhanh chóng
11


vòng quay vốn, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận phải lớn hơn lãi suất ngân hàng thì
mới trả được nợ và kinh doanh có lãi. Trong quá trình cho vay ngân hàng thực
hiện kiểm soát trước, trong và sau khi giải ngân buộc doanh nghiệp phải sử
dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả.
+ Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trong nền kinh tế thị trường hiếm doanh nghiệp nào dùng vốn tự có
để sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn vay chính là công cụ đòn bẩy để doanh

nghiệp tối ưu hoá hiệu quả sử dụng vốn. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
do hạn chế về vốn nên việc sử dụng vốn tự có để sản xuất là khó khăn vì vốn
hạn hẹp vì nếu sử dụng thì giá vốn sẽ cao và sản phẩm khó được thị trường
chấp nhận. Để hiệu quả thì doanh nghiệp phải có một cơ cấu vốn tối ưu, kết
cấu hợp lý nhất là nguồn vốn tự có và vốn vay nhằm tối đa hoá lợi nhuận tại
mức giá vốn bình quân rẻ nhất.
+ Tín dụng ngân hàng góp phần tập trung vốn sản xuất, nâng cao khả
năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ .
Cạnh tranh là một quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường, muốn tồn
tại và đứng vững thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh
tranh. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, do có một số hạn chế
nhất định, việc chiếm lĩnh ưu thế trong cạnh tranh trước các doanh nghiệp lớn
trong nước và nước ngoài là một vấn đề khó khăn. Xu hướng hiện nay của các
doanh nghiệp này là tăng cường liên doanh, liên kết, tập trung vốn đầu tư và
mở rộng sản xuất, trang bị kỹ thuật hiện đại để tăng sức cạnh tranh. Tuy nhiên
để có một lượng vốn đủ lớn đầu tư cho sự phát triển trong khi vốn tự có lại
hạn hẹp, khả năng tích luỹ thấp thì phải mất nhiều năm mới thực hiện được.
Và khi đó cơ hội đầu tư phát triển không còn nữa. Như vậy có thể đáp úng kịp
thời, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ có thể tìm đến tín dụng ngân hàng. Chỉ
có tín dụng ngân hàng mới có thể giúp doanh nghiệp thưc hiện được mục đích
của mình là mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh.
12


1.2.

Chất lượng tín dụng ngân hàng đối với DNV&N

1.2.2. Khái niệm về chất lượng tín dụng ngân hàng
Đối với các NHTM, cái được biểu hiện ra bên ngoài vừa cụ thể, vừa trừu

tượng của hoạt động tín dụng chính là chất lượng tín dụng. Chỉ khi chất lượng
tín dụng tốt tức là NH có nhiều khách hàng, uy tín NH được nâng cao tạo điều
kiện thúc đẩy cho NH phát triển.
Chất lượng tín dụng được hiểu là sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng phù
hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của NH.
Như vậy khi xem xét chất lượng tín dụng của NH nói chung và đối với
DNV&N nói riêng, cần tính đến ba nhân tố là NHTM, khách hàng, và nền
kinh tế.
Thứ nhất: Chất lượng hoạt động tín dụng xét từ giác độ NHTM
Chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải
phù hợp với khả năng, thực lực theo hướng tích cực của bản thân NH và phải
đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo nguyên tắc hoàn trả
đúng hạn và có lãi. Chất lượng hoạt động tín dụng phải thể hiện ở chỉ tiêu lợi
nhuận hợp lý và gia tăng, dư nợ ngày càng tăng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn đảm
bảo đúng quy định và hợp lý, đảm bảo cơ cấu nguồn vốn giữa ngắn hạn,trung
và dài hạn trong nền kinh tế.
Thứ hai: Chất lượng hoạt động xét từ giác độ khách hàng
Thông qua quan hệ lâu dài với khách hàng, sự am hiểu khách hàng sẽ
làm cho NH hiểu rõ nhu cầu tín dụng của NH, đảm bảo thoả mãn nhu cầu hợp
lý về vốn cho họ. Trong điều kiện cạnh tranh hiện nay, chất lượng là yêu cầu
hàng đầu, vì vậy chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu hợp lý của khách
hàng, lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản không phiền hà, thu hút được khách
hàng nhưng vẫn đảm bảo đúng nguyên tắc và quy định của tín dụng phù hợp
với tốc độ phát triển của xã hội, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của NH, góp
phần làm lành mạnh tài chính khách hàng.
Thứ ba: Chất lượng tín dụng xét từ giác độ nền kinh tế
13


