Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Vấn đề di chúc chung của vợ chồng theo quy định của bộ luật dân sự năm 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.78 KB, 15 trang )

Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

Đề bài: Vấn đề di chúc chung của vợ chồng theo quy định của bộ luật dân sự
năm 2005
I,Mở đầu
Di chúc là hành vi pháp lý đơn phương của một người nhằm định đoạt tài sản
của mình cho người khác sau khi chết nên pháp luật của nhiều quốc gia trên thế
giới như Pháp, Nhật Bản,…cấm di chúc chung,trong đó bao gồm cả di chúc
chung vợ chồng.Sở dĩ ở các quốc gia trên không thừa nhận di chúc chung giữa
vợ và chồng, một phần là do đề cao tính sở hữu tư nhân và theme vào đó thì họ
đề cao quyền tự do ý chí của cá nhân trong việc định đoạt tài sản
Ở Việt Nam thì di chúc chung giữa vợ và chồng đã được quy định trong bộ luật
Hồng Đức, và đó cũng chính là truyền thống quý báu của dân tộc ta đã được kế
thừa từ ông cha ta,quan niệm truyền thống của người Việt Nam vốn rất coi trọng
đạo nghĩa vợ chồng và luôn muốn yêu thương củng cố tình đoàn kết trong gia
đình nên cũng muốn vợ chồng lập di chúc chung để định đoạt tài sản di chúc vợ
chồng thể hiện sự thống nhất ý chí chung giữa vợ và chồng nhằm để lại một
phần hoặc toàn bộ tài sản của mình sau khi cả hai vợ chồng cùng qua đời, và trải
qua một thời gian dài tranh cãi nhiều về vấn đề di chúc vợ chồng nhưng luật dân
sự hiện nay vẫn công nhận di chúc chung vợ chồng. Và chúng ta sẽ đi tìm hiểu
về cụ thể hơn với nội dung của bài tiểu luận
II,Nội dung
1,Những cơ sở lý thuyết về di chúc chung của vợ và chồng
Theo khoản 1 điều 33 luật hôn nhân và gia đình quy định về tài sản chung của
vợ chồng
Tài sản chung của vợ và chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng,
và những tài sản thu nhập hợp pháp trong thời kì hôn nhân, trừ trường hợp quy


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục



định tại điều 40 Luật này ; tài sản mà vợ hoặc chồng được thừa kế chung hoặc
được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Tại điều này thì có chỉ rõ ra những tài sản mà được vợ, chồng tạo ra, phát sinh từ
hoa lợi, lợi tức mặc dù từ tài sản riêng hay những tài sản mà không vi phạm
những điều pháp luật cấm trong thời kì hôn nhân thì tất cả những điều đó đều
được điều luật xếp vào tài sản chung của vợ, chồng. Nhưng ngoài ra thì pháp
luật còn chỉ rõ ra những tài sản riêng của vợ hoặc chồng là những tài sản mà
Điều 40 Hậu quả của việc chia tài sản chung trong trong thời kì hôn nhân
1,Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì phần tài sản được chia,
hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng
có thoả thuận khác. Phần tài sản còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ
chồng
2,Thỏa thuận của vợ chồng quy định tại khoản 1 Điều này không làm thay đổi
quyền, nghĩa vụ về tài sản được xác lập trước đó giữa vợ, chồng và người thứ 3
theo điều 631 quyền thừa kế của cá nhân
Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình để lại tài sản của
mình cho người tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật, hưởng tài
sản theo di chúc hoặc theo pháp luật
theo điều 646 Di chúc
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho
người khác sau khi chết
Khi một người còn sống có quyền định đoạt một phần hoặc toàn bộ tài sản cho
người khác sau khi chết, theo ý chí tự nguyện và thể hiện dưới dạng hình thức
pháp lý xác định đó gọi là di chúc
Thừa kế với ý nghĩa là một quan hệ pháp luật dân sự trong đó các chủ thể của
quan hệ thừa kế bao gồm chủ thể được thừa kế và người để lại di sản. Người có


