Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Tìm hiểu sự mở rộng và hiểu biết vốn từ ngữ miêu tả cho HSTS thông qua các dạng bài văn miêu tả lớp 4, lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (553.14 KB, 84 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Môn Tiếng Việt cung cấp cho học sinh những kỹ năng sử dụng Tiếng
Việt và qua đó các em nắm bắt được những kiến thức cơ bản về ngôn ngữ
Tiếng Việt. Điều HSTH thấy khó nhất là làm thế nào cảm nhận được một
đoạn văn, đoạn thơ; nhận ra cái hay, cái đẹp trong đoạn văn,đoạn thơ và làm
thế nào để có thể viết được một bài văn hay. Thực tế cho thấy, cảm thụ được
đoạn văn, đoạn thơ; viết được bài văn hay không phải là việc mà học sinh
không thể làm được. Điều quan trọng là các em phải chuẩn bị những gì.
Môn Tiếng Việt được chia làm nhiều phân môn: tập đọc, chính tả, kể
chuyện, tập làm văn, luyện tử và câu. Mỗi môn có những đặc trưng riêng,
nhưng có cùng một mục đích là dạy cho học sinh nắm vững Tiếng Việt. Muốn
nắm vững Tiếng Việt thì trước hết phải quan tâm đến việc dạy từ. Bởi ngôn
ngữ là công cụ nhận thức, công cụ tư duy và là phương tiện giao tiếp quan
trọng nhất của con người. Ta có thể nói nếu không có ngôn ngữ thì con người
không có xã hội. Trong ngôn ngữ, từ là cái quan trọng nhất. Đó là vật liệu
trực tiếp để tạo ý, tạo lời và tạo câu.Con người nếu không có một vốn từ đầy
đủ thì không thể nắm ngôn ngữ như một phương tiện giao tiếp.Vì thế,việc
phát triển vốn từ cho HSTH là một việc đặc biệt được coi trọng trong nội
dung giáo dục.
Con người muốn tư duy phải có ngôn ngữ, năng lực ngôn ngữ lại không
phải là bẩm sinh, di truyền. Việc phát triển vốn từ cho học sinh cần phải được
triển khai ở tất cả các phân môn của Tiếng Việt. Vì vậy, chúng tôi khẳng định

1


đề tài: “ TÌM HIỂU SỰ MỞ RỘNG VÀ HIỂU BIẾT VỐN TỪ NGỮ
MIÊU TẢ CHO HSTH THÔNG QUA CÁC DẠNG BÀI VĂN MIÊU TẢ
LỚP 4, LỚP 5” là một đề tài mang tính cấp thiết.
2. Lịch sử vấn đề


Nhìn chung, tình hình nghiên nghiên cứu về việc dạy từ ngữ ở Tiểu học
trong những năm 50, 60 của thế kỷ trước còn rất ít vì cả dân tộc đang tập
trung vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Tuy ít, nhưng đã có một số công
trình nghiên cứu tương đối có hệ thống về dạy từ ngữ ở Tiểu học. Tiêu biểu
có tác giả Trịnh Mạnh với cuốn: “ Nghiên cứu vấn đề dạy từ ngữ ở cấp I
( Nhà xuất bản Giáo dục – Hà Nội 1967). Đây là một công trình nghiên cứu
với thành công lớn và đã trở thành tài liệu đã giúp ích không nhỏ cho việc dạy
học về từ ngữ trong suốt những quãng thời gian sau này
Hiện nay, việc mở rộng vốn từ cho HSTH là một việc làm quan trọng,
cần thiết, vì thế đã có nhiều đề tài khoa học, nhiều bài viết đề cập đến vấn đề
này. Tuy nhiên, việc mở rộng vốn từ cho HSTH hầu hết được mọi người tập
trung chú ý đến ở phân môn luyện từ và câu. Có nhiều đề tài tập trung vào
việc mở rộng vốn từ cho học sinh theo các chủ đề, có những đề tài lại đi sâu
vào các dạng bài tập luyện từ và câu theo từng chủ đề đó. Hay một số tác giả
còn đi sâu vào nghiên cứu các phương pháp phù hợp với việc dạy học phân
môn luyện từ và câu… Nhưng đa số các đề tài này đều được xếp ở mức chưa
thành công, còn nhiều hạn chế. Vấn đề về vốn từ ngữ cũng được nhiều người
nghiên cứu với phân môn tập đọc hay kể chuyện và đã thu được những thành
công đáng kể. Những công trình nghiên cứu này đã đem lại lợi ích không nhỏ
cho vệc dạy và học nhưng phân môn còn lại của bộ môn Tiếng Việt. Bên
cạnh đó ở phân môn tập làm văn có dạng văn miêu tả chứa một số lượng lớn
vốn từ miêu tả lại không thấy mấy ai chú ý đến. Thông qua các dạng bài văn
miêu tả, chúng ta có thể tìm hiểu vốn từ ngữ miêu tả của học sinh và tìm hiểu

