MỤC LỤC
L ỜI MỞ ĐẦU . 4
C HƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC TIÊU THỤ SẢN PHẨM
CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. 6
1.1 Khái niệm, vai trò của công tác tiêu thụ sản phẩm.
1.1.1 Khái niệm tiêu thụ sản phẩm. 6
1.1.2 Sự cần thiết phải đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm.
8
1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ và biện pháp
chủ yếu để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. 9
1.2.1 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ và tăng doanh thu
tiêu thụ sản phẩm. 9
1.2.2 Các biện pháp chủ yếu để đẩy mạnh tiêu thụ và tăng doanh thu
tiêu thụ sản phẩm. 14
C HƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TIÊU THỤ Ở CÔNG TY BÓNG ĐÈN
PHÍCH NƯỚC RẠNG ĐÔNG. 20
2.1 Khái quát chung về tình hình sản xuất kinh doanh của công ty. 20
2.1.1 Quá trình hình thành công ty. 20
2.1.2 Đặc điểm về tổ chức, quản lý sản xuất của công ty. 23
2.1.3 Đặc điểm về quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm. 24
2.1.4 Đặc điểm về sản phẩm của công ty. 25
2.1.5 Đánh giá chung về hoạt động của công ty. 27
2.2 Tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty năm 2000. 28
2.2.1 Công tác lập kế hoạch tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ của công ty. 28
2.2.2 Tình hình tổ chức thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của
công ty năm 2000. 31
C HƯƠNG III: MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ BIỆN PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ ĐẨY
2
MẠNH TIÊU THỤ SẢN PHẨM Ở CÔNG TY BÓNG ĐÈN PHÍCH NƯỚC RẠNG
ĐÔNG. 35
3.1 Phương hướng phát triển của công ty trong thời gian tới.
35
3.2 Những giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh tiêu thụ ở Công ty
Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông. 35
3.2.1 Hoàn thiện công tác lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm.
36
3.2.2 Hoàn thiện hơn nữa công tác tổ chức bán hàng. 37
3.2.3 Nâng cao chất lượng, đa dạng hoá và cải tiến mẫu mã sản phẩm.
38
3.2.4 Tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. 40
3.2.5 Tăng cường sử dụng triệt để các biện pháp tài chính
để thúc đẩy tiêu thụ. 42
3.2.6 Xây dựng chiến lược quảng cáo tổng hợp nhiều hình thức nhưng
tiết kiệm và hiệu quả. 43
K ẾT LUẬN. 45
T ÀI LIỆU THAM KHẢO . 46
3
LỜI MỞ ĐẦU
Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung
sang cơ chế thị trường đến nay tuy còn mới mẻ nhưng nó đã cuốn hút hầu hết
các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia. Từ đây, nhiều doanh
nghiệp đã bắt kịp được với cơ chế mới và kinh doanh có hiệu quả, tuy nhiên
cũng có không ít những doanh nghiệp vẫn nằm trong tình trạng làm ăn thua lỗ
và đứng trước nguy cơ phá sản. Bởi trong cơ chế mới các doanh nghiệp cùng
sản xuất hàng hoá, cùng tồn tại cạnh tranh và bình đẳng với nhau trước pháp
luật, đã tạo đà cho nền kinh tế phát triển mạnh mẽ bằng sự đào thải những doanh
nghiệp làm ăn thua lỗ, thay thế bằng những doanh nghiệp có năng lực, nhạy bén
và có khả năng phát triển.
Vậy vấn đề quyết định sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp sản
xuất đó chính là hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp
phải thực hiện tốt nguyên tắc hạch toán kinh doanh “lấy thu bù chi và có lãi”.
Một trong những khâu ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động sx kinh
doanh của doanh nghiệp là khâu tiêu thụ sản phẩm. Trong nền kinh tế thị trường,
doanh nghiệp sản xuất sản phẩm là để tiêu thụ và hoạt động đó diễn ra trên thị
trường ngày càng có sự cạnh tranh gay gắt, quyết liệt. Vì vậy, làm tốt công tác
tiêu thụ sản phẩm sẽ giúp doanh nghiệp có nguồn tài chính để tái sản xuất giản
đơn và tái sản xuất mở rộng, tăng nhanh vòng quay của vốn và đem lại hiệu quả
kinh doanh cao. Đồng thời, qua đó cũng tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng
trưởng, phát triển và hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Xuất phát từ ý nghĩa và vai trò đó, các nhà sản xuất kinh doanh không
ngừng hoàn thiện công tác tiêu thụ sản phẩm sao cho phù hợp với sự cạnh tranh
ngày càng gay gắt, phức tạp của nền kinh tế thị trường và làm thế nào để đẩy
4
mạnh khả năng tiêu thụ sản phẩm là cả một quá trình nghiên cứu, phân tích,
đánh giá một cách chính xác tình hình mọi mặt của doanh nghiệp mình: tình
hình thị trường, tình hình đối thủ cạnh tranh, tình hình kinh tế xã hội... Trên cơ
sở đó, các nhà lãnh đạo doanh nghiệp cần có sự quản lý sáng suốt, linh hoạt,
nhạy bén và năng động để vạch ra những hướng đi đúng đắn nhất. Làm tốt được
những điều đó thì doanh nghiệp mới khẳng định được sự tồn tại và phát triển
của mình, nếu không doanh nghiệp sẽ tự đào thải mình ra khỏi thị trường.
Hoà cùng với không khí chung của nền kinh tế đất nước, ngành sành sứ
thuỷ tinh công nghiệp Việt Nam đã nhanh chóng tham gia vào quá trình đổi mới,
Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông với hoạt động chính là sản xuất kinh
doanh sản phẩm phích nước nóng và bóng đèn điện các loại, đã không ngừng
nâng cao chất lượng sản phẩm và việc đẩy mạnh tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu
thụ sản phẩm đang trở thành vấn đề bức xúc nhất và được đặt lên vị trí quan tâm
hàng đầu của công ty.
Xuất phát từ quan điểm này, trong thời gian được về thực tập tại Công ty
Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông, tôi đã cố gắng nghiên cứu, tìm hiểu về công
tác tiêu thụ sản phẩm của công ty thông qua đề tài “Thực trạng về công tác tiêu
thụ sản phẩm ở Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông”.
Nội dung đề tài bao gồm:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về công tác tiêu thụ sản phẩm của các
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Chương II: Thực trạng công tác tiêu thụ ở Công ty Bóng Đèn Phích
Nước Rạng Đông.
Chương III: Một số phương hướng và biện pháp chủ yếu để đẩy mạnh
tiêu thụ ở Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do trình độ có hạn, thời gian thực tập
tại công ty không nhiều và điều kiện nghiên cứu còn hạn chế, nên trong khuôn
khổ của bản luận văn này không tránh khỏi những thiếu sót.
5
CHNG I
NHNG VN C BN V CễNG TC TIấU TH SN PHM CA DOANH
NGHIP TRONG NN KINH T TH TRNG.
