Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG THÔN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.82 KB, 32 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG THÔN
Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu; địa
bàn nông thôn Việt Nam là nơi sinh sống, hoạt động của 72% dân cư cả nước. Nông
thôn là nơi cung cấp nông sản cho xã hội, là thị trường tiêu thụ sản phẩm của công
nghiệp và dịch vụ, đồng thời là nơi cung cấp nguồn nhân lực chủ yếu cho công
nghiệp và dịch vụ. Nông thôn càng phát triển, CCKT nông thôn chuyển dịch theo
hướng tiến bộ, đời sống vật chất và tinh thần khu vực nông thôn được cải thiện sẽ tạo
điều kiện quan trọng để thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước,
Nghị quyết số 06 của Bộ Chính trị ngày 10 - 11 - 1998 đã khẳng định: “Chuyển dịch
CCKT nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH, tăng khối lượng sản phẩm hàng hoá,
nhất là nông, lâm, thủy sản qua chế biến, tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu, giảm tỷ lệ
lao động nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ trong CCKT nông thôn”
[2].
Để CDCCKTNT hợp lý, trước hết phải nhận thức được những lý luận cơ
bản về CCKT, CCKT nông thôn.
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC TRƯNG CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG THÔN VÀ CHUYỂN
DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG THÔN

1.1.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Việc phát triển nền kinh tế có hiệu quả là mục tiêu phấn đấu của mỗi quốc
gia. Muốn đạt được mục tiêu trên đòi hỏi phải có một CCKT hợp lý xét trên góc
độ các ngành kinh tế, các vùng kinh tế và các thành phần kinh tế. Các yếu tố hợp
thành CCKT phải được thể hiện cả về số lượng cũng như về chất lượng và được
xác định trong những giai đoạn nhất định, phù hợp với những đặc điểm tự nhiên,
KT-XH cụ thể của mỗi quốc gia (vùng, hoặc địa phương) qua từng thời kỳ.
Cơ cấu kinh tế không phải là một hệ thống tĩnh, bất biến, mà luôn vận động
chuyển dịch cần thiết, thích hợp với những biến động của điều kiện tự nhiên, KTXH. Do đó sự duy trì quá lâu hoặc thay đổi quá nhanh chóng của CCKT mà không
tính đến sự phù hợp với những biến đổi của tự nhiên, KT-XH đều có thể ảnh
hưởng đến hiệu quả của nền kinh tế. Vì vậy việc duy trì hay thay đổi CCKT không



phải là mục tiêu, mà chỉ là phương tiện của việc tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Cơ cấu kinh tế trong quá trình vận động chuyển dịch nhanh hay chậm không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan mà phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết cho sự
chuyển đổi, sự vận động và phát triển của LLSX xã hội, các mục tiêu KT-XH sẽ
đạt được như thế nào. Nói cách khác CCKT biến đổi chính là kết quả của quá trình
phân công lao động xã hội, CCKT phản ánh mối quan hệ LLSX và QHSX của nền
kinh tế.
Từ sự phân tích trên có thể hiểu: CCKT là tổng thể các bộ phận hợp thành kết
cấu (hay cấu trúc) của nền kinh tế trong quá trình tái sản xuất xã hội. Các bộ phận
đó gắn bó với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và biểu hiện ở các quan hệ tỷ lệ về số
lượng, tương quan về chất lượng trong những không gian và thời gian nhất định, phù
hợp với những điều kiện KT-XH nhất định nhằm đạt hiệu quả KT-XH cao [25, tr.5].
Khái niệm CCKT như nêu trên là khoa học tương đối toàn diện, đầy đủ các
bộ phận cấu thành, các mối quan hệ khắng khích giữa các bộ phận cấu thành.
Như vậy CCKT vừa mang tính khách quan, vừa mang tính lịch sử xã hội,
đồng thời luôn vận động và phát triển không ngừng, gắn với sự phân công lao
động, hợp tác kinh tế trong nước và quốc tế.
Ta có thể hiểu trực diện hơn, CCKT là: mối quan hệ và tỷ lệ giữa các ngành
trong nền kinh tế (hoặc trong GDP), mối quan hệ giữa các vùng kinh tế, giữa các
thành phần kinh tế. Từ đó có thể hiểu CDCCKT là sự thay đổi tỷ trọng tương đối
của các ngành, các bộ phận của mỗi ngành trong nền kinh tế (hoặc trong GDP),
sự thay đổi vị trí, vai trò của các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế trong nền
kinh tế quốc dân. Chuyển dịch CCKT là việc thay đổi cấu trúc nội tại và mối quan
hệ giữa các bộ phận hợp thành của nền kinh tế có hướng đến mục tiêu đã xác định.
1.1.2. Khái niệm cơ cấu kinh tế nông thôn và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông thôn
Nông thôn là khái niệm dùng để chỉ một địa bàn mà ở đó sản xuất nông
nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Nông thôn có thể xem xét trên nhiều góc độ: kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội … Kinh tế nông thôn là một khu vực của nền kinh tế gắn
liền với địa bàn nông thôn. Kinh tế nông thôn vừa mang những đặc trưng chung



của nền kinh tế về LLSX và QHSX, về cơ chế kinh tế … vừa có những đặc điểm
riêng gắn liền với nông nghiệp, nông thôn.
Xét về mặt kinh tế - kỹ thuật; KTNT có thể bao gồm nhiều ngành kinh tế
như: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp, dịch vụ … trong
đó nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp là ngành kinh tế chủ yếu. Xét về mặt KTXH, KTNT cũng bao gồm nhiều thành phần kinh tế: KTNN, kinh tế tập thể, kinh
tế tư nhân … xét về mặt không gian và lãnh thổ, KTNT bao gồm các vùng như:
vùng chuyên canh lúa, vùng chuyên cánh cây màu, vùng trồng cây ăn quả …
Nói cách khác: KTNT là một phức hợp những nhân tố cấu thành LLSX và
QHSX trong các ngành nông - lâm - ngư nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp, công nghiệp
chế biến phục vụ cho nông nghiệp, các ngành thương nghiệp và dịch vụ trên địa bàn
nông thôn. Tất cả các ngành đó đều có mối quan hệ hữu cơ với nhau trong kinh tế
vùng, lãnh thổ và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Từ đó có thể hiểu: CCKT nông thôn là quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, các
lĩnh vực kinh tế trên địa bàn nông thôn có quan hệ hữu cơ với nhau, tác động qua
lại lẫn nhau, làm tiền đề cho nhau phát triển trong điều kiện tự nhiên - KT-XH,
trong một thời gian nhất định ở nông thôn. Cơ cấu kinh tế đó được thể hiện cả về
mặt chất và mặt số lượng. Cơ cấu KTNT có vai trò to lớn, ảnh hưởng chi phối đến
đời sống vật chất và tinh thần ở nông thôn [22, tr.491-492].
Như vậy, giữa các bộ phận của CCKT nông thôn có mối quan hệ chặt chẽ
không tách rời theo những tỷ lệ về lượng cũng như về chất. Cơ cấu KTNT tồn tại khách
quan nhưng không bất biến, mà luôn biến đổi thích ứng với sự phát triển của LLSX và
phân công lao động xã hội trong từng thời kỳ. Việc xác lập CCKT nông thôn chính là
giải quyết mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố của LLSX và QHSX, giữa tự nhiên
với con người trong khu vực nông thôn theo thời gian và những điều kiện KT-XH cụ
thể.
Qua phân tích CCKT nông thôn như trên, ta thấy rằng: CDCCKTNT là sự
thay đổi cấu trúc nội tại và mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của CCKT nông
thôn theo hướng tiến bộ hơn, hoàn thiện hơn.

