Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

đánh giá việc thực hiện chính sách bồi thường giải phóng mặt bằng dự án khu công nghiệp vsip và khu đô thị từ sơn, tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (23.51 MB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

VŨ CAO SƠN

ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BỒI THƯỜNG
GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG DỰ ÁN KHU CÔNG NGHIỆP
VSIP VÀ KHU ĐÔ THỊ TỪ SƠN, TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Hà Nội - 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

VŨ CAO SƠN

ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BỒI THƯỜNG
GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG DỰ ÁN KHU CÔNG NGHIỆP
VSIP VÀ KHU ĐÔ THỊ TỪ SƠN, TỈNH BẮC NINH

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
MÃ SỐ: 60.85.01.03



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN VĂN CHÍNH

Hà Nội - 2014


LỜI CAM ĐOAN
- Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là
trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
- Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được
cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2014

Tác giả luận văn

Vũ Cao Sơn

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page i


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này ngoài sự nỗ lực của bản thân tôi đã nhận được

sự giúp đỡ nhiệt tình của cơ quan, các thầy cô, bạn bè đồng nghiệp và gia đình.
Trước tiên tôi xin bầy tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Trần Văn Chính
người đã tận tình hướng dẫn và đóng góp những ý kiến quý báu trong quá trình thực
hiện và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa Quản lý đất đai - Học viện
nông nghiệp Việt Nam đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn tới tất cả các đồng nghiệp, bạn bè và người thân đã
luôn động viên và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn này.
Tác giả luận văn

Vũ Cao Sơn

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN

i

LỜI CẢM ƠN

ii

MỤC LỤC

iii


DANH MỤC BẢNG

vi

DANH MỤC HÌNH ẢNH

vii

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

viii

1

MỞ ĐẦU

1

1.1

Tính cấp thiết của đề tài

1

1.2

Mục đích, yêu cầu, ý nghĩa của đề tài

2


1.2.1

Mục đích

2

1.2.2

Yêu cầu

2

1.2.3

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu

2

Chương 1 TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1

3

Cơ sở lý luận về chính sách bồi thường GPMB, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất

3

1.1.1


Khái niệm về bồi thường, hỗ trợ, tái đinh cư

3

1.1.2

Đặc điểm của quá trình GPMB

4

1.1.3

Một số yếu tố ảnh hưởng đến công tác bồi thường GPMB

4

1.2

Chính sách bồi thường GPMB của một số nước và ngân hàng thế giới 11

1.2.1

Trung Quốc

11

1.2.2

Đài Loan


12

1.2.3

Australia

13

1.3

Chính sách bồi thường GPMB ở Việt Nam qua các thời kỳ

18

1.3.1

Trước khi có Luật Đất đai năm 1993

18

1.3.2

Từ khi có Luật đất đai năm 1993 đến năm 2003

19

1.3.3

Thời kỳ từ khi có Luật Đất đai năm 2003 đến nay


21

1.3.4

Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư hiện nay

23

1.4

Các văn bản chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư ở tỉnh Bắc Ninh 30

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page iii


Chương 2 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

32

2.1

Đối tượng nghiên cứu

32

2.2

Nội dung nghiên cứu


32

2.2.1

Điều kiện tự nhiên, KT-XH của thị xã Từ Sơn

32

2.2.2

Tình hình quản lý và sử dụng đất ở thị xã Từ Sơn

32

2.2.3

Đánh giá việc thực hiện công tác bồi thường GPMB ở các dự án nghiên
cứu

2.2.4

32

Đề xuất các giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ thực hiện GPMB tại thị xã
Từ Sơn

32

2.3


Phương pháp nghiên cứu

32

2.3.1

Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp

32

2.3.2

Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp

32

2.2.3

Phương pháp xử lý số liệu và sử dụng phần mềm

33

2.3.4

Phương pháp phân tích, so sánh và đánh giá tổng hợp

33

Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU


34

3.1

Khái quát điều kiện tự nhiên, KTXH thị xã Từ Sơn

34

3.1.1

Điều kiện tự nhiên

34

3.1.2

Điều kiện kinh tế - xã hội

35

3.2

Tình hình quản lý và sử dụng đất đai trên địa bàn thị xã Từ Sơn

38

3.2.1

Tình hình quản lý đất đai


38

3.2.2

Hiện trạng sử dụng đất năm 2013

39

3.3

Đánh giá công tác bồi thường, GPMB khi Nhà nước thu hồi đất tại 2 dự
án nghiên cứu tại thị xã Từ Sơn

40

3.3.1

Khái quát về 2 dự án nghiên cứu

40

3.3.2

Các văn bản pháp lý liên quan đến các dự án nghiên cứu

45

3.3.3


Đối tượng và điều kiện được bồi thường, hỗ trợ

47

3.3.4

Kết quả thực hiện công tác bồi thường GPMB ở 02 dự án nghiên cứu 48

3.3.5

Đánh giá chung việc thực hiện chính sách bồi thường GPMB ở 02 dự án
nghiên cứu

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

51

Page iv


3.3.6

Đánh giá ảnh hưởng của chính sách bồi thường hỗ trợ đối với người dân
bị thu hồi đất tại 2 dự án nghiên cứu

54

3.3.7

Đánh giá chung về công tác GPMB ở 2 dự án


62

3.4

Đề xuất một số giải pháp đẩy nhanh công tác GPMB

66

3.4.1

Giải pháp về cơ chế bồi thường, hỗ trợ

66

3.4.2

Giải pháp về tổ chức và trình tự thực hiện

68

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

69

1.

Kết luận

69


2.

