Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Quyền nhân thân theo quy định trong Bộ luật dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.31 KB, 23 trang )

Bài Tập Lớn Học Kỳ
A. Mở bài:
Quyền nhân thân là một trong những quyền rất quan trọng được Luật Dân
sự Việt Nam – quyền nhân thân gắn liền với một chủ thể nhất định, gắn liền với
giá trị tinh thần, gắn liền với mỗi chủ thể nhất định và không chuyển giao được
về nguyên tắc . Tại Việt Nam, quyền nhân thân được quy định tại Điều 24 Bộ
luật dân sự năm 2005.
Điều 24. Quyền nhân thân: Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật này là quyền dân
sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác.
Bộ luật Dân sự Việt Nam dành 28 điều để làm rõ những điều liên quan đến
quyền nhân thân này, cụ thể đó là những quyền như: quyền được khai sinh, khai tử,
được cải chính họ tên, quyền hiến bộ phận cơ thể, quyền kết hôn, ly hôn, quyền xác
định giới tính, quyền tự do kinh doanh…
Mặc dù luật đã quy định cụ thể như vậy, nhưng trong thực tiễn thi hành, các vấn
đề về quyền nhân thân luôn gặp nhiều vướng mắc. Trước các vấn đề đó, đề tài “
Quyền nhân thân theo quy định trong Bộ luật dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn” là rất cấp thiết, cần có sự nghiên cứu, tìm tòi, đào sâu để làm rõ những vấn đề
còn vướng mắc, đem lại sự hoàn thiện của pháp luật nói chung và luật dân sự nói
riêng.
B. Phần nội dung:
I. Khái niệm và phân loại quyền nhân thân.
1. Khái niệm quyền nhân thân
Điều 24 Bộ luật dân sự (BLDS) 2005 quy định: “Quyền nhân thân được quy định trong
Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác”. Quy định này đã nêu lên khái niệm về quyền nhân
thân thông qua hai đặc điểm cơ bản là: gắn liền với cá nhân, không chuyển dịch.
Nếu chỉ dừng lại ở những đặc điểm đó thì khái niệm quyền nhân thân sẽ vướng
phải một số bất cập nhất định sau đây:
- Với hai đặc điểm nêu trên thực sự chưa đủ để phân biệt quyền nhân thân với
các quyền dân sự khác, bởi lẽ có một số quyền tài sản cũng mang đủ hai đặc điểm này.


Ví dụ: Pháp luật hôn nhân và gia đình quy định rằng quyền được cấp dưỡng và
nghĩa vụ cấp dưỡng cũng được gắn liền với những cá nhân nhất định như: giữa cha mẹ
và con, giữa anh chị em với nhau, giữa ông bà và cháu, giữa vợ và chồng. Quyền yêu
cầu cấp dưỡng và nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng các quyền, nghĩa vụ
khác và cũng “không thể chuyển giao cho người khác” (Điều 50 Luật Hôn nhân và gia
đình 2000). Quyền này là quyền tài sản chứ không phải là quyền nhân thân.
- Điều 24 BLDS 2005 quy định rằng quyền nhân thân là quyền “gắn liền với
mỗi cá nhân”, vậy thì các chủ thể khác (như pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác) có các
quyền nhân thân của mình không? Điều 604 và Điều 611 BLDS 2005 có đề cấp đến
1
Bài Tập Lớn Học Kỳ
“danh dự, uy tín của pháp nhân, chủ thể khác”, vậy đây có được coi là quyền nhân
thân của pháp nhân và các chủ thể khác không? Điều 1 Nghị quyết số 01/2004/NQ-
HĐTP ngày 28/04/2004, cũng như Điều 1 Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày
08/07/2006 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Các quy định đó đều
hướng tới sự thừa nhận các quyền nhân thân đối với pháp nhân và các chủ thể khác.
Các phân tích trên cho ta thấy phải chăng khái niệm quyền nhân thân nên được
mở rộng không những gắn với cá nhân mà với cả các chủ thể khác, để phân biệt quyền
nhân thân với các quyền dân sự khác. Từ đó xây dựng một khái niệm quyền nhân thân
mới.