1.1 Khái niệm, vai trò của công tác tiêu thụ sản phẩm.
1.1.1 Khái niệm tiêu thụ sản phẩm.
Theo quy luật tái sản xuất, quá trình sản xuất trong các doanh nghiệp sản
xuất bao gồm các khâu: sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng, chúng diễn ra
một cách tuần tự. Giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất, sản phẩm đợc đem
ra tiêu thụ trên thị trờng tức là sản phẩm đợc thể hiện giá trị và giá trị sử dụng của
mình. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung các doanh nghiệp chỉ sản xuất
theo kế hoạch của Nhà nớc. Nhng từ khi chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập
trung sang nền kinh tế thị trờng, các doanh nghiệp không những có nhiệm vụ sản
xuất mà còn tiêu thụ số sản phẩm đã sản xuất đó. Tiêu thụ sản phẩm đợc coi là vấn
đề quan trọng nhất đối với các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay. Nó quyết
định sự sống còn, sự phát triển của mỗi doanh nghiệp.
Tiêu thụ sản phẩm là quá trình đơn vị bán xuất giao sản phẩm hàng hóa cho
đơn vị mua và thu đợc khoản tiền về số sản phẩm đó.
Thời điểm tiêu thụ sản phẩm là thời điểm đơn vị mua trả tiền hoặc chấp nhận
trả tiền số sản phẩm đó.
Thực hiện tiêu thụ sản phẩm các doanh nghiệp mới hoàn thành quá trình sản
xuất kinh doanh, đảm bảo cho quá trình sản xuất đợc thờng xuyên, liên tục, giúp
6
cho vốn trở về hình thái ban đầu của nó. Ta có thể khái quát quá trình tái sản xuất
bằng sơ đồ sau:
TLSX ( TLLĐ + ĐTLĐ )
T-H
SL
ng trờn gúc luõn chuyn vn thỡ tiờu th sn phm l mt quỏ trỡnh
chuyn húa hỡnh thỏi giỏ tr ca vn t hỡnh thỏi sn phm hng húa sang hỡnh
thỏi tin t lm cho vn tr li hỡnh thỏi ban u khi nú bc vo mi chu k sn
xut. Qua s trờn ta thy, tin hnh sn xut thỡ nh sn xut phi b vn
ra mua cỏc yu t u vo nh: t liu lao ng (TLL), i tng lao ng
(TL), v sc lao ng (SL). Lỳc ny, vn di hỡnh thỏi giỏ tr c
chuyn thnh vn di hỡnh thỏi vt cht. Vn di hỡnh thỏi vt cht ny c
a vo quỏ trỡnh sn xut v sn phm sn xut ra c em i tiờu th v kt
qu ca khõu tiờu th l thu tin v. Lỳc ny ng vn li t hỡnh thỏi vt cht
quay tr li hỡnh thỏi ban u ca nú. n õy mt chu k sn xut kt thỳc, vn
tin t li c s dng vo quỏ trỡnh tỏi sn xut mi.
Nh vy, tiờu th sn phm l khõu cui cựng ca quỏ trỡnh tỏi sn xut,
nhm thc hin giỏ tr v giỏ tr s dng ca sn phm hng húa thụng qua hai
hnh vi: doanh nghip cung cp sn phm cho khỏch hng v khỏch hng thanh
toỏn hoc chp nhn thanh toỏn cho doanh nghip theo giỏ tr hng húa ú. Khi
tiờu th c sn phm doanh nghip s cú mt khon thu nhp bỏn hng hay
cũn gi l doanh thu v tiờu th sn phm. Nh vy, doanh thu tiờu th sn
phm l ton b s tin thu c khi bỏn sn phm hng húa.
Tuy nhiờn, doanh thu tiờu th sn phm khụng ng nht vi tin bỏn hng:
tin bỏn hng ch c xỏc nh khi doanh nghip tiờu th sn phm, ó thu
c tin v, cũn doanh thu tiờu th sn phm c xỏc nh ngay c khi khỏch
hng cha tr tin, nhng ó chp nhn thanh toỏn s tin hng ú. Trong
trng hp cú gim giỏ, doanh thu v tin bỏn hng cũn khỏc nhau c v mt
lng. Khi ú tin bỏn hng ch l mt phn doanh thu tiờu th sn phm, tng
7
...SX.....H
T
ứng với số tiền mà khách hàng đã thanh toán cho doanh nghiệp. Ta có thể thấy
sự khác biệt giữa doanh thu tiêu thụ sản phẩm và tiền bán hàng qua các trường
hợp cụ thể sau:
TH1: doanh nghiệp bán hàng được khách hàng thanh toán ngay. Khi đó số
hàng hóa được xác định ngay là đã tiêu thụ, đồng thời doanh thu bán hàng và
tiền bán hàng cũng được xác định. Như vậy, doanh thu tiêu thụ và tiền bán hàng
trùng nhau về thời điểm thực hiện.
TH2: doanh nghiệp xuất giao hàng hóa được khách hàng chấp nhận thanh
toán nhưng chưa trả tiền ngay. Lúc này doanh thu tiêu thụ sản phẩm được xác
định nhưng tiền bán hàng thì chưa được thu về.
TH3: doanh nghiệp đã xuất giao hàng cho khách hàng theo số tiền mà
khách hàng đã trả trước. Khi đó đồng thời việc giao hàng cho khách, tiền ứng
trước trở thành tiền thu bán hàng của doanh nghiệp. Doanh thu tiêu thụ sản
phẩm của được xác định tại thời điểm này.
TH4: doanh nghiệp đã thu được tiền hàng hoặc được chấp nhận thanh toán
số hàng đã gửi đi bán hoặc giao cho các đại lý, với hàng gửi đi bán chỉ cho phép
tính vào doanh thu phần hàng hóa gửi bán đã bán được, còn hàng giao cho các
đại lý khi nhận được hóa đơn thanh toán thì được phép tính vào doanh thu.
TH5: doanh nghiệp bán hàng theo phương thức trả góp thì doanh thu tiêu
thụ sản phẩm cũng được xác định ngay nhưng tiền bán hàng chỉ được một phần,
phần còn lại sẽ được trả vào các kỳ sau theo sự thỏa thuận giữa hai bên.
Tóm lại, để xác định doanh thu tiêu thụ sản phẩm cần phải thỏa mãn hai
điều kiện sau:
- Doanh nghiệp đã thực sự bán sản phẩm hàng hóa cho khách hàng.
- Khách hàng đã thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán số tiền hàng đó cho
doanh nghiệp.
1.1.2 S ự cần thiết phải đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm.
Như ta đã biết, tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng kết thúc một chu
8
kỳ sản xuất và mở ra một chu kỳ mới. Chỉ thông qua tiêu thụ sản phẩm, đồng
vốn ban đầu của doanh nghiệp chi ra mới trở về hình thái ban đầu của nó. Có
tiêu thụ được sản phẩm mới có doanh thu để bù đắp toàn bộ chi phí đã chi ra
trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo cho quá trình tái sản xuất
được liên tục thực hiện.