Trên thực tế CDCCKTNT là sự thay đổi tỷ trọng tương đối của các ngành,
các bộ phận của mỗi ngành, sự thay đổi vị trí, vai trò của các vùng kinh tế, các
thành phần kinh tế trong CCKT nông thôn. Cơ cấu KTNT là một bộ phận cấu


thành quan trọng trong CCKT quốc dân, do đó CDCCKTNT là một nội dung quan
trọng trong quá trình CDCCKT của mỗi quốc gia.
1.1.2.1. Đặc trưng cơ bản của cơ cấu kinh tế nông thôn
- Một là, tính khách quan: Cơ cấu KTNT hình thành và phát triển mang
tính khách quan, sự vận động và biến đổi CCKT nông thôn phụ thuộc vào trình độ
phát triển của LLSX và phân công lao động xã hội. Do vậy không thể áp đặt một
cách chủ quan, nóng vội một CCKT nào đó khi các điều kiện tự nhiên, KT-XH chưa
đòi hỏi.
Ngày nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang bùng nổ,
việc ứng dụng cuộc cách mạng ấy, đặc biệt là công nghệ sinh học đã tạo ra nhiều
giống cây, con mới cho năng suất, chất lượng cao, đem lại hiệu quả kinh tế lớn, đang
là nhân tố tác động làm chuyển dịch mạnh mẽ CCKT và KTNT, tạo ra một cơ cấu
mới ở nông thôn có trình độ thích ứng rộng hơn và hiệu quả hơn.
Cơ cấu KTNT được hình thành và biến đổi mang tính khách quan, do đó
đòi hỏi con người phải nhận thức đầy đủ các quy luật (quy luật kinh tế và quy luật
tự nhiên), trên cơ sở đó mà xác lập, biến đổi và phát triển CCKT nông thôn sao
cho ngày càng hợp lý hơn và hiệu quả cao.
- Hai là, tính lịch sử - xã hội: CCKT nông thôn không bất biến mà luôn vận
động, biến đổi và chuyển dịch phù hợp với những điều kiện tự nhiên, KT-XH và
tiến bộ của khoa học, công nghệ. Sự biến đổi của các điều kiện trên, kéo theo sự
chuyển hoá, biến đổi các bộ phận kinh tế trong hệ thống KTNT, do đó cũng làm
cho CCKT nông thôn biến đổi, chuyển dịch theo để hình thành CCKT mới thay
thế CCKT cũ không còn phù hợp với thực trạng mà trước đây vốn đã phù hợp với
chính bản thân nó.
- Ba là, CCKT nông thôn luôn vận động và phát triển theo hướng ngày

càng hợp lý, hoàn thiện và hiệu quả: Việc xác lập CCKT nông thôn hợp lý trong
một không gian lãnh thổ nhất định có ý nghĩa rất to lớn, vì nó tạo ra hiệu quả KTXH cao. Tuy nhiên ngày nay phân công lao động xã hội đã vượt khỏi phạm vi
quốc gia, hình thành phân công lao động quốc tế, điều đó đòi hỏi xác định CCKT
không chỉ dựa vào các yếu tố nội lực, mà phải biết khai thác và sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực bên ngoài. Vì vậy, việc lựa chọn cơ cấu hợp lý có hiệu quả


trong điều kiện ngày nay là phải biết kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực
tổng hợp, tranh thủ tối đa các nguồn vốn, khoa học và công nghệ, kinh nghiệm
quản lý… của thế giới để khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi tiềm năng, lợi thế
so sánh của đất nước nhằm đem lại hiệu quả KT-XH cao.
Ngoài những đặc trưng có tính chất chung trên, CCKTNT còn hình thành
và biến đổi phụ thuộc vào những đặc điểm về địa lý, điều kiện khí hậu, nông hóa
thổ nhưỡng, mật độ dân cư, phong tục tập quán, trình độ khoa học công nghệ….
Trên đây là những đặc trưng cơ bản của CCKT nông thôn, cần phải nhận
thức đầy đủ và nghiên cứu một cách kỹ lưỡng để đưa ra những giải pháp có hiệu
quả trong quá trình CDCCKTNT ở nước ta nói chung và tỉnh Vĩnh Long nói riêng.
Trong năm gần đây, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại bùng
nổ, đặc biệt là công nghệ sinh học đã làm thay đổi nhận thức trong phát triển kinh
tế và chuyển đổi CCKT nông thôn. Nhiều quan niệm mới đã xuất hiện như: nền
nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp sạch, phát triển công nghệ vi sinh … đã có ảnh
hưởng rất lớn đến chiến lược phát triển kinh tế và CDCCKTNT. Những ý tưởng
công nghiệp hoá nông nghiệp duy trì về mặt “ cơ khí, sắt thép” đã thất bại, để
nhường bước cho công nghiệp hoá nông thôn hài hoà hơn, ít ảnh hưởng đến môi
trường sinh thái hơn, đó là nền nông nghiệp sinh thái, nền nông nghiệp gắn bó và
hài hoà giữa kinh tế với môi trường tự nhiên và xã hội, đây cũng chính là định
hướng phát triển nền nông nghiệp bền vững.
1.1.2.2. Nội dung cơ bản của cơ cấu kinh tế nông thôn
Cơ cấu KTNT gồm cơ cấu ngành kinh tế (nông nghiệp theo nghĩa rộng,
công nghiệp và dịch vụ), cơ cấu vùng kinh tế và cơ cấu thành phần kinh tế.

* Cơ cấu ngành kinh tế:
Đây là nội dung diễn ra sớm nhất và đóng vai trò quyết định trong các nội
dung của CCKT nông thôn.
Trong lịch sử kinh tế của nhân loại ở thời kỳ đầu, KTNT chủ yếu là nông
nghiệp, về sau xã hội càng phát triển thì phân công lao động xã hội ngày càng cao,
tỉ mỉ nên sự phân chia các ngành nghề càng đa dạng, sâu sắc. Đặc biệt từ khi tiến
hành công nghiệp hoá thì CCKT nông thôn càng phân ngành nhanh chóng theo
hướng CNH, HĐH.


Phân công lao động càng sâu sắc thì cơ cấu ngành càng đa dạng và tỉ mỉ.
Tiền đề của phân công lao động xã hội là khi năng suất lao động trong nông
nghiệp, mà trước hết và chủ yếu là năng suất lao động trong khu vực sản xuất
lương thực đạt ở một trình độ nhất định, đảm bảo đủ số lượng và chất lượng lương
thực cần thiết cho xã hội, lúc này phân công lao động phát triển hơn nữa giữa
người sản xuất lương thực với người sản xuất nguyên liệu nông nghiệp và cả trong
lĩnh vực chăn nuôi… Đến đây ta thấy chăn nuôi tách khỏi trồng trọt, hình thành
một ngành mới trong nông nghiệp.
Về vấn đề này C.Mác đã chỉ rõ: “Lao động nông nghiệp là cái cơ sở tự
nhiên… không phải chỉ riêng cho lao động thặng dư trong lĩnh vực của bản thân
ngành nông nghiệp, mà nó là cái cơ sở tự nhiên để biến tất cả các ngành lao động
khác thành những ngành độc lập” [34, tr.54].
Cùng với sự phân công lao động xã hội thì CCKT nông thôn cũng vận động
và phát triển ngày càng hoàn thiện hơn. Khi năng suất lao động trong nông nghiệp
tăng lên, ngoài hoạt động trồng trọt và chăn nuôi, con người đã tìm kiếm và làm
thêm nhiều công việc khác như phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và đến
một trình độ nhất định đã tách thành một ngành sản xuất độc lập, đó chính là tiền
thân của ngành CNNT ngày nay.
Xã hội càng phát triển, phân công lao động xã hội càng cao, thì có một bộ
phận dân cư tách khỏi khu vực sản xuất (nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp)

chuyển sang lĩnh vực thương mại - dịch vụ để phục vụ cho nông nghiệp và tiểu thủ
công nghiệp, chính điều này thúc đẩy SXHH càng phát triển.
Đến đây, CCKT nông thôn đã hình thành đầy đủ các ngành: Nông nghiệp công nghiệp và dịch vụ, ở giai đoạn này CCKT nông thôn tuy đã hình thành đầy
đủ nhưng các ngành vẫn còn rất đơn điệu, sơ khai.
Cùng với sự phát triển của phân công lao động xã hội, cơ cấu ngành KTNT
ngày càng hoàn thiện hơn, sự hoàn thiện được thể hiện ở việc phát triển các ngành
chuyên sâu hơn.
Quá trình hoàn thiện cơ cấu ngành KTNT cũng chính là quá trình chuyển
dịch cơ cấu ngành của KTNT. Do vậy, để CCKT nông thôn chuyển dịch nhanh và
đúng hướng, cần phải nhận thức một cách sâu sắc và nắm bắt những quy luật vận
động khách quan của chúng để tác động đúng, có hiệu quả nhằm đạt được các mục
tiêu đã xác định.


- Ngành nông nghiệp:
+ Theo nghĩa rộng: Nông nghiệp là tổ hợp các ngành gắn liền với các quá
trình sinh học gồm: Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản. Do sự phát triển của
phân công lao động xã hội, nên các ngành này tương đối độc lập nhau, nhưng lại
gắn bó mật thiết nhau trên địa bàn nông thôn.
Là ngành cơ bản của nền kinh tế quốc dân, nên vừa chịu sự chi phối chung của
nền kinh tế quốc dân, vừa gắn bó chặt chẽ với các ngành khác trên địa bàn nông thôn,
đồng thời mang nét đặc thù của một ngành mà đối tượng sản xuất là những cơ thể sống.
+ Theo nghĩa hẹp: Nông nghiệp bao gồm trồng trọt và chăn nuôi.
. Trồng trọt được phân ra: trồng cây lương thực, cây thực phẩm, cây công
nghiệp, cây thức ăn gia súc, cây ăn quả, cây dược liệu, cây cảnh …
. Chăn nuôi: chăn nuôi gia súc, gia cầm …
. Ngành lâm nghiệp: trồng và bảo vệ rừng, trồng cây phân tán, trồng cây lấy
gỗ, lấy cũi …
. Ngành thủy sản: bao gồm nuôi trồng và khai thác, đánh bắt thủy hải sản.
- Công nghiệp nông thôn:

Công nghiệp nông thôn là một bộ phận của công nghiệp cả nước, là một bộ
phận cấu thành của kinh tế quốc gia.
Nói đến CNNT là đề cập đến các ngành nghề, các hoạt động kinh tế ngoài
nông nghiệp có tính chất công nghiệp ở nông thôn. Công nghiệp nông thôn là
ngành bao gồm:
Các hoạt động của thợ thủ công chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp,
các doanh nghiệp, các HTX, tổ hợp tác, tổ sản xuất công nghiệp và thủ công
nghiệp, các hoạt động chế biến lương thực, thực phẩm, công nghiệp khai thác khác
với quy mô vừa và nhỏ, hoạt động của nó gắn với kinh tế trên địa bàn nông thôn.
Công nghiệp nông thôn trước hết gắn chặt với sản xuất nông nghiệp, nó tạo
ra và cung cấp cho nông nghiệp công cụ và điều kiện để tiến hành các quy trình
sản xuất nông nghiệp; cung cấp cho nông nghiệp các máy móc, công cụ chăm sóc
cây trồng, vật nuôi, thức ăn gia súc, thuốc trừ sâu. Ngoài ra còn cung cấp các máy
móc, công cụ phục vụ thu hoạch, phơi sấy, bảo quản, sơ chế, chế biến, vận chuyển
nông sản [10, tr.14].


Công nghiệp nông thôn gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại với nông nghiệp
và phát triển KT-XH ở nông thôn.
Công nghiệp nông thôn bao gồm:
+ Công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, có ý nghĩa vô cùng to lớn, là
nhân tố trực tiếp làm tăng giá trị nông sản hàng hoá, đáp ứng nhu cầu thị hiếu
người tiêu dùng, làm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường, nâng cao
hiệu quả SXKD của ngành nông nghiệp, làm tăng thu nhập, ổn định và cải thiện
đời sống cho nông dân.
+ Sản xuất công cụ thường, công cụ cải tiến và sửa chữa máy móc trong
nông thôn, góp phần đổi mới kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động cho ngành
nông nghiệp. Trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, bên cạnh việc
trang bị ngày càng nhiều thiết bị máy móc hiện đại, nông nghiệp và nông thôn còn
có nhu cầu công cụ thường, công cụ cải tiến, máy móc làm những việc đơn giản,

sửa chữa máy móc … những bộ phận này do chính CNNT đảm nhiệm.
+ Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng: nhằm đáp ứng nhu cầu ngày
càng tăng về việc xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn như: Đường giao thông,
thủy lợi, nhà ở, nhà y tế, các công trình văn hoá, … đòi hỏi công nghiệp sản xuất
vật liệu xây dựng ở nông thôn phải không ngừng phát triển.
+ Ngoài ra CNNT còn có các ngành nghề thủ công, mỹ nghệ, các ngành
nghề truyền thống như: ươm tơ dệt lụa, đúc đồng, gốm sứ, sơn mài, mây tre đan,
dệt chiếu, thảm len, … những ngành nghề mới hình thành như đan thảm lục bình,
tách vỏ hạt điều … cũng không thể xem nhẹ trong quá trình phát triển của KTNT.
- Dịch vụ:
Đây là ngành kinh tế ra đời gắn liền với phân công lao động xã hội ở nông
thôn xét về mặt lịch sử thì nó là sản phẩm của ngành nông nghiệp và CNNT,
nhưng khi ra đời thì nó lại là bộ phận quan trọng gắn bó và tác động thúc đẩy cho
ngành nông nghiệp và CNNT nói riêng và KTNT nhanh chóng phát triển.
Dịch vụ nông thôn bao gồm: Ngân hàng, tín dụng, bảo hiểm, bưu điện,
thông tin liên lạc; cung ứng điện, nước và tiêu nước; sửa chữa máy móc và các
công cụ sản xuất; cung ứng giống cây trồng, giống gia súc, gia cầm; dịch vụ về
phòng trừ sâu bệnh cho cây trồng và khám chữa bệnh cho gia súc, gia cầm; dịch


vụ làm đất, vận chuyển, bảo quản, chế biến nông sản; du lịch vườn ở nông thôn;
các hoạt động dịch vụ y tế, giáo dục, văn hoá, thể dục thể thao …
* Cơ cấu vùng kinh tế:
Phân công lao động xã hội theo ngành tất yếu kéo theo sự phân công lao
động xã hội theo lãnh thổ, đó là hai mặt của quá trình gắn bó hữu cơ với nhau. Bởi
lẽ phân công lao động xã hội theo ngành bao giờ cũng diễn ra trên những vùng,
lãnh thổ nhất định.
Cơ cấu vùng kinh tế là sự phân công lao động xã hội theo lãnh thổ trong
phạm vi cả nước. Trong mỗi quốc gia thường có những điều kiện tự nhiên, KTXH không giống nhau, vì vậy người ta thường chia lãnh thổ của mỗi quốc gia ra
thành nhiều vùng kinh tế khác nhau, mỗi vùng kinh tế có những điều kiện tự

nhiên, KT-XH tương đối giống nhau, để xác lập CCKT cho từng vùng một cách
hợp lý, bố trí các ngành sản xuất và dịch vụ trên từng vùng cho thích hợp, nhằm
khai thác có hiệu quả các tiềm năng và lợi thế vốn có của từng vùng. Tuy nhiên
việc bố trí cơ cấu ngành kinh tế trên từng vùng không khép kín, mà phải theo cơ
cấu mở, có sự liên kết giữa các vùng và đặt trong mối quan hệ gắn bó với CCKT
của cả nước,đồng thời hướng ra thị trường thế giới.
Cùng với sự phát triển của phân công lao động xã hội và nhu cầu của thị
trường, thì cơ cấu vùng kinh tế cũng có sự vận động và biến đổi theo cho phù hợp,
nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Vì vậy xu hướng của chuyển
dịch cơ cấu vùng kinh tế là theo hướng đi vào chuyên môn hóa và tập trung hóa
sản xuất và dịch vụ, hình thành những vùng sản xuất hàng hóa lớn, tập trung có
hiệu quả cao, mở rộng quan hệ với các vùng chuyên môn khác, gắn kinh tế vùng
với kinh tế cả nước. Điều này được Đảng ta khẳng định: “Chuyển dịch CCKT lãnh
thổ trên cơ sở khai thác triệt để các lợi thế, tiềm năng của từng vùng, liên kết hỗ
trợ nhau làm cho tất cả các vùng đều phát triển” [14, tr.89].
Thực tiễn cho thấy, để hình thành cơ cấu vùng kinh tế hợp lý trong khu vực
KTNT, trước hết hướng vào khu vực có lợi thế so sánh, đó là những nơi có điều
kiện về đất đai tốt, thời tiết khí hậu ôn hòa, vị trí giao thông thuận lợi, gần trục
giao thông quan trọng, gần thành phố và khu công nghiệp, có điều kiện phát triển
và mở rộng giao lưu kinh tế với thị trường trong và ngoài nước, có khả năng tiếp


cận và hoà nhập nhanh chóng vào các thị trường và hàng hóa dịch vụ khác. Song
cũng cần thấy rằng: so với cơ cấu ngành kinh tế, thì cơ cấu vùng thường có tính trì
trệ hơn, có sức ỳ hơn, bởi vì việc xây dựng vùng chuyên canh cho sản xuất nông
nghiệp (Nông - lâm - thủy sản) cần phải được xem xét, nghiên cứu một cách kỹ
lưỡng và thận trọng, vì nếu mắc sai lầm thì khó khắc phục hơn, nhất là kinh tế, xã
hội và môi trường sinh thái.
* Cơ cấu thành phần kinh tế:
Cơ cấu thành phần kinh tế ở nông thôn là thể hiện vị trí, vai trò, mối quan

hệ giữa các thành phần kinh tế trong nông thôn, cơ cấu thành phần kinh tế không
phải là một tập hợp giản đơn các thành phần kinh tế với nhau, mà cơ cấu ấy phải
đảm bảo được các yêu cầu cơ bản sau:
Một là, phải đảm bảo cho KTNT phát triển đúng định hướng XHCN.
Hai là, cơ cấu phải hợp lý để sử dụng và khai thác tối đa các nguồn lực ở
nông thôn.
Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, điểm xuất
phát là một nước nông nghiệp lạc hậu, cho nên trình độ của LLSX rất thấp và phát
triển không đều, do vậy tất yếu sẽ tồn tại nhiều thành phần kinh tế.
Theo Lênin: Đặc trưng kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là nền kinh tế nhiều thành phần. Người chỉ rõ: các nước đi lên chủ nghĩa xã hội
phổ biến có 3 thành phần kinh tế cơ bản: kinh tế XHCN, kinh tế tư bản chủ nghĩa
và kinh tế SXHH nhỏ.
Vận dụng tư tưởng kinh tế ấy của Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Đảng ta xác định : “Nền kinh tế nhiều thành phần trong nông nghiệp, nông thôn
tồn tại lâu dài, mỗi thành phần có vị trí, vai trò riêng và đều được khuyến khích
phát triển theo định hướng XHCN” [2].
Do chúng ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa, nữa phong
kiến nên tất yếu tồn tại những hình thức kinh tế mang tính xã hội hoá thấp như
kinh tế cá thể, tiểu chủ của những người nông dân, thợ thủ công, những người làm
thương mại- dịch vụ nhỏ trên địa bàn nông thôn.


Các thành phần kinh tế ở nông thôn tồn tại do yêu cầu giải phóng sức sản
xuất, khơi dậy và khai thác hết mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho cư dân nông thôn, đáp ứng yêu cầu CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Kinh tế nông thôn nước ta hiện có các thành phần kinh tế cơ bản sau:
KTNN, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), …
Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là một bộ

phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và
cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực
lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh
tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng
phát triển. Kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò
quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế [16, tr.83].
+ Kinh tế nhà nước gồm: các DNNN ở nông thôn nước ta có nhiều hình
thức như: nông trường, lâm trường, công ty (trạm) thủy nông, các DNNN nuôi
trồng thủy sản, chế biến nông sản, thương nghiệp, dịch vụ nông nghiệp …
+ Kinh tế tập thể, nòng cốt là HTX ra đời và phát triển ở nông thôn. Kinh tế
tập thể ra đời là do yêu cầu nâng cao hiệu quả của sản xuất và đời sống của từng
thành viên. Kinh tế tập thể đảm đương những khâu mà từng hộ gia đình không có
khả năng làm hoặc làm kém hiệu quả. Vai trò của nó là góp phần tích cực vào quá
trình phát triển KT-XH ở nông thôn và xây dựng nông thôn mới ngày càng văn
minh hiện đại theo hướng công nghiệp và đô thị.
+ Kinh tế tư nhân gồm: Kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân. Đây là
thành phần kinh tế có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong phát triển nông nghiệp
và KTNT ở nước ta hiện nay. “Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong
những động lực của nền kinh tế” [16, tr.83].
Ngoài ra, hiện nay có nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước đang đầu tư vào
khu vực nông thôn, đặc biệt là lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thủy sản. . .


1.2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM, XU HƯỚNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG THÔN

1.2.1. Những đặc điểm chung của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn


Cơ cấu KTNT vừa mang tính khách quan vừa mang tính lịch sử - xã hội, do
vậy để CDCCKTNT đòi hỏi con người phải nhận thức và nắm bắt được các quy
luật vận động khách quan của chúng để tác động đúng, có như vậy mới tạo ra
CCKT hợp lý và hiệu quả. CDCCKTNT là quá trình tác động vào các bộ phận cấu
thành của chúng, làm cho chúng chuyển hoá từ cơ cấu cũ sang cơ cấu mới tiến bộ
hơn. Quá trình đó đòi hỏi phải có thời gian và phải trải qua những nấc thang của
sự phát triển từ thấp đến cao. Đó cũng là quá trình thay đổi về lượng để dẫn đến sự
thay đổi về chất. Quá trình CDCCKTNT diễn ra nhanh hay chậm còn phụ thuộc
rất lớn vào yếu tố con người, đặc biệt là cơ chế, chính sách và những giải pháp tác
động. Vì vậy, cần phải nắm rõ những đặc điểm chung của quá trình CDCCKTNT,
mà bất kỳ nước nào từ nền kinh tế tiểu nông lạc hậu chuyển sang nền kinh tế công
nghiệp cũng phải trải qua để có hướng tác động cho phù hợp.
- Một là: Lý thuyết phân kỳ phát triển kinh tế của Walt Rostow (còn gọi là
lý thuyết về các giai đoạn phát triển kinh tế).
Theo ông quá trình phát triển kinh tế của bất kỳ nước nào cũng đều phải trải
qua các giai đoạn tuần tự: Xã hội truyền thống, giai đoạn chuẩn bị cất cánh, giai
đoạn trưởng thành, giai đoạn mức tiêu dùng cao. Khi chuyển từ giai đoạn này sang
giai đoạn khác trong quá trình phát triển thì CCKT cũng có sự thay đổi nhất định,
đó chính là sự CDCCKT. Quá trình phát triển của nền kinh tế luôn gắn với sự
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Dưới sự tác động của khoa học, công nghệ mà
xã hội nông nghiệp truyền thống bắt đầu phát triển, nền kinh tế từng bước hiện đại
hóa và mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Cùng với sự phát triển của các
ngành kinh tế thì cơ cấu lao động cũng thay đổi theo chiều hướng tăng tỷ lệ lao
động có trình độ chuyên môn tay nghề cao và tỷ lệ dân cư đô thị.
- Hai là: Lý thuyết nhị nguyên của A.Lewis (hay còn gọi là mô hình kinh tế
hai khu vực của A.Lewis ).
Trong lý thuyết của mình, ông chia nền kinh tế thành hai khu vực kinh tế
song song tồn tại:



+ Khu vực truyền thống chủ yếu là sản xuất nông nghiệp.
+ Khu vực kinh tế công nghiệp hiện đại.
Trong hai khu vực, thì khu vực truyền thống có đặc điểm là trì trệ, năng
suất lao động thấp, còn khu vực công nghiệp có vốn, có công nghệ và có điều kiện để
tăng trưởng cao. Vì thế có thể chuyển một phần lao động từ khu vực nông nghiệp
sang khu vực công nghiệp hiện đại. Việc di chuyển lao động đã làm cho số lượng lao
động trong nông nghiệp ngày càng giảm, nhưng sản lượng không giảm và sau đó
người lao động trong nông nghiệp có điều kiện đầu tư nâng cao năng suất lao động.
Để tăng hiệu quả trong sự tác động qua lại giữa hai khu vực, cần kết hợp việc giảm
tốc độ tăng dân số và quan tâm thích đáng tới nông nghiệp trong quá trình CDCCKT.
- Ba là: Lý thuyết mô hình kinh tế hai khu vực của Harry.T.Oshima.
T.Oshima là một nhà kinh tế học Nhật bản, ông đã nghiên cứu mối quan hệ giữa
hai khu vực dựa trên những đặc điểm khác biệt của các nước Châu Á, Châu Mỹ.
Qua nghiên cứu ông thấy rằng: Nền nông nghiệp lúa nước có tính thời vụ cao, vào
thời gian cao điểm của mùa vụ vẫn có hiện tượng thiếu lao động, nhưng lại dư
thừa trong lúc nhàn rỗi.
Từ đó T.Oshima cho rằng: Sự phát triển của nền kinh tế bắt đầu bằng việc
giữ lao động trong nông nghiệp nhưng cần tạo thêm nhiều việc làm trong những
tháng nhàn rỗi. Tiếp đó là sẽ sử dụng lao động nhàn rỗi vào các ngành sản xuất
công nghiệp cần nhiều lao động, khi tạo ra việc làm trong những tháng nhàn rỗi sẽ
tăng thu nhập cho người nông dân, mở rộng thị trường trong nước cho các ngành
công nghiệp và dịch vụ. Khi thị trường lao động không còn dồi dào thì sản xuất
nông nghiệp sẽ chuyển dần sang cơ giới hoá để tăng năng suất lao động.
Như vậy, các lý thuyết phát triển kinh tế trên đều có điểm chung là đều
khẳng định sự phát triển kinh tế cần phải thông qua quá trình CDCCKT ngành. Sự
CDCCKT ngành bao giờ cũng bắt đầu từ khu vực sản xuất truyền thống của xã hội
là sản xuất nông nghiệp, theo quy luật tỷ trọng của sản xuất nông nghiệp trong cơ
cấu GDP giảm dần (mặc dù số tuyệt đối vẫn tăng lên), còn tỷ trọng của ngành
công nghiệp, thương mại - dịch vụ sẽ tăng dần (cả số tuyệt đối lẫn tương đối đều
tăng). Cơ cấu lao động cũng sẽ thay đổi phù hợp với xu hướng trên là tỷ trọng lao

động trong nông nghiệp giảm dần cả về số tương đối lẫn tuyệt đối, tỷ trọng lao


động trong các ngành công nghiệp và thương mại- dịch vụ tăng lên cả về số tương
đối lẫn tuyệt đối.
Do vậy, chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng
đối với việc chuyển dịch phát triển CCKT nông thôn nói riêng và cơ cấu kinh tế
quốc dân nói chung. Nó là xuất phát điểm của quá trình CDCCKT của mỗi quốc
gia.
Quá trình CDCCKTNT có những đặc điểm chung như sau:
1.2.1.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn bắt đầu từ sự chuyển dịch
của cơ cấu sản xuất nông nghiệp
Xét toàn bộ nền kinh tế quốc dân, quá trình phát triển của ngành nông
nghiệp đã dẫn đến chuyển dịch cơ cầu sản xuất nông nghiệp và thúc đẩy sự ra đời
và phát triển các ngành khác, đồng thời đây cũng là quá trình hội nhập của ngành
nông nghiệp vào toàn bộ nền kinh tế thông qua các quan hệ thị trường.
Nội dung cơ bản của chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp là quá
trình chuyển đổi nền nông nghiệp từ TT,TC sang nền SXHH, tức sang sản xuất
chuyên canh gắn với nhu cầu của thị trường. Quá trình này được chia thành ba
giai đoạn sau:
+ Giai đoạn một: Đó là nông nghiệp sinh tồn, quy mô nhỏ của nông dân
chiếm ưu thế. Cơ cấu nông nghiệp có tính thuần nông với mục tiêu sản xuất tự
cung, tự cấp mà chủ yếu là sản xuất lương thực.
+ Giai đoạn hai: Đặc trưng của giai đoạn này là quá trình đa dạng hoá sản
xuất nông nghiệp, nghĩa là ngoài sản xuất lương thực còn phát triển các cây trồng
khác và chăn nuôi. Một yếu tố quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp là việc áp dụng công nghệ mới của nông dân đã xuất hiện.
+ Giai đoạn ba: Đặc trưng chủ yếu của nền nông nghiệp trong giai đoạn này
là nền nông nghiệp thương mại, chuyên môn hoá với quy mô sản xuất lớn, với các
trang trại chuyên môn hoá cao.

Như vậy, quá trình CDCCKTNT gắn liền với sự chuyển dịch của cơ cấu
sản xuất nông nghiệp, mà điểm bắt đầu là từ sự chuyển dịch của cơ cấu sản xuất
nông nghiệp với ba giai đoạn như trên. Ba giai đoạn trên gắn liền với sự phát triển
của ngành công nghiệp và quá trình CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân.


1.2.1.2. Quá trình phát triển của sản xuất nông nghiệp thúc đẩy sự ra đời
và phát triển của các ngành phi nông nghiệp ở nông thôn
Quá trình CDCCKTNT diễn ra theo quy luật là tỷ trọng của ngành nông
nghiệp giảm xuống và tỷ trọng của các ngành phi nông nghiệp tăng lên trong cơ
cấu. Chính sự phát triển ngày càng đa dạng hoá trong sản xuất nông nghiệp là cơ
sở thúc đẩy CDCCKTNT. Khi năng suất lao động trong ngành nông nghiệp tăng
lên, ngoài hoạt động trồng trọt và chăn nuôi, con người đã tìm kiếm và làm thêm
nhiều công việc khác như phát triển nghề thủ công và đến một trình độ nhất định
đã tách thành một ngành sản xuất độc lập (tiền thân của CNNT ngày nay). Quá
trình phát triển của nông nghiệp và công nghiệp, đòi hỏi phải có sự trao đổi lẫn
nhau, do đó có một bộ phận dân cư tách khỏi sản xuất chuyển sang lĩnh vực lưu
thông trao đổi hàng hoá và hình thành ngành thương mại - dịch vụ ở nông thôn.
Như vậy, quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp đã thúc đẩy sự ra đời và
phát triển của các ngành phi nông nghiệp ở nông thôn. Đó cũng chính là quá trình
CDCCKTNT, đồng thời cũng là quá trình CNH, HĐH nông thôn. “Công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông thôn là quá trình CDCCKTNT theo hướng tăng nhanh tỷ
trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ
trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp …” [15, tr.93-94].
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng: sự phát triển của nông nghiệp chỉ là tiền đề,
điều kiện ban đầu cho sự phát triển các ngành phi nông nghiệp ở nông thôn mà
thôi, bởi sự phát triển của các ngành phi nông nghiệp ở nông thôn còn phụ thuộc
và chịu sự chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau như: tính đặc thù của từng địa
phương, từng quốc gia hay điều kiện tự nhiên, KT-XH khác chi phối. Do vậy
CDCCKTNT theo hướng tiến bộ hơn, đòi hỏi phải có nhân tố chủ quan của con

người tác động vào các nhân tố khách quan đó (cải biến điều kiện tự nhiên, KTXH).
Phát triển các ngành phi nông nghiệp ở nông thôn đã góp phần quan trọng
cho sự phát triển KTNT, tăng thu nhập, tạo việc làm cho lao động nông thôn. Điều
này càng có ý nghĩa hơn với điều kiện của Việt Nam khi bình quân đất nông
nghiệp thấp, lao động nông thôn dư thừa nhiều, công nghiệp đô thị chưa phát
triển…Thực tế cho thấy: Việc phát triển các ngành nghề ở nông thôn như là một


giải pháp hữu hiệu, ngăn chặn làn sóng di cư lao động từ nông thôn ra thành thị.
Song vấn đề cơ bản là cần phải xem xét kỷ khi lựa chọn phương án phát triển các
ngành phi nông nghiệp ở nông thôn, trong đó có CNNT phải hết sức thận trọng,
nhằm đảm bảo phát triển hài hoà giữa ba yếu tố: kinh tế, xã hội và môi trường sinh
thái, đó cũng chính là sự phát triển bền vững mà mỗi quốc gia đang hướng tới.
1.2.1.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn gắn liền với việc thay đổi
tổ chức sản xuất ở nông thôn, thay đổi mối quan hệ giữa các chủ thể kinh tế
trong sản xuất kinh doanh ở nông thôn, đặc biệt là mối quan hệ giữa hộ nông
dân với các chủ thể khác ở nông thôn
Về tổ chức sản xuất ở nông thôn phải theo hướng ngành chuyên sâu. Chẳng
hạn, trong sản xuất nông nghiệp, sau khi tách thành trồng trọt và chăn nuôi thì
hướng hoàn thiện của ngành sản xuất nông nghiệp là ngành trồng trọt giảm dần tỷ
trọng trong cơ cấu, còn ngành chăn nuôi tăng dần tỷ trọng, nhưng theo quy luật thì
số tuyệt đối của ngành trồng trọt lẫn ngành chăn nuôi đều phải tăng. Sự phát triển
tiếp theo là việc thay đổi cơ cấu cụ thể trong từng ngành. Trong ngành nông
nghiệp ngoài trồng cây lương thực, thực phẩm sẽ xuất hiện thêm những cây trồng
phù hợp với điều kiện từng vùng để đáp ứng nhu cầu của thị trường như cây công
nghiệp, cây ăn quả, cây dược liệu … hoặc sản phẩm mà thị trường không có nhu
cầu thì có thể sẽ không tồn tại trong cơ cấu sản xuất. Ngành chăn nuôi cũng sẽ
thay đổi theo hướng đó. Nói khác hơn, sự thay đổi tổ chức sản xuất ở nông thôn
theo hướng sản xuất gắn với thị trường.
Mối quan hệ giữa các chủ thể kinh tế trong sản xuất ở nông thôn được mở

rộng hơn, không còn bó hẹp ở địa bàn thôn, xóm mà đặt trong quan hệ kinh tế cả
với nước và thế giới, giao lưu học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong quá trình phát
triển, đặc biệt là sự phối hợp, sự hợp tác của bốn nhà: Nhà nước, nhà nông, nhà
khoa học và nhà doanh nghiệp, làm cho sản xuất có hiệu quả hơn.
1.2.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn và các nhân tố
ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
1.2.2.1. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn


Mỗi một quốc gia có những điều kiện tự nhiên, đặc điểm KT-XH khác
nhau, nhưng mọi quốc gia đều rất coi trọng việc phát triển sản xuất nông nghiệp
và KTNT trong mỗi bước đi của chiến lược phát triển KT-XH của mình. Có thể
khái quát lại, quá trình CDCCKTNT diễn ra theo các xu hướng sau đây:
- Một là: CDCCKTNT theo hướng phát triển SXHH.
Do nhiều yếu tố khác nhau chi phối nên sản xuất nông nghiệp và KTNT
thường mang tính chất TT,TC trong một thời gian khá dài. Song trong quá trình
phát triển KT-XH của các quốc gia, việc CDCCKTNT theo hướng phát triển
SXHH là tất yếu, do sự phát triển của LLSX và phân công lao động xã hội quyết
định.
Thực tiễn của nước ta cũng như nhiều nước cho thấy: Quá trình phát triển
của nền kinh tế đã thúc đẩy các ngành kinh tế ở khu vực nông thôn tăng dần tỷ
trọng sản phẩm hàng hoá để phục vụ cho nhu cầu của thị trường trong và ngoài
nước. Sản xuất nông nghiệp phát triển sẽ làm cho CCKT biến đổi, không chỉ đảm
bảo nhu cầu ngày càng tăng của bản thân ngành nông nghiệp mà còn đáp ứng nhu
cầu lương thực, thực phẩm của các ngành phi nông nghiệp ngày càng tăng trên cơ
sở các quan hệ hàng hóa - tiền tệ. Nông nghiệp sẽ cung cấp nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến, ngược lại nông nghiệp cần công nghiệp cung cấp máy móc, phân
bón, thuốc trừ sâu … chính sự tác động qua lại đó làm cho cơ cấu sản xuất trở nên
đa dạng hơn, tỷ suất hàng hoá ngày càng cao hơn, đặc biệt nền KTHH càng phát
triển cao càng đòi hỏi phải gắn bó hơn với nền kinh tế thế giới.

- Hai là: Chuyển nền nông nghiệp độc canh cây lúa sang đa canh.
Do yêu cầu của thị trường ngày càng đa dạng, nên sản xuất nông nghiệp
không thể chỉ tập trung sản xuất lương thực, mà phải đẩy mạnh sản xuất các cây
trồng, vật nuôi khác hết sức đa dạng. Hơn nữa xã hội càng phát triển, việc tiêu
dùng không chỉ có lương thực, mà còn cả thịt, cá, trứng, sữa, rau quả, các đồ
uống… do vậy việc độc canh cây lúa không còn phù hợp với nhu cầu của thị
trường trong hiện tại lẫn tương lai, tất yếu phải phá thế độc canh trong nông
nghiệp, đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi để tạo ra nhiều sản phẩm đáp ứng được
nhu cấu ngày càng tăng của xã hội [40, tr.51].


- Ba là: Cơ cấu KTNT chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH và phát triển
các ngành phi nông nghiệp.
Đi từ sản xuất nông nghiệp (sản xuất nhỏ) lên sản xuất công nghiệp (sản
xuất lớn) tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá. Ngày nay cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ đang bùng nổ, nên công nghiệp hoá tất yếu phải gắn liền với
cuộc cách mạng đó, có nghĩa là công nghiệp hoá phải gắn với hiện đại hoá. Chính
quá trình CNH, HĐH đã ảnh hưởng và chi phối rất lớn đến quá trình CDCCKT
nói chung và CCKT nông thôn nói riêng.
Theo quy luật, trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp từng bước
cũng sẽ tự hình thành cơ cấu của chính mình, nhưng tự nó vận động phát triển sẽ
rất chậm và mất khá nhiều thời gian. Do vậy, để việc hình thành CCKT một cách
hợp lý và có hiệu quả ở nông thôn cần phải có sự tác động, hỗ trợ của công
nghiệp. Bằng con đường CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn sẽ nhanh chóng tạo
thêm các ngành mới - phi nông nghiệp, đó là ngành công nghiệp và dịch vụ, từ đó
làm chuyển đổi KTNT từ thuần nông sang phát triển đa ngành: nông nghiệp - công
nghiệp - dịch vụ. Chính quá trình CNH, HĐH sẽ tác động mạnh mẽ đến CCKT
nông thôn, làm chuyển đổi cơ cấu giữa ngành nông nghiệp và công nghiệp; đồng
thời làm cho ngành dịch vụ dần được mở rộng và phát triển đáp ứng nhu cầu của
sản xuất và đời sống. Sự phát triển của KTNT với xu hướng ngành công nghiệp và

dịch vụ ngày càng tăng lên và tỷ trọng ngày càng lớn trong CCKT nông thôn thì
lao động nông nghiệp ngày càng giảm đi cả tương đối và tuyệt đối [54, tr.41].
Cùng với quá trình CNH, HĐH, phân công lao động xã hội ở nông thôn sẽ
diễn ra theo hướng hoà nhịp với sự CDCCKTNT. Nghĩa là sự phân công lao động xã
hội được diễn ra đồng thời từ trong nội bộ ngành nông nghiệp và cả khu vực nông
thôn. Từ cơ cấu sản xuất chủ yếu là lúa sang trồng lúa, màu, cây ăn quả, cây công
nghiệp, chăn nuôi … mở rộng ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và phát triển các dịch
vụ để phục vụ cho phát triển nông nghiệp và CNNT, đồng thời gắn kết sự giao lưu kinh
tế giữa nông thôn và thành thị.
Quá trình CNH, HĐH nông thôn làm cho CCKT nông thôn chuyển dịch
theo hướng: giảm tỷ trọng sản phẩm và lao động trong sản xuất nông nghiệp (số
lượng tuyệt đối của sản phẩm vẫn tăng, còn số lượng tuyệt đối và tương đối của


lao động giảm). Sự dịch chuyển ấy hoàn toàn phù hợp quy luật khách quan, phù
hợp quá trình CNH, HĐH nông thôn. Vì nông nghiệp là ngành sản xuất ra các sản
phẩm tiêu dùng thiết yếu cho xã hội, khi năng suất lao động tăng lên thì mới có
một bộ phận lao động dôi ra và chuyển sang làm những ngành phi nông nghiệp, do
vậy nếu không có kế hoạch hợp lý để phát triển các ngành phi nông nghiệp - công
nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, thì số lao động dôi dư này sẽ di chuyển ra đô thị đi
vào các khu công nghiệp tập trung và các trung tâm thương mại, từ đó rất dễ dẫn
đến thiếu lao động trong nông nghiệp, nông thôn, làm cho KTNT không phát triển
được.
Phát triển CNNT để khai thác nguồn nguyên liệu tại chỗ, phát triển các làng
nghề, thương mại - dịch vụ ở nông thôn nhằm giải quyết việc làm và tăng thu nhập
cho lao động ở nông thôn, thực hiện phương châm “ly nông nghiệp bất lý hương”
và tiểu công nghiệp hiện đại, thủ công nghiệp tinh xảo, từng bước xác lập CCKT
“nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ” trên địa bàn nông thôn, thúc đẩy phát triển
triển nền nông nghiệp sinh thái và tạo nên bộ mặt nông thôn mới theo diện mạo
của công nghiệp và đô thị.

- Bốn là: CDCCKTNT theo hướng phát triển triển kinh tế trang tại gia đình
và HTX.
Cùng với quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, CCKT nông thôn sẽ
chuyển dịch theo hướng xuất hiện ngày càng nhiều trang trại gia đình, các HTX kiểu
mới ngày càng tăng lên với nhiều hình thức đa dạng, tỷ trọng các DNNN giảm xuống.
Hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, tồn tại khách quan và phù hợp với đặc
thù của ngành nông nghiệp - ngành sản xuất gắn liền với quá trình sinh học, có vai
trò, vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển triển nông nghiệp và KTNT.
Trong những năm qua nhờ tập trung đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn, làm cho KTNT phát triển, đời sống dân cư nông thôn không ngừng
được cải thiện. Cùng với quá trình ấy, một bộ phận nông dân làm ăn giỏi mạnh
dạng mở rộng quy mô làm ăn, hình thành nhiều trang trại kinh tế gia đình, đây là
xu thế khách quan của quá trình CDCCKTNT từ thuần nông sang sản xuất và kinh
doanh đa dạng, tổng hợp.