2. Phân loại quyền nhân thân:
BLDS 2005 liệt kê tương đối nhiều các quyền nhân thân (từ Điều 26 đến Điều 51).
Điều 738 và Điều 751 BLDS 2005 còn quy định thêm một số quyền nhân thân. Các
quyền nhân thân này có thể được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau, mỗi tiêu chí
thể hiện một khía cạnh pháp lý đặc thù. Thông qua các phân loại này chúng ta sẽ hiểu
được rõ nét hơn bản chất pháp lý của từng loại quyền nhân thân, từ đó nhận diện được
chính xác các hành vi xâm phạm và đề ra được phương thức bảo vệ thích hợp nhất.
Thứ nhất, dựa vào căn cứ phát sinh mà các quyền nhân thân có thể phân thành
nhóm các quyền nhân thân không gắn với tài sản (các quyền nhân thân không gắn với
tài sản này được công nhận đối với mọi cá nhân một cách bình đẳng và suốt đời,

không phụ thuộc vào bất cứ hoàn cảnh kinh tế, địa vị hay mức độ tài sản của người
đó) và nhóm các quyền nhân thân gắn với tài sản (quyền nhân thân gắn với tài sản chỉ
được xác lập cùng với sự hình thành của một tài sản vô hình, như tác phẩm văn học,
nghệ thuật, khoa học, sáng chế, kiểu dáng, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống
cây trồng, …). Phân loại này được thể hiện tại khoản 1 Điều 15 BLDS 2005. Các
quyền nhân thân không gắn với tài sản được quy định từ Điều 26 đến Điều 51 BLDS
2005. . . Các quyền nhân thân này được quy định tại khoản 2 Điều 738 và mục a
khoản 1 Điều 751 BLDS 2005. Trong số các quyền này có một quyền có thể chuyển
giao được sang cho chủ thể khác – đó là quyền công bố hoặc cho phép người khác
công bố tác phẩm (theo quy định tại Khoản 1 Điều 742 BLDS 2005).
Thứ hai, dựa vào chủ thể mang quyền mà các quyền nhân thân có thể được
phân thành hai nhóm là: Nhóm các quyền nhân thân của cá nhân và nhóm các quyền
nhân thân của các chủ thể khác (không phải là cá nhân). Các quyền nhân thân của cá
nhân bao gồm các quyền nhân thân được quy định từ Điều 26 đến Điều 51 BLDS
2005 và các quyền nhân thân gắn với tài sản được quy định tại Điều 738 BLDS 2005.
Các quyền nhân thân của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác có thể bao gồm: quyền
được bảo vệ danh dự, uy tín (được đề cập đến tại Điều 604 và Điều 611 BLDS 2005).
Có thể thừa nhận thêm một số quyền nhân thân của pháp nhân như quyền đối với tên
gọi, quyền tự do kinh doanh đối với các chủ thể có đăng ký kinh doanh.
Thứ ba, dựa vào đối tượng của quyền mà các quyền nhân thân được phân thành
5 nhóm sau đây:
2
Bài Tập Lớn Học Kỳ
- Nhóm các quyền cá biệt hoá chủ thể, bao gồm: quyền đối với họ tên; quyền
thay đổi họ tên; quyền xác định dân tộc; quyền được khai sinh, khai tử; quyền đối với
hình ảnh; quyền xác định lại giới tính; quyền đối với quốc tịch.
- Nhóm các quyền liên quan đến thân thể của cá nhân, bao gồm: quyền được
đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền hiến bộ phận cơ thể; quyền
nhận bộ phận cơ thể người.
- Nhóm các quyền liên quan đến giá trị tinh thần của chủ thể: quyền được bảo

vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền bí mật đời tư; quyền bất khả xâm phạm về chỗ
ở; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi lại, tự do cư trú; quyền lao động;
quyền tự do kinh doanh; quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo.
- Nhóm các quyền liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình của cá nhân:
quyền kết hôn, quyền bình đẳng vợ chồng; quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các
thành viên trong gia đình; quyền ly hôn; quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con; quyền
được nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi.