Khi tốc độ tiêu thụ sản phẩm được đẩy nhanh góp phần thúc đẩy tốc độ
luân chuyển vốn, tiết kiệm các khoản chi phí trong khâu tiêu thụ, góp phần hạ
giá thành, làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất
phản ánh hiệu quả cuối cùng của các hoạt động sản xuất kinh doanh, có lợi
nhuận, doanh nghiệp sẽ có tích lũy, khi đó doanh nghiệp mới có điều kiện mở
rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đầu tư theo chiều sâu, cải thiện đời sống vật
chất và tinh thần của người lao động.
Khi tiêu thụ sản phẩm được đẩy mạnh, điều đó chứng tỏ phạm vi phát huy
các giá trị sử dụng của sản phẩm được mở rộng. Nhờ đó uy tín của doanh nghiệp
được nâng cao, tạo ra sự cân đối giữa cung cầu trên thị trường trong nước; hạn
chế hàng nhập ngoại khuyến khích sản xuất trong nước phát triển.
Thông qua tiêu thụ sản phẩm, có được doanh thu, doanh nghiệp mới có thể
thực hiện các khoản nghĩa vụ cho Nhà nước như thuế, lệ phí và phí. Đây là
nguồn thu quan trọng của ngân sách Nhà nước để từ đó Nhà nước có thể triển
khai các kế hoạch, phát triển kinh tế xã hội của mình.
Hơn nữa, trong điều kiện nền kinh tế mở hội nhập với các nước trong khu
vực và quốc tế, thì đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm được coi là chiếc cầu nối quan
trọng không chỉ đối với các đơn vị, các vùng kinh tế trong nước với nhau thành
một thể thống nhất mà còn thiết chặt thêm các mối quan hệ quốc tế, nối liền thị
trường trong nước với thị trường nước ngoài, thúc đẩy giao lưu thương mại quốc
tế ngày càng phát triển mạnh mẽ. Việc tiêu thụ sản phẩm ra thị trường nước
ngoài sẽ cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, đưa nước ta khỏi tình trạng nhập
siêu, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Xuất phát từ vai trò và ý nghĩa trên ta thấy việc đẩy mạnh tiêu thụ sản
9
phẩm và tăng doanh thu ở các doanh nghiệp là hết sức cần thiết, luôn giữ vị trí
số một trong quá trình sản xuất kinh doanh của bất cứ một doanh nghiệp nào
trong nền kinh tế thị trường. Nhận thức được vị trí to lớn của công tác này nên
trong những năm gần đây, ở các doanh nghiệp công tác tiêu thụ sản phẩm đã có
những chuyển biến hết sức đáng kể do sự đầu tư quan tâm của Nhà nước và của
bộ máy quản lý của doanh nghiệp. Để thấy ro điều này ta cần tìm hiểu đôi nét về
tình hình tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp trong điều kiện cụ thể hiện nay.
10
1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ và biện pháp chủ yếu để
đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp.
1.2.1 C ác nhân tố ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ sản
phẩm.
Quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trải qua nhiều giai
đoạn từ sản xuất đến tiêu thụ, kết thúc quá trình này là các sản phẩm sản xuất ra
và nhiệm vụ của doanh nghiệp là thực hiện tiêu thụ số sản phẩm đó và hoạt động
này chịu nhiều ảnh hưởng của nhiều nhân tố do đó ta cần phải nghiên cứu các
nhân tố này trên cơ sở đó đề ra các phương hướng, biện pháp đẩy mạnh tiêu thụ
và tăng doanh thu tiêu thụ. Có thể khái quát bằng một số nhân tố chủ yếu sau:
a. Đặc điểm SXKD của từng ngành nghề, từng doanh nghiệp.
Đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng ngành chi phối, ảnh hưởng rất lớn
đến tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp nên việc tiêu thụ sản phẩm ở những
ngành khác nhau cũng có những đặc trưng riêng và ảnh hưởng đến doanh thu
của doanh nghiệp.
Trong ngành công nghiệp do sản phẩm sản xuất dựa trên quy trình công
nghệ cao nên chu kỳ sống của sản phẩm ngắn, việc sản xuất ít bị phụ thuộc vào
điều kiện tự nhiên cho nên tiêu thụ sản phẩm được diễn ra thường xuyên liên
tục, do đó tiền thu được do bán hàng cũng đều đặn ngày càng tăng.
Trong ngành nông nghiệp, do đặc điểm sản xuất mang tính chất thời vụ,
phụ thuộc nhiều và điều kiện tự nhiên nên việc tiêu thụ cũng theo thời vụ dẫn
đến doanh thu chủ yếu tập trung vào mùa thu hoạch.
Ngành xây dựng cơ bản với đặc điểm là sản xuất đơn chiếc, theo đơn đặt
hàng thời gian thi công kéo dài, nơi sản xuất cũng chính là nơi tiêu thụ. Việc tiêu
thụ sản phẩm xây lắp chính là bàn giao công trình đã hoàn thành cho đơn vị giao
thầu và thu tiền về. Nó chịu ảnh hưởng khách quan của chế độ thanh toán như
áp dụng các phương thức thanh toán theo hạng mục công trình và khối lượng
hoàn thành theo giai đoạn quy ước, thanh toán theo đơn vị hạng mục công trình
11
đã hoàn thành. Do đó, doanh thu cũng phụ thuộc vào thời gian và tiến độ công
việc.
b. Khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ.
Khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp
đến quá trình tiêu thụ, quy mô tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Công
thức xác định số lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ của một loại sản phẩm như
sau:
S
l
= S
d
+ S
x
- S
c
Trong đó
S
l
:số lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ
S
d
:số lượng sản phẩm kết dư tính đầu kỳ kế hoạch
S
x
:số lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ kế hoạch
S
c
:số lượng sản phẩm kết dư dự tính cuối kỳ kế hoạch
Qua công thức trên cho thấy số lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ là phụ
thuộc chủ yếu vào khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ kế hoạch (S
x
) và
công tác tổ chức tiêu thụ trong kỳ. Sản phẩm sản xuất trong kỳ kế hoạch càng
lớn dẫn tới sản lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ càng tăng và khả năng doanh
thu có thể càng lớn song điều quan trọng là sản phẩm đưa ra phù hợp với nhu
cầu của thị trường. Nếu số lượng sản phẩm sản xuất ra vượt quá nhu cầu thị
trường dẫn đến không tiêu thụ được hết số sản phẩm đó thậm chí phải hạ giá bán
mới có thể tiêu thụ được. Ngược lại, nếu đưa ra thị trường khối lượng sản phẩm
nhỏ hơn nhu cầu dẫn đến mất thị phần tiêu thụ và số khách hàng không được
đáp ứng nhu cầu đó sẽ tìm đến những sản phẩm cùng loại trên thị trường. Cả hai
trường hợp đều làm cho doanh thu giảm sút. Chính vì vậy, trong công tác tiêu
thụ sản phẩm, doanh nghiệp cần phải đánh giá chính xác nhu cầu thị trường và
năng lực sản xuất của mình để chuẩn bị một khối lượng sản phẩm hợp lý đưa ra
tiêu thụ trên thị trường và nó có ý nghĩa quan trọng để nâng cao doanh thu bán
hàng.