2


về sự mở rộng vốn từ này cho các em. Đây là một vấn đề chưa được ai đi sâu
vào tìm hiểu.


3.Mục đích yêu cầu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở tìm hiểu phương pháp dạy học Tiếng Việt hiện hành ( đặc
biệt là phương pháp dạy học phân môn luyện từ và câu và phân môn tập làm
văn ở Tiểu học) , tìm hiểu về đặc trưng của hai phân môn này.Đề tài đi sâu
vào việc khảo sát sự hiểu biết về vốn từ ngữ miêu tả của HSTH và tìm hiểu sự
mở rộng vốn từ này thông qua các dạng bài văn miêu tả ở phân môn tập làm
văn trong chương trình môn Tiếng Việt Tiểu học hiện hành.
3.2. Yêu cầu
- Đọc các lý thuyết có liên quan tới tên đề tài.
- Thu thập tư liệu từ thực tế của học sinh.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành đề tài, chúng tôi sử dụng các phương pháp:
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp tổng hợp.
Quá trình được tiến hành như sau:
Đầu tiên, tôi đọc lý luận về vấn đề này, nghiên cứu lý thuyết và thực
tiễn dạy học luyện từ và câu và dạy học tập làm văn ở Tiểu học. Sau đó tôi
vận dụng phương pháp điều tra để khảo sát thực tế, thu thập tư liệu, lên mẫu
thống kê để phân tích và xử lý tư liệu và tiến hành viết khóa luận.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu

3


Các đơn vị từ được dùng miêu tả trong các kiểu bài văn miêu tả.


5.2. Phạm vi nghiên cứu
Việc dạy từ ngữ và mở rộng vốn từ ngữ đều được tiến hành ở tất cả các
phân môn Tiếng Việt.Vì vậy, đề tài lẽ ra cần được triển khai ở tất cả các phân
môn tiếng Việt và ở tất cả các lớp trong bậc tiểu học. Nhưng do thời gian và
năng lực còn hạn hẹp nên đề tài chỉ được tiến hành nghiên cứu với các dạng
bài văn miêu tả lớp 4, lớp 5.
6. Cấu trúc của đề tài
Đề tài gồm 3 phần:
A. Phần mở đầu
B. Phần nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn.
Chương 2: Phân tích và miêu tả kết quả tìm hiểu sự mở rộng vốn từ ngữ
miêu tả cho HSTH thông qua các dạng bài văn miêu tả lớp 4, lớp 5.
C. Phần kết luận.

4


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1.1. Khái niệm từ
Từ là đơn vị có sẵn trong ngôn ngữ. Từ là đơn vị ngôn ngữ, cấu tạo ổn
định, mang nghĩa hoàn chỉnh, được dùng để cấu thành nên câu. Từ có thể làm
tên gọi của sự vật (danh từ), chỉ các hoạt động (động từ), trạng thái, tính chất
(tính từ)… Từ là công cụ biểu thị khái niệm của con người đối với hiện thực.
Trong ngôn ngữ học, từ là đối tượng nghiên cức của nhiều cấp độ khác
nhau, như cấu tạo từ, hình thái học, ngữ âm học, cú pháp học.
1.1.1.2. Khái niệm trường từ vựng

Trường từ vựng là một tập hợp từ vựng dựa vào sự đồng nhất ở một nét
nghĩa nào đó. Các từ trong một trường nghĩa luôn luôn có quan hệ ý nghĩa với
nhau. Mỗi trường là một tiểu hệ thống ngữ nghĩa nằm trong hệ thống lớn là từ
vựng của ngôn ngữ.
1.1.1.3. Khái niệm từ miêu tả
Từ miêu tả là từ được dùng để tả sự vật hiện tượng một cách sinh động,
cụ thể. Nó là công cụ giúp con người tái hiện, sao chép lại hình ảnh, chân
dung của đối tượng miêu tả và những đặc điểm nổi bật cả về hình dáng bên
ngoài lẫn phẩm chất bên trong của một sự vật hay hiện tượng nào đó.
1.1.1.4. Khái niệm văn miêu tả
Miêu tả là một loại văn dùng để tả sự vật,hiện tượng một cách sinh
động,cụ thể. Trong từ điển Hán Việt, Đào Duy Anh khẳng định: “Miêu tả là