Hoạt động tín dung trong những năm gần đây phản ánh rõ nét sự năng

động của nền kinh tế khi chuyển sang cơ chế mới. Nhiều khái niệm mới với
những nội dung mới để đạt được sự thống nhất, về nhận thức và tạo điều kiện
nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng.
Tín dụng phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động,
tăng thêm sản phẩm cho xã hội góp phần tăng trưởng kinh tế và khai thác khả
năng tiềm ẩn trong nền kinh tế, thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nước,
tranh thủ vay vốn nước ngoài có lợi cho nền kinh tế phát triển.
Từ những điều trên, ta có thể rút ra:
- Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức độ thích
nghi của NHTM và sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức
mạnh một NH trong quá trình cạnh tranh để tồn tại.
- Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều yếu tố: thu hút được
khách hàng tốt, thủ tục đơn giản, thuận tiện, mức độ an toàn của vốn tín dụng,
chi phí tổng thể về sản xuất, chi phí nghiệp vụ…
- Chất lượng tín dụng không tự nhiên mà có, nó là kết quả của một quy
trình kết hợp hoạt động giữa con người trong một tổ chức, giữa các tổ chức
với nhau vì một mục đích chung, do đó để đạt được chất lượng tín dụng cần
có sự quản lý.
Quản lý chất lượng về cơ bản là những hoạt động và kỹ thuật được sử
dụng nhằm đạt được chất lượng tốt.
1.3. Các chỉ tiêu xác định chất lượng tín dung
1.3.2.1. Chỉ tiêu định tính
Chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể vừa trừu tượng, chịu
ảnh hưởng của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan. Việc quy định tiêu
chuẩn cụ thể cho các chỉ tiêu định tính là rất khó khăn, và nó chỉ mang tính
tương đối. Căn cứ vào tình hình cụ thể của mỗi ngân hàng trong tương quan
của toàn hệ thống ngân hàng của mỗi một nền kinh tế, mỗi ngân hàng sẽ tự
xác định tiêu chí cho chỉ tiêu định tính khác nhau.
14



Các chỉ tiêu định tính có thể được đánh giá trên các khía cạnh sau:
 Việc thực hiện luật, các văn bản, chế độ hiện hành của ngành về hoạt
động tín dụng.
 Chính sách quản trị điều hành đúng đắn, chiến lược phát triển phù
hợp với yêu cầu cạnh tranh, phát triển kinh doanh của ngân hàng trong từng
giai đoạn cụ thể.
 Sự đóng góp của hoạt động tín dụng ngân hàng đến quá trình phát
triển kinh tế- xã hội.
 Uy tín của ngân hàng, mức độ thoả mãn của khách hàng đối với các
khoản tín dụng.
1.3.2.2. Chỉ tiêu định lượng
Đây là các chỉ tiêu có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đánh giá chất
lượng tín dụng. Thông qua các chỉ tiêu này, ngân hàng có thể xác định được
một cách khá chính xác chất lượng tín dụng của ngân hàng mình thông qua
những con số cụ thể. Vì thế, những con số được đưa ra để tính toán các chỉ
tiêu này cần phải chính xác và đầy đủ.
 Nhóm chỉ tiêu về tăng trưởng tín dụng:
 Dư nợ đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ: là số dư cuối kì trên bảng
cân đối kế toán của ngân hàng, chỉ tiêu này phản ảnh lượng vốn tại thời điểm
đó mà ngân hàng đã giải ngân cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
 Doanh số cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ: được tính bằng cách
cộng dồn các khoản vay trong một niên độ kế toán. Chỉ tiêu này phản ánh
lượng vốn mà các ngân hàng đã giải ngân cho các trong nghiệp vừa và nhỏ
trong một thời kì nhất định.
 Tỷ lệ dư nợ đối với DNV&N trên tổng dư nợ: phản ánh tỷ trọng dư
nợ tín dụng của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong tổng dư nợ của ngân hàng.
 Tỷ lệ tăng trưởng tín dụng đối với DNV&N: được tính bằng cách lấy
dư nợ cuối kì trừ đi dư nợ đầu kì, rồi chia cho dư nợ đầu kì.