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục


tài sản để lại sau khi chết được gọi là người để lại di sản, người được hưởng di
sản sau khi chết được gọi là người thừa kế, người để lại di sản có thế là cá nhân
không bao giờ là pháp nhân, cơ quan nhà nước hoặc tổ chức, nhưng người thừa
kế có thể là pháp nhân, cơ quan nhà nước hoặc tổ chức;
Mọi người đều có quyền để lại tài sản của mình sau khi chết cho người khác.
Việc chuyển dịch tài sản cho người khác những tài sản của người chết được thực
hiện
Căn cứ vào ý chí cuối cùng của người quá cố trước khi chết. Ý chí này được thể
hiện ở di chúc lập ra khi người đó còn sống. Việc thừa kế này gọi là thừa kế theo
di chúc để định đoạt tài sản của mình cho bất cứ ai mà mính muốn,có thể người
trong diện, hàng thừa kế hoặc người ở ngoài diện, hàng thừa kế,có thể là các cơ
quan tổ chức....
Hoặc căn cứ theo pháp luật. trong trường hợp người quá cố không lập di chúc
hoặc có lập di chúc nhưng người thừa kế chối nhận hoặc là người thừa kế chết
cùng hoặc là chết trước thời điểm mở di chúc mà không có người kế vị hoặc di
chúc được lập trái những điều pháp luật cấm thì tài sản sẽ được chia theo pháp
luật
Trong trường hợp người để lại di sản chỉ lập di chúc về một hoặc một số phần
của tài sản,thì phần tài sản đó được chuyển giao cho chủ thể được lập trong di
chúc, còn phần tài sản còn lại sẽ được chia theo quy định của pháp luật
Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật được pháp luật tôn trọng và thừa
nhận có quyền nhận hoặc không nhận di sản thừa kế
Như vậy quyền để lại di sản của mình sau khi chết và quyền cuả người nhận di
sản được pháp luật tôn trọng và bảo vệ
theo điều 647. Thừa kế theo pháp luật
Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa
kế do pháp luật quy định



Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

Với tư cách là một chủ sở hữu, một người trước khi chết có quyền lập di chúc để
định đoạt tài sản của mình cho người khác, tuy nhiên trong thực tế thì không
phải lúc nào trước khi chết thì người cũng có thể lập được di chúc để lại tài sản
của mình, hoặc vì nhiều nguyên nhân mà di chúc vô hiệu và không có giá trị,
tong trường hợp này thì tài sản được thừa kế thế nào? Vì vậy pháp luật đã đưa ra
quy định để định đoạt tài sản thay người chết. nhưng thừa kế theo pháp luật thì
người thừa kế chỉ có thể là cá nhân mà không có tổ chức hay pháp nhân.. như
thừa kế theo di chúc mà thừa kế theo pháp luật phải là một trong ba mối quan hệ
là: quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng, đồng thời họ
phải đáp ứng những điều kiện mà pháp luật cho phéo để hưởng thừa kế
Điều 668 Hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ, chồng
Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc
tại thời điểm cả vợ, chồng cùng chết
Như vậy di chúc chung của vợ và chồng chỉ phát sinh hiệu lực tại thời điểm
người sau cùng chết, hoặc thời điểm cả vợ và chồng cùng chết, một số trương
hợp thì quy định thời gian vợ và chồng chết sau một thời gian thì di chúc mới có
hiệu lực
1, Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết.Trong trường hợp tòa
án tuyên bố một người đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định
theo khoản 2 điều 81 bộ luật này
khi một người chết thì phát sinh quyền thừa hưởng di sản từ người đó, vì vậy
thời điểm mở thừa kế được xác định là thời điểm mà người dó chết, thời điểm
mở thừa kế là mốc thời gian xác định kể từ lúc đó mở đầu cho việc thừa kế di
sản, và chấm dưt quyền sở hữa tài sản của người đã chết và chuyển giao tài sản
theo di chúc hoặc là theo pháp luật
đối với người bị mất tích thì căn cứ vào quyết định của tòa án, nếu không xác
định được thời gian mà người đó chết thì căn cứ vào thời gian mà tòa án tuyên
bố thì tính từ thời điểm đó là thời điểm được mở thừa kế



Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

thời điểm mở thừa kế có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc xác định quyền
tài sản của người thừa kế và những nhiệm vụ và nghĩa vụ của tài sản được thừa
kế
Đối với di chúc chung giữa vợ và chồng lại không được áp dụng với thời điểm
mở thừa kế là thời điểm người đó chết, nếu giả sử lập di chúc chung của hai vợ
chồng mà một trong hai người chết thì bản di chúc chung vẫn chưa có hiệu lực
Điêu này đi ngược lại với quyền thừa kế của cá nhân và quyền thừa kế theo di
chúc