5


lấy nét vẽ hoặc câu văn để biểu hiện cái chân tướng của sự vật ra”. Văn miêu
tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của cảnh, cuả người, giúp người
đọc, người nghe có thể hình dung ra một cách cụ thể các đối tượng ấy.
Nói tóm lại, văn miêu tả là một thể loại văn mà trong đó người viết
dùng ngôn ngữ và cách diễn đạt có tính chất nghệ thuật của mình để tái hiện,
sao chép lại hình ảnh, chân dung của đối tượng miêu tả và những đặc điểm
nổi bật cả về hình dáng bên ngoài lẫn phẩm chất bên trong giúp người đọc
cảm nhận về đối tượng như tiếp cận đối tượng bằng chính các giác quan cụ
thể của mình.
1.1.2. Những vấn đề chung
1.1.2.1. Đặc điểm của văn miêu tả
Văn miêu tả là một loại sáng tác nghệ thuật:
Bài văn miêu tả được xây dựng trên cơ sở của việc tái hiện lại hiện thực
khách quan thông qua sự cảm nhận trực tiếp của các giác quan từ người viết.

Việc tái hiện dựa vào những hình ảnh, những ấn tượng về đối tượng miêu tả
thông qua nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ một cách sinh động, sáng tạo của
người miêu tả.
Văn miêu tả nhằm hướng học sinh biết cách nhận thức cuộc sống và thể
hiện cuộc sống bằng ngôn từ:
Làm văn miêu tả là nhận thức thế giới, khám phá, phát hiện từ đối
tượng miêu tả những nét đẹp, nét đáng yêu, những cái mới lạ, độc đáo. Vì
vậy, dạy văn miêu tả là bồi dưỡng cho các em tâm hồn, cảm xúc và dạy các
em tích lũy vốn sống, vốn hiểu biết về cuộc sống; biết cảm thụ và rung động
trước cái đẹp, cái đáng yêu của đối tượng miêu tả. Đó chính là dạy các em
nhận thức thế giới.
Văn miêu tả mang tính thông báo, thẩm mĩ, chứa đựng tình cảm của
người viết:

6


Có thể nói, hầu như bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào trong đời sống
cũng có thể trở thành đối tượng của văn miêu tả. Ví dụ: một cái đồng hồ,một
con gà, một cái cặp… Tất cả đều có thể trở thành đề tài đầy thú vị với cây bút
miêu tả.
Trong khoa học cũng có miêu tả nhưng đó là sự miêu tả một cách lạ kỳ,
khách quan nhằm mục đích nhận thức trí tuệ. Loại văn này gạt bỏ những cảm
xúc cá nhân, riêng tư của cá nhân người viết. Trong khi đó, những đặc điểm
riêng của đối tượng, những cảm xúc cá nhân chứa đựng những tâm trạng của
người viết là nội dung chính của bài văn miêu tả. Đối tượng của bài văn miêu
tả luôn được người viết nhìn cặn kẽ, chi tiết trong quá trình vận động. Nó có
thể là những đối tượng vô hình như âm thanh, tiếng động, hương vị… hay tư
tưởng, tình cảm riêng tư, thầm kín của con người. Bài văn miêu tả bao giờ
cũng chứa đựng những tâm tư, tình cảm, thái độ yêu ghét hay những ý kiến