- Nhóm các quyền đối với các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ: quyền đặt tên
cho tác phẩm; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm hay trên văn bằng bảo
hộ (đối với sáng chế, kiểu dáng, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây
trồng), quyền được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng;
quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; quyền bảo vệ sự toàn vẹn
của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc tác phẩm.
Thứ tư, Dựa vào thời hạn bảo hộ mà các quyền nhân thân được phân loại thành
hai nhóm: Nhóm các quyền nhân thân được bảo hộ vô thời hạn và nhóm các quyền
nhân thân được bảo hộ có thời hạn.
- Nhóm các quyền nhân thân được bảo hộ vô thời hạn bao gồm: quyền đối với
họ tên; quyền đối với hình ảnh; quyền được bảo vệ danh dự, uy tín; quyền bí mật đời
tư; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu tên thật hoặc bút danh
khi tác phẩm được công bố, sử dụng; quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không
cho người khác sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc tác phẩm.
- Nhóm các quyền nhân thân được bảo hộ có thời hạn bao gồm: quyền thay đổi
họ tên; quyền xác định dân tộc; quyền được khai sinh, khai tử; quyền được đảm bảo
an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền được bảo vệ nhân phẩm; quyền hiến
bộ phận cơ thể; quyền nhận bộ phận cơ thể người; quyền xác định lại giới tính; quyền
kết hôn, quyền bình đẳng vợ chồng; quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành
viên trong gia đình; quyền ly hôn; quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con; quyền được
nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi; quyền đối với quốc tịch; quyền bất
khả xâm phạm về chỗ ở; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi lại, tự do cư
trú; quyền lao động, quyền tự do kinh doanh; quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo; quyền

đặt tên cho tác phẩm; quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm.
Thứ năm, dựa vào đặc điểm của hành vi xâm phạm mà chúng ta phân loại các
quyền nhân thân thành ba nhóm:
- Nhóm các quyền mà hành vi xâm phạm tác động vào chính chủ thể quyền, bao
gồm: quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền hiến bộ
3
Bài Tập Lớn Học Kỳ
phận cơ thể; quyền nhận bộ phận cơ thể người; quyền xác định lại giới tính; quyền
thay đổi họ tên; quyền xác định dân tộc; quyền được khai sinh, khai tử; quyền được
bảo vệ nhân phẩm, các quyền nhân thân liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình;
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi lại, tự do cư trú; quyền lao động,
quyền tự do kinh doanh; quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo.
- Nhóm các hành vi xâm phạm tác động vào các chủ thể khác (không phải là
chủ thể quyền), bao gồm: quyền được bảo vệ danh dự, uy tín; quyền bí mật đời tư;
quyền đối với họ tên; quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm.
- Nhóm các hành vi xâm phạm tác động vào vật phẩm liên quan đến quyền, bao
gồm: quyền đối với họ tên; quyền đối với hình ảnh; quyền bí mật đời tư; quyền bất
khả xâm phạm về chỗ ở; quyền đối với quốc tịch; quyền bí mật đời tư; quyền đặt tên
cho tác phẩm; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu tên thật
hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác
phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc tác phẩm.
Thứ sáu, dựa vào phương thức bảo vệ mà các quyền nhân thân được phân
thành hai nhóm: Nhóm các quyền được bảo vệ khi có yêu cầu và nhóm được bảo vệ
không phụ thuộc vào yêu cầu.
- Nhóm các quyền được bảo vệ khi có yêu cầu bao gồm: quyền đối với họ tên;
quyền thay đổi họ tên; quyền xác định dân tộc; quyền được khai sinh, khai tử; quyền
đối với hình ảnh; quyền hiến bộ phận cơ thể; quyền nhận bộ phận cơ thể người; quyền
xác định lại giới tính; quyền được bảo vệ danh dự, uy tín; quyền bí mật đời tư; quyền
kết hôn; quyền bình đẳng vợ chồng; quyền ly hôn; quyền nhận, không nhận cha, mẹ,
con; quyền được nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi; quyền đối với quốc

tịch; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do
đi lại, tự do cư trú; quyền lao động, quyền tự do kinh doanh; quyền tự do nghiên cứu,
sáng tạo; quyền đặt tên cho tác phẩm; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác
phẩm, được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; quyền
công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; quyền bảo vệ sự toàn vẹn của
tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc tác phẩm.