Kiến nghị

69

TÀI LIỆU THAM KHẢO

71

PHỤ LỤC

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page v


DANH MỤC BẢNG
Số bảng

Tên bảng

Trang

3.1

Tình hình dân số thị xã Từ Sơn giai đoạn 2008 - 2013

37


3.2

Hiện trạng sử dụng đất thị xã Từ Sơn năm 2013

39

3.3

Tổng kinh phí bồi thường, hỗ trợ của dự án khu công nghiệp VSIP

50

3.4

Tổng kinh phí bồi thường, hỗ trợ của dự án khu đô thị Từ Sơn

51

3.5

Quan điểm của người dân có đất bị thu hồi của dự án

53

3.6

Đánh giá mức độ hợp lý của giá bồi thường, hỗ trợ qua ý kiến của
người bị thu hồi đất tại dự án


3.7

54

Tổng hợp đánh giá ảnh hưởng của chính sách bồi thường hỗ trợ đối
với người dân bị thu hồi đất tại 2 dự án nghiên cứu

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

55

Page vi


DANH MỤC HÌNH ẢNH
STT

Tên hình ảnh

3.1

Khu đất dự án VSIP nhìn từ mặt chính

42

3.2

Hạ tầng bên trong khu dự án

42


3.3

Khu đất của dự án nhìn từ mặt chính

44

3.4

Khu đất đang san lấp của dự án

44

3.5

Đánh giá của người dân về giá bồi thường đất

57

3.6

Đánh giá của người dân về giá bồi thường hoa màu, tài sản

57

3.7

Đánh giá của người dân về mức hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp

58


3.8

Nguyện vọng của người dân về hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và

Trang

tạo việc làm
3.9

59

Đánh giá của người dân về ảnh hưởng của việc thu hồi đất đến
tình hình việc làm

60

3.10

Mục đích sử dụng tiền bồi thường, hỗ trợ của người dân

61

3.11

Đánh giá của người dân về ảnh hưởng của việc thu hồi đất đến
đời sống kinh tế hộ gia đình

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp


62

Page vii


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt

Nội dung

CHXHCN

: Cộng hoà xã hội chủ nghĩa

CNH-HĐH

: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

GCNQSDĐ

: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

GPMB

: Giải phóng mặt bằng

HĐBT

: Hội đồng bồi thường


HĐND

: Hội đồng nhân dân

HSĐC

: Hồ sơ địa chính

KCN

: Khu công nghiệp

KHSDĐ

: Kế hoạch sử dụng đất

KT-XH

: Kinh tế xã hội

NĐ-CP

: Nghị định - Chính phủ

QĐ-UBND

: Quyết định - Uỷ ban nhân dân

QHSDĐ


: Quy hoạch sử dụng đất

QHSDĐ

: Quy hoạch sử dụng đất

TĐC

: Tái định cư

TT-BTC

: Thông tư - Bộ Tài chính

TT-BTNMT

: Thông tư - Bộ Tài nguyên Môi trường

TTLT

: Thông tư liên tịch

TW

: Trung ương

UBMTTQ

: Uỷ ban mặt trận tổ quốc


UBND

: Uỷ ban nhân dân

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page viii


1 MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là
thành phần quan trọng nhất của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư,
xây dựng các công trình kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng. Đất đai là
nguồn tài nguyên giới hạn về số lượng, có vị trí cố định trong không gian, không thể
di chuyển được theo ý muốn chủ quan của con người.
Thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng để thực hiện các công trình
quốc phòng an ninh, lợi ích quốc gia công cộng, phát triển kinh tế là một khâu quan
trọng, then chốt của quá trình phát triển. Bồi thường giải phóng mặt bằng là điều
kiện ban đầu và tiên quyết để triển khai thực hiện một dự án.
Từ Sơn là một thị xã trọng điểm của tỉnh Bắc Ninh, là cửa ngõ của thủ đô Hà
Nội. Vị trí địa lý trên đã tạo cho Từ Sơn những điều kiện lý tưởng để thu hút đầu tư,
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa địa phương.
Công tác thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh và thị xã Từ Sơn có ý nghĩa quan trọng và những khó khăn bức xúc chung
trong công tác thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng của cả nước.
Chính sách bồi thường của Nhà nước, việc thực thi chính sách, pháp luật của
các địa phương một cách chưa thực sự thỏa đáng cũng là nguyên nhân gây nên
những bất hợp lý, nhiều vụ khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện đông người, kéo dài tạo ra
những điểm nóng về chính trị, xã hội.

Để tiếp tục hoàn thiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người
có đất bị thu hồi cần phải có nhiều nghiên cứu ở các địa phương khác nhau, chuyên
sâu về các khía cạnh khác nhau của vấn đề, trên cơ sở đó đánh giá đúng, đủ, khách
quan thực trạng công tác bồi thường giải phóng mặt bằng; nắm rõ bản chất của các
vấn đề bất cập. Vì vậy việc thực hiện đề tài: “Đánh giá việc thực hiện chính sách
bồi thường giải phóng mặt bằng dự án Khu công nghiệp VSIP và Khu đô thị Từ
Sơn, tỉnh Bắc Ninh” là cần thiết trong thời điểm hiện nay.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 1


1.2 Mục đích, yêu cầu, ý nghĩa của đề tài
1.2.1 Mục đích
- Đánh giá việc thực hiện chính sách bồi thường giải phóng mặt bằng tại hai
dự án ở thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
- Đề xuất các giải pháp góp phần thực hiện tốt chính sách bồi thường giải
phóng mặt bằng ở thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
1.2.2 Yêu cầu
- Rút ra được những tồn tại cần giải quyết trong công tác bồi thường giải
phóng mặt bằng.
- Đề xuất những giải pháp phù hợp với điều kiện thực tiễn ở Từ Sơn.
1.2.3 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
- Kết quả nghiên cứu góp phần vào cơ sở khoa học về chính sách bồi thường
giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc
Ninh;
- Đề tài rút ra những vấn đề còn tồn tại trong thực tiễn thực hiện chính sách
GPMB để từ đó hạn chế tối đa được những sai sót tương tự ở những dự án trong
tương lai ở thị xã Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh.