15


Nhóm chỉ tiêu này phản ánh khả năng mở rộng tín dụng của ngân hàng
đối với đối tượng khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như uy tín của
ngân hàng đối với đối tượng khách hàng này. Các chỉ tiêu trên càng cao càng
thể hiện được khả năng của ngân hàng trong việc mở rộng tín dụng cho doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
Tuy nhiên, các chỉ tiêu này không phản ánh hết được chất lượng tín
dụng, mà nó chỉ có thể phản ánh được quy mô, tỷ trọng và tốc độ tăng trưởng
tín dụng vì đằng sau các khoản tín dụng đó còn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Tín dụng
là khoản mục đem lại nhiều lợi nhuận nhất cho ngân hàng nhưng cũng là hoạt
động đem lại nhiều rủi ro nhất. Vì vậy, khi đánh giá chất lượng tín dụng
không chỉ dựa vào nhóm chỉ tiêu về tăng trưởng mà còn phải sử dụng một số
nhóm chỉ tiêu khác nhằm có sự đánh giá toàn diện hơn.
 Nhóm chỉ tiêu về nợ có đảm bảo:
 Chỉ tiêu này được tính bằng cách lấy tỷ lệ phần trăm giữa nợ có tài
sản đảm bảo trên tổng dư nợ của NHTM tại một thời điểm nhất định. Chỉ tiêu
này phản ánh tỷ trọng nợ có tài sản đảm bảo là lớn hay nhỏ đối với tổng dư
nợ.
Tài sản đảm bảo có thể giúp ngân hàng giảm thiểu được thiệt hại khi rủi
ro tín dụng xảy ra. Trong thực tế, các khoản vay cần có tài sản đảm bảo thì giá
trị của khoản vay đó không được vượt quá 70% giá trị tài sản đảm bảo. Các
ngân hàng đặc biệt là các NHTM Nhà nước đang cố gắng tăng dần tỷ trọng
dư nợ có tài sản đảm bảo, bởi đây là nguồn thu hồi nợ có giá trị của ngân
hàng.
Bên cạnh đó, tài sản đảm bảo cũng làm tăng trách nhiệm của khách hàng
đi vay với khoản tín dụng được cấp, và tạo ra mối ràng buộc về lợi ích giữa
khách hàng và ngân hàng. Vì vậy, một tỷ lệ cao hay thấp dư nợ có tài sản đảm
bảo trên tổng dư nợ cũng phản ánh được chất lượng tín dụng của ngân hàng là

cao hay thấp. Tuy nhiên, chỉ tiêu này mới chỉ phản ánh khả năng thu hồi vốn

16


của ngân hàng khi có rủi ro xảy ra. Để đánh giá chất lượng tín dụng còn phải
xét số vốn thực tế chưa thu hồi được khi hết hạn hợp đồng tín dụng.
 Nhóm chỉ tiêu về nợ xấu:
 Tỷ lệ nợ quá hạn: được tính bằng tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn trên
tổng dư nợ của NHTM tại một thời điểm xác định. Nợ quá hạn là khoản nợ
mà khách hàng không trả được khi đến hạn thoả thuận trên hợp đồng. Chỉ tiêu
này phản ánh khả năng mất vốn của ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thì
khả năng mất vốn càng cao, chất lượng tín dụng thấp.
 Tỷ lệ nợ khó đòi: là tỷ lệ phần trăm giữa nợ khó đòi trên tổng dư nợ
quá hạn của NHTM tại một thời điểm nhất định. Nợ khó đòi là khoản nợ quá
hạn đã quá một kì gia hạn nợ. Chỉ tiêu này phản ánh một cách chính xác hơn
khả năng mất vốn của ngân hàng. Tỉ lệ này càng cao thì chất lượng tín dụng
của ngân hàng càng thấp
Các chỉ tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau và phản ánh các mức độ
rủi ro tín dụng khác nhau. Đối với ngân hàng, việc khách hàng không trả đúng
hạn có liên quan đến thanh khoản và rủi ro thanh khoản. Nợ khó đòi là một
lời cảnh báo cho ngân hàng. Tuy nhiên, khi đánh giá nợ quá hạn cũng cần
phải chú ý đến một số nghiệp vụ tín dụng như việc tính toán kì hạn nợ, điều
chuyển kì hạn nợ và gia hạn nợ có dựa trên những cơ sở đúng đắn hay không
vì nợ gia hạn không phải là nợ quá hạn có nghĩa là nó không nằm trong chỉ
tiêu nợ quá hạn. Nhưng chính nợ gia hạn cũng là phản ánh phần nào khả năng
mất vốn của ngân hàng. Nếu các ngân hàng gia hạn nợ không chú ý xem xét
đến khả năng trả nợ của khách hàng, mà chỉ cố gắng giảm chỉ tiêu nợ quá hạn
nhằm tạo ra chất lượng tín dụng giả tạo thì nợ gia hạn chính là nguy cơ lớn
đối với ngân hàng, thậm chí nó có thể dẫn ngân hàng đến tình trạng mất khả