đóng góp, bình luận của người viết.
Một bài văn miêu tả bao giờ cùng là sự gắn bó hòa quyện giữa cảm xúc
chủ quan của người viết với thiên nhiên, với hiện thực khách quan.
Khi miêu tả hình ảnh của một đối tượng viết phải huy động và lựa chọn
vốn kiến thức của mình về ngôn ngữ sao cho cảnh vật, con người hiện lên nổi
bật cụ thể, sinh động để giúp người đọc có cảm giác mình đang ngắm nhìn, sờ
mó, chứng kiến các sự vật hiện tượng bằng chính những giác quan cụ thể của
mình.Bởi vậy, yêu cầu đặt ra với người viết là phải biết gạt bỏ những chi tiết
thực sự không cần thiết, không có sức gợi tả gợi cản. Từ đó chọn lọc những
chi tiết nổi bật, gây ấn tượng mạnh mẽ, không dập khuân,máy móc, bắt chước
để đưa vào bài văn những chi tiết dườm dà,theo kiểu liệt kê đơn điệu.
Ngôn ngữ trong văn miêu tả luôn mang tính nghệ thuật, bao giờ cũng là
ngôn ngữ giàu cảm xúc, hình ảnh, có khả năng gợi lên sự liên tưởng, tưởng

7


tượng. Chính vì kiểu ngôn ngữ này đã làm cho văn miêu tả khác với các loại
văn vản khác. Đặc biệt là văn bản khoa học.
1.1.2.2. Các kiểu bài văn miêu tả ở tiểu học
Căn cứ vào đối tượng miêu tả, người ta chia văn miêu tả thành nhiều
kiểu bài. Ở Tiểu học hiện nay, học sinh được học 5 kiểu bài:
1. Tả đồ vật

4. Tả người

2. Tả cây cối

5. Tả cảnh


3. Tả loài vật
Song để có được bài văn miêu tả hay ở bất cứ kiểu miêu tả nào đòi hỏi
người viết phải xác định rõ được đối tượng và phải có sự lựa chọn, gọt giũa
miêu tả.
Về đối tượng miêu tả: Xuất phát từ vốn hiểu biết của HSTH mà đối
tượng miêu tả đưa ra cho các em đều đơn giản, gần gũi,thân thuộc với các em.
Về ngôn ngữ miêu tả: Văn miêu tả thường sử dụng số lượng lớn các
tính từ, động từ,các từ tượng thanh, từ tượng hình và các phép tu từ. Tùy vào
từng kiểu bài mà người viết lựa chọn, sử dụng từ ngữ cho phù hợp.
1.1.2.3 Những yêu cầu cơ bản của bài văn miêu tả và việc dạy học văn miêu tả
Bài văn miêu tả phải đảm bảo được tính chính xác, chân thực trong việc
tái hiện hình ảnh của các sự vật hiện tượng. Việc tái hiện ấy đòi hỏi phải sinh
động, cụ thể và có sáng tạo. Bài văn miêu tả bắt nguồn từ sự quan sát trực tiếp
đối tượng miêu tả kết hợ với kinh nghiệm sống và trí tưởng tượng, liên tưởng
của người miêu tả. phải thể hiện được hình ảnh, cảm xúc thực của người viết
với đối tượng miêu tả.
Chủ thể miêu tả phải chọn lọc được từ ngữ có sức biểu cảm cao độ. Bài
văn miêu tả muốn thành công, người viết phải huy động vốn kiến thức của
mình về ngôn ngữ để “tô điểm” cho đối tượng. Tuy vậy, việc “tô điểm” phải
đảm bảo cho các sự vật, hiện tượng, con người hiện lên sinh động, cụ thể như

8


đời sống thực qua từng trang miêu tả là điều không đơn giản. Để người đọc có
cảm giác như đang được trực tiếp nghe thấy, nhìn thấy, sờ nắm được các sự
vật hiện tượng thì khi làm văn miêu tả, yêu cầu đặt ra với chủ thể miêu tả là
phải tạo ra được tính chính xác, sinh động, tạo hình cho bài văn.
Từ những yêu cầu này, muốn miêu tả được đối tượng, người làm văn
phải có một quá trình lao động công phu từ quan sát đối tượng, chọn lọc ý và