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 2


Chương 1 TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Cơ sở lý luận về chính sách bồi thường GPMB, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất
1.1.1 Khái niệm về bồi thường, hỗ trợ, tái đinh cư
1.1.1.1 Bồi thường
Bồi thường là đền bù những tổn hại đã gây ra. Đền bù là trả lại tương xứng
với giá trị hoặc công lao (Từ điển tiếng Việt, 2005).
Như vậy, bồi thường là trả lại tương xứng với giá trị hoặc công lao cho một
chủ thể nào đó bị thiệt hại vì hình vi của chủ thể khác mang lại.
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử
dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất. Trong đó, giá trị
quyền sử dụng đất là giá trị bằng tiền của quyền sử dụng đất đối với một diện tích
đất xác định trong thời hạn sử dụng đất xác định (Luật Đất đai, 2003).
1.1.1.2 Hỗ trợ
Hỗ trợ là giúp đỡ nhau, giúp thêm vào (Từ điển tiếng Việt, 2005). Hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi đất thông qua đào
tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời đến địa điểm mới (Luật
Đất đai, 2003).
1.1.1.3 Tái định cư
TĐC là việc di chuyển đến một nơi khác với nơi ở trước đây để sinh sống và
làm ăn. TĐC bắt buộc đó là sự di chuyển không thể tránh khỏi khi Nhà nước thu hồi
hoặc trưng thu đất đai để thực hiện các dự án phát triển.
TĐC được hiểu là một quá trình từ bồi thường thiệt hại về đất, tài sản; di
chuyển đến nơi ở mới và các hoạt động hỗ trợ để xây dựng lại cuộc sống, thu nhập,

cơ sở vật chất tinh thần tại đó.
Như vậy, TĐC là hoạt động nhằm giảm nhẹ các tác động xấu về KT-XH đối
với một bộ phận dân cư đã gánh chịu vì sự phát triển chung.
Hiện nay ở nước ta, khi Nhà nước thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở thì
người sử dụng đất được bố trí TĐC bằng một trong các hình thức sau;
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 3


- Bồi thường bằng nhà ở;
- Bồi thường bằng giao đất ở mới;
- Bồi thường bằng tiền để người dân tự lo chỗ ở (Luật Đất đai, 2003).
TĐC là một bộ phận không thể tách rời và giữ vị trí rất quan trọng trong
chính sách GPMB.
1.1.2 Đặc điểm của quá trình GPMB
GPMB là quá trình đa dạng và phức tạp. Nó thể hiện khác nhau đối với mỗi một dự
án, nó liên quan trực tiếp đến lợi ích của các bên tham gia và lợi ích của toàn xã hội.
- Tính đa dạng thể hiện: mỗi dự án được tiến hành trên một vùng đất khác
nhau với điều kiện tự nhiên KT-XH và trình độ dân trí nhất định. Đối với khu vực
nội thành, khu vực ven đô, khu vực ngoại thành,... mật độ dân cư khác nhau, ngành
nghề đa dạng và đều hoạt động sản xuất theo một đặc trưng riêng của vùng đó. Do
đó, GPMB cũng được tiến hành với những đặc điểm riêng biệt.
- Tính phức tạp thể hiện: Đất đai là tài sản có giá trị cao, có vai trò quan
trọng trong đời sống KT-XH đối với mọi người dân. Ở khu vực nông thôn, dân cư
chủ yếu sống nhờ vào hoạt động sản xuất nông nghiệp mà đất đai lại là tư liệu sản
xuất quan trọng trong khi trình độ sản xuất của nông dân thấp, khả năng chuyển đổi
nghề nghiệp khó khăn do đó tâm lý dân cư vùng này là giữ được đất để sản xuất,
thậm chí họ cho thuê đất còn được lợi nhuận cao hơn là sản xuất nhưng họ vẫn
không cho thuê. Trước tình hình đó đã dẫn đến công tác tuyên truyền, vận động dân

cư tham gia di chuyển là rất khó khăn và việc hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp là điều
cần thiết để đảm bảo đời sống dân cư sau này.
1.1.3 Một số yếu tố ảnh hưởng đến công tác bồi thường GPMB
1.1.3.1 Yếu tố cơ bản trong quản lý nhà nước về đất đai
a) Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất
đai và tổ chức thực hiện các văn bản đó
Đất đai là đối tượng quản lý phức tạp, luôn biến động theo sự phát triển của
nền KT-XH. Để thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước về đất đai đòi hỏi các
văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực này phải mang tính ổn định cao và phù
hợp với tình hình thực tế.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 4


Ở nước ta, do các đặc điểm lịch sử, KT-XH của đất nước trong mấy thập kỷ
qua có nhiều biến động lớn, nên các chính sách về đất đai cũng theo đó không
ngừng được sửa đổi, bổ sung. Từ năm 1993 đến năm 2003, Nhà nước đã ban hành
hơn 200 văn bản quy phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất. Sau khi quốc hội
thông qua Luật đất đai 2003 cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành đã nhanh
chóng đi vào cuộc sống. Với một hệ thống quy phạm khá hoàn chỉnh, chi tiết, cụ
thể, rõ ràng, đề cập mọi quan hệ đất đai phù hợp với thực tế. Các văn bản quy phạm
pháp luật về đất đai của Nhà nước đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong việc tổ
chức thực hiện các nội dung quản lý Nhà nước về đất đai, giải quyết tốt mối quan hệ
đất đai ở khu vực nông thôn, bước đầu đã đáp ứng được quan hệ đất đai mới hình
thành trong quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa; hệ thống pháp luật đất đai luôn
đổi mới, ngày càng phù hợp hơn với yêu cầu phát triển kinh tế, bảo đảm quốc
phòng, an ninh và ổn định xã hội (Tôn Gia Huyên, Nguyễn Đình Bồng, 2006).
Theo đó, chính sách bồi thường GPMB cũng luôn được Chính phủ không
ngừng hoàn thiện, sửa đổi nhằm giải quyết các vướng mắc trong công tác bồi