- Nhóm được bảo vệ không phụ thuộc vào yêu cầu bao gồm: quyền được đảm
bảo an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền được bảo vệ nhân phẩm; quyền
được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình.
II. Quyền nhân thân theo quy định của Bộ luật dân sự. Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn.
1. Quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể.
Khoản 3 Điều 32 BLDS năm 2005 quy định “việc thực hiện phương pháp chữa
bệnh mới trên cơ thể một người,… thì phải được sự đồng ý của người đó; nếu người đó
chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự hoặc là bệnh nhân bất tỉnh, thì phải có
sự đồng ý của cha, mẹ, người giám hộ, vợ hoặc chồng và con đã thành niên của người
đó; trong trường hợp có nguy cơ đe dọa đến tính mạng của bệnh nhân mà không chờ
4
Bài Tập Lớn Học Kỳ
được ý kiến của những người trên, thì phải có quyết định của người đứng đầu cơ sở y
tế”.
Qui định này đã đáp ứng được yêu cầu cấp bách và cần thiết trong việc cấp cứu
người bệnh. Tuy nhiên, việc trao quyền cho người đứng đầu cơ sở y tế quyết định việc
chữa bệnh khi không thể chờ được ý kiến của thân nhân, như cách qui định trên, sẽ
gây ra những hậu quả bất lợi cho nhân mạng của bệnh nhân và gây ra tâm trạng bất an
cho gia đình, những người thân thích nhất của bệnh nhân. Bởi lẽ, thực tế hiện nay tại
một số cơ sở chữa bệnh, người đứng đầu cơ sở chỉ là người quản lý mà không nắm bắt
hoặc hiểu biết hết về các lĩnh vực y khoa chuyên sâu. Do đó, để những người này ra
các quyết định về việc áp dụng phương pháp chữa bệnh mới, cắt bỏ bộ phận cơ thể,
cấy hoặc ghép nội tạng… thì rất mạo hiểm đối với sự an toàn cơ thể và sinh mạng của

người bệnh, trong khi chúng ta chưa có cơ chế giám sát chặt chẽ về việc ra các quyết
định này của người đứng đầu cơ sở chữa bệnh, nhất là đối với các phòng khám cơ sở,
các cơ sở chữa bệnh tư nhân… Vì thế, nên bổ sung thêm đoạn cuối khoản 3 Điều 33
BLDS 2005 với nội dung như sau “… quyết định của người đứng đầu cơ sở y tế, dựa
trên kết luận của hội đồng y khoa của cơ sở chữa bệnh đó gồm từ 3 bác sỹ chuyên khoa
trở lên có liên quan đến căn bệnh cần phải xử lý bằng các phương pháp y khoa kể trên,
sau khi đã hội chẩn về căn bệnh đó. Kết luận của Hội đồng phải được lập thành văn
bản hoặc thể hiện trong hồ sơ bệnh án của bệnh nhân”. Qui định như vậy sẽ hạn chế
tối đa những sai lầm cá nhân của người đứng đầu cơ sở y tế khi ra các quyết định hệ
trọng liên quan đến sự sống và sức khỏe, sự an toàn cơ thể của bệnh nhân (trong khi
pháp luật hiện hành không có một qui định nào về trách nhiệm, chế tài hay biện pháp
cần thiết để hạn chế sai lầm của người này khi ra các qui định đó). Nếu cẩn thận hơn,
cần xác định thêm là cơ sở y tế tuyến nào hoặc cấp nào mới có quyền ra những quyết
định nói trên. Theo em, chỉ nên cho phép những sơ sở chữa bệnh từ cấp huyện trở lên
có đủ các bác sỹ chuyên khoa có chuyên môn để có thể đưa ra các quyết định đúng
đắn về phương pháp chữa bệnh thích ứng mới được quyền quyết định việc áp dụng
phương pháp chữa bệnh, khi việc áp dụng các phương pháp đã kể trên (không bao
gồm các phương pháp y khoa cần thiết để cấp cứu bệnh nhân) trường hợp khẩn cấp
mà không thể chờ được ý kiến của thân nhân người bệnh. Đồng thời, việc áp dụng các
phương pháp đó phải được thông báo cho những người thân thích nhất gồm những
người được nêu trong điều luật, nếu họ có yêu cầu, trừ trường hợp việc thông báo đó
xâm phạm bí mật đời tư của bệnh nhân. Nếu chỉ quan tâm đến việc áp dụng các
phương pháp đặc biệt để cứu chữa bệnh nhân mà không tạo ra cơ chế bảo đảm cho
việc đó được thực hiện một cách an toàn, thì đó sẽ là một thiếu sót nghiêm trọng
-nguy cơ dẫn đến nhiều hậu quả đáng tiếc không lường trước được.
2. Quyền của cá nhân đối với họ, tên.
Mỗi cá nhân sinh ra đều có tên gọi của mình do bố mẹ đặt cho để phân biệt cá
nhân đó với những cá nhân khác. Có nhiều dấu hiệu để phân biệt cá nhân này với cá
nhân khác nhưng có lẽ tên gọi là dấu hiệu đầu tiên để cá biệt hoá cá nhân.
Điều 26 BLDS 2005 quy định:

5
Bài Tập Lớn Học Kỳ
1. Cá nhân có quyền có họ, tên. Họ, tên của một người được xác định theo họ,
tên khai sinh của người đó.
2. Cá nhân xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự theo họ, tên của mình đã
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận.
3. Việc sử dụng bí danh, bút danh không được gây thiệt hại đến quyền, lợi ích
hợp pháp của người khác.
Như vậy, mặc dù một người có thể có nhiều tên gọi khác nhau như tên khai
sinh, tên thường gọi, biệt hiệu, bí danh … nhưng khi tham gia quan hệ pháp luật, mỗi
cá nhân chỉ được công nhận mang một tên riêng để phân biệt với những cá nhân khác.
Đó là tên khai sinh của người đó được ghi trong giấy khai sinh.
Tên của một người theo truyền thống, phong tục của Việt Nam thường bao gồm
họ, tên đệm và tên gọi. Họ của một người thường theo họ cha hoặc họ mẹ của người
đó. Theo quy định của Nghị định 158/2005/NĐ-CP về đăng ký hộ tịch thì pháp luật
cũng không quy định việc khai sinh cho trẻ bắt buộc phải có họ. Do vậy, việc lựa chọn
họ cho trẻ theo họ cha hoặc họ mẹ hoặc một họ khác hoặc không có họ là hoàn toàn
phụ thuộc vào ý chí của người đi đăng ký khai sinh cho trẻ.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc xác định tên khai sinh của một người cũng có
những khó khăn, phức tạp đặc biệt là trong trường hợp người đó không được đăng ký
khai sinh. Trên thực tế đã có những trường hợp do điều kiện hoàn cảnh mà rất nhiều
em bé không được khai sinh ví dụ như Báo Pháp Luật TP.HCM ngày 18-1 có bài
“Một phường có hơn 400 trẻ “vô danh” phản ánh phường Bình Hưng Hòa A (quận
Bình Tân, TP.HCM) có hơn 400 trẻ em chưa có giấy khai sinh. Hầu hết cha mẹ của
các em là công nhân, người lao động có hộ khẩu ở tỉnh, không có tiền về quê làm thủ
tục khai sinh cho con… Có em sắp thi đại học vẫn chưa có giấy khai sinh. Nhiều em
không được nhận vào học tại các trường công mà phải học ở các lớp học tình thương.
Quyền đối với họ tên là một quyền nhân thân của cá nhân. Cá nhân có quyền
nhân thân này kể từ khi sinh ra. Tuy nhiên, việc thực hiện quyền nhân thân này lại
không phụ thuộc vào cá nhân, là những em bé không có năng lực hành vi dân sự mà

hoàn toàn phụ thuộc vào người khác, những người có quyền và trách nhiệm đăng ký
khai sinh cho trẻ. Trong trường hợp trẻ em không được đăng ký khai sinh do lỗi của
người lớn thì rõ ràng quyền và lợi ích của trẻ em đã bị xâm phạm. Vậy ai sẽ chịu trách
nhiệm trong những trường hợp này và vấn đề trách nhiệm dân sự như bồi thường thiệt
hại có được đặt ra hay không?
Không những thế, trong trường hợp trẻ em đã trở thành người lớn và có đầy đủ
năng lực hành vi dân sự mà vẫn chưa được đăng ký khai sinh thì có thể tự đi đăng ký
khai sinh cho mình không? Nghị định 158 chỉ quy định trường hợp đăng ký khai sinh
cho trẻ em trong đó quy định rõ người đi đăng ký khai sinh phải là người khác và thủ
tục đăng ký khai sinh phải cần những giấy tờ nhất định. Như vậy, nếu pháp luật không
có quy định và giải thích rõ ràng thì người không được khai sinh đó mãi vẫn là người
không có họ, tên và không được tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự cũng như
các quan hệ pháp luật khác. Và như vậy, quyền nhân thân của cá nhân sẽ chỉ là những
quyền khách quan do pháp luật quy định mà sẽ không thể trở thành những quyền năng
6
Bài Tập Lớn Học Kỳ
chủ quan, cụ thể của cá nhân. Theo em, để khắc phục tình trạng này, pháp luật cần quy
định rõ hơn về trách nhiệm của người không thực hiện việc khai sinh cho trẻ cũng như
cần bổ sung thêm trường hợp một người có thể tự đi đăng ký khai sinh cho chính
mình.
Ngoài ra, trên thực tế còn diễn ra nhiều trường hợp người này sử dụng họ, tên
của người khác trong các quan hệ xã hội cũng như quan hệ dân sự. Việc sử dụng này
không những gây tổn hại cho danh dự, uy tín mà còn gây thiệt hại về tài sản của cá
nhân. Hành vi này bị coi là hành vi bất hợp pháp và sẽ phải chịu một trách nhiệm pháp
lý theo quy định của pháp luật.
3. Quyền xác định dân tộc.
Quyền xác định dân tộc là một quyền nhân thân của cá nhân được pháp luật
công nhân và bảo vệ. Theo quy định của BLDS năm 2005, Điều 28 thì cá nhân sinh ra
được xác định dân tộc theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ. Trong trường hợp cha đẻ và mẹ
đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau thì dân tộc của người con được xác định là dân tộc của

cha đẻ hoặc dân tộc của mẹ để theo tập quán hoặc theo thoả thuận của cha đẻ, mẹ đẻ.
Việt Nam là một quốc gia của 54 dân tộc cùng chung sống hoà thuận, trong đó
dân tộc Kinh chiếm 86% dân số; 53 dân tộc còn lại có số lượng dao động trên dưới 1
triệu người như Tày, Nùng, Thái , Mường, Khmer cho đến vài trăm người như dân tộc
ơ Đu và Brâu.
Khác với quyền đối với họ, tên, dân tộc của cá nhân được xác định theo dân tộc
của cha hoặc của mẹ chứ không được hoàn toàn tự do lựa chọn và dân tộc của cá nhân
cũng sẽ được ghi vào giấy khai sinh khi trẻ đựơc đăng ký khai sinh.
Cũng giống như họ, tên, việc xác định dân tộc cho trẻ gặp khó khăn khi trẻ sinh
ra bị bỏ rơi hoặc không xác định được cha, mẹ. Theo quy định của khoản 3 Điều 16
Nghị định 158 thì trong trường hợp khai sinh cho trẻ bị bỏ rơi thì phần cha, mẹ, dân
tộc được bỏ trống. Quy định này tạo thuận lợi cho việc đăng ký khai sinh cho trẻ được
dễ dàng cũng như tạo được sự chính xác khi xác định dân tộc cho trẻ. Tuy nhiên, quy
định này lại có điểm hạn chế trong trường hợp sau đó không thể xác định được cha,
mẹ đẻ của trẻ cũng như trẻ không được nhận làm con nuôi thì trẻ sẽ lớn lên và sẽ mãi
mãi không có dân tộc và như vậy thì quyền nhân thân của cá nhân cũng không thể
thực hiện được. Trong trường hợp này, pháp luật nên quy định dân tộc của trẻ được
xác định theo dân tộc Kinh hoặc theo dân tộc chiếm đa số ở địa phương nơi phát hiện
trẻ bị bỏ rơi. Khi đó mỗi cá nhân đều có được một dân tộc nhất định và sau này khi
xác định được cha, mẹ của trẻ thì có thể xác định lại dân tộc theo quy định của pháp
luật.