năng thanh toán.Vì vậy, trong nhóm chỉ tiêu này ta có thể sử dụng cả chỉ tiêu
nợ quá hạn như sau:

17


 Tỷ lệ nợ gia hạn: là tỷ lệ phần trăm giữa nợ gia hạn trên tổng dư nợ
của ngân hàng tại một thời điểm nhất định. Tỷ lệ này càng thấp thì chất lượng
tín dụng của ngân hàng càng cao.
Những chỉ tiêu trên phản ánh mức độ an toàn vốn của ngân hàng. Những
chỉ tiêu này càng thấp thì phản ánh chất lượng tín dụng càng cao. Mặc dù mục
đích cao nhất của ngân hàng trong kinh doanh là an toàn, nhưng khi nói một
ngân hàng có chất lượng tín dụng tốt thì không thể không nói đến khả năng
sinh lãi của các khoản tín dụng đó. Vì vậy, để có được sự đánh giá chính xác
hơn về chất lượng tín dụng thì không thể bỏ qua chỉ tiêu về lợi nhuận.
 Chỉ tiêu về lợi nhuận từ hoạt động tín dụng:
Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng là lợi nhuận hàng năm từ hoạt động cho
vay của ngân hàng thường được tính tại thời điểm cuối năm. Chỉ tiêu này cao
phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng tốt và ngược lại. Vì bên cạnh
mục tiêu an toàn thì bất kì ngân hàng nào cũng phải hướng đến mục tiêu lợi
nhuận đặc biệt trong một nền kinh tế thị trường cạnh tranh.
Tóm lại: để có thể đánh giá chất lượng tín dụng một cách toán diện nhất
thì cần phải đánh giá đồng bộ các chỉ tiêu. Bởi vì mỗi chỉ tiêu chỉ có thể đánh
giá được chất lượng tín dụng là tốt hay xấu trên một phương diện nhất định.
1.3.3. Sự cần thiết nâng cao chất lượng tín dụng đối với NHTM
Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là động cơ to lớn nhất thúc đẩy
sự cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng với nhau, giữa các doanh nghiệp
với nhau và mặt trái của sự cạnh tranh này là những vấn đề nhức nhối trong
xã hội. Không thể có lợi nhuận khi mà các ngân hàng, các doanh nghiệp
hoạt động không hiệu quả, bên cạnh đó giải quyết các vấn đề như nạn thất

nghiệp, cải thiện đời sống cho người lao động cũng là vấn đề vô cùng cấp
thiết.
Ngân hàng thương mại cũng là doanh nghiệp, bỏ vốn của mình đầu tư
với mong muốn thu được lợi nhuận và thu hồi được vốn của mình. Hoạt
động thu lời của các ngân hàng thương mại nhất là các ngân hàng thương
18