Điều 663. Di chúc chung của vợ, chồng
Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung
Di chúc chung giữa vợ và chồng thể hiện ý chí chung giữa vợ và chồng nhắm
định đoạt tài sản chung của cả vợ và chồng sau khi chết, do đó di achúc chung
giữa vợ và chồng được ưu tiên ý chí chung của cả vợ và chồng trên tinh thần tự
nguyện thống nhất của hai người
Di chúc chung của vợ và chồng chỉ định đoạt tài sản chung của vợ chồng mà
không định đoạt tài sản riêng của người nào
Điều 664. Sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ đi di chúc chung của vợ, chồng
1, Vợ, chồng có thể sửa đổi bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung bất cứ lúc
nào a
2. Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung thì
phải có sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể
sửa đổi bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình
Sự sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế di chúc chỉ diễn ra trong thời điểm cả hai vợ
chồng cùng sống hoặc một trong hai người đã chết, nó thể hiện sự thay đổi ý chí



Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

của cả hai vợ chồng nên nó phải được quyết định sửa đổi khi có sự thồng nhất ý
chí của cả hai người
cũng giống như di chúc của cá nhân thì việc vợ và chồng cùng lập di chúc và họ
cũng có thể cùng nhau sửa đổi bổ sung hoặc thay thế là hoàn toàn được phép
theo quy định của pháp luật,
nhưng ngược lại với nó nếu giả sử đặt ra trường hợp một trong hai người chết
hoặc không còn khả năng nhận thức thì vấn đề sửa đổi sẽ được đặt ra như thế
nào.
như vậy theo điều luật quy định thì khi mà một trong hai người vợ hoặc chồng
mà chết thì người còn sống chỉ có thể điều chỉnh di chúc chung về phần tài sản
liên quan đến cá nhân của mình, và không thể sửa đổi phần tài sản liên quan đến
người đã chết,
Điều luât thì còn quy định chưa rõ ràng trường hợp nếu một trong hai người bi
mất năng lực hành vi dân sự mà người kia muốn sửa đổi thì sao?
Trường hợp này thì em xin đưa chỉ ra một số bất cập quan điểm cá nhân của
nhóm em như sau :
năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng cá nhân bằng hành vi của
mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự ( theo điều 17" về năng lực
hành vi dân sự của cá nhân" )
Trong trường hợp vợ mất năng lực hành vi dân sự thì chồng là người giám hộ,
nếu chồng là người mất năng lực hành vi dân sự thì vợ là người giám hộ (theo
điều 62 người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự)
Như vậy nếu một trong hai người mà bị mất năng lực hành vi dân sự thì người
còn lại sẽ có quyền định đoạt tài sản của người còn lại, đại diền trong các giao
dịch dân sự cho người bị giám hộ



Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

như vậy thì việc vợ hoặc chồng của người mất năng lực hành vi dân sự có toàn
quyền quyết định về vấn đề sửa đổi di chúc này hay sao? Thì vấn đề này cũng là
một trong những vấn đề chưa có những quy định cụ thể
qui định trên cũng chưa dự liệu các khả năng khác khiến di chúc phải bị sửa đổi,
bổ sung mà không thể tìm được sự đồng thuận của vợ, chồng do vợ, chồng đã
mâu thuẫn và sống ly thân, ly hôn hoặc do một bên vợ hoặc chồng còn sống,
nhưng đã bị tuyên bố mất tích, bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, bị mất
trí, bị bệnh lú lẫn tuổi già... khiến cho họ không còn thể hiện được ý chí cá nhân
được nữa. Điều này chưa được qui định rõ ràng trong luật, nên dễ dẫn đến sự
lúng túng và thiếu nhất quán trong việc áp dụng và thực thi pháp luật liên quan
đến vấn đề vừa nêu.
Vì di chúc chung giữa vợ và chồng là ý chí chung của cả vợ cùng chồng, nhưng
vấn đề đặt ra là mặc dù khi đã lập di chúc chung giữa vợ và chồng, nhưng sau đó
người vợ hoặc chồng lại muốn thay đổi di chúc, nhưng không được sự đồng ý
của người còn lại, họ lập di chúc khác để định đoạt lại phần tài sản của mình,
vậy thì di chúc chung giữa vợ và chồng liệu còn có hiệu lực nữa không, giải
quyết vấn đề này thì em có tham khảo ba quan điểm đưa ra hướng giải quyết
như sau
Thứ nhất:
Vì nội dung điều luật có quy định rằng di chúc chung của cả vợ và chồng thể
hiện ý chí của cả vợ và chồng đòi hỏi sự thống nhất của cả vợ và chồng nên nếu
muốn sửa đổi bổ sung phải có sự đồng ý của cả vợ và chồng
Cụ thể nó được quy định tại khoản 2 điều 664 như sau:
Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung thì
phải có sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể
sửa đổi bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình
Như vậy thì lại không đảm bảo về quyền tự do định đoạt tài sản của chủ sở hữu



Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

Quan điểm thứ hai
Nếu có sự mâu thuẫn về định đoạt tài sản của vợ chồng sau khi đã lập di chúc
chung giữa vợ và chồng, thì vợ hoặc chồng có quyền lập đi chúc mới để định
đoạt lại phần tài sản của mình tuy nhiên phần tài sản nào mà không được quy
định lại ở di chúc mới thì vẫn định đoạt theo di chúc chung giữa vợ và chồng,
còn phần tài sản nào trùng lặp giữa di chúc chung giữa vợ và chồng và di chúc
mới được lập ra của vợ hoặc chồng thì nội dung quy định tài sản sẽ được định
đoạt theo di chúc mới
Quan điểm này chằng nếu lập di chúc mới sau di chúc chung giữa vợ và chồng
thì phần tài sản nào không được quy định theo di chúc mới thì sẽ được định đoạt
theo nội dung của di chúc cũ
Quan điểm thứ ba
Di chúc chung giữa vợ và chồng là di chúc thể hiện ý chí chung của cả vợ và
chồng, khi một trong hai người muốn chỉnh sửa hoặc bổ sung lại di chúng chung
mà không được sự đồng ý của người kia thì đương nhiên lúc này ý chí chung
của vợ và chồng không còn được thống nhất thì đương nhiên di chúc chung sẽ
có thể được hủy bỏ và không còn có hiệu lực. Thì lúc này việc định đoạt tài sản
sẽ được quyết định theo ý chí của từng người với các bản di chúc riêng của cá
nhân
Qua ba quan điểm trên chúng ta có thể thấy thì về vấn đề di chúc chung giữa vợ
và chồng còn nhiều cách giải quyết chưa thống nhất vì vậy đòi hỏi các nhà làm
luật phải có những văn bản hướng dẫn chi tiết hơn về vấn đề này
3,. Hiệu lực của di chúc chung của vợ - chồng

Vấn đề hiệu lực pháp luật của di chúc chung vốn đã gây ra rất nhiều tranh cãi
giữa các chuyên gia pháp luật thừa kế, khi góp ý cho Dự thảo BLDS 2005. Sở dĩ
có sự bất đồng này là do thời điểm có hiệu lực của di chúc chung không trùng

với thời điểm mở thừa kế


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

Điều 668 BLDS 2005 qui định: “Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ
thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết”. Giải
pháp này đã đơn giản hóa việc thực thi di chúc chung (vì chỉ chia thừa kế theo di
chúc chung một lần), so với giải pháp của BLDS 1995. Mặc dù vậy, việc xác
định di chúc chung của vợ chồng phát sinh tại thời điểm người sau cùng chết lại
phát sinh những vấn đề phức tạp khác sau đây:

- Thứ nhất, phải chia thừa kế nhiều lần đối với di sản của người vợ hay chồng
chết trước