Vấn đề xác định lại dân tộc cũng là một trong những nội dung quyền nhân thân
của cá nhân. Theo quy định của Bộ luật dân sự thì người đã thành niên, cha đẻ và mẹ
đẻ hoặc người giám hộ của người chưa thành niên có quyền yêu cầu cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền xác định lại dân tộc trong hai trường hợp:
- Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ, nếu cha đẻ, mẹ đẻ thuộc hai
dân tộc khác nhau.
7
Bài Tập Lớn Học Kỳ
- Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ trong trường hợp làm con nuôi

của người thuộc dân tộc khác mà được xác định theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi do
không biết cha mẹ đẻ là ai.
Nhà nước Việt Nam thi hành chính sách bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn
nhau giữa các dân tộc. Tuy nhiên, để đảm bảo sự phát triển đồng đều , Chính phủ Việt
Nam ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi. Chính vì
vậy, để hưởng lợi từ những chính sách của Nhà nước, trên thực tế có nhiều trường hợp
muốn thay đổi dân tộc từ dân tộc này sang dân tộc khác. Trong trường hợp này pháp
luật nước ta quy định rất chặt chẽ, các cá nhân không có quyền thay đổi dân tộc mà
chỉ có quyền xác định lại dân tộc theo những trường hợp do pháp luật quy định. Hơn
nữa, chủ thể yêu cầu xác định lại dân tộc cũng rất hạn chế bao gồm người đã thành
niên, cha đẻ và mẹ đẻ hoặc người giám hộ của người chưa thành niên. Và trong
trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ hoặc người giám hộ của người chưa thành niên yêu cầu xác
định lại dân tộc cho người chưa thành niên từ đủ mười lăm tuổi trở lên thì phải được
sự đồng ý của người chưa thành niên đó. Tuy nhiên, quy định này của BLDS cũng có
những điểm chưa thật hợp lý:
Thứ nhất, Điều luật quy định người đã thành niên có quyền yêu cầu xác định
lại dân tộc. Tuy nhiên có trường hợp người đã thành niên lại mất năng lực hành vi dân
sự thì người đó lại không thể tự mình thực hiện được quyền yêu cầu mà phải cần có sự
tham gia của người giám hộ.
Thứ hai, Điều luật quy định cha đẻ và mẹ đẻ của người chưa thành niên có
quyền yêu cầu. Quy định này được hiểu là phải có sự yêu cầu của cả cha và mẹ của
người chưa thành niên trong trường hợp yêu cầu xác định lại dân tộc cho con. Điều
này cũng gây khó khăn trong trường hợp cha, mẹ đã ly hôn, một bên ở nước ngoài
hoặc một bên đã chết…
Thứ ba, Điều luật quy định giám hộ của người chưa thành niên có quyền yêu
cầu nhưng không quy định người giám hộ của người mất năng lực hành vi dân sự có
quyền yêu cầu dẫn đến trên thực tế có những trường hợp không xác định được người
nào là người có quyền yêu cầu trong trường hợp người đã thành niên mất năng lực
hành vi dân sự cần xác định lại dân tộc.
Vì vậy để quy định hợp lý và chặt chẽ hơn, điều luật cần quy định người có

quyền yêu cầu xác định lại dân tộc bao gồm: người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
cha, mẹ của người chưa thành niên hoặc người giám hộ.
4. Quyền của cá nhân đối với hình ảnh.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì cá nhân có quyền đối với hình ảnh
của mình. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý. Trong
trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì
phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó
đồng ý, trừ trường hợp vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng hoặc pháp luật có
quy định khác.
8
Bài Tập Lớn Học Kỳ
Hình ảnh của cá nhân thuộc lĩnh vực riêng tư của mỗi người. Tuy nó không có
gì bí mật, cần phải hạn chế sử dụng nhưng một khi muốn sử dụng những hình ảnh của
cá nhân ai đó, nhất là sử dụng khai thác vào mục đích kinh doanh (như in lịch, in bìa
sách, bao bì mẫu quảng cáo…) thì đều phải hỏi ý kiến “người chủ” hình ảnh đó. Bởi
về nguyên tắc, mọi cá nhân đều có quyền đối với hình ảnh của mình. Mỗi người đều
có quyền cho hay không cho người khác sử dụng hình ảnh của mình. Nếu chưa được
sự đồng ý mà sử dụng đã là vi phạm quyền của cá nhân đối với hình ảnh.
Khái niệm hình ảnh của cá nhân được hiểu là bao gồm mọi hình thức nghệ thuật
ghi lại hình dáng của con người như ảnh chụp, ảnh vẽ, ảnh chép và suy rộng ra có thể
bao gồm cả bức tượng của cá nhân đó hoặc cả hình ảnh có được do ghi hình (quay
video). Đối với mỗi loại hình nghệ thuật cũng bao gồm nhiều loại khác nhau.
Ví dụ: ảnh chụp có thể bao gồm ảnh chân dung, ảnh nghệ thuật, ảnh tư liệu, ảnh
phóng sự… đều có thể chụp lại hình ảnh của con người; ảnh vẽ có thể bao gồm vẽ
truyền thần, vẽ ký hoạ …
BLDS không quy định rõ như thế nào là đồng ý. Đồng ý ở đây được hiểu là có
sự thoả thuận giữa người sử dụng hình ảnh của cá nhân với cá nhân có hình ảnh đó
hay chỉ cần việc sử dụng hình ảnh không có sự phản đối của người có hình ảnh thì
được hiểu là người đó đương nhiên đồng ý. Theo em, việc sử dụng hình ảnh của cá
nhân vào bất kỳ mục đích gì mà không xin phép đều bị coi là vi phạm quyền nhân

thân về hình ảnh của cá nhân dù việc sử dụng đó có thể mang lại lợi ích hay gây thiệt
hại cho người có hình ảnh. Còn việc người có hình ảnh đó có khởi kiện hay không thì
đó lại là quyền của chủ thể trong quan hệ về tố tụng dân sự và người đó có quyền lựa
chọn.
Còn làm sao để được sự đồng ý thì hiện nay luật chưa “đả động” tới. Điều 31
BLDS nghiêm cấm việc sử dụng hình ảnh của người khác mà xâm phạm danh dự,
nhân phẩm, uy tín của người đó. Có việc này xảy ra tất nhiên phải bồi thường thiệt hại
về tinh thần. Nhưng trường hợp không gây ra thiệt hại thì sao?
Trong thực tế lâu nay việc sử dụng “ảnh chùa” đã trở thành thói quen của mọi
người. Cùng lắm người nào “biết điều” cũng chỉ hỏi ý kiến của người sáng tác (chụp,
vẽ ảnh) chứ ít khi chịu tìm đến hỏi ý kiến của “nhân vật trong ảnh”. Bởi người ta vẫn
thường đinh ninh rằng người có hình ảnh được sử dụng để “lăng - xê” mình trước xã
hội đã là… “khoái” lắm rồi, cần gì phải hỏi ý kiến. Nhưng một khi chuyện lỡ rồi,
người có hình ảnh đó lại tìm cách làm khó dễ, việc xin lỗi không thôi chưa đủ. Tuỳ
theo giá trị sử dụng hình ảnh trong việc kinh doanh mà người có hình ảnh đòi phải
thanh toán bằng một khoản tiền vài triệu đồng, có khi vài chục triệu và vừa rồi có vụ
yêu cầu của phía chủ ảnh lên đến hàng trăm triệu đồng.
Thử đặt câu hỏi, người sáng tác chụp ảnh đạt yêu cầu chỉ được trả thù lao cùng
lắm vài trăm ngàn hay vài triệu đồng mà nhân vật trong ảnh lại ra giá tới hàng trăm
triệu đồng thì có quá đáng không? Dù sao một khi không có luật định thì mạnh ai nấy
đòi, đòi cho bằng thích, đến khi vụ việc phải kéo nhau đến toà án thì toà cũng chỉ theo
thông lệ là… “việc dân sự muốn xử sao cũng được”
9

×