Trong quá trình phát triển, KTNT tất yếu phải có những hình thức kinh tế
hợp tác thích hợp (nồng cốt là các HTX), những HTX trước đây hình thành không
phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong KTNT, sẽ tự tiêu vong và những
chỗ cho những HTX kiểu mới ra đời và phát triển ngày càng tăng về tỷ trọng và đa
dạng về hình thức.
Kinh tế tập thể phát triển dưới nhiều hình thức hợp tác rất đa dạng, trong đó
nồng cốt là các HTX, HTX hoạt động ở những khâu mà hộ gia đình không có khả
năng làm, hoặc làm kém hiếu quả. Sự hình thành và hoạt động có hiệu quả của các
HTX trong các ngành nghề ở nông thôn, sẽ góp phần tích cực vào việc giải quyết
những vấn đề sản xuất và đời sống cho dân cư nông thôn, góp phần thúc đẩy KTXH nông thôn phát triển.
Ngày nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang bùng nổ, cùng với
sự hội nhập ngày càng sâu của nền kinh tế nước ta vào kinh tế thế giới, đòi hỏi bộ
phận nông dân cá thể, sản xuất manh mún, nhỏ lẽ phải hợp tác lại với nhau để tồn
tại và phát triển; việc ứng dụng những công nghệ hiện đại mang lại hiệu quả kinh

tế rất cao, nhưng từng hộ nông dân sản xuất nhỏ khó có khả năng về vốn để trang
bị những thiết bị máy móc, công nghệ hiện đại, cũng như quản lý và sử dụng
những công nghệ ấy, mà cần có sự hợp tác, liên kết tạo ra sức mạnh mới cho sự
phát triển. Hơn nữa sự cạnh tranh ngày nay mang tính quốc tế, do tính khắc khe
của thị trường đòi hỏi đối với từng sản phẩm ngày càng cao, buộc các hộ nâng dân
phải hợp tác để tăng sức cạnh tranh của sản phẩm. Sự hợp tác có thể diễn ra giữa
các trang trại với nhau, giữa các trang trại với các hộ nông dân, hoặc giữa những hộ
nông dân với nhau, để cùng tháo gỡ những khó khăn trong quá trình hoạt động
SXKD. Do vậy, mà kinh tế tập thể không ngừng lớn mạnh cả về số lượng lẫn chất
lượng.
Bên cạnh đó, cũng xuất hiện sự liên kết giữa kinh tế tư nhân với KTNN
hoặc với các thành phần kinh tế khác ở nông thôn dưới nhiều hình thức khác nhau,
để khai thác và sử dụng tốt các tiềm năng về đất đai, rừng, mặt nước, lao động trên
địa bàn nông thôn.


Các danh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp tồn tại trong một thời kỳ dài với tỷ
trọng lớn, nhưng hoạt động không có hiệu quả, cần phải được tổ chức lại, với nhiều biện
pháp như: giải thể, sát nhập, đổi mới để tăng cường khả năng cạnh tranh, kinh doanh có
hiệu quả, hỗ trợ tốt hơn yêu cầu của sản xuất, chế biến, các dịch vụ kinh tế - kỹ thuật mà
từng hộ nông dân, trang trại và các HTX không thể tự đảm đương được [25, tr.27].
- Năm là: CDCCKTNT theo hướng ngày càng kết hợp chặt chẽ giữa CCKT
trong nước với nhu cầu thị trường nước ngoài.
Thời đại ngày nay là thời đại toàn cầu hoá, mà trước hết là toàn cầu hoá về
kinh tế. Nó buộc các nước có nấc thang kinh tế khác nhau phải mở cửa thị trường để
hội nhập, trên cơ sở đó các nước khai thác tối đa lợi thế so sánh để phát triển. Chính
là vậy, quá trình CDCCKT nói chung và CCKT nông thôn nói riêng phải kết hợp chặt
chẽ với nhu cầu của thị trường thế giới là một yêu cầu khách quan của thời đại. Cơ
cấu KTNT chuyển dịch theo xu hướng đó sẽ từng bước thúc đẩy KTNT phát triển
theo hướng SXHH ở trình độ ngày nay cao hơn, chẳng những đáp ứng nhu cầu trong

nước mà còn đáp ứng nhu cầu cho cả thị trường nước ngoài, từng bước đưa KTNT
nước ta hội nhập vào thị trường thế giới thông qua xuất khẩu những sản phẩm của
nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt là những sản phẩm mang tính đặc thù của địa
phương.
1.2.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn
Quá trình hình thành và phát triển của CCKT nông thôn chịu sự tác động chi
phối của nhiều nhân tố khác nhau, điều kiện tự nhiên và KT-XH có vai trò vào tác
động to lớn đến việc hình thành và phát triển của CCKT nông thôn. Do vậy, việc
nghiên cứu vai trò và tác động của từng nhân tố có ý nghĩa rất quan trọng, nhầm phát
triển huy những nhân tố tích cực và hạn chế những nhân tố kìm hãm để đẩy nhanh
quá trình CDCCKTNT nước ta theo hướng tiến bộ hơn.
- Một là: những nhân tố về điều kiện tự nhiên:
Nhân tố tự nhiên (điều kiện tự nhiên) bao gồm: vị trí địa lý, khí hậu, thời
tiết, hệ sinh thái, nước, đất đai, rừng, biển, tài nguyên khoáng sản khác… có ảnh
hưởng đến sự hình thành vận động và biến đổi của CCKT nông thôn. Sự tác động
và ảnh hưởng của các nhân tố tự nhiên tới nội dung của CCKT nông thôn không


giống nhau. Trong các nội dung của CCKT nông thôn, thì cơ cấu các ngành và cơ
cấu vùng chịu ảnh hưởng nhiều bởi nhân tố tự nhiên, còn cơ cấu thành phần kinh
tế thường chịu ít hơn. Các nhân tố đất đai, thời tiết, khí hậu, vị trí địa lý có ảnh
hưởng trực tiếp đến sự phát triển của nông nghiệp. Bởi vì nông - lâm - thuỷ sản là
ngành sản xuất mà đối tượng của nó là thế giới sinh vật, qua đó sẽ ảnh hưởng tới
sự phát triển triển của các ngành khác trong CCKT nông thôn.
Mỗi quốc gia, mỗi vùng có vị trí địa lý khác nhau, do đó điều kiện tự nhiên
cũng khác nhau, từ đó dẫn đến sự khác nhau từ quy mô, số lượng các ngành kinh tế
trong nông thôn, đặc biệt là ngành nông nghiệp chịu ảnh hưởng trực tiếp của các
điều kiện tự nhiên. Sự khác nhau về điều kiện tự nhiên giữa các vùng, làm cho quy
mô, số lượng của các ngành giữa các vùng cũng khác nhau và chính sự khác nhau

về quy mô, số lượng của các ngành sẽ dẫn đến sự khác nhau về cơ cấu ngành giữa
các vùng.
Do vị trí địa lý khác nhau, làm cho điều kiện tự nhiên cũng khác nhau. Mỗi
một vùng có những điều kiện tự nhiên thuận lợi riêng, cho phép phát triển một số
ngành sản xuất, tạo ra những lợi thế so với các vùng khác của đất nước. Đây là cơ
sở tự nhiên để hình thành các vùng kinh tế nói chung và KTNT nói riêng. Các loại
vùng này được hình thành do phân công lao động xã hội theo lãnh thổ, thông qua
bố trí các ngành sản xuất trên các vùng lãnh thổ hợp lý để khai thác các tìm năng
và lợi thế riêng của từng vùng.
Xu hướng phát triển vùng KTNT hiện nay là đi sâu vào chuyên môn hoá,
tập trung sản xuất nông - lâm - thủy sản để từng bước hình thành các vùng trọng
điểm SXHH nông - lâm - thủy sản quy mô lớn có hiệu quả kinh tế cao, từ đó tạo
điều kiện cho sự phát triển công nghiệp và dịch vụ trên từng địa bàn theo hướng
chuyên môn hoá cao.
Ngoài ra các điều kiện tự nhiên còn ảnh hưởng và tác động tới cơ cấu các
thành phần kinh tế ở nông thôn. Vị trí địa lý thuận lợi và các tài nguyên thiên
nhiên phong phú của mỗi vùng là điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế
phát triển. Nhưng tốc độ phát triển của mỗi thành phần kinh tế ở nông thôn nhanh
hay chậm còn chịu sự chi phối của nhiều yếu tố khác nữa.