diễn đạt ngôn ngữ giàu hình ảnh, sinh động. Từ đó giúp người đọc có thể hình
dung, tưởng tượng ra hình ảnh của đối tượng miêu tả như đang được “nhìn tận
mắt, bắt tận tay”.
Để giúp các em học sinh đáp ứng được những yêu cầu trên, trong quá
trình dạy học người giáo viên không chỉ rèn cho học sinh kỹ năng làm bài mà
còn phải cung cấp cho học sinh tri thức về cuộc sống, bồi dưỡng về tâm hồn
và cảm xúc cho các em. Đặc biệt cần tạo điều kiện cho học sinh có được vốn
ngôn ngữ phong phú, khả năng tư duy, tưởng tượng, sáng tạo cao. Thiếu một
trong các yếu tố trên, học sinh không thể viết được một bài văn miêu tả hay,
sinh động, cuốn hút người đọc.
1.1.3. Chủ đề ngữ nghĩa hay các trường từ vựng
“Cấu tạo từ trước hết là cấu tạo hàng loạt các từ giống nhau về ngữ
nghĩa (và khác với hàng loạt các từ khác nhau về ngữ nghĩa) cho nên phải lấy
chữ nghĩa làm tiêu chí hàng đầu để tiến hành phân loại ”
F.D.Saussure trong “Giáo trình ngôn ngữ học đại cương” đã chỉ ra hai
dạng quan hệ chung nhất của ngôn ngữ là quan hệ ngang và quan hệ dọc.
Theo hai dạng quan hệ đó có hai loại trường nghĩa. Trường nghĩa ngang
(trường nghĩa tuyến tính) và trường nghĩa dọc (trường nghĩa trực tuyến)
Trường nghĩa dọc lại lại gồm có: Trường nghũa biểu vật và trường
nghĩa biểu niệm.

9


1.1.3.1. Trường nghĩa biểu vật
Trường nghĩa biểu vật là sự tập hợp các từ biểu thị một ý nghĩa chung
về một sự vật hiện tượng. Các từ trong trường biểu vật đồng nhất với nhau về
mặt ý nghĩa.
Muốn xác lập một trường biểu vật người ta dựa vào ý nghĩa biểu vật
của từ. Trước hết, chọn một danh từ có ý nghĩa biểu vật khái quát (tên gọi của

danh từ chính là ý nghĩa biểu vật) làm tiêu chí để tập hợp (từ trung tâm). Sau
đó tìm những từ ngữ có cùng ý nghĩa biểu vật với danh từ đã chọn làm tiêu
chí, cuối cùng sắp xếp các từ đó vào trong trường.
Đối với HSTH có thể gợi cho các em lập một số trường biểu vật gần
gũi với lứa tuổi các em.
1.1.3.2. Trường nghĩa biểu niệm
Trường nghĩa biểu niệm là sự tập hợp các từ dựa trên ý nghĩa biểu
niệm, ý nghĩa biểu niệm là hệ thống các nét nghĩa.
Tiêu chí để xác lập trường nghĩa biểu nhiệm là ý nghĩa biểu niệm của
từ (tức là các nét nghĩa). Do đó,cách thức để lập trường nghĩa biểu niệm là
phải lựa chọn ra các nét nghĩa nào đó, nét nghĩa này vẫn phải dựa trên sự rút
ra của một từ có ý nghĩa khái quát nào đó. Các nét nghĩa này càng nhiều thì
lập được trường nghĩa càng ít từ và nét nghĩa càng ít thì lập được trường
nghĩa càng nhiều từ.
Trường nghĩa biểu vật và trường nghĩa biểu niệm có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau.
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu trong “Từ vựng - ngữ nghĩa Tiếng Việt” :
“Dựa vào ý nghĩa của từ mà chúng ta phân lập được các trường nghĩa”.
Nhưng cũng chính nhờ các trường, nhờ sự định vị được dùng từ một trong
trường thích hợp mà chúng ta hiểu sâu sắc thêm ý nghĩa của từ. Như vậy, hai

10


trường biểu vật và biểu niệm không những có quan hệ chặt chẽ với nhau mà
còn không tách rời nhau.
Điều này thể hiện rõ ở chỗ: Khi lập các trường biểu vật thì dựa vào ý
nghĩa biểu vật, còn khi chia nhỏ trường biểu vật thì dựa vào ý nghĩa biểu niệm.
Ngược lại, khi phân lập trường biểu niệm thì dựa trên cấu trúc biểu
niệm. Nhưng khi chia nhỏ trường biểu niệm thì dựa trên nét nghĩa của từ biểu vật.

1.1.3.4. Tác dụng của trường nghĩa
Trường nghĩa giúp chúng ta có thể phân định một cách tổng quát những
quan hệ ngữ nghĩa trong từ vựng thành các quan hệ ngữ nghĩa giữa các trường
nghĩa và những quan hệ ngữ nghĩa trong lòng mỗi người.
Việc dạy học từ ngữ trong trường nghĩa cho HSTH nhằm cung cấp cho
HSTH tri thức cơ bản về hệ thống từ vựