Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Phân tích sự phát triển về vai trò của thị trường, chính phủ và các nhân tố tác động tới tăng trưởng qua các lý thuyết của K.Marx và các lý thuyết tăng trưởng hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.16 KB, 15 trang )

Phân tích sự phát triển về vai trò của thị trường, chính phủ và các nhân tố tác động
tới tăng trưởng qua các lý thuyết của K.Marx, Tân cổ điển, Keynes, Harrod Domar
và các lý thuyết tăng trưởng hiện đại.
A. Lý thuyết của K. Marx
I. Quan điểm về nhân tố tăng trưởng
Marx cho rằng các yếu tố liên quan đến quá trình sản xuất là đất đai, lao động, vốn và
công nghệ. Trong đó, ông nhấn mạnh vai trò của lao động vì nó tạo ra của cải thặng dư.
Đối với nhà tư bản, lao động chính là một thứ hàng hoá đặc biệt. Do vậy, lao động cũng
được mua trên thị trường và tiêu thụ trong quá trình sản xuất. Nhưng trong quá trình tiêu
thụ này, lao động có thể tạo ra giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó (đặc điểm mà các loại
hàng hoá khác không có). Giá trị này chính bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị
thặng dư.
Marx cũng cho rằng, trong xã hội TBCN, tiền lương của công nhân luôn ở mức tối thiểu
và chỉ đủ sống.
Tỷ lệ m/V phản ánh sự phân phối thời gian lao động của công nhân, trong đó (V) là làm
việc cho bản thân, (m) là sáng tạo ra của cải cho nhà tư bản và địa chủ.
Mặt khác, Marx cho rằng, mục đích của nhà tư bản chính là giá trị thặng dư. Để đạt được
điều này, họ tìm cách tăng thời gian làm việc của công nhân, giảm tiền lương công nhân
hoặc cải tiến kĩ thuật nhằm nâng cao năng suất lao động. Trong đó cải tiến kĩ thuật là
phương án khả thi nhất vì 2 cách kia đều có giới hạn. Tiến bộ kĩ thuật sẽ làm tăng số
lượng máy móc và dụng cụ cho người lao động, nghĩa là cấu tạo hữu cơ của tư bản C/V
có xu hướng tăng. Chính vì lẽ đó, các nhà tư bản cần nhiều vốn hơn để cải tiến kĩ thuật,
nâng cao năng suất lao động của công nhân.

1


Nhưng để có vốn dùng cho cải tiến kĩ thuật, các nhà tư bản không được tiêu dùng hết giá
trị thặng dư. Giá trị thặng dư phải được chia làm 2 phần, 1 phần để tiêu dùng cho nhà tư
bản, 1 phần để tích luỹ phát triển sản xuất. Đây cũng là nguyên lý tích luỹ của CNTB.
Các chỉ tiêu tổng hợp phản ánh giá trị tăng trưởng: K.marx đã đưa ra khái niệm tổng sản


phẩm quốc nội và thu nhập quốc dân để đánh giá kết quả hoạt động của nền kinh tế.
Trong đó tổng sản phẩm xã hội là toàn bộ sản phẩm được sản xuất ra trong một thời gian
nhất định, còn thu nhập quốc dân là phần còn lại của tổng sản phẩm xã hội sau khi đã trừ
đi chi phí sản xuất.
Đối sánh với các học thuyết khác: Lý thuyết của Karl Marx có vai trò vô cùng đặc
biệt trong lịch sử về lý thuyết tăng trưởng và rất khác biệt so với lý thuyết cổ điển.
Đối với các nhà kinh tế cổ điển, tư bản chỉ là một quỹ tiền lương, Marx thấy được
tư bản cố định bao hàm trong nó “khoa học và công nghệ”. Dự báo của Marx về sự tăng
trưởng trì trệ trong dài hạn (do tích luỹ tư bản ngừng lại) cũng dựa trên những lập luận
phân phối, đặc biệt là sự suy giảm của tỷ suất lợi tức trên vốn.
Điểm giống nhau cơ bản giữa mô hình của Marx và mô hình của Ricardo là ở chỗ:
cung lao động trong khu công nghiệp hiện đại hoàn toàn co dãn tại mức lương được xác
định tối thiểu, đây cũng là cơ sở cho việc tích luỹ tư bản nhanh chóng. Tuy nhiên, Marx
không thừa nhận quy luật dân số của Malthus trong khi Ricardo coi đó là cơ chế tạo ra
đường cung lao động hoàn toàn co dãn. Thay vào đó, Marx giải thích dựa trên sự tồn tại
của lực lượng lao động “thặng dư” bên cạnh số lao động đã được thuê trong khu vực sản
xuất công nghiệp. Marx gọi lực lượng thặng dư này là “đội quân hậu bị công nghiệp”,
bao gồm những người vô sản thấp kém- những người kiếm ăn bằng nhiều nghề khác
nhau trong đó có một công việc chính thức trong khu vực công nghiệp. Theo đó, họ sẵn
sàng chấp nhận mức lương tối thiểu mà các chủ tư bản đưa ra. Nếu đội quân hậu bị này
còn tồn tại thì mức lương tối thiểu trong khu công nghiệp vẫn luôn duy trì ở mức đủ
sống.
2


Theo quan điểm của Marx, tư bản bao gồm “tư bản khả biến” (là quỹ tiền lương trả
cho người lao động) và “tư bản bất biến” (quỹ tiền mua hàng hoá tư bản và các sản phẩm
trung gian), việc sử dụng tư bản bất biến không tạo ra “giá trị thặng dư” của nhà tư bản
bởi nhà tư bản mua máy móc, nguyên vật liệu với giá bằng giá trị mà tư bản bất biến đó
sẽ tạo ra. Mặt khác, nhà tư bản có thể áp đặt mức tiền lương thấp hơn giá trị mà người lao

động làm ra. Do đó, chỉ có tư bản khả biến mới đem lại giá trị thặng dư trong quá trình
sản xuất tư bản chủ nghĩa hay lao động tạo ra giá trị. Marx cho rằng quy luật phát triển
của tư bản chủ nghĩa là tỷ lệ tư bản bất biến trên tư bản khả biến tăng lên, do đó, tỷ lệ giá
trị thặng dư (lợi nhuận) trên tổng giá trị tư bản sẽ giảm xuống. Tỷ suất lợi nhuận giảm
dần làm giảm tích luỹ vốn và cuối cùng dẫn đến trạng thái ngừng tăng trưởng kinh tế nên
sẽ khuyến khích các nhà tư bản tiếp tục giảm tiền lương công nhân và do đó đẩy cuộc
sống người lao động lâm vào cảnh khốn khó hơn.
Quá trình phát triển tư bản theo Marx nhất thiết phải đi đôi với bất bình đẳng trong
phân phối thu nhập. Những người công nhân luôn chịu sự đe doạ bị sa thải bởi sự thay
thế của đội quân hậu bị. Thậm chí, thu nhập của người lao động ngày càng giảm so với
nhà tư bản do hiệu ứng tiết kiệm lao động của công nghệ hiện đại.
II. Vai trò của thị trường và chính phủ
Nhìn nhận về thị trường, Marx bác bỏ quan niệm trọng cung và coi đất đai là yếu tố ảnh
hưởng đến giới hạn tăng trưởng. Marx và tân cổ điển đều không phân biệt rành mạch
tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế:
Trên cơ sở giá cả linh hoạt và nền kinh tế ở trạng thái toàn dụng lao động:
 Cho rằng 1 nền kinh tế đang ở trạng thái tăng trưởng cân bằng mà chuyển sang
trạng thái tăng trưởng không cân bằng thì đó chỉ là nhất thời, nó sẽ mau chóng trở
về trạng thái cân bằng(nềnkinhtếluônđạtđượcsựcânbằng ở mứcsảnlượngtiềmnăng)
Cụ thể hơn, theo Marx, nguyên tắc cơ bản của sự vận động tiền và hàng trên thị trường là
phải đảm bảo sự thống nhất giữa giá trị và hiện vật. Lưu thông hàng hoá phải đảm bảo sự
3


phù hợp giữa khối lượng hàng hoá mua và bán. Nếu có sự chênh lệch quá nhiều giữa khối
lượng hàng hoá mua và bán sẽ dẫn đến khủng hoảng. Khủng hoảng chủ yếu trong CNTB
là khủng hoàng thừa khi số cầu tiêu thụ thiếu hụt. Ông cho rằng khủng hoảng là một giải
pháp khôi phục thăng bằng cho nền kinh tế và các nhà tư bản buộc phải đổi mới trên quy
mô lớn.
Vai trò của chính phủ:

Một trong những tiến bộ to lớn của học thuyết tăng trưởng của Marx so với các học
thuyết cổ điển là đã nhấn mạnh vai trò của chính phủ trong việc giúp các nhà tư bản ổn
định, thoát ra khỏi khủng hoảng. Các nhà kinh tế học cổ điển như Adam Smith và David
Ricardo phủ nhận sự can thiệp của Chính phủ, cho rằng các chính sách kinh tế không tác
động tới hoạt động của nền kinh tế, đôi khi còn làm hạn chế tăng trưởng, thì K.Marx cho
rằng: Chính sách của nhà nước có vai trò quan trọng, đặc biệt là chính sách kích cầu, ổn
định kinh tế…
B. Mô hình Tân cổ điển về tăng trưởng kinh tế:
Thời kỳ của trường phái tân cổ điển đánh dấu sự biến chuyển mạnh mẽ của khoa
học kĩ thuật, lý thuyết tăng trưởng của trường phái kinh tế “Tân cổ điển” có những điểm
thống nhất với trường phái “Cổ điển”, đồng thời có những điểm mới, tiến bộ hơn so với
các học thuyết trước đó.
I.
Quan điểm về các yếu tố tác động tới tăng trưởng
- Nền kinh tế có hai đường tổng cung: AS-LR phản ánh sản lượng tiềm năng, còn
đường AS-SR phản ánh khả năng thực tế. Tuy nhiên cũng như trường phái cổ điển
thì các nhà kinh tế tân cổ điển vẫn cho rằng nền kinh tế luôn luôn đạt được sự cân
-

bằng ở mức sản lượng tiềm năng.
Trường phái tân cổ điển bác bỏ quan điểm của trường phái cổ điển cho rằng trong
một tình trạng nhất định, tỉ lệ kết hợp của các yếu tố sản xuất la không thay đổi.
Lý thuyết tăng trưởng của trường phái tân cổ điển cho rằng vốn có thể thay thế

4


được nhân công và có nhiều cách kết hợp các yếu tố sản xuất.  Đây là một trong
-


những tiến bộ về quan niệm nổi bật của trường phái tân cổ điển
Đưa ra quan điểm “Phát triển kinh tế theo chiều sâu” bằng cách gia tăng số lượng
vốn cho một đơn vị lao động trong sản xuất, cò sự gia tăng vốn phù hợp với sự gia

-

tăng về lao động được gọi là “phát triển kinh tế theo chiều rộng”
Các nhà kinh tế của trường phái tân cổ điển cho rằng tiến bộ Khoa học kĩ thuật là
yếu tố cơ bản để thúc đẩy sự phát triển kinh tế, nhận định này đã phát triển hơn rất
nhiều so với yếu tố cơ bản của tăng trưởng trong lý thuyết tăng trưởng cổ điển (lao
động, đất đai là quan trọng nhất) và của K.Marx (lao động là yếu tố cơ bản của

tăng trưởng)
II.
Vai trò của Chính phủ trong tăng trưởng kinh tế
- Về việc đánh giá vai trò của chính phủ thì các nhà kinh tế tân cổ điển cho rằng:
Chính sách kinh tế của Chính phủ không thể tác động vào sản lượng,nó chỉ ảnh
hưởng đến mức giá cả,do vậy vai trò của Chính phủ là mờ nhạt trong nền kinh tế.
C. Mô hình tăng trưởng kinh tế của Keynes
John Maynard Keynes (1883-1946) là nhà kinh tế học Anh, được coi là nhà kinh tế học
có ảnh hưởng lớn nhất đối với kinh tế học phương Tây hiện đại và chính sách kinh tế của
các chính phủ nhằm duy trì và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Vào những năm 30 của thế kỷ 20 ,khủng hoảng kinh tế 1929-1933 cho thấy học thuyết
“tự điều tiết” của thị trường và “bàn tay vô hình” của trường phái tân cổ điển đã không
còn sức thuyết phục.
Năm 1936, trong tác phẩm “Lý thuyết chung về việc làm,lãi suất và tiền tệ” của
J.Keynes đánh giá sự ra đời của một học thuyết mới.
I.Sự cân bằng của nền kinh tế:-J.Keynes cho rằng:
-Nền kinh tế có xu hướng tự điều chỉnh đi đến cân bằng ở một mức sản lượng nào đó
dưới mức công ăn việc làm đầy đủ cho tất cả mọi người,tại nơi mà những khoản chi tiêu

mới cho đầu tư được hình thành từ tiết kiệm bắt đầu được đưa vào hệ thống kinh tế.

5


Khi mô tả nền kinh tế, cũng giống như mô hình cổ điển, ông cho rằng có hai đường
tổng cung: AS - LR phản ánh mức sản lượng tiềm năng của nền kinh tế, và AS - SR phản
ánh khả năng thực tế. Nhưng khác so với quan điểm của các nhà kinh tế tân cổ điển, cân
bằng của nền kinh tế không nhất thiết ở mức sản lượng tiềm năng, mà thông thường sản
lượng thực đạt được ở mức cân bằng nhỏ hơn mức sản lượng tiềm năng, nơi mà dưới
mức công ăn việc làm đầy đủ cho mọi người.
II.Vai trò của tổng cầu trong việc xác định sản lượng
Keynes đánh giá cao vai trò của tiêu dùng trong việc kéo theo sản lượng thực tế:
Khi thu nhập tăng lên thì xu hướng tiết kiệm trung bình cũng tăng lên và xu hướng
tiêu dung trung bình sẽ giảm xuống => kết quả là giảm cầu tiêu dùng.Đây là nguyên nhân
của trì trệ trong kinh tế.
Mặt khác, ông cho rằng đầu tư đóng một vai trò quyết định đến quy mô việc làm và
theo đó là tăng trưởng kinh tế. Mỗi sự gia tăng của đầu tư đều kéo theo sự gia tăng của
cầu bổ sung công nhân, cầu về tư liệu sản xuất. Do vậy, làm tăng cầu tiêu dùng, tăng giá
hàng, tăng việc làm cho công nhân. Tất cả điều đó làm cho thu nhập tăng lên. Ông
viết:”sự thúc đẩy tăng sản lượng phụ thuộc vào hiệu suất cận biên của một khối lượng
tiền vốn nhất định tăng lên so với lãi suất”.
Ông đã đề xuất nhiều hình thức hoạt động để kích thích và tăng tổng cầu và việc
làm, do đó đây còn được gọi là lý thuyết trọng cầu.
So sánh với lý thuyết tăng trưởng kinh tế của mô hình tân cổ điển thì lại là lý thuyết
trọng cung,đề cao vai trò sản xuất của giới chủ, đề cao cơ chế điều tiết của thị trường tự
do.Các nhà kinh tế học tân cổ điển cho rằng tiến bộ kỹ thuật là yếu tố cơ bản để thúc đẩy
sự phát triển kinh tế.
III.Vai trò của chính sách kinh tế với tăng trưởng
Theo Keynes, để đảm bảo sự cân bằng kinh tế, khắc phục thất nghiệp, khủng hoảng và

6


duy trì tăng trưởng kinh tế thì không thể dựa vào cơ chế thị trường tự điều tiết, mà cần
phải có sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế để tăng cầu có hiệu quả, kích thích tiêu
dùng, sản xuất, kích thích đầu tư để bảo đảm việc làm và tăng thu nhập. Theo ông, chính
phủ có thể can thiệp vào nền kinh tế nhằm thúc đẩy tăng trưởng thông qua các hoạt động:
đầu tư nhà nước; hệ thống tài chính tín dụng và lưu thông tiền tệ; các hình thức khuyến
khích tiêu dùng.
Ông đề nghị :
-Chính phủ sử dụng ngân sách để kích thích đầu tư (thông qua đơn đặt hàng của chính
phủ ,trợ cấp vốn cho các doanh nghiệp)
-Áp dụng nhiều biện pháp để tăng lợi nhuận,giảm lãi suất.
-Tăng khối lượng tiền trong lưu thong,lạm phát có mức độ.
-Coi trọng hệ thống thuế,áp dụng thuế thu nhập lũy tiến để làm cho phân phối công bằng
hơn.
-Coi trọng đầu tư của Chính phủ vào khu vực công,trợ cấp thất nghiệp,… như là một
loại bơm trợ lực khi đầu tư tư nhân giảm sút.
=> So sánh với mô hình tân cổ điển ,các nhà kinh tế học tân cổ điển cho rằng chính sách
kinh tế của chính phủ không thể tác động vào sản lượng,nó chỉ có thể làm ảnh hưởng đến
mức giá của nền kinh tế,do đó vai trò của Chính phủ là mờ nhạt trong phát triển kinh
tế.Họ cho rằng trong điều kiện thị trường cạnh tranh,khi nền kinh tế có biến động thì sự
linh hoạt về giá cả và tiền công là nhân tố cơ bản khôi phục nền kinh tế về vị trí sản
lượng tiềm năng với việc sử dụng hết nguồn lao động.

D. Mô hình Harrod Domar

7



Trong mô hình nghiên cứu, Harrod - Domar đã cố định yếu tố công nghệ kỹ thuật
trong phân tích tác dộng của các nhân tố đến tăng trưởng. Điều đó đồng nhất với việc chỉ
có 3 yếu tố: vốn (K), lao động (L) và tài nguyên (R) cấu thành hàm sản xuất của Harrod Domar Y = F(K, L, R). Trong đó, L và R được xem là các yếu tố nguồn lực, sẽ được huy
dộng vào hoạt dộng trên cơ sở khả năng tạo ra vốn sản xuất gia tăng (K) của nền kinh tế.
Yếu tố công nghệ không được đưa vào hàm sản xuất trong mô hình Harrod - Domar, điều
đó không có nghĩa là các ông phủ nhận vai trò của yếu tố này trong tăng trưởng mà được
giả thiết gia tăng với một tốc độ cố định.
Vai trò của yếu tố vốn:
Mô hình Harrod - Domar coi đầu ra của bất kỳ một đơn vị kinh tế nào, dù là một công ty,
một ngành công nghiệp hay toàn bộ nền kinh tế phụ thuộc vào tổng số vốn đầu tư cho nó.
Vai trò của vốn đối với sự tăng trưởng kin tế thể hiện qua các chỉ tiêu:
(1) Hệ số gia tăng vốn - sản lượng (Hệ số ICOR - Incremental Capital Output Ratio)
Việc phân tích hệ số ICOR đã giúp Harrod - Domar tìm ra được cụ thể mối quan hệ giữa
mức tăng trưởng GDP (ΔY) của thời kỳ sau với mức đầu tư (I) của kỳ trước. Hệ số ICOR
của một thời kỳ (t+1) phản ánh mức vốn gia tăng cần có để tạo ra một đơn vị thu nhập gia
tăng của kỳ đó:
kt+1 =Δ kt+1/ ΔYt+1
Vốn sản xuất gia tăng của năm (t+1) được hình thành trên cơ sở vốn đầu tư của giai đoạn
trước (It), vì vậy có thể viết:
kt+1 =It / ΔYt+1
Như vậy hệ số gia tăng vốn - sản lượng là mức vốn đầu tư cần thiết của giai đoạn trước
để có thêm 1 đơn vị thu nhập của giai đoạn sau (GDP). Hệ số này nói lên vốn được tạo
nên bằng đầu tư là yếu tố cơ bản tạo nên mức tăng trưởng. Hệ số ICOR phản ánh trình độ

8


kỹ thuật của sản xuất, năng lực của vốn đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Hệ số
ICOR chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố:
(i) Trình độ công nghệ, kỹ thuật của sản xuất: Nếu trình độ kỹ thuật của sản xuất thô sơ,

sử dụng công nghệ thủ công, đòi hỏi nhiều lao động (tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng)
thì chỉ số ICOR nhỏ. Chỉ số ICOR càng lớn chứng tỏ trình độ kỹ thuật của sản xuất ngày
càng hiện đại hơn (nền kinh tế tăng trưởng theo chiều sâu).
(ii) Mức độ khan hiếm nguồn lực: Nếu nguồn lực càng khan hiếm thì chi phí cho đầu tư
càng cao, làm hệ số ICOR ngày càng lớn hơn.
(iii) Hiệu quả sử dụng của vốn đầu tư: Nếu vốn đầu tư được phân bổ vào những lĩnh vực
sản xuất kinh doanh tạo thu nhập cao, sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả cao hơn, tránh
được thất thoát, lãng phí thì hệ số ICOR sẽ thấp hơn. ICOR càng cao thể hiện đầu tư càng
không có hiệu quả.
Theo đó, ICOR vận động theo hai khuynh hướng:

 Dưới sự tác động của 2 nhân tố (i) và (ii), hệ số ICOR có xu hướng
ngày càng tăng lên trong quá trình phát triển kinh tế, nó thể hiện trình
độ phát triển ngày càng cao hơn. Lĩnh vực sản xuất, kinh doanh công
nghiệp thường có hệ số ICOR cao nhất;
 Dưới tác động của nhân tố (iii), hệ số ICOR sẽ có xu hướng giảm trong
quá trình nâng cao hiệu quả của quản lý và sử dụng vốn đầu tư xã hội
và lựa chọn lĩnh vực đầu tư hiệu quả.
(2) Mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế với tiết kiệm và đầu tư
Gọi thu nhập của nền kinh tế là (Y), tốc độ tăng trưởng kinh tế là g thì:
gt+1 = ΔYt+1/Yt
Sử dụng công thức tính ICOR ở trên, thay vào công thức này, ta có:
9


gt+1 = Δ kt+1/k x Yt
Theo giả định trong nghiên cứu của Harrod - Domar: Δ k t+1 = It = St; mức vốn sản xuất
gia tăng của thời kỳ sau bằng mức đầu tư của thời kỳ trước và tổng đầu tư bằng tổng tiết
kiệm. Ta có:
gt+1 = It/k x Yt = St/k x Yt

Nếu gọi s là tỷ lệ tích lũy trong GDP và mức tích lũy là S:
s = S/Y
Do đó chúng ta có:
gt+1 = st/kt+1
Như vậy bằng việc mô tả dưới dạng công thức, phương trình Harrod - Domar đã xây
dựng mối liến kết chắc chắn giữa tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế với hai biến số cơ
bản: khả năng tiết kiệm của nền kinh tế và hệ số gia tăng vốn - sản lượng. Bằng cách đẩy
mạnh tỷ lệ tiết kiệm thì có thể đẩy nhanh tỷ lệ tăng trưởng. Tương tự như vậy, bằng cách
hạ thấp hệ số gia tăng vốn - sản lượng thì tăng trưởng cũng sẽ được đẩy nhanh.
Trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng với tiết kiệm và hệ số gia tăng
vốn - sản lượng, Harrod - Domar đã đưa ra ba khái niệm về tốc độ tăng trưởng có ý nghĩa
quan trọng trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế quốc dân:
Tốc độ tăng trưởng bảo đảm gw: là thương số giữa tỷ lệ tiết kiệm theo dự kiến và hệ số
gia tăng vốn - sản lượng dự kiến.
Tốc độ tăng trưởng thực tế gr: được hình thành bởi tỷ lệ tiết kiệm dự kiến và hệ số gia
tăng vốn - sản lượng thực tế.
Tốc độ tăng trưởng tự nhiên gf: là tốc độ tăng trưởng đạt được trong điều kiện toàn dụng
công nhân (đạt được mức tiềm năng).

10


Nếu gw = gr= gf Harrod - Domar gọi đó là thời kỳ vàng của nền kinh tế, và đây chính là
điều kiện tăng trưởng kinh tế ổn định: sự cân bằng giữa tốc độ tăng trưởng thực tế với tốc
độ tăng trưởng bảo đảm; sự cân bằng giữa tốc độ tăng trưởng bảo đảm với tốc độ tăng
trưởng tự nhiên. Tuy nhiên trên thực tế, khả năng nền kinh tế tăng trưởng ổn định là rất
thấp. Trong điều kiện kinh tế thị trường, do sự biến động thường xuyên của các yếu tố
cấu thành tổng cầu nên tốc độ tăng trưởng thực tế luôn có xu thế tách khỏi tốc độ tăng
trưởng đảm bảo.
E. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại:

Lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại xuất hiện vào thập niên 40 của thế kỷ 20, học
thuyết của Keynes được áp dụng một cách rộng rãi tuy nhiên học thuyết này lại có xu
hướng quá nhấn mạnh vào vai trò của chính sách kinh tế, hạn chế mức độ tự điều chỉnh
của thị trường dẫn tới những trở ngại cho quá trình tăng trưởng. Tới năm 1948, tác phẩm
“Kinh tế học” của P.A. Samuelson ra đời đánh dấu bước phát triển mới học học thuyết
tăng trưởng kinh tế hiện đại, sự kết hợp của học thuyết tân cổ điện và học thuyết của
Keynes.
Lần đầu tiên khái niệm nền kinh tế hỗn hợp được đưa ra như là cơ sở của học thuyết
tăng trưởng kinh tế hiện đại. Một nền kinh tế hỗn hợp, trong đó thị trường có vai trò quan
trọng trong việc xác định những vấn đề cơ bản của tố chức kinh tế và Nhà nước cũng
tham gia dẫn dắt, điều tiết một cách có mức độ nhằm hạn chế những mặt tiêu cức của thị
trường. Khái niệm nền kinh tế hỗn hợp chính là bước tiến bộ đầu tiên của học thuyết tăng
trưởng kinh tế hiện đại so với các lý thuyết trong quá khứ như Adam Smith, David
Ricardo, K.Marx hay các học thuyết tân cổ điển… khi đã đưa ra được khái niệm nền kinh
tế mà trong đó, vai trò của thị trường và Nhà nước cùng song hành quản lý và điều chỉnh.
I, Sự cân bằng của nền kinh tế
Trong lý thuyết tăng trưởng hiện đại, các nhà kinh tế học thừa nhận 2 điểm rất quan
trọng trong mô hình tăng trưởng của Keynes đó là: sự cân bằng của nền kinh tế dựa theo
mô hình của Keynes, nghĩa là điểm cân bằng của nền kinh tế không nhất thiết phải tại
11


mức sản lượng tiềm năng, như các quan điểm của trưởng phái cố điển và học thuyết của
K.Marx thừa nhận, mà thường nằm dưới mức sản lượng tiềm năng, kết hợp với tư tưởng
của trường phái tân cố điển khi cho rằng tổng cung và tổng cầu đều có vai trò tác động tới
tăng trưởng của nền kinh tế mà từ đó các nhà kinh tế học hiện đại đã đưa ra được lý
thuyết của nền kinh tế hỗn hợp. Thứ hai là trong khi nền kinh tế hoạt động bình thường
nền kinh tế vẫn có thất nghiệp và lạm phát và nhà nước phải xác định tỉ lệ thất nghiệp tự
nhiên và mức lạm phát có thể chấp nhận được.


II, Các yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế:
Lý thuyết tăng trưởng hiện đại cũng thống nhất với những tiến bộ và phát triển trong
quan điểm của trường phái tân cổ điển về các yếu tố tác động đến sản xuất là: vốn, nhân
lức,tài nguyên thiên nhiên và khoa học công nghệ (K,L,R,T), đây là nguồn gốc của sự
tăng trưởng trong đó yếu tớ vốn (K) và nhân lực (L) có thể thay thế cho nhau và cũng
nhận định rằng đây là 2 yếu tố quan trọng nhất trong tăng trưởng kinh tế đồng thời cũng
cho rằng yếu tố tài nguyên thiên nhiên hầu như không tác động đến tăng trưởng kinh tế
Y=f(K,L,R,T). Cùng với đó, Samuelson có cùng một cách nhìn nhận về vai trò của vốn
trong tăng trưởng kinh tế với học thuyết Tân cổ điển và đặc biệt là quan điểm của Keynes
về vai trò của vốn trong tăng trưởng kinh tế, ông nhận mạnh rằng “Kỹ thuật công nghiệp
tiên tiến hiện đại dựa vào sử dụng vốn lớn, vốn là cơ sở để sử dựng các yếu tố khác”. Đó

12


là lý do vì sao kinh tế hiện đại hệ số gia tăng vốn đầu ra (ICOR) vẫn được coi là cơ sở để
xác định tỷ lệ đầu tư cần thiết phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế.
III, Sự tiến bộ và phát triển trong vai trò của thị trường:
Một trong những tiến bộ đáng kể trong học thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại so với
các học thuyết trước đó, khi mô hình cổ điển nhận định rằng thị trường với “bàn tay vô
hình” tự điều tiết xác lập điểm cân bằng, còn các học thuyết Tân cổ điển và Keynes mới
chỉ ra được vai trò của thị trường qua việc tập trung hơn vào tổng cầu AD, thì lý thuyết
tăng trưởng kinh tế hiện đại đã đánh giá được vai trò của thị trường tới tăng trưởng kinh
tế. Nhà kinh tế học Samuelson đã diễn đạt được các quy luật cơ bản của nền kinh tế thị
trường. Lý thuyết tăng trưởng hiện đại với đại diện tiêu biểu là Samuelson cho rằng thị
trường là nhân tố, lực lượng cơ bản điều tiết hoạt động của thị trường. Lần đầu tiên
Samuelson đưa ra khái niệm về thị trường và cơ chế thị trường.
Theo Samuelson, thị trường là quá trình mà thông qua đó, người bán và người mua
gặp nhau để xác định giá, khối lượng sản phần cần sản xuất. Cơ chế thị trường là một
hình thức tổ chức kinh tế, trong đó cá nhân người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác

động lẫn nhau qua thị trường để xác định ba vấn đề trung tâm của một tổ chức kinh tế đó
là sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào?
Nói tới thị trường là nói tới cung cầu hàng hóa và quy luật cung cầu hàng hóa, chính
sự tác động qua lại giữa tổng mức cung và tổng mức cầu tạo ra mức thu nhập thực tế,
công ăn việc làm- tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ lạm phát. Cùng với chính sách của Chính phủ,
thị trường là nhân tố điều tiết hoạt động của thị trường.
Tuy nhiên việc đánh giá được vai trò của thị trường trong tăng trưởng kinh tế vẫn
chưa phải là điểm tiến bộ nhất của lý thuyết tăng trưởng hiện đại so với các lý thuyết
trước đó, thành tựu quan trọng của lý thuyết hiện đại là đã đánh giá được rằng nền kinh tế
hỗn hợp vận động theo cơ chế hỗn hợp, với vai trò trung tâm dẫn dắt của chính phủ trong
việc điều tiết các hoạt động thị trường.
13


IV, Vai trò của Chính phủ trong tăng trưởng kinh tế:
Trở lại với lý thuyết tăng trưởng cổ điển, Adam Smith và David Ricardo đã phủ nhận
sự can thiệp của chính phủ, cho rằng chính phủ không cần can thiệp, mà thị trường tự
điều tiết hoạt động của thị trường. Tiền bộ hơn với những quan điểm của K.Marx khi ông
nhận ra được vai trò của chính phủ trong việc ra các chính sách kinh tế, tuy nhiên vai trò
ấy chỉ dừng lại ở mức khuyến khích và kích cầu. Cùng quan điểm với Marx, Keynes
cũng đã nhìn nhận và đánh giá cao vai trò của Chính phủ trong việc điều tiết và kích cầu
tiêu dùng, đồng thời có vai trò quan trọng trong thúc đẩy, kích cầu đầu tư khi nền kinh tế
giảm sút và đầu tư vào các công trình công cộng.
Với xu hướng nổi bật là vai trò ngày càng tăng của Chính phủ trong tăng trưởng kinh
tế, nó không chỉ vì thị trường có những khuyết tật mà bản thân nó không thể tự khắc
phục được mà còn bởi vì những mục tiêu mà xã hội đặt ra mà thị trường không thể đáp
ứng được. Theo Samuelson trong nền kinh tế hỗn hợp với “bàn tay vô hình” của thị
trường và “bàn tay hữu hình” của chính phủ thì Chính phủ có bốn chức năng cơ bản tiến
bộ hơn so với các học thuyết trước đó: Thiết lập khuôn khổ pháp luật; xác định chính
sách ổn định kinh tế vĩ mô; tác động vào việc phân bố tài nguyên để cải thiện hiệu quả

kinh tế; thiết lập các chương trình tác động tới việc phân phối thu nhập.  Qua những
chức năng nêu trên ta có thể nhận thấy sự phát triền và tiến bộ một cách rõ rệt trong vai
trò của Chính phủ tỏng tăng trưởng kinh tế của Lý thuyết tăng trưởng hiện đại.
Và để thực hiện được những chức năng đó Chính phủ cần:
+ Tạo ra môi trường ổn định
+ Đưa ra những định hướng cơ bản về phát triển kinh tế
+ Duy trì công ăn việc làm ở mức cao bằng các chính sách thuế, tiền tệ
+ Phân phối lại thu nhập qua thuế
+ Thực hiện các phúc lợi công cộng
14


Tuy nhiên cũng có những trường hợp giải pháp của chính phủ đưa ra là không đúng
do vậy phải kết hợp được cơ chế thị trường và sự điều tiết của Chính phủ thành nền kinh
tế hỗn hợp

15



×