12
c. Chất lượng sản phẩm.
Nâng cao chất lượng sản phẩm là một yếu tố quan trọng thúc đẩy công tác
tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Khi chất lượng sản phẩm được nâng cao
làm tăng uy tín của doanh nghiệp dẫn đến khối lượng sản phẩm tiêu thụ được
nhiều hơn, hơn nữa giúp cho doanh nghiệp có điều kiện nâng cao giá bán một
cách hợp lý do đó ảnh hưởng trực tiếp đến việc tăng doanh thu và tăng lợi nhuận
của doanh nghiệp.
Như vậy chất lượng sản phẩm chính là giá trị tăng thêm của sản phẩm nó
làm tăng uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng, chất lượng sản phẩm cũng
là một vũ khí cạnh tranh sắc bén và có hiệu quả nhất trong nền kinh tế thị
trường.
Sản phẩm sản xuất ra có thể được phân thành những loại có phẩm cấp khác
nhau như loại I, loại II, loại III... và giá bán của mỗi loại cũng khác nhaudẫn đến
doanh thu bán của chúng cũng khác nhau khi cùng một khối lượng tiêu thụ. Ở
những doanh nghiệp sản xuất thủy hải sản, công nghiệp chế biến, nông nghiệp
thì chất lượng sản phẩm có ý nghĩa rất lớn vì phần lớn sản phẩm có tính chất
tươi sống. Nếu doanh nghiệp biết tổ chức thu hoạch, chế biến, bảo quản kịp thời
có phương pháp khoa học thì có thể tăng được số lượng sản phẩm có phẩm cấp
cao, giảm số sản phẩm có phẩm cấp thấp từ đó có thể tăng được doanh thu bán
hàng. Ngược lại, nếu tăng số sản phẩm có phẩm cấp thấp gây khó khăn cho tiêu
thụ và giảm doanh thu thậm chí có khi không tiêu thụ được. Còn trong xây dựng
cơ bản nếu thi công nhanh nhưng chất lượng kém dẫn đến hậu quả phải tốn
nhiều chi phí và thời gian sửa chữa, thậm chí phải phá đi làm lại, ảnh hưởng đến
thời gian bàn giao.
Như vậy, nâng cao chất lượng sản phẩm có ý nghĩa rất quan trọng tới việc
nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Nó là sợi dây vô hình thắt chặt khách hàng
với doanh nghiệp, tạo điều kiện cho tiêu thụ sản phẩm được dễ dàng và nhanh
chóng thu được tiền bán hàng.
d. Giá cả sản phẩm tiêu thụ.
13
Giá cả sản phẩm có tác động rất lớn đến quá trình tiêu thụ sản phẩm. Về
nguyên tắc, giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa và giá cả xoay
quanh giá trị. Trong cơ chế thị trường hiện nay, ngoài sự ảnh hưởng của quy luật
giá trị, giá cả còn do quan hệ cung-cầu trên thị trường quyết định do đó doanh
nghiệp hoàn toàn có thể sử dụng giá cả như một công cụ sắc bén để đẩy mạnh
tiêu thụ sản phẩm. Khi doanh nghiệp đưa ra một mức giá phù hợp với chất
lượng sản phẩm được đông đảo người tiêu dùng chấp nhận dẫn đến việc tiêu thụ
sản phẩm sẽ thuận lợi hơn và ngược lại. Mặt khác, nếu doanh nghiệp quản lý
kinh doanh tốt, làm giảm giá thành sản phẩm, tạo điều kiện cho việc giảm giá
bán sản phẩm so với giá bán của sản phẩm cùng loại trên thị trường sẽ tạo ra
một lợi thế trong cạnh tranh giúp doanh nghiệp có thể thu hút được khách hàng
của các đối thủ cạnh tranh ngoài ra giá bán sản phẩm còn có một ý nghĩa đặc
biệt quan trọng trong việc xác định thị trường tiêu thụ. Chẳng hạn đối với thị
trường nông thôn, miền núi nơi có thu nhập thấp, sức mua có hạn nên chỉ có với
mức giá thấp hơn một chút có thể tạo ra một sức tiêu thụ lớn và ngược lại với
mức giá cao hơn một chút có thể làm giảm tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ đi rất
nhiều.
Như vậy, các quyết định về giá cả sản phẩm sản xuất ra của doanh nghiệp,
ngoài một số loại có tính chất chiến lược được Nhà nước bảo hộ và can thiệp
vào việc định giá, còn đối với những mặt hàng khác giá cả được hình thành trên
cơ sở giá trị hàng hóa và quan hệ cung cầu. Doanh nghiệp cần phải tính toán cân
nhắc và định giá sao cho giá bán của sản phẩm phải bù đắp được phần tư liệu
sản xuất tiêu hao, trả tiền công cho người lao động và có lãi đồng thời giá cả đó
cũng phải được thị trường chấp nhận.
e. Cơ cấu sản phẩm tiêu thụ
Cơ cấu sản phẩm thị trường là tỷ trọng theo doanh thu của từng mặt hàng
so với tổng doanh thu tiêu thụ trong tất cả các loại sản phẩm của doanh nghiệp,
được xác định bởi công thức :
Tỷ trọng sản phẩm i = Doanh thu sản phẩm i x 100
14
Tổng doanh thu tiêu thụ
Như vậy, ứng với mỗi cơ cấu sản phẩm nhất định sẽ có một tổng doanh thu
nhất định. Khi cơ cấu này thay đổi thì tổng doanh thu cũng thay đổi.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, để đáp ứng nhu cầu ngày càng
phong phú và đa dạng thì doanh nghiệp phải đưa ra nhiều loại sản phẩm khác
nhau có phẩm cấp, kích cỡ, giá bán... khác nhau.
Khi đưa ra tiêu thụ những sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường, giá cả
hợp lý, chất lượng bảo đảm .... thì sẽ tiêu thụ nhanh và ngược lại những sản
phẩm không phù hợp với nhu cầu thị trường, chất lượng không bảo đảm, giá cả
không hợp lý, dẫn đến tiêu thụ chậm, thậm chí không thể tiêu thụ được. Do vậy,
việc đưa ra một cơ cấu sản phẩm hợp lý sẽ làm tăng khả năng tiêu thụ đồng thời
mang lại lợi ích cao nhất cho doanh nghiệp. Cơ cấu đó phải dựa trên cơ sở nắm
vững nhu cầu thị trường và năng lực sản xuất hiện có của doanh nghiệp, sóng
nếu có hợp đồng tiêu thụ đã ký kết thì doanh nghiệp phải tôn trọng quyền lợi của
khách hàng, không vì mục đích lợi nhuận mà tự ý thay đổi cơ cấu sản phẩm, phá
vỡ hợp đồng kinh tế đã ký kết gây thiệt hại cho khách hàng và làm giảm uy tín
của doanh nghiệp.
f. Thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Khi nói đến sản xuất hàng hóa là phải nói đến thị trường tiêu thụ vì thị
trường chính là nơi tiêu thụ sản phẩm và cũng là nơi cung cấp cho doanh nghiệp
những thông tin quan trọng để xây dựng kế hoạch sản xuất. Trước khi tiến hành
sản xuất, các doanh nghiệp phải tiến hành điều tra, nghiên cứu thị trường để nắm
bắt nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng, nắm được các đối thủ cạnh tranh. Từ đó
giúp doanh nghiệp nên sản xuất những sản phẩm nào và có giải pháp thích hợp
để chiến thắng đối thủ cạnh tranh. Làm tốt công tác thị trường giúp doanh
nghiệp thấy được thị trường nào là chủ yếu, thị trường nào là thứ yếu để phân
phối lượng sản phẩm hợp lý cho từng thị trường, từ đó tăng khối lượng sản
phẩm tiêu thụ, tăng doanh thu bán hàng cho doanh nghiệp. Đồng thời doanh
nghiệp cũng cần xác định được thị trường tiềm năng trong tương lai làm cơ sở
15
xây dựng cho mình một chính sách thị trường đúng đắn có như vâỵ khả năng mở
rộng thị trường phục vụ cho việc đẩy mạnh tiêu thụ và nâng cao doanh thu cho
doanh nghiệp ngày càng tăng.
g. Công tác tổ chức bán hàng, thanh toán của doanh nghiệp.
Đây cũng là một nhân tố quan trọng thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm và tăng
doanh thu cao hay thấp. Công tác tổ chức bán hàng bao gồm nhiều mặt.
- Về hình thức bán hàng: một doanh nghiệp nếu áp dụng tổng hợp các hình
thức bán hàng như bán buôn, bán lẻ, bán hàng tại kho, bán tại cửa hàng, vận
chuyển đến tận nơi khách hàng yêu cầu... tất nhiên sẽ tiêu thụ được sản phẩm
hơn là một doanh nghiệp chỉ áp dụng một hình thức bán hàng đơn thuần nào đó.
Ngoài ra, các doanh nghiệp còn tổ chức mạng lưới đại lý phân phối sản
phẩm để mở rộng và chiếm lĩnh thị trường. Vấn đề đặt ra là cần phải có các biện
pháp thích hợp để khuyến khích các đại lý này hoạt động có hiệu quả nhằm đẩy
mạnh khối lượng sản phẩm bán ra và tăng doanh thu cho công ty.
- Về mặt tổ chức thanh toán: việc áp dụng nhiều hình thức thanh toán như
thanh toán hàng đổi hàng, thanh toán bằng tiền mặt, thanh toán chuyển khoản,
thanh toán ngay, thanh toán chậm,... sẽ làm cho khách hàng nhận thấy thuận lợi,
có thể lựa chọn phương thức thanh toán phù hợp nhất do đó có thể thu hút được
đông đảo khách hàng đến với doanh nghiệp. Nếu chỉ áp dụng một phương thức
thanh toán nào đó thì có thể thích hợp với khách hàng này nhưng lại không phù
hợp với khách hàng khác, từ đó sẽ làm hạn chế công tác tiêu thụ sản phẩm. Mặt
khác, nếu doanh nghiệp có những hình thức khuyến khích khách hàng thanh
toán nhanh, thanh toán ngay, chẳng hạn như chiết khấu bán hàng thì sẽ thu hút
được khách hàng nhiều hơn, đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ sản phẩm và tăng doanh
thu tiêu thụ cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng cần đặt ra kỷ luật
thanh toán buộc khách hàng phải thanh toán đúng thời hạn quy định của hợp
đồng hoặc thời hạn thỏa thuận giữa doanh nghiệp với khách hàng. Nếu khách
hàng không thực hiện đúng thời gian thanh toán thì doanh nghiệp sẽ áp dng hình
thức xử lý thích hợp.
16
- Về các dịch vụ kèm theo trong công tác tiêu thụ sản phẩm: để tạo điều
kiện thuận lợi cho khách hàng và cũng tăng sức cạnh tranh trong công tác tiêu
thụ sản phẩm, các doanh nghiệp cần tổ chức các dịch vụ vận chuyển, bảo hành
sản phẩm, quà tặng kèm theo, lắp ráp sản phẩm,... điều này làm cho khách hàng
cảm thấy thuận lợi, yên tâm khi sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp từ đó tạo
điều kiện cho công tác tiêu thụ sản phẩm thuận lợi hơn và ngược lại.
h. Quảng cáo giới thiệu sản phẩm.
Trong nền kinh tế thị trường, quảng cáo là một vấn đề có tính chất chiến
lược của sản xuất và tiêu thụ. Quảng cáo bao gồm các hoạt động giới thiệu và
truyền đi các thông tin về sản phẩm và hình ảnh của doanh nghiệp nhằm kích
thích khách hàng tiêu thụ hàng hóa dịch vụ, nâng cao uy tín cho nhà kinh doanh
và tăng cườg khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Do chi phí quảng cáo cũng là một chi phí về tiêu thụ sản phẩm, nên trong
quảng cáo bán hàng phải coi trọng tính tiết kiệm và hiệu quả của công tác này và
việc quảng cáo yêu cầu phải gắn liền với chữ tín, phải trung thực với sản phẩm
mà doanh nghiệp sản xuất, có như vậy mới thúc đẩy tiêu thụ và tăng doanh thu
tiêu thụ, nếu doanh nghiệp thiếu tôn trọng khách hàng, quảng cáo sai sự thật thì
sản phẩm của doanh nghiệp sẽ bị khách hàng tẩy chay khỏi thị trường, lúc đó
quảng cáo sẽ phản tác dụng trở lại đối với sản phẩm.
Trên đây là những nhân tố cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tiêu
thụ sản phẩm. Ngoài ra, đường lối chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước,
sự phát triển của cơ sở hạ tầng như hệ thống đường xá, giao thông, liên
lạc...cũng đều ảnh hưởng đến việc mở rộng hay thu hẹp khả năng tiêu thụ sản
phẩm của mỗi doanh nghiệp.
Dưới tác động của nhiều nhân tố như vậy, tính toán mức độ ảnh hưởng của
từng nhân tố và tìm ra cách giải quyết tối ưu để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm là
nhiệm vụ của mỗi doanh nghiệp để tăng doanh thu, nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh của đơn vị mình.