mại ở Việt Nam chủ yếu là hoạt động tín dụng – hoạt động truyền thống.
Đảm bảo chất lượng cho các khoản tiền cho vay bản thân nó đối với ngân
hàng là một nhu cầu cấp thiết. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường khi các
ngân hàng thương mại ngày càng cạnh tranh gay gắt hơn, chất lượng của
các khoản vay đánh giá chất lượng của các ngân hàng thương mại, hiệu quả
tín dụng đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại. và đặc
biệt, đối với ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay không còn là cái
bóng của ngân hàng Trung Ương mà trở thành chủ thể kinh doanh độc lập
tự tìm kiếm lợi nhuận và tự chịu trách nhiệm đối với khách hàng và ngân
hàng TW
Đối với doanh nghiệp, lợi nhuận là vấn đề sống còn và đảm bảo sự tồn
tại của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, sự đào thải của thị
trường đối với doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả ngày càng khắt khe
hơn. Với mong muốn ngày càng phát triển doanh nghiệp luôn luôn có nhu
cầu tăng vốn và một trong những cách bổ sung hữu hiệu là vay vốn ngân
hàng. Cơ cấu vốn hợp lý sẽ mang lại doanh thu cao nhất cho doanh nghiệp
với chi phi thấp nhất. sử dụng vốn vay có hiệu quả có nghĩa là doanh
nghiệp dùng khoản tiền được vay đó sử dụng vào sản xuất kinh doanh một
cách hợp lý, tạo ra doanh thu lớn và mang lại lợi nhuận, việc nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn vay đối với doanh nghiệp là một điều cần thiết. Việc sử
dụng vốn vay có hiệu quả thể hiện việc kinh doanh của doanh nghiệp đạt
được kết quả mong muốn. Sự kiểm tra kiểm soát gắt gao của ngân hàng đối

với hoạt động của doanh nghiệp cũng là một trong những nhân tố thúc đẩy
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn. Bất kỳ một doanh
nghiệp nào khi bỏ tiền ra sản xuất kinh doanh đều mong doanh nghiệp của
mình hoạt động có hiệu quả, sinh lời cao, tạo ra những sản phẩm có chất
lượng, gia tăng thị phần và gây dựng thương hiệu vững mạnh trên thị
trường. Một trong những cách thức thực hiện được mong muốn đó là nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn vay.
19


Các ngân hàng hoạt động vì mục đích lợi nhuận và để tối đa hóa lợi
nhuận ngân hàng đa dạng hóa hiện đại hóa các dịch vụ tài chính mà mình
cung cấp. Sự phát triển của ngân hàng phụ thuộc chặt chẽ vào tốc độ tăng
trưởng và phát triển của nền kinh tế. Thông qua chính sách tín dụng của
mình, các ngân hàng đã góp phần vào sự phát triển của ngành, của lĩnh vực
sản xuất kinh doanh và do đó tạo ra những điều kiện về công ăn việc làm từ
đó cải thiện mức sống cho người lao động. Trong đó có hoạt động tín dụng
của ngân hàng liên quan đến rất nhiều đối tượng: Doanh nghiệp, đối tác,
các cơ quan chức năng quản lý… Ngân hàng có đặc thù so với các ngành
kinh tế khác ở chổ hoạt động của nó liên quan đến rất nhiều đối tượng ở
mọi ngành nghề. Điều này tất yếu việc ngân hàng có ảnh hưởng to lớn đến
đời sống kinh tế xã hội. Nâng cao hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp
- đặc biệt là với DNV&N - là vấn đề vô cùng quan trọng, không chỉ là
công việc hàng đầu của mỗi ngân hàng riêng lẽ mà là toàn bộ hệ thống
ngân hàng trong nền kinh tế.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng đối với
DNV&N
1.4.1 Nhân tố chủ quan
 Chính sách tín dụng:
Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của ngân hàng, đảm bảo

hoạt động tín dụng của ngân hàng đi đúng quĩ đạo. Nó có ý nghĩa quyết định
đến sự thành công hay thất bại của một ngân hàng. Căn cứ vào tình hình cụ
thể của mỗi thời kì mà ngân hàng hoạch định cho mình một chính sách tín
dụng phù hợp. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ giúp cho ngân hàng thu
hút được khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời cho hoạt động tín dụng trên
cơ sở phân tán rủi ro, nhờ đó mà phát huy được năng lực của bản thân ngân
hàng đồng thời tận dụng được sự thuận lợi và hạn chế tối đa bất lợi từ môi
trường kinh doanh. Điều đó cũng có nghĩa là chất lượng tín dụng phụ thuộc
vào sự đúng đắn của chính sách tín dụng. Bất cứ ngân hàng nào muốn hoạt
20


động tín dụng có chất lượng đều phải có chính sách tín dụng thích hợp cho
ngân hàng của mình.
 Quy trình tín dụng
Qui trình tín dụng bao gồm những qui định cần phải thực hiện trong
trong từng khâu của công tác tín dụng từ khi thẩm định, chuẩn bị cho vay, giải
ngân, giám sát quá trình cho vay đến khi thu hồi được nợ. Chất lượng tín
dụng có đảm bảo được hay không tuỳ thuộc vào sự hợp lý của các qui định ở
từng bước, sự thống nhất, chặt chẽ nhưng không rườm rà của toàn bộ qui
trình.
Trong qui trình tín dụng, bước chuẩn bị cho vay (khách hàng nộp hồ
sơ xin vay vốn, ngân hàng xem xét, cân nhắc để quyết định cho vay hay
không) là bước quan trọng nhất, có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng
vì đây là cơ sở để định lượng rủi ro trong quá trình vay. Giám sát quá trình
cho vay giúp ngân hàng nắm được tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng,
nhờ đó có thể có những biện pháp xử lí kịp thời nhằm ngăn ngừa rủi ro khi
chất lượng khoản cho vay bị đe doạ trong quá trình sử dụng vốn vay của
khách hàng.
Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi. Các

khoản tín dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản tín dụng an
toàn. Việc thanh toán nợ không đúng hạn cho ngân hàng cho thấy các "trục
trặc" trong hoạt động của khách hàng. Việc xem xét, tìm nguyên nhân là rất
quan trọng để giúp ngân hàng kịp thời đưa ra các quyết định mới liên quan
đến tính an toàn của khoản tín dụng.
 Công tác thẩm định dự án vay vốn
Thẩm định dự án là việc dùng các phương pháp phân tích, thu thập xử lý
thông tin, số liệu liên quan đến khách hàng vay vốn và dự án xin tài trợ để
dựa vào đó mà ngân hàng đưa ra quyết định có tài trợ hay không. Đây là công
tác có ý nghĩa rất quan trọng, ảnh hưởng lớn đến chất lượng tín dụng. Nếu kết
quả thẩm định không chính xác sẽ dẫn đến thiệt hại cho ngân hàng. Như khi

21


dự án vay vốn có tính khả thi, doanh nghiệp có năng lực sử dụng vốn vay
nhưng kết quả thẩm định lại đánh giá không chính xác tính khả thi của dự án,
đưa đến quyết định ngân hàng không cho vay; điều này khiến cho ngân hàng
mất một khoản lợi nhuận hơn thế nữa là mất một khách hàng tốt. Ngược lại,
nếu thẩm định mà không đánh giá hết rủi ro của dự án thì quyết định cho vay
sẽ khiến ngân hàng gặp rủi ro khó có thể thu hồi được vốn, giảm chất lượng
tín dụng.
Công tác thẩm định phải chính xác, thận trọng nhưng không mất quá
nhiều thời gian vì điều này sẽ kéo dài thời gian thực hiện dự án, giảm hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, thông qua quá trình
thẩm định dự án, ngân hàng có thể tư vấn cho chủ đầu tư trên cơ sở những
kinh nghiệm vốn có của mình, giúp cho dự án hiệu quả hơn, đồng thời thắt
chặt hơn mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng.
 Thông tin tín dụng
Thông tin tín dụng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động tín dụng của

ngân hàng. Nhờ có thông tin tín dựng, người quản lý có thể đưa ra những
quyết địng cần thiết liên quan đến cho vay, theo dõi và quản lý tài khoản cho
vay. Thông tin tín dụng có thể thu được từ các nguồn có sẵn ở ngân hàng như
hồ sơ vay vốn, thông tin giữa các tổ chức tín dụng, phân tích của cán bộ tín
dụng...; thông tin từ phía khách hàng như phỏng vấn trực tiếp, báo cáo định
kì, từ các cơ quan, tổ chức chuyên cung cấp thông tin tín dụng; hoặc từ các
nguồn thông tin khác như báo chí...Số lượng và chất lượng của thông tin có
được liên quan đến mức độ chính xác trong việc phân tích khách hàng, đánh
giá thị trường để đưa ra những quyết định phù hợp. Thông tin càng đầy đủ,
chính xác, toàn diện và nhanh nhạy thì khả năng nắm bắt cơ hội và phòng
ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng càng cao, chất lượng tín dụng từ đó mà
được nâng lên.
 Công tác tổ chức và trình độ nghiệp vụ của cán bộ
Cán bộ tín dụng đóng vai trò quan trọng nhất đối với hoạt động tín dụng
của ngân hàng cũng như chất lượng tín dụng. Đây là những người trực tiếp
22


thực hiện tất cả các khâu của qui trình tín dụng do đó việc bảo đảm an toàn và
tính sinh lời cho mỗi khoản tín dụng phụ thuộc vào trình độ cũng như đạo đức
nghề nghiệp của cán bộ tín dụng. Xã hội ngày càng phát triển thì càng đòi hỏi
chất lượng nhân sự cao hơn để có thể xử lý kịp thời, linh hoạt và hiệu quả
những tình huống có thể xảy ra trong hoạt động tín dụng, giúp ngân hàng
ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng.
Tuy nhiên, có một đội ngũ cán bộ có trình độ mới chỉ là điều kiện cần,
để có thể đảm bảo được chất lượng tín dụng thì việc tổ chức sắp xếp cán bộ sẽ
là điều kiện đủ. Công tác tổ chức cần phải sắp xếp một cách khoa học, đúng
người, đúng việc, đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban, giữa
các khâu của hoạt động tín dụng. Việc tổ chức một cách chặt chẽ sẽ giúp cho
ngân hàng đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng, giảm thiểu rủi ro trong

quá trình hoạt động, làm cho bộ máy của ngân hàng hoạt động trôi chảy, nhịp
nhàng, nhanh nhạy trước sự biến động không ngừng của môi trường kinh
doanh.
 Vốn tự có của ngân hàng
Vốn tự có là tiềm lực của ngân hàng, giúp cho ngân hàng có đủ khả
năng, điều kiện để mở rộng tín dụng, đáp ứng được nhu cầu về vốn ngày càng
lớn của các doannh nghiệp, tổ chức cũng như các cá nhân. Vốn chủ sở hữu
của ngân hàng càng lớn thì khả năng đáp ứng nhu cầu vay vốn càng cao. Bên
cạnh đó, vốn chủ sở hữu là điều kiện quan trọng để ngân hàng đầu tư đào tạo
cán bộ, nâng cấp trang thiết bị cơ sở vật chất nhằm nâng cao chất lượng phục
vụ, hiện đại hoá các qui trình kĩ thuật, trên cơ sở đó nâng cao chất lượng tín
dụng.
 Trang thiết bị, cơ sở vật chất của ngân hàng
Để có thể quản lý và thực hiện hoạt động tín dụng hiệu quả, ngoài việc
nâng cao công tác hoạch định chính sách, công tác tổ chức quản lý ngân
hàng...thì cần phải chú ý tới các phương tiện vật chất cần thiết phục vụ cho
hoạt động tín dụng. Đặc biệt trong tình hình hiện nay khi mà các ngân hàng
đang cạnh tranh rất khốc liệt bằng các dịch vụ mang tính hiện đại cao, đem lại
23


nhiều tiện ích cho người sử dụng thì việc hiện đại hoá ngân hàng, trang bị cơ
sở vật chất tiên tiến là bước đi tất yếu đối với mỗi ngân hàng nếu muốn tồn tại
và phát triển. Việc trang bị đầy đủ trang thiết bị tiên tiến phù hợp với khả
năng tài chính, qui mô và phạm vi hoạt động của ngân hàng sẽ giúp cho ngân
hàng đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi ngày càng cao của khách hàng với chi
phí thấp. Ngoài ra, ngân hàng còn có thể nắm bắt kịp thời, chính xác thông tin
về tình hình hoạt động tín dụng.
Tóm lại: chất lượng tín dụng chịu ảnh hưởng rất nhiều từ nhiều nhân tố
thuộc nội tại của mỗi ngân hàng. Sự ảnh hưởng của các nhân tố này là khác

nhau, tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế và tình hình cụ thể của mỗi
ngân hàng. Vấn đề cần quan tâm là làm thế nào để có thể phát huy được
những ảnh hưởng tích cực, sử dụng một cách linh hoạt các nhân tố này để có
thể thực hiện hoạt động tín dụng có chất lượng.
1.4.2. Nhân tố khách quan
1.4.2.1. Khách hàng
Khi một khoản tín dụng đã được cấp thì việc đảm bảo an toàn và tính
sinh lời của khoản vốn đó phụ thuộc rất nhiều vào chính khách hàng. Vì lúc
đó họ là người nắm giữ khoản tín dụng. Vì vậy, khách hàng là một trong
những nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Nếu chỉ có
sự nỗ lực từ phía ngân hàng thì khoản tín dụng được cấp cũng không được coi
là có chất lượng. Để đảm bảo tính an toàn và hiệu quả cho các khoản tín dụng
của ngân hàng thì khách hàng phải có năng lực ( về tài chính, quản lý điều
hành, trình độ lao động...), có dự án kinh doanh khả thi và có đạo đức nghề
nghiệp, có như vậy thì chất lượng tín dụng mới được nâng cao.
Năng lực tài chính của khách hàng mà cụ thể ở đây là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ thể hiện ở khả năng sinh lãi, vốn tự có, tài sản đảm bảo... Năng
lực tài chính càng cao thì khả năng trả nợ của doanh nghiệp càng cao, đảm
bảo được tính an toàn cho khoản vốn tín dụng.
Năng lực quản lý điều hành và trình độ của lao động trong doanh nghiệp
cũng không kém phần quan trọng. Đây là yếu tố mang tính quyết định đến
24


việc sinh lời của khoản tín dụng. Khả năng làm việc, trình độ cũng như năng
lực quản lý của doanh nghiệp sẽ làm cho khoản vốn được sử dụng đúng mục
đích, có hiệu quả tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp đủ để doanh nghiệp có
thể trả lãi cho ngân hàng đầy đủ, đúng hạn và tăng được vốn chủ sở hữu như
kế hoạch đã đề ra.
1.4.1.2. Môi trường kinh tế

Môi trường kinh tế là tiền đề cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh
trong nền kinh tế đó. Nền kinh tế phát triển ổn định sẽ làm cho các hoạt động
kinh tế diễn ra trôi chảy. Trong nền kinh tế ấy, hoạt động tín dụng sẽ khônh
phải chịu ảnh hưởng của lạm phát, khủng hoảng hay những sự biến động bất
thường của lãi suất, vì vậy mà chất lượng tín dụng được đảm bảo hơn. Trong
trường hợp này thì chất lượng tín dụng phụ thuộc chủ yếu vào các nhân tố chủ
quan tức là các nhân tố thuộc phía NHTM.
Tuy nhiên, để phát triển nền kinh tế thì bất kì quốc gia nào cũng giữ cho
mình một mức lạm phát vừa phải phù hợp với sự tăng trưởng kinh tế của
chính quốc gia đó. Vì vậy, qui mô tín dụng của các NHTM cấp ra và lãi suất
tín dụng phải phù hợp với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Nếu qui mô tín
dung mở rộng vượt quá mức tăng của nhu cầu vốn trong nền kinh tế thì rất có
thể xảy ra lạm phát, dẫn đến tình trạng đồng tiền mất giá, do đó chất lượng tín
dụng bị giảm xuống. Còn nếu lãi suất tín dụng không phù hợp với mức tăng
trưởng GDP thì ngân hàng khó có thể mở rộng cho vay. Bên cạnh đó, lãi suất
ngân hàng còn phải phù hợp với mức lợi nhuận của từng ngành, để khi cho
bất kì một doanh nghiệp trong một ngành cụ thể vay thì lợi nhuận họ thu được
từ hoạt động kinh doanh được tài trợ đủ để trả lãi cho ngân hàng và tăng được
vốn chủ sở hữu như kế hoạch.
Vì vậy, để nâng cao chất lượng tín dụng thì công tác dự báo và khả năng
nắm bắt thông tin thị trường, khả năng ứng phó kịp thời trước những biến
động bất thường của nền kinh tế là vô cùng quan trong đỗi với mỗi ngân hàng
thương mại.

25


×