thường GPMB, phù hợp với yêu cầu thực tế triển khai. Với những đổi mới về pháp
luật đất đai, thời gian qua công tác GPMB đã đạt những kết quả đáng khích lệ, đã
cơ bản đáp ứng được nhu cầu về mặt bằng cho việc phát triển các dự án đầu tư. Tuy
nhiên bên cạnh đó, do tính chưa ổn định, chưa thống nhất của pháp luật đất đai qua
các thời kỳ mà công tác bồi thường GPMB đã gặp khá nhiều khó khăn và cản trở.
Thực tiễn triển khai cho thấy việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về
quản lý, sử dụng đất đai có ảnh hưởng rất lớn đến công tác bồi thường GPMB. Hệ
thống văn bản pháp luật đất đai còn có những nhược điểm như là số lượng nhiều,
mức độ phức tạp cao, không thuận lợi trong sử dụng, nội bộ hệ thống chưa đồng bộ,
chặt chẽ gây lúng túng trong xử lý và tạo kẽ hở trong thực thi pháp luật (Tôn Gia
Huyên, Nguyễn Đình Bồng, 2006).
Bên cạnh việc ban hành các văn bản quy phạm về quản lý, sử dụng đất đai,
việc tổ chức thực hiện các văn bản đó cũng có vai trò rất quan trọng. Kết quả kiểm
tra thi hành Luật Đất đai năm 2007 của Bộ Tài nguyên và Môi trường cho thấy
UBND các cấp đều có ý thức quán triệt việc thực thi pháp luật về đất đai nhưng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 5


nhận thức về các quy định của pháp luật nói chung còn yếu, ở cấp cơ sở còn rất yếu.
Từ đó dẫn tới tình trạng có nhầm lẫn việc áp dụng pháp luật trong giải quyết giao
đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, TĐC, giải quyết tranh chấp,
khiếu nại, tố cáo. Trong khi đó việc tuyên truyền, phổ biến của các cơ quan có trách
nhiệm chưa thật sát sao. Tại nhiều địa phương, đang tồn tại tình trạng nể nang, trọng
tình hơn chấp hành quy định pháp luật trong giải quyết các mối quan hệ về đất đai.
Cán bộ địa chính, chủ tịch UBND xã nói chung chưa làm tốt nhiệm vụ phát hiện,
ngăn chặn, xử lý kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật về đất đai trên địa bàn.
Đó là nguyên nhân làm giảm hiệu lực thi hành pháp luật, gây mất lòng tin trong

nhân dân cũng như các nhà đầu tư và đã ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ GPMB (Bộ
Tài Nguyên và Môi trường, 2007).
b) Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Đất đai là có hạn, không gian sử dụng đất đai cũng có hạn. Quy hoạch sử
dụng đất đai là biện pháp quản lý không thể thiếu được trong việc tổ chức sử dụng
đất của các ngành KT-XH và các địa phương, là công cụ thể hiện sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, có tác dụng quyết định để cân đối giữa nhiệm vụ an toàn lương thực với
nhiệm vụ CNH-HĐH đất nước nói chung và các địa phương nói riêng (Nguyễn Đức
Minh, 2001).
Thông qua việc lập, xét duyệt và điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất để tổ
chức việc bồi thường GPMB thực sự trở thành sự nghiệp của cộng đồng mà Nhà
nước đóng vai trò là người tổ chức. Bất kỳ một phương án bồi thường GPMB nào
đều dựa trên một quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất nhằm đạt được các yêu cầu
như là phương án có hiệu quả KT-XH cao nhất. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
có tác động tới chính sách bồi thường đất đai trên hai khía cạnh:
- Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là một trong những căn cứ quan trọng
nhất để thực hiện việc giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, mà theo
quy định của Luật đất đai, việc giao đất, cho thuê đất chỉ được thực hiện khi có
quyết định thu hồi đất đó của người đang sử dụng;

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 6


- Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là một trong những nhân tố ảnh hưởng tới
giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất; từ đó tác động tới giá đất tính bồi thường.
Tuy nhiên chất lượng quy hoạch nói chung và quy hoạch nói riêng còn thấp,
thiếu đồng bộ, chưa hợp lý, tính khả thi thấp, đặc biệt là thiếu tính bền vững.
Phương án quy hoạch chưa dự báo sát tình hình, quy hoạch còn mang nặng tính chủ

quan duy ý chí, áp đặt, nhiều trường hợp quy hoạch theo phong trào. Đây chính là
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng quy hoạch “treo”, dự án “treo” (Bộ Tài
nguyên và Môi trường, 2007).
c) Yếu tố giao đất, cho thuê đất
Nhiệm vụ giao đất, cho thuê đất có tác động rất lớn đến công tác bồi thường
GPMB và TĐC. Nguyên tắc giao đất, cho thuê đất, phải căn cứ vào quy hoạch, kế
hoạch là điều kiện bắt buộc, nhưng nhiều địa phương chưa thực hiện tốt nguyên tắc
này; hạn mức đất được giao và nghĩa vụ đóng thuế đất quy định không rõ ràng, tình
trạng quản lý đất đai thiếu chặt chẽ dẫn đến khó khăn cho công tác đền bù (Bộ Tài
nguyên và Môi trường, 2007).
d) Yếu tố lập và quản lý hồ sơ địa chính
Lập và quản lý chặt chẽ hệ thống hồ sơ địa chính có vai trò quan trọng hàng
đầu để “quản lý chặt chẽ đất đai trong thị trường bất động sản”, là cơ sở xác định
tính pháp lý của đất đai. Trước tháng 12 năm 2004, rất nhiều địa phương chưa lập
đầy đủ hồ sơ địa chính theo quy định; đặc biệt có nhiều xã, phường, thị trấn chưa
lập sổ địa chính (khoảng trên 30% số xã đã cấp GCNQSDĐ) để phục vụ yêu cầu
quản lý việc sử dụng đất đai, một số địa phương chưa lập đủ sổ mục kê đất đai, sổ
cấp GCNQSDĐ như Thành phố Hà Nội, các tỉnh Hà Tây, Hoà Bình, Vĩnh Phúc,
Kiên Giang, Trà Vinh,... (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2007).
Từ năm 2004 đến nay, việc lập HSĐC phải được thực hiện theo quy định tại
Thông tư số 29/2004/TT-BTNMT của Bộ tài nguyên và Môi trường, nhưng còn nhiều
địa phương chưa triển khai thực hiện, nếu có thực hiện cũng là chưa đầy đủ, chưa đồng
bộ ở cả 3 cấp. Vì các tài liệu đo đạc bản đồ này có độ chính xác thấp nên đang làm nảy
sinh nhiều vấn đề phức tạp trong quản lý đất đai như không đủ cơ sở giải quyết tranh
chấp đất đai, khó khăn trong giải quyết bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Vì vậy,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 7



việc đo vẽ lại bản đồ địa chính chính quy để thay thế cho các loại bản đồ cũ và lập lại
HSĐC là rất cần thiết.
e) Công tác đăng ký đất đai và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Đăng ký đất đai (Land Registration) là một thành phần cơ bản quan trọng
nhất của hệ thống quản lý đất đai, đó là quá trình xác lập hồ sơ về quyền sở hữu đất
đai, bất động sản, sự đảm bảo và những thông tin về quyền sở hữu đất. Theo quy
định của các nước, đất đai là một trong các tài sản phải đăng ký quyền sở hữu,
quyền sử dụng. Ở nước ta, theo quy định của Luật đất đai, người sử dụng đất phải
đăng ký quyền sử dụng đất với cơ quan nhà nước có thẩm quyền (cụ thể là Văn
phòng đăng ký quyền sử dụng đất) và được cấp GCNQSDĐ. Chức năng của đăng
ký đất đai là cung cấp những căn cứ chuẩn xác và an toàn cho việc thu hồi, chấp
thuận và từ chối các quyền về đất.
Trong công tác bồi thường GPMB, GCNQSDĐ là căn cứ để xác định đối
tượng được bồi thường, loại đất, diện tích đất tính bồi thường. Hiện nay, công tác
đăng ký đất đai ở nước ta vẫn còn yếu kém, đặc biệt công tác đăng ký biến động về
sử dụng đất; việc cấp GCNQSDĐ vẫn chưa hoàn tất. Chính vì vậy mà công tác bồi
thường GPMB đã gặp rất nhiều khó khăn. Làm tốt công tác đăng ký đất đai, cấp
GCNQSDĐ thì công tác bồi thường GPMB sẽ thuận lợi, tiến độ GPMB nhanh hơn.
(Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2007).
f) Yếu tố thanh tra chấp hành các chế độ, thể lệ về quản lý và sử dụng đất đai
Công tác bồi thường GPMB là một việc làm phức tạp, gắn nhiều đến quyền
lợi về tài chính nên rất dễ có những hành vi vi phạm pháp luật nhằm thu lợi bất
chính, chính quyền địa phương cấp trên. Hồi đồng thẩm định phải có kế hoạch
thanh tra, kiểm tra và coi đây là nhiệm vụ thường xuyên trong quá trình triển khai
thực hiện công tác bồi thường GPMB, kịp thời phát hiện các sai phạm, vi phạm
pháp luật để xử lý tạo niềm tin trong nhân dân.
1.1.3.2 Yếu tố giá đất và định giá đất
Hiện nay ở nước ta đất đai thuộc sở hữu toàn dân, giá cả đất đai dựa trên
chuyển nhượng quyền sử dụng, là tổng hòa giá trị hiện hành địa tô nhiều năm. Một
trong những điểm mới của Luật đất đai 2003 là các quy định về giá đất. Nếu như

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 8


trước đây Nhà nước chỉ quy định một loại giá đất áp dụng cho mọi quan hệ đất đai
khác nhau thì Luật đất đai 2003 đề cập nhiều loại giá đất để xử lý từng nhóm quan
hệ đất đai khác nhau (Hồ Thị Lam Trà, Nguyễn Văn Quân, 2006)
- Trước khi có Luật đất đai năm 2003:
Những vấn đề liên quan đến việc xác định giá đất, bồi thường, GPMB, TĐC
đều được quy định tại các văn bản dưới luật như Nghị định số 87/CP ngày
17/8/1994 của Chính phủ quy định khung giá các loại đất; Nghị định số 90/CP ngày
17/9/1994 của Chính phủ quy định về việc bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu
hồi đất để sử dụng vào mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công
cộng và Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 của Chính phủ ban hành quy
định về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc
phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng... Giá đất để tính bồi thường thiệt
hại khi Nhà nước thu hồi đất do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW quyết định
trên cơ sở khung giá đất do Chính phủ ban hành kèm theo Nghị định số 87/CP.
Khung giá đất để tính bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất quy định tại
Nghị định số 87/CP đã được áp dụng trong một thời gian khá dài (trên mười năm),
mặc dù trong quá trình áp dụng có quy định việc điều chỉnh khung giá đất để tính
bồi thường bằng hệ số K nhưng mức tăng cao nhất cũng chỉ là 1, 2 lần đối với đất
nông nghiệp hạng i. Do vậy giá đất để tính bồi thường vẫn thấp hơn nhiều so với giá
thực tế, dẫn đến phát sinh hàng loạt các khiếu kiện về bồi thường, GPMB tại các địa
phương (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2005).
- Từ khi có Luật đất đai 2003: Quy định giá đất được hình thành trong các
trường hợp sau đây (Điều 55):
- Do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW quy định giá theo quy định tại
khoản 3 và khoản 4 Điều 56 của Luật này;