17
1.2.2 C ác biện pháp chủ yếu để đẩy mạnh tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ sản
phẩm.
Qua phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc đẩy mạnh thị trường và tăng
doanh thu tiêu thụ sản phẩm, trên cơ sở đó có thể đề ra các phương hướng, biện
pháp cơ bản để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm và tăng doanh thu của doanh nghiệp
như sau:
a. Tăng khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ.
Đây là biện pháp ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm.
Khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ tăng thì khả năng doanh thu tiêu thụ
cũng tăng và ngược lại.
Để tăng khối lượng sản xuất và tiêu thụ thì trước hết trong khâu sản xuất
doanh nghiệp phải tăng khối lươợng sản phẩm sản xuất ra bằng cách nâng cao
năng suất lao động. Để nâng cao năng suất lao động thì một mặt doanh nghiệp
phải thường xuyên đầu tư mua sắm, đổi mới máy móc thiết bị hiện đại, sử dụng
tối đa công suất máy móc thiết bị, mặt khác doanh nghiệp phải thường xuyên tổ
chức đào tạo, nâng cao tay nghề cho người lao động, kết hợp với sử dụng các
biện pháp kinh tế nhằm khuyến khích tinh thần hăng say lao động sản xuất của
người lao động từ đó có thể tạo ra khối lượng sản phẩm lớn nhằm đáp ứng cho
nhu cầu tiêu thụ.
Khi kết thúc quá trình sản xuất thì sẽ tạo ra một khối lượng sản phẩm nhất
định và nhiệm vụ của doanh nghiệp là không những tiến hành tốt quá trình sản
xuất mà còn phải thực hiện tốt được công tác tiêu thụ từ việc điều tra nghiên cứu
thị trường, áp dụng các phương thức bán hàng phù hợp và sử dụng triệt để các
biện pháp tài chính để tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ
Đây là biện pháp cơ bản để đẩy mạnh tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ
sản phẩm cho doanh nghiệp. Để tăng khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ
đòi hỏi doanh nghiệp phải tổ chức tốt từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ sản
phẩm.
18
b. Nâng cao chất lượng sản phẩm tiêu thụ.
Nâng cao chất lượng sản phẩm tiêu thụ là biện pháp có tính chất chiến lược
bởi qua đó uy tín của công ty được nâng cao và tạo cho doanh nghiệp có điều
kiện tiêu thụ được nhiều sản phẩm. Bên cạnh đó, khi chất lượng sản phẩm cao sẽ
là điều kiện nâng giá bán một cách hợp lý nhằm tăng doanh thu.
Để nâng cao được chất lượng sản phẩm thì đòi hỏi doanh nghiệp không
ngừng áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất như đầu tư mua
sắm máy móc thiết bị hiện đại, nguyên vật liệu đưa vào sản xuất phải đảm bảo
chất lượng và tay nghề của người lao động không ngừng được nâng cao.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường thì nâng cao chất lượng sản phẩm
không chỉ được thực hiện trong khâu sản xuất mà còn được thực hiện sau khi
bán hàng đó chính là các dịch vụ sau bán nhằm tạo nên sự yêu tâm của khách
hàng đối với sản phẩm và tăng uy tín của doanh nghiệp trong tiêu thụ.
c. Xây dựng chính sách giá cả hợp lý, linh hoạt.
Xây dựng chính sách giá cả sản phẩm hợp lý, linh hoạt có ý nghĩa quan
trọng đối với doanh nghiệp. Song việc định giá như thế nào để góp phần thúc
đẩy tiêu thụ sản phẩm và tăng doanh thu cho doanh nghiệp. Tùy mỗi doanh
nghiệp để định giá bán hợp lý, căn cứ vào kinh doanh sản xuất sản phẩm và vị
trí của mình trên thị trường. Khi sản phẩm mới tung ra thị trường, thu hút được
sự chú ý của người tiêu dùng và chưa xuất hiện các đối thủ cạnh tranh thì doanh
nghiệp có thể định giá bán cao để nâng cao doanh thu. Lúc này giá cao hơn một
chút cũng không cản trở khách hàng đến với doanh nghiệp. Nhưng khi sản phẩm
đã bước vào giai đoạn bão hòa thì doanh nghiệp lại hạ giá bán xuống và đặc biệt
lúc sản phẩm đã ở giai đoạn suy thoái thì doanh nghiệp phải giảm giá mạnh hơn
để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm và thu hồi vốn. Đôi khi dựa vào mục đích của
mình chẳng hạn với mục tiêu mở rộng thị trường thu hút được sự chú ý của
người tiêu dùng, doanh nghiệp có thể định giá bán thấp, khi sản phẩm có uy tín
nhất định trên thị trường , thực hiện mục tiêu mở rộng thị trường thì doanh
nghiệp sẽ dần dần nâng giá bán lên một mức nhất định nhằm tăng thêm lợi
19
nhuận vì khi hạ giá bán, doanh nghiệp đã chấp nhận mất đi một phần lợi nhuận
không nhỏ, thậm chí còn chịu lỗ. Nếu tiếp tục kéo dài sẽ dẫn tới tình trạng thua
lỗ, thậm chí còn phá sản.
Trong điều kiện hiện nay, giá cả sản phẩm được sử dụng hết sức linh hoạt
trong công tác tiêu thụ, các doanh nghiệp rất coi trọng sử dụng biện pháp giảm
giá như giảm giá theo khối lượng sản phẩm tiêu thụ, giảm giá cho những đối
tượng ưu tiên, giảm giá trong thời gian ngắn,... để kích thích tiêu thụ. Ngoài ra,
các doanh nghiệp còn luôn phấn đấu tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm tạo
cơ sở cho việc hạ giá bán hợp lý để tăng khả năng cạnh tranh, tăng tiêu thụ trên
thị trường.
d. Lựa chọn kết cấu tiêu thụ sản phẩm hợp lý.
Một kết cấu tiêu thụ sản phẩm hợp lý sẽ dẫn đến khả năng tiêu thụ và
doanh thu được nâng cao. Doanh nghiệp lựa chọn kết cấu sản phẩm hợp lý cho
mình trên cơ sở nắm vững nhu cầu thị trường, xem thị hiếu tiêu dùng tập trung
vào mặt hàng nào là chủ yếu từ đó nâng cao tỷ trọng của mặt hàng đó trong kết
cấu sản phẩm, trên cơ sở nắm được nhu cầu cao của thị trường, doanh nghiệp có
khả năng bán với giá cao những sản phẩm có nhu cầu lớn đó dẫn đến tăng khả
năng doanh thu cho doanh nghiệp. Trong trường hợp sản xuất có đơn đặt hàng
thì doanh nghiệp phải dựa trên năng lực sản xuất hiện có của mình trước hết
phải thực hiện đầy đủ các đơn đặt hàng để tránh gây thiệt hại cho khách hàng,
tăng uy tín cho doanh nghiệp, đồng thời doanh nghiệp cũng phải tận dụng hết
những năng lực sản xuất thừa để đáp ứng tối đa nhu cầu thị trường.