Tóm lại: CCKT nông thôn, nhất là cơ cấu sản xuất nông nghiệp chịu sự ảnh
hưởng rất lớn của điều kiện tự nhiên. Điều kiện tự nhiên là một cơ sở quan trọng
để xác định CCKT nông thôn phù hợp với điều kiện của từng vùng. Song với cuộc
cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại như ngày nay; đặc biệt là công nghệ sinh
học, con người có thể từng bước cải tạo điều kiện tự nhiên cho phù hợp với mục
đích sử dụng của mình, nghĩa là vai trò của điều kiện tự nhiên trong việc hình
thành CCKT nông thôn ngày càng giảm đi, con người càng hạn chế được những
tác động tiêu cực của điều kiện tự nhiên đối với sản xuất nông nghiệp hoặc con
người lợi dụng điều kiện tự nhiên mà tạo ra những giống cây, con mới có năng

suất cao, phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng, bắt tự nhiên phụ thuộc và
phục vụ cho con người.
- Hai là: Những nhân tố về KT-XH.
+ Thứ nhất: Nhân tố thị trường
Trong kinh tế thị trường, thị trường vừa là căn cứ vừa là đối tượng của kế
hoạch SXKD của các doanh nghiệp, tức sản xuất cái gì? sản xuất cho ai? Và sản
xuất như thế nào? là phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường.
Thị trường không chỉ phản ánh và phụ thuộc vào trình độ phát triển của nền
SXHH, mà bản thân nó lại là nhân tố kích thích, là động lực thúc đẩy sản xuất phát
triển, thúc đẩy các chủ thể kinh doanh không ngừng đổi mới kỹ thuật - công nghệ
và tổ chức quản lý để giành ưu thế cạnh tranh trên thị trường. Thị trường cũng có
tác động điều tiết các quan hệ kinh tế, góp phần vào việc phân bố tư liệu sản xuất
và sức lao động giữa các ngành, các vùng, hình thành những cân đối kinh tế khách
quan trong quá trình phát triển [41, tr.22].
Như vậy, trong nền KTHH, nhân tố thị trường có vai trò quyết định tới sự
phát triển triển kinh tế, sự hình thành và biến đổi CCKT nói chung và CCKT nông
thôn nói riêng.
C.Mác chỉ rõ: “Khi thị trường, nghĩa là lĩnh vực trao đổi rộng ra thì quy mô
sản xuất cũng tăng lên và sự phân công trong sản xuất cũng biến đổi theo” [35,
tr.876].
Trong nền SXHH, người ta chỉ sản xuất và đem ra thị trường bán những sản
phẩm mà họ cảm thấy chúng đem lại lợi nhuận thoả đáng. Do vậy, thông qua quan


hệ cung - cầu trên thị trường, mà tín hiệu của nó chính là giá cả thị trường sẽ tác
động đến người sản xuất nên mở rộng hay thu hẹp quy mô sản xuất.
Xã hội càng phát triển triển, nhu cầu tiêu dùng của con người ngày càng
cao và đa dạng, nó đòi hỏi thị trường phải đáp ứng cho được nhu cầu đó. Điều này
quy định sự cần thiết phải CDCCKTNT theo hướng phù hợp với xu hướng biến
động và phát triển của nhu cầu thị trường. Ngoài nhu cầu về lương thực, thì các

nhu cầu về thịt, cá, trứng, sữa, rau quả, thức uống … có xu hướng tăng lên, sẽ tác
động đến cơ cấu cây trồng (tăng sản lượng lương thực phục vụ chăn nuôi, tăng
trồng cây màu lương thực như: khoai lang, đậu nành, bắp …, phát triển các vườn
cây ăn quả, mở rộng các vùng sản xuất rau, đậu …) phát triển đàn gia súc, gia
cầm, từ đó làm tăng nhu cầu về các loại hình dịch vụ ở nông thôn. Nhu cầu đời
sống con người còn đòi hỏi nhiều sản phẩm ngoài nông nghiệp, tất yếu một bộ
phận lao động nông nghiệp sẽ chuyển sang làm nghề khác, khôi phục và phát triển
triển các làng nghề truyền thống, phát triển tiểu thủ công nghiệp … Như vậy, thị
trường đã tác động đến CCKT nông thôn làm chuyển đổi nền nông nghiệp độc
canh, thuần nông sang đa canh, mở rộng ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn [25,
tr.34].
Nói cách khác CCKT nông thôn được hình thành và biến đổi theo tiến gọi
của thị trường, hay nhu cầu của thị trường là một trong những nhân tố quyết định
sự hình thành và biến đổi của CCKT nông thôn.
Bên cạnh đó, bản thân nền kinh tế thị trường cũng chứa đựng những tiêu
cực tác động đến sản xuất, tín hiệu của thị trường chính là giá cả của thị trường,
mà giá cả thị trường trong nước và thế giới luôn biến động, không dự báo được
nhu cầu dài hạn để hướng dẫn lựa chọn CDCCKT nông nghiệp một cách hợp lý,
dẫn đến vòng lẩn quẩn “ trồng” rồi lại “chặt” ở một số cây trồng, làm kìm hãm sự
CDCCKTNT, KTNT chậm phát triển triển.
Như vậy bản thân thị trường cũng chứa đựng những mặt tích cực, lẫn tiêu
cực và đồng thời tác động đến sản xuất, ảnh hưởng đến CCKT nông thôn. Để quá
trình CDCCKTNT có hiệu quả, cần phát triển huy tối đa mặt tích cực của thị
trường, đồng thời tìm ra những giải pháp hữu hiệu ổn định sản xuất, hạn chế tối đa


mặt tiêu cực của nó, làm được điều đó sản xuất sẽ ổn định và KTNT không ngừng
phát triển.
+ Thứ hai: Nhân tố khoa học và công nghệ:
Ngày nay khoa học và công nghệ trở thành LLSX trực tiếp, nó có vai trò to

lớn đối với sự biến đổi của CCKT nói chung và CCKT nông thôn nói riêng, đặc
biệt là quá trình CDCCKTNT. Việc phát triển khoa học và công nghệ cùng với
khả năng ứng dụng chúng vào sản xuất nông nghiệp, nông thôn sẽ làm thay đổi
chất lượng, năng suất và hiệu quả SXKD. Đặc biệt quá trình CNH, HĐH đang tạo
ra sự chuyển biến cách mạng trong lĩnh vực nông nghiệp, nổi bật là việc tạo ra các
giống cây trồng, vật nuôi mới có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao hơn. Đây
chính là động lực tạo nên sự phát triển mạnh mẽ KT-XH nông thôn [28, tr.9].
Nhờ ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ đặc biệt là công nghệ
sinh học trong sản xuất như tạo ra giống cây, con mới, công nghệ chế biến vào bảo
quản nông sản hàng hoá … sẽ làm thay đổi cơ cấu sản xuất, thực hiện phân công
lại lao động xã hội ở nông thôn, tạo thêm nhiều ngành nghề mới, giải quyết việc
làm ở nông thôn. Chính sự tác động của khoa học, công nghệ sẽ thúc đẩy quá trình
đa dạng hoá cơ cấu sản xuất nông nghiệp, hình thành nhiều ngành nghề phi nông
nghiệp ở nông thôn, làm biến đổi CCKT nông thôn theo hướng hiện đại và có hiệu
quả hơn.
+ Thứ ba: Nhân tố con người ( nguồn lao động)
Nguồn lao động là một bộ phận của dân số, trong độ tuổi quy định, thực tế
có tham gia lao động và những người không có việc làm đang tích cực tìm kiếm
việc làm. Đây là nhân tố quyết định trong việc hình thành và biến đổi CCKT nông
thôn.
Cơ cấu kinh tế mang tính khách quan, nhưng sự hình thành và biến đổi
nhanh hay chậm, hợp lý hay không hợp lý lại do tác động của con người. Chính
con người tạo ra những điều kiện cần thiết thúc đẩy sự hoàn thiện và CDCCKT
nói chung và CCKT nông thôn nói riêng. Do vậy CCKT hoàn thiện đến đâu,
CCKT nông thôn chuyển dịch nhanh hay chậm phụ thuộc vào trình độ học vấn,
trình độ chuyên môn kỹ thuật của con người.


×