- Do đấu giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu dự án có sử dụng đất;
- Do người sử dụng đất thỏa thuận về giá đất với những người có liên quan
khi thực hiện các quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất;
góp vốn bằng quyền sử dụng đất.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 9


Những vấn đề quan trọng, có tính nguyên tắc liên quan đến xác định giá đất,
bồi thường, GPMB, TĐC đã được quy định khá cụ thể tại Luật đất đai năm 2003.
Đặc biệt, việc xác định giá đất được thực hiện theo nguyên tắc “sát với giá chuyển
nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường trong điều kiện bình thường” (khoản 1
Điều 56). Thực hiện các quy định về giá đất tại Luật đất đai năm 2003, ngày
16/11/2004, Chính phủ đã ban hành Nghị định 188/2004/NĐ-CP về phương pháp
xác định giá đất và khung giá các loại đất.
Theo quy định của Luật đất đai năm 2003, nguyên tắc định giá đất là phải sát
với giá thị trường trong điều kiện bình thường. Tuy nhiên, tình hình phổ biến hiện nay
là giá đất do các địa phương quy định và công bố đều không theo đúng nguyên tắc đó,
dẫn tới nhiều trường hợp ách tắc về bồi thường đất đai và phát sinh khiếu kiện.
1.1.3.3 Thị trường Bất động sản
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế nước ta, thị trường bất động sản ngày
càng được hình thành và phát triển. Ngày nay thị trường bất động sản đã trở thành
một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống các loại thị trường của nền kinh tế quốc
dân, nó có những đóng góp vào ổn định xã hội và thúc đẩy nền kinh tế đất nước
trong thời gian qua và trong tương lai.
Luật đất đai 1987 và Pháp lệnh về nhà ở (1991) là cơ sở đầu tiên mở đường cho thị
trường bất động sản hình thành và phát triển . Luật đất đai 2003 là văn bản pháp quy tập
trung nhất phản ánh chính sách đất đai hiện hành trên cơ sở tổng kết hoạt động thực tiễn của

17 năm đổi mới, đã quy định chi tiết hơn về các điều kiện để hình thành thị trường bất động
sản và các hoạt động về tài chính đất đai, thể hiện tập trung trong các mục “Tài chính về đất
đai và giá đất”, “Quyền sử dụng đất trong thị trường bất động sản”.
Việc hình thành và phát triển thị trường bất động sản góp phần giảm thiểu
việc thu hồi đất để thực hiện các dự án đầu tư (do người đầu tư có thể đáp ứng nhu
cầu về đất đai thông qua các giao dịch trên thị trường); đồng thời người bị thu hồi
đất có thể tự mua hoặc cho thuê đất đai, nhà cửa mà không nhất thiết phải thông qua
Nhà nước thực hiện chính sách TĐC và bồi thường. Giá cả của Bất động sản được
hình thành trên thị trường và nó sẽ tác động tới giá đất tính bồi thường (Tôn Gia
Huyên, Nguyễn Đình Bồng, 2006)
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 10


1.2 Chính sách bồi thường GPMB của một số nước và ngân hàng thế giới
Trên thế giới bất cứ quốc gia nào, đất là nguồn lực quan trọng, cơ bản của
mọi hoạt động đời sống kinh tế - xã hội. Phát triển công nghiệp và đô thị là một tiến
trình tất yếu. Khi Nhà nước thu hồi đất phục vụ cho các mục đích quốc gia đã làm
thay đổi toàn bộ đời sống kinh tế của hàng triệu người dân, người bị ảnh hưởng có
xu hướng ngày càng tăng về số lượng. Đặc biệt ở những nước đang phát triển người
dân chủ yếu sống bằng nông nghiệp thì đó là vấn đề sống còn của họ. Để có thể hài hoà
được lợi ích của xã hội, tập thể va cá nhân, mỗi quốc gia có một phương pháp và cách
làm riêng. Chúng ta có thể thấy thực tiễn một số kinh nghiệm trong công tác bồi
thường, GPMB của một số nước trong khu vực và một số tổ chức ngân hàng.
1.2.1 Trung Quốc
Ở Trung Quốc thực hành chế độ đất đai công hữu, tức là chính sách sở hữu
toàn dân (đối với đất đô thị) và chính sách sở hữu tập thể (đất ở nông thôn, ngoại ô
đô thị ngoài phần sở hữu Nhà nước do pháp luật quy định), đất tự canh tác (đồi núi).
Pháp luật đất đai ở Trung Quốc có nhiều nét tương đồng với pháp luật Việt

Nam, tuy nhiên nhìn tổng thể, việc chấp hành pháp luật của người Trung Quốc rất
cao. Nhà nước Trung Quốc hoàn toàn cấm việc mua bán chuyển nhượng đất đai, do
vậy thị trường đất đai gần như không tồn tại mà chỉ có thị trường nhà ở.
Về thẩm quyền thu hồi đất: Chỉ có Chính phủ (Quốc vụ viện) và chính quyền
tỉnh, thành phố trực thuộc TW mới có thẩm quyền thu hồi đất. Vì đất đai thuộc sở
hữu Nhà nước nên không có chính sách về bồi thường, thiệt hại khi Nhà nước thu
hồi, tuỳ trường hợp cụ thể, Nhà nước sẽ cấp đất mới cho các chủ sử dụng bị thu hồi.
Về trách nhiệm bồi thường: Pháp luật đất đai Trung Quốc quy định, người
nào sử dụng đất thì người đó có trách nhiệm bồi thường. Tiền bồi thường bao gồm
các khoản như lệ phí sử dụng đất phải nộp cho Nhà nước và các khoản tiền trả cho
người có đất bị thu hồi. Ngoài ra, pháp luật đất đai Trung quốc còn quy định mức
nộp lệ phí trợ cấp đời sống cho người bị thu hồi đất là nông dân cao tuổi không thể
chuyển đổi sang ngành nghề mới khi bị mất đất nông nghiệp.
Về nguyên tắc bồi thường: Các khoản tiền bồi thường phải đảm bảo cho người
dân bị thu hồi đất có chỗ ở bằng hoặc cao hơn so với nơi ở cũ. Những đối tượng trong
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 11