Như vậy, kết cấu sản phẩm hợp lý sẽ giúp doanh nghiệp đẩy mạnh được
khối lượng bán ra, tăng doanh thu và mang lại nhiều lợi ích nhất cho doanh
nghiệp.
e. Nghiên cứu, tìm hiểu thị trường.
Các doanh nghiệp trước khi tiến hành sản xuất để cho sản phẩm của mình
có thể tiêu thụ được thì điều quan tâm đầu tiên là phải tiến hành nghiên cứu thị
trường, điều tra thị trường để nắm được nhu cầu, tình hình cạnh tranh trên tiêu
20
thụ từ đó hướng sản xuất vào nhu cầu đó, đồng thời phải có những giải pháp để
chiến thắng trong cạnh tranh.
Nhờ kết quả nghiên cứu thị trường sẽ cung cấp cho doanh nghiệp thông tin
về danh mục những sản phẩm hàng hóa được tiêu thụ, và sự phù hợp của chủng
loại hàng hóa để quyết định mở rộng hay thu hẹp mặt hàng sản xuất và tiêu thụ.
f. Thực hiện tốt công tác bán hàng của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp phải có các hình thức bán hàng phù hợp sao cho tiêu thụ
được nhiều sản phẩm nhất, không ngừng mở rộng thị trường tiêu thụ bằng cách
mở ra hàng loạt các đại lý, các cửa hàng ký gửi và có các biện pháp động viên
khuyến khích kinh tế đối với các đại lý, các cửa hàng đó để họ hoạt động có hiệu
quả giúp tăng doanh thu và tăng tiêu thụ cho doanh nghiệp. Ngoài ra, nó còn
giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí tiền lương cho nhân viên bán
hàng, tiết kiệm chi phí thuê cửa hàng, nhà kho, bảo quản sản phẩm, doanh
nghiệp cũng giảm được công việc tìm kiếm thị trường, để tập trung vào sản xuất
và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đến việc tổ chức thanh toán sao cho
cho thu hút được đông đảo khách hàng đến với doanh nghiệp, tạo điều kiện
thuận lợi cho khách hàng, đồng thời cần có các hình thức khuyến khích khách
hàng thanh toán nhanh, tránh dây dưa chiếm dụng vốn của doanh nghiệp. Tiếp
đến là các dịch vụ kèm theo trong công tác tiêu thụ nhằm tạo điều kiện cho
khách hàng cảm thấy thuận lợi, yên tâm khi sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp
từ đó giúp cho doanh nghiệp thực hiện tốt công tác tiêu thụ sản phẩm của mình
hơn.
g. Quảng cáo giới thiệu sản phẩm.
Quảng cáo giới thiệu sản phẩm hiện nay là một công cụ được sử dụng rộng
rãi trong công tác tiêu thụ sản phẩm. Nhờ quảng cáo mà người tiêu dùng biết
được thông tin về một mặt hàng nào đó, về hình ảnh của doanh nghiệp, qua hoạt
động quảng cáo khách hàng có thể biết được tính năng, công dụng của sản
phẩm, nhận thấy ưu thế của sản phẩm so với sản phẩm cùng loại trên thị trường.
Dẫn đến lôi kéo khách hàng, kích thích nhu cầu tiêu dùng giúp cho doanh
21
nghiệp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của mình.
h. Một số biện pháp tài chính khác để thúc đẩy tiêu thụ và tăng doanh thu tiêu thụ
sản phẩm của doanh nghiệp.
- Chiết khấu bán hàng: là số tiền doanh nghiệp bán theo quy định của hợp
đồng đã thỏa thuận dành cho khách hàng trong trường hợp khách hàng thanh
toán sớm tiền hàng hoặc mua sản phẩm với khối lượng lớn. Chiết khấu bán hàng
được tính theo tỷ lệ (%) trên doanh thu hóa đơn chưa có thuế GTGT.Thông
thường chiết khấu bán hàng được chia làm nhiều bậc, khách hàng thanh toán
ngay được hưởng tỷ lệ chiết khấu cao, thanh toán trong một thời gian ngắn được
hưởng mức chiết khấu thấp hơn, nếu thanh toán chậm thì không được hưởng tỷ
lệ chiết khấu thậm chí còn chịu tỷ lệ lãi suất trên số tiền trả chậm theo lãi suất
vay vốn ngân hàng. Đối với chiết khấu bán hàng tính theo khối lượng sản phẩm
bán ra cũng vậy, khách hàng mua sản phẩm đạt đến một mức nào đó sẽ được
hưởng tỷ lệ chiết khấu cao, ở một mức nào đó sẽ không được hưởng chiết khấu.
Đây cũng là biện pháp tài chính quan trọng được sử dụng khá phổ biến
trong các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, cần có những tỷ lệ chiết
khấu thích hợp sẽ hấp dẫn khách hàng đến với sản phẩm của doanh nghiệp mình
thì công tác tiêu thụ sản phẩm mới được thuận lợi, nhanh chóng thu hồi và quay
vòng vốn.
- Cước phí vận chuyển: hiện nay để tạo thuận lợi cho khách hàng nhất là
khách hàng ở xa, các doanh nghiệp sản xuất hầu như đảm nhận vận chuyển cho
khách hàng. Bản chất việc vận chuyển hàng hóa không phải là một công cụ tài
chính khi khách hàng phải trả đầy đủ cước phí vận chuyển nhưng khi doanh
nghiệp giảm giá cước phó vận chuyển hoặc vận chuyển miễn phí thì số tiền đó
lại trở thành một công cụ tài chính phục vụ cho công tác tiêu thụ sản phẩm. Đòn
bẩy cước phí vận chuyển này thường được áp dụng khi khách hàng mua số
lượng lớn đạt đến một mức nào đó thì được vận chuyển miễn phí, còn trong
trường hợp mua ít thì chỉ được giảm giá cước phí hoặc phải chịu toàn bộ cước
phí.
22
- Quà tặng kèm theo khi mua hàng, quay xổ số, vé tham dự thưởng: ngoài
đáp ứng nhu cầu phát sinh của khách hàng thì để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm,
các doanh nghiệp còn khơi dậy nhu cầu bằng cách tặng quà cho khách hàng khi
mua sản phẩm. Có nhiều cách tặng quà khác nhau song việc tặng quà cần phải
nghiên cứu kỹ lưỡng các đối tượng được tặng quà và món quà cần phải có ý
nghĩa đối với người nhận và nó đem lại hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp còn thực hiện việc quay xổ số, vé tham dự
trúng thưởng trong thời gian ngắn để kích thích nhu cầu tiêu dùng.
Ngoài ra, các doanh nghiệp còn phải sử dụng nhiều phương pháp khác như
phát sản phẩm dùng thử, biếu tặng sản phẩm.