Thực tế cho thấy, một cá nhân có thể có nhiều sản nghiệp, bao gồm tài sản riêng
của cá nhân và phần tài sản chung với vợ hay chồng, chưa kể có thể họ còn có
nhiều vợ hay nhiều chồng hợp pháp khác. Nếu xác định di chúc chung chỉ có
hiệu lực dựa vào “cái chết sau cùng”, thì sẽ có ít nhất hai lần “chia thừa kế” đối
với di sản của người vợ hay người chồng chết trước. Lần thứ nhất là chia thừa
kế đối với phần di sản là tài sản riêng hoặc những tài sản chung khác không định
đoạt trong di chúc chung, dựa vào thời điểm mở thừa kế. Lần thứ hai là chia
thừa kế phần di sản định đoạt trong di chúc chung của vợ, chồng, khi di chúc
chung có hiệu lực. Người thừa kế của bên chết trước sẽ phải mất hai lần yêu cầu
phân chia di sản và rất có thể, toà án sẽ phải hai lần thụ lý và giải quyết hai vụ
tranh chấp khác nhau trên di sản của cùng một người. Điều này không chỉ gây
khó khăn cho người thừa kế của người chết trước, làm phức tạp thêm tính chất
của vụ việc, mà còn gây khó khăn cho các cơ quan chức năng trong việc giải
quyết tranh chấp thừa kế, thậm chí, có thể còn vi phạm nguyên tắc “nhất sự bất
tái cứu” trong tố tụng (vụ việc đã xét xử xong rồi thì toà án không thụ lý, giải

quyết lại), vì phải tiến hành xét xử nhiều lần để phân chia di sản của người chết.

- Thứ hai, làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền và lợi ích hợp pháp của những
người thừa kế của người vợ hay chồng chết trước

Quyền thừa kế đối với di sản của người chết trước phát sinh từ thời điểm mở
thừa kế, nhưng cho đến khi di chúc chung chưa phát sinh hiệu lực, những người
thừa kế của người chết trước sẽ không thể yêu cầu phân chia di sản của người


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

chết đã được định đoạt trong di chúc chung và phần di sản liên quan tới phần nội
dung di chúc chung bị vô hiệu, nếu có; hoặc trong trường hợp người vợ hay
người chồng vẫn còn sống lâu hơn so với tuổi thọ của những người thừa kế hợp
pháp của người chết trước (như cha, mẹ của người chết trước, người thừa kế là
con riêng chưa thành niên đang đau yếu cần có tiền để chữa bệnh...), làm những
người này mất quyền được hưởng di sản. Điều này đã xâm phạm tới quyền thừa
kế hợp pháp của công dân được hiến pháp và pháp luật bảo hộ.

- Thứ ba, gây khó khăn cho việc xác định phạm vi những người thừa kế và tư
cách của người được thừa hưởng di sản

Nếu những người thừa kế (của vợ, chồng đã quá cố hoặc những người được chỉ
định trong di chúc chung) chết sau thời điểm mở thừa kế, nhưng chết trước khi
di chúc chung có hiệu lực, thì họ có còn được hưởng thừa kế nữa không, có chia
thừa kế thế vị hay thừa kế chuyển tiếp không; hoặc những người trong diện thừa
kế hợp pháp (của người vợ hoặc chồng còn sống), nhưng tư cách thừa kế của họ
được xác định trước khi di chúc chung có hiệu lực (như vợ, chồng tái hôn hoặc
con riêng với người vợ, chồng sau...), thì họ có được thừa kế bắt buộc đối với

phần di sản đã được định đoạt trong di chúc chung hay không; hoặc những được
chỉ định trong di chúc chung chết trước khi di chúc chung có hiệu lực, nhưng
chết sau thời điểm mở thừa kế của người vợ hay chồng đã quá cố, thì họ có
thuộc thừa kế theo di chúc chung hay không... là những vấn đề chưa được qui
định trong pháp luật hiện hành, làm ảnh hưởng rất nhiều đến việc xác định tư
cách người thừa kế và các qui định khác có liên quan.

- Thứ tư, làm ảnh hưởng đến thời hiệu khởi kiện thừa kế đối với di sản của
người chết trước

Thời hiệu khởi kiện thừa kế là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Nếu hết 10
năm đó mà người kia vẫn còn sống, thì thời hiệu khởi kiện xin chia thừa kế đối
với phần di sản của người chết trước cũng không còn. Nếu vì lý do nào đó,
chẳng hạn nội dung di chúc chung vi phạm pháp luật, có dấu hiệu lừa dối, giả
mạo... mà người thừa kế không biết để khởi kiện kịp thời (do di chúc chung
chưa được công bố), đến khi người sau cùng chết mà thời hiệu khởi kiện không
còn, thì quyền lợi của người thừa kế của người chết trước cũng như những người


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

thừa kế hợp pháp của cả vợ, chồng có được bảo vệ không, cũng chưa được pháp
luật qui định rõ. Vấn đề đã đuợc chúng tôi đề cập trong một bài viết khác về thời
hiệu khởi kiện thừa kế.