diện giải tỏa mặt bằng thường được hưởng chính sách mua nhà ưu đãi của Nhà nước,
song trên thực tế họ thường mua nhà bên ngoài thị trường.
Về tổ chức thực hiện và quản lý giải tỏa mặt bằng: Cục Quản lý tài nguyên
đất đai ở các địa phương thực hiện việc quản lý giải tỏa mặt bằng. Người nhận khu
đất thu hồi sẽ thuê một đơn vị xây dựng giải tỏa mặt bằng khu đất đó, thường là các
đơn vị chịu trách nhiệm thi công công trình trên khu đất giải tỏa.
Ở Trung Quốc, một vấn đề rất quan trọng đó là gắn công tác bồi thường với
việc giải quyết các vấn đề xã hội. Thông thường khi bị thu hồi đất, người nông dân
khó tìm được việc làm thích hợp với khả năng của mình. Để giải quyết vấn đề này,
Trung Quốc đã thực hiện chế độ dưỡng lão đối với người già và hỗ trợ tiền cho

những người đang trong độ tuổi lao động để các đối tượng này tự tìm việc làm mới.
Nhìn chung hệ thống pháp luật về bồi thường và TĐC của Trung Quốc đều
nhằm bảo vệ những người mà mức sống có thể bị giảm do việc thu hồi đất để thực
hiện các dự án. Theo một nghiên cứu gần đây của WB thì các luật về TĐC của
Trung Quốc đối với các dự án phát triển đô thị, công nghiệp và giao thông “đã đáp
ứng đầy đủ các yêu cầu của WB trong tài liệu hướng dẫn thực hiện TĐC” (Ngân
hàng Phát triển Châu Á, 2006)
1.2.2 Đài Loan
Ở Đài Loan tồn tại 2 hình thức sở hữu đất đai: Sở hữu của Nhà nước (công
hữu) chiếm 69% so với tổng diện tích tự nhiên toàn lãnh thổ và sở hữu tư nhân
chiếm 31%, bao gồm đất ở, đất sản xuất nông nghiệp của nông dân và đất của các tổ
chức tư nhân khác.
Trong Luật Đất đai Đài Loan quy định cụ thể các loại đất không được trở
thành sở hữu tư nhân bao gồm: đất đai nằm trong một giới hạn nhất định của bờ
biển, hồ đầm, hai bên hồ và thuỷ đạo có thể làm đường vận chuyển, mương máng
nằm trong khu vực của thành phố, thị trấn, đường giao thông công cộng, đất suối
nước khoáng, đất thác nước, đất dùng cho nguồn nước công cộng, đất danh lam
thắng cảnh, cổ tích, những đất khác mà pháp luật cấm không được tư hữu.
Pháp luật Đài Loan còn quy định những diện tích đất thuộc sở hữu tư nhân,
nhưng trong đất có khoáng sản thì khoáng sản không thể trở thành sở hữu tư nhân.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 12


Đất đai thuộc công hữu hiện nay do Cục quản lý tài sản công hữu quản lý.
Qua các quy định trên cho thấy, Nhà nước muốn mở rộng diện tích đất thuộc
sở hữu của mình thì Nhà nước phải bỏ tiền ra mua của các chủ sở hữu khác, chỉ khi
nào dân không đồng ý bán thì lúc đó Nhà nước mới trưng thu.
Đảm bảo nguyên tắc, nếu phải di chuyển đi nơi khác người dân vẫn mua

được đất và xây dựng được nhà ở.
Ở Đài Loan, phân biệt rất rõ hai trường hợp.
- Các công trình của Nhà nước thì Nhà nước mới đứng ra thoả thuận mua đất
của dân, nếu dân không đồng tình, thì Nhà nước lấy quyền của mình trưng thu để
lấy đất xây dựng các công trình của Nhà nước theo kế hoạch sử dụng đất.
- Những công trình của tư nhân thì tư nhân phải tự thoả thuận với dân, Nhà
nước không can thiệp do việc thoả thuận mua bán này là quan hệ dân sự.
Khi Nhà nước cần xây dựng các công trình phục vụ sự nghiệp công cộng,
quốc phòng, giao thông thuỷ lợi, y tế, giáo dục, từ thiện, thực thi các chính sách
kinh tế... được phép trưng thu đất đai tư hữu trong giới hạn quy định của pháp luật.
Nhà nước thực hiện 2 hình thức trưng thu: trưng thu từng khu đoạn để thực
thi các chính sách kinh tế của Nhà nước, xây dựng quốc phòng và sự nghiệp công
cộng; trưng thu bảo lưu dùng cho sự nghiệp xây dựng trong tương lai, nhưng thời
hạn bảo lưu không quá 3 đến 5 năm, tuỳ theo tính chất từng loại công trình, quá thời
hạn quy định trên, trưng thu bảo lưu không còn hiệu lực (Trương Phan, 1996).
1.2.3 Australia
Luật Đất đai của Australia quy định đất đai của quốc gia thuộc sở hữu Nhà
nước và sở hữu tư nhân. Luật Đất đai bảo hộ tuyệt đối quyền lợi và nghĩa vụ của
chủ sở hữu đất đai. Chủ sở hữu có quyền cho thuê, chuyển nhượng, thế chấp, thừa
kế theo di chúc mà không có sự cản trở nào, kể cả việc tích lũy đất đai. Luật cũng
quy định Nhà nước có quyền trưng thu đất tư nhân để sử dụng vào mục đích công
cộng, phục vụ phát triển KT-XH và việc trưng thu đó gắn liền với việc Nhà nước
thực hiện bồi thường.
Theo luật của Australia có hai loại thu đất, đó là thu hồi đất bắt buộc và thu
hồi đất tự nguyện.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 13



Thu hồi đất tự nguyện được tiến hành khi chủ đất cần được thu hồi đất.
Trong thu hồi đất tự nguyện không có quy định đặc biệt nào được áp dụng mà việc
thỏa thuận đó là nguyên tắc cơ bản nhất. Chủ có đất cần được thu hồi và người thu
hồi đất sẽ thỏa thuận giá bồi thường đất trên tinh thần đồng thuận và căn cứ vào thị
trường. Không có bên nào có quyền hơn bên nào trong thỏa thuận và cũng không
bên nào được áp đặt đối với bên kia.
Thu đất bắt buộc được Nhà nước Australia tiến hành khi Nhà nước có nhu
cầu sử dụng đất cho các mục đích công cộng và các mục đích khác. Thông thường,
nhà nước có được đất đai thông qua đàm phán.
Trình tự thu đất bắt buộc được thực hiện như sau: Nhà nước gửi cho các chủ
đất một văn bản trong đó nêu rõ mục tiêu thu hồi đất vì các mục đích công cộng.
Chủ sở hữu mảnh đất có thể yêu cầu Bộ trưởng Bộ Tài chính và Quản lý xem xét lại
vấn đề thu hồi đất. Nếu chủ sở hữu vẫn chưa hài lòng thì có thể tiếp tục yêu cầu
Trọng tài phúc thẩm hành chính phán xử. Trọng tài phúc thẩm hành chính không
thể xem xét tính đúng đắn về quyết định của Chính phủ nhưng có thể xem xét các
vấn đề liên quan khác. Nhà nước thông báo rộng rãi quyết định thu hồi đất và chủ
sở hữu đất phải thông báo cho bất kỳ ai muốn mua mảnh đất đó về quyết định thu
hồi đất của Chính phủ. Sau đó, Nhà nước sẽ ban hành quyết định thu hồi đất và
thông báo trên báo chí. Chủ sở hữu đất thông thường có quyền tiếp tục ở trên đất ít
nhất là 6 tháng sau khi đã có quyết định thu hồi đất. Ngay sau khi có quyết định thu
hồi đất, chủ đất có thể yêu cầu nhà nước bồi thường. Nguyên tắc của bồi thường là
công bằng và theo giá thị trường. Thông thường, các yếu tố sẽ được tính toán trong
quá trình bồi thường đó là giá thị trường, giá trị đặc biệt đối với chủ sở hữu, các chi
phí liên quan như chi phí di chuyển, chi phí TĐC.
1.2.4 Ngân hàng thế giới
Ngân hàng Thế giới (WB) là một trong những tổ chức tài trợ quốc tế đầu tiên
đưa ra chính sách về TĐC bắt buộc. Tháng 2/1980, lần đầu tiên chính sách TĐC
được ban hành dưới dạng một Thông báo Hướng dẫn Hoạt động nội bộ (OMS 2.33)
cho nhân viên. Từ đó đến nay chính sách TĐC đã được sửa đổi và ban hành lại
nhiều lần.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 14


Như chúng ta đã biết, khi nhà nước thu hồi đất và TĐC thì những người
BAH là những người mà do hậu quả của dự án họ phải chịu thiệt hại toàn bộ hay
một phần tài sản vật chất và phi vật chất, bao gồm nhà cửa, cộng đồng, hệ thống hạ
tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, các phương tiện sản xuất bao gồm đất đai, nguồn thu
nhập, kế sinh nhai do đất đai tạo ra, v.v. Kinh nghiệm của WB cho thấy việc TĐC
không tự nguyện do các dự án phát triển gây nên, trong trường hợp không thể giảm
thiểu được, thường dẫn đến những hiểm họa nghiêm trọng về KT-XH và môi
trường do các hệ thống sản xuất bị phá vỡ, con người phải đối mặt với sự bần cùng
hóa khi những tài sản, công cụ sản xuất hay nguồn thu nhập của họ bị mất đi. Tất cả
những điều đó nếu giải quyết không tốt sẽ dẫn đến những khó khăn, căng thẳng về
xã hội và dễ dàng dẫn tới sự bần cùng hóa đời sống dân cư. Chính vì vậy mà Chính
sách TĐC của WB đã đưa ra những nguyên tắc hướng dẫn cơ bản đó là:
- TĐC không tự nguyện cần được tránh ở mọi nơi có thể tránh được hoặc
giảm đến mức tối thiểu bằng cách đưa ra mọi phương án có thể lựa chon trong quá
trình thiết kế kỹ thuật;
- Ở những nơi mà TĐC không tự nguyện là không thể tránh khỏi, hoạt động
TĐC cần được nhận thức và thực thi như những chương trình phát triển bền vững, cần
cung cấp đủ nguồn đầu tư để giúp những người bị dự án ảnh hưởng tiêu cực được chia
sẻ lợi ích của Dự án; những người BAH cần được tham khảo ý kiến đầy đủ và cần
được tham gia vào quá trình lập kế hoạch và thực hiện các chương trình TĐC;
- Những người BAH cần được trợ giúp nhằm cải thiện điều kiện sống và mức
sống của mình hoặc ít nhất là khôi phục được mức sống cũ như trước khi có Dự án.
Theo chính sách bồi thường GPMB và TĐC của WB thì việc thiếu các quyền
pháp lý chính thức về đất sẽ không cản trở việc bồi thường cho một số nhóm dân
BAH và những người ảnh hưởng còn được mở rộng cả với đối tượng không bị thiệt

hại về đất đai và tài sản mà chỉ BAH nhỏ về mặt tinh thần. Đối với đất đai và tài sản
được bồi thường, chính sách của WB và ADB là phải bồi thường theo giá xây dựng
mới đối với tất cả các công trình xây dựng và quy định thời hạn bồi thường TĐC
hoàn thành trước một tháng khi dự án triển khai thực hiện.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 15


×