Tất cả các biện pháp nói trên đều có tác dụng rất lớn trong việc đẩy mạnh
tiêu thụ và tăng doanh thu bán hàng, tuy nhiên việc sử dụng biện pháp nào cho
có hiệu quả và phù hợp thì doanh nghiệp phải phân tích, đánh giá đúng tình hình
sản xuất kinh doanh của đơn vị mình, tình hình thị trường, tình hình các đối thủ
cạnh tranh.... để trên cơ sở có giải pháp tối ưu và việc thành công trong công tác
tiêu thụ sẽ dễ dàng hơn nhiều.
Tóm lại: Trong điều kiện kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần ở nước ta nói riêng, các doanh nghiệp ngày càng được tự
chủ trong sản xuất kinh doanh, cùng sản xuất kinh doanh, cùng tồn tại cạnh
tranh với nhau và bình đẳng trước pháp luật. Đối với các doanh nghiệp sản xuất
thì chức năng cơ bản là sản xuất và tiêu thụ trong đó công tác tiêu thụ quyết định
sự sống còn của mỗi doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở nghiên
cứu và phân tích để nhận thức đúng đắn vấn đề tiêu thụ sản phẩm ở các doanh
nghiệp nói chung và trong thời gian thực tập tại Công ty BĐPN Rạng Đông,
trong bài viết này tôi xin trình bày một số nét về tình hình tổ chức công tác tiêu
thụ sản phẩm và một số giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh tiêu thụ và tăng doanh
thu tiêu thụ sản phẩm ở công ty.
23
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TIÊU THỤ Ở CÔNG TY BÓNG ĐÈN PHÍCH NƯỚC RẠNG
ĐÔNG.
2.1 Khái quát chung về tình hình sản xuất kinh doanh của công ty.
2.1.1 Qu á trình hình thành công ty.
Công ty Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông ngày nay có tên giao
dịch là RangDong Light Source and Cacuum Flask Company, trực thuộc Tổng
cty sành sứ thủy tinh Công nghiệp và cũng trực thuộc Bộ Công nghiệp quản lý.
Công ty được khởi công xây dựng vào tháng 5 năm 1959 theo thiết kế của Trung
Quốc, đến tháng 6 năm 1962 thì hoàn thành và đi vào sản xuất thử. Đến ngày 27
tháng 1 năm 1963. công ty chính thức đi vào sản xuất. Công ty nằm trong khu
công nghiệp Thượng Đình, trên Km7 quốc lộ 6, tại 15 phố Hạ Đình-Thanh
Xuân-Hà Nội với diện tích mặt bằng khoảng 5 hecta. Trên mặt bằng nhà máy
hiện nay có 45 hạng mục công trình với diện tích xây dựng là 20696 m2 chưa kể
24
diện tích sân bãi và đường sá. Tháng 6 năm 1994 chính thức đổi tên nhà máy
thành Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông theo Quyết định số 667/QĐ-
TCLĐ ngày 30 tháng 6 năm 1994 của Bộ Công nghiệp nhẹ. Qua gần 40 năm
thành lập và phát triển, đến nay Công ty Bóng Đèn Phích Nước Rạng Đông đã
lớn mạnh, trở thành một cái tên quen thuộc với mọi người dân Việt Nam. Quá
trình phát triển được chia thành 3 giai đoạn:
* Giai đoạn 1: (từ ngày thành lập đến 1975)
Đây là giai đoạn phát triển của công ty trong thời kỳ đất nước có chiến
tranh, đi vào sản xuất được 3 năm thì cuộc chiến tranh phá hoại leo thang ra
miền Bắc. Nhà máy bị tàn phá nặng nề, toàn bộ cán bộ và công nhân viên cùng
với vật tư, máy móc, thiết bị của công ty phải sơ tán về các cơ sở ở Hà Tây và
Hải Hưng. Công nhân vừa phải bám máy sản xuất, vừa phải cầm súng chiến
đấu. Trong điều kiện hết sức khó khăn đó nên công ty không thể khai thác hết
được công suất như thiết kế. Năm 1975 mức sản lượng tối đa cũng chỉ là:
Bóng đèn tròn: 1.700.000 chiếc
Ruột phích: 200.000 chiếc
* Giai đoạn 2: (từ 1976 đến 1988)
Giai đoạn này đất nước đã được thống nhất, nhân dân bắt tay vào công
cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh đồng thời xây dựng và phát triển CNXH
trên phạm vi cả nước. Song giai đoạn này chúng ta cũng gặp những khó khăn
không nhỏ do nguồn viện trợ của các nước XHCN giảm dần. Đặc biệt là nguồn
viện trợ lớn phục vụ cho sản xuất mà ta nhập từ Trung Quốc bị cắt hoàn toàn do
mâu thuẫn giữa hai nước. Mặc dù trong điều kiện khó khăn như vậy nhưng công
ty vẫn xác định phải đầu tư chiều sâu vào một số công đoạn trong dây chuyền
công nghệ. Sau đây là các công trình kỹ thuật tiêu biểu được thực hiện trong giai
đoạn này:
25
Lĩnh vực sản xuất Cải tiến kỹ thuật
Thuỷ tinh
1977-1979: Nấu thuỷ tinh bằng lò bể đốt dầu và đốt than
cho lò nồi bán khí
1982: Băng hấp phích nước bằng bức xạ nhiệt
Cơ động
1976-1980: Chế tạo lò gaz kiểu Đức 350 m3/giờ thay thế
cho lò gaz 60 m3/giờ của Trung Quốc
1986-1988: Cải tiến van thải không khí cho lò gaz
1988: Đưa nguồn nước Thượng Đình về bể 300 m3
Đột dập
1986-1987: Cuốn thân phích bằng thép lá tráng thiếc tipô,
phích có quai xách
Phích
1979: Rút khí phích nước trên máy bầu tròn tự động của
Nhật Bản
1982: Công nghệ trang trí vỏ phích với khắc hoạ bản
giấy, sơn mau khô Ankyd Melamin
1984-1985: Thực hiện đề tài thu hồi AgNO3. Nâng cao
chất lượng ruột phích, đưa băng ủ miệng phích vào sản
xuất thay cho ủ rơm
1986: Đưa vỏ phích in tipô vào sản xuất thay cho phun
sơn, vỏ phích có quai xách
Bóng đèn
1976: Cơ giới hoá khâu sản xuất đèn ôtô, nâng công suất
1 triệu chiếc/năm
1978: Đưa dây tóc xoắn kép vào sản xuất bóng đèn
thường thay cho dây xoắn đơn là bước nhảy vọt về chất
lượng
1979: Chế tạo đưa vào sử dụng dây chuyền sản xuất đèn
thường 3
1986-1988: Thực hiện đề tài nâng cấp chất lượng bóng
đèn về tuổi thọ, keo gắn đầu, bao bì
* Giai đoạn 3: (từ 1989 đến nay)
26