- Thứ năm, nếu tình trạng không phân chia di sản kéo dài quá lâu, khiến cho di
sản là tài sản chung không còn nguyên vẹn do bị tiêu huỷ, giảm sút giá trị, hoặc
do sự đầu tư, sửa chữa, tu bổ làm tài sản tăng giá trị, thì hậu quả của nó càng hết
sức phức tạp, việc xác định giá trị của tài sản chung trong trường hợp này sẽ rất
khó khăn, sẽ càng tạo ra nhiều tranh chấp khác rất khó giải quyết.


Như vậy, thời điểm phát sinh hiệu lực pháp luật của di chúc chung, không đơn
giản chỉ là căn cứ để phân chia di sản theo di chúc chung, mà sẽ ảnh hưởng tới
thời hiệu khởi kiện, quyền thừa kế di sản của người chết trước, xác định phạm vi
những người thừa kế hợp pháp, xác định giá trị di sản của người chết và những
biến động của nó... Qua đó, sẽ làm cho việc chia thừa kế theo di chúc chung trở
nên khó khăn, phức tạp thêm.
4, Vấn đề chấm dứt sự tồn tại của di chúc chung

Di chúc chung có nhiều tính chất khác biệt so với di chúc cá nhân. Dù vậy, nhà
làm luật vẫn không dự liệu các căn cứ riêng biệt đương nhiên làm chấm dứt di
chúc chung.

Như đã biết, di chúc chung được hình thành dựa trên hai yếu tố quan trọng của
quan hệ vợ - chồng, đó là tình cảm vợ - chồng và tài sản chung của vợ - chồng.
Nếu hai yếu tố này mất đi thì di chúc chung cũng không còn ý nghĩa. Trên thực
tế sẽ phát sinh nhiều tình huống pháp lý khiến cho hai yếu tố trên bị thay đổi,
như trường hợp: các bên vợ chồng ly hôn; chia tài sản chung trong khi hôn nhân
đang tồn tại; một bên mất tích hoặc bị toà án tuyên bố chết và người còn lại đã
kết hôn với người khác, sau đó người bị tuyên bố chết còn sống trở về, nhưng
không thể tái hợp quan hệ vợ chồng; hoặc sau khi có di chúc chung, vợ chồng
lại định đoạt tài sản chung vào một mục đích khác, như tặng cho, bán; vợ hay
chồng còn sống đã kết hôn với người khác hoặc có những quyết định làm ảnh
hưởng tới hiệu lực hoặc sự tồn tại của di chúc chung (như quyết định sửa đổi, bổ
sung, thay thế, huỷ bỏ phần di chúc chung liên quan tới phần tài sản của họ


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

trong tài sản chung của vợ, chồng...). Đây là những trường hợp dẫn đến việc

chấm quan hệ vợ - chồng, hoặc chấm dứt tình trạng sở hữu chung đối với tài
sản, hoặc trực tiếp làm chấm dứt di chúc chung. Tuy vậy, những tình huống này
không được dự liệu của pháp luật, nên sẽ dẫn tới sự lúng túng trong việc thực thi
di chúc chung, vì không ai dám chắc là di chúc chung có đương nhiên bị mất
hiệu lực, trong những tình huống đó hay không.

5, Những kiến nghị về sửa đổi di chúc vợ chồng

5.1. Có tiếp tục thừa nhận di chúc chung của vợ, chồng?

Có thể thấy, pháp luật hiện hành vẫn chưa có giải pháp nào để giải quyết tốt các
vấn đề pháp lý phức tạp được đặt ra đối việc lập, sửa đổi, huỷ bỏ di chúc chung
và xác định hiệu lực thực thi của di chúc chung. Bản chất của di chúc vốn là
giao dịch pháp lý đơn phương của cá nhân. Không thể có sự tham dự ý chí của
nhiều cá nhân trong việc lập di chúc. Nếu thừa nhận di chúc chung, pháp luật có
thể đạt được mục đích tốt đẹp là hướng các bên trong quan hệ thừa kế cần quan
tâm hơn việc tăng cường tình thương yêu và đoàn kết trong gia đình. Nhưng
không nên nhầm lẫn việc tăng cường đoàn kết trong gia đình với việc phải cùng
nhau lập di chúc chung. Chưa kể việc lập di chúc chung xong rồi lại bất đồng
trong việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung; hay sau khi một bên
vợ hoặc chồng chết trước, nhưng người thừa kế hợp pháp không thể xin phân
chia di sản thừa kế hoặc chia thừa kế bắt buộc... thì có thể còn tạo hiệu ứng
ngược. Bởi thế, không nên thừa nhận loại hình di chúc chung của vợ chồng và
cần qui định minh thị trong luật cấm nhiều người lập di chúc chung, kể cả vợ
chồng.

Việc bảo đảm quyền lợi thừa kế của gia đình và của người thân thích không thể
trông đợi vào việc lập di chúc chung, mà đã có các giải pháp khác hữu hiệu hơn,
như thừa kế bắt buộc, tước quyền thừa kế, thừa kế thế vị, thừa kế theo các hàng
thừa kế...


5.2. Trường hợp không thể bãi bỏ các qui định về di chúc chung trong luật thực
định, thì cần có những thay đổi toàn diện về vấn đề này trong BLDS 2005


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

Dường như kiến nghị bãi bỏ qui định di chúc chung của vợ, chồng là không khả
thi, vì đây là một thực tiễn pháp lý và tục lệ, đã tồn tại từ lâu trong xã hội Việt
Nam. Vấn đề cần thiết hiện nay là, làm sao vẫn duy trì di chúc chung nhưng phải
hạn chế tối đa những rắc rối, phức tạp do việc thừa loại di chúc này mang lại.
Bởi thế, chúng tôi xin đưa ra một số kiến nghị sau đây phục vụ cho việc nghiên
cứu để sửa đổi, bổ sung các qui định pháp luật có liên quan tới di chúc chung
của vợ, chồng:

- Thứ nhất, cần phải tách vấn đề di chúc chung của vợ chồng ra khỏi di chúc của
cá nhân và thiết kế thành một mục riêng trong chương thừa kế theo di chúc

Như đã phân tích trên, tuy di chúc chung của vợ chồng cũng là một loại di chúc
được lập, sửa đổi, bổ sung và phát sinh hiệu lực gần giống như một di chúc
thông thường. Nhưng di chúc chung còn có những đặc thù: (i) do hai ý chí cá
nhân cùng tham gia định đoạt dựa trên mối quan hệ hôn nhân đang còn hiệu lực;
(ii) dùng để định đoạt khối tài sản chung của vợ chồng; (iii) có hiệu lực không
đồng thời với thời điểm mở thừa kế của bên chết trước... do đó, cần phải được
qui định thành một mục riêng; hoặc chí ít, cũng cần phải định rõ những ngoại lệ
của di chúc chung so với di chúc cá nhân, trong các điều luật tương ứng qui định
về di chúc cá nhân.

- Thứ hai, nội dung của mục này cần phải làm rõ các vấn đề sau đây:


+ Qui định quyền lập di chúc chung của vợ chồng, khi hôn nhân đang còn tồn
tại, phải tuân thủ các qui định chung về năng lực lập di chúc, các yêu cầu để di
chúc có hiệu lực cũng tương tự như di chúc của cá nhân;

+ Qui định về hình thức bắt buộc mà di chúc chung phải tuân thủ. Chỉ nên lập di
chúc chung bằng thể thức văn bản có người làm chứng (nếu cả hai đủ điều kiện
minh mẫn, sáng suốt, không thuộc trường hợp mù chữ hoặc bị khiếm khuyết thể
chất liên quan tới chức năng lập, kiểm tra nội dung di chúc); hoặc văn bản công
chứng, chứng thực.


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

+ Qui định quyền được sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung của một
bên, khi vợ chồng còn sống, vẫn phải có sự đồng ý của vợ, chồng. Nhưng nếu
một bên cần sửa đổi mà bên kia nhất quyết không đồng ý hoặc không thể biểu lộ
ý chí một cách tự nguyện, thì người kia có quyền tự lập di chúc cá nhân hoặc có
quyền sửa đổi, bổ sung một phần di chúc chung trong phạm vi phần tài sản của
mình. Điều này làm cho các bên vợ, chồng luôn phải tìm thấy sự đồng thuận, kể
cả trong việc lập hay sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung; đồng thời
cũng nhằm bảo đảm sự cân bằng giữa quyền lợi cá nhân với quyền lợi chung của
vợ, chồng trong việc lập di chúc chung. Người ta không thể bị bắt buộc phải lập
di chúc chung và càng không thể bị bắt buộc phải giữ nguyên nội dung di chúc
chung đã lập, khi không tìm thấy sự đồng thuận ở người bạn đời của mình trong
việc sửa đổi, bổ sung di chúc chung. Cũng cần nói thêm rằng, khi các bên còn
sống, di chúc chung vẫn chưa có hiệu lực, và người ta vẫn có nhiều cách để làm
mất hiệu lực của di chúc chung, mà không cần phải sửa đổi, bổ sung, thay thế
hay huỷ bỏ di chúc chung đó.

+ Luật cần dự liệu các căn cứ cụ thể làm chấm dứt di chúc chung của vợ chồng

một cách đương nhiên, nhằm tạo cơ sở pháp lý rõ ràng để giải quyết các trường
hợp tương ứng, tránh gây ra sự lúng túng, thiếu nhất quán hoặc những tranh cãi
không cần thiết, khi các bên liên quan tiến hành phân chia di sản dựa trên di
chúc chung của vợ - chồng.
+ Cần phải dung hòa giữa quyền của vợ, chồng trong việc lập di chúc chung với
lợi ích chính đáng của những người thừa kế của vợ hay chồng. Thừa nhận thời
điểm phát sinh hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng là thời điểm bên sau
cùng chết, nhưng cũng cho phép những người thừa kế hợp pháp của người vợ
hay chồng chết trước có quyền xin chia thừa kế đối với phần di sản của vợ,
chồng không được định đoạt trong di chúc chung. Đối với phần tài sản đã định
đoạt trong di chúc chung thì cho phép các bên thừa kế bắt buộc được nhận phần
di sản bắt buộc, nếu việc kéo dài tình trạng không phân chia di sản, theo hiệu lực
của di chúc chung, có ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền lợi hợp pháp của họ;
đồng thời cần phải xác định rõ trong luật khoảng thời gian mà di sản chưa được
phân chia thì được trừ vào thời hiệu khởi kiện thừa kế. Và, việc kéo dài thời
điểm phát sinh hiệu lực của di chúc chung sẽ chấm dứt, nếu người còn sống kết
hôn với người khác hoặc họ đã lập di chúc khác để thay thế, huỷ bỏ, sửa đổi, bổ
sung di chúc chung liên quan tới phần tài sản của họ trong tài sản chung, mà


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

việc đó ảnh hưởng tới sự tồn tại của di chúc chung hoặc ảnh hưởng nghiêm
trọng đến tài sản chung của vợ chồng.

III,Kết luận

Giữa ý định muốn bỏ định chế di chúc chung của vợ, chồng với việc giữ lại các
qui định này, thì quan điểm muốn giữ lại có phần thắng thế do tục lệ, do thực
tiễn pháp lý và thực tế đời sống đang đặt ra nhu cầu phải điều chỉnh bằng luật

việc vợ, chồng muốn cùng nhau lập di chúc chung. Qua nghiên cứu vấn đề trên
cũng cho thấy, di chúc chung của vợ, chồng hoàn toàn không phải là vấn đề đơn
giản. Luật thực định chỉ dùng một hai điều luật ngắn để điều chỉnh vấn đề này,
rõ ràng là chưa tương xứng và không đủ liều lượng cần thiết. Việc này cũng
giống như dùng chiếc áo trẻ em để mặc cho một cơ thể người lớn. Đó sẽ là
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự bất cập và thiếu nhất quán trong việc thực thi
pháp luật về vấn đề liên quan. Bây giờ mà kiến nghị Quốc hội sửa đổi, bổ sung
qui định về di chúc chung trong BLDS 2005 là quá sớm, nhưng nghiên cứu vấn
đề để chuẩn bị tiền đề tư tưởng phục vụ cho việc sửa đổi, bổ sung nội dung này
trong BLDS 2005 là việc nên làm ngay và hoàn toàn không phải là quá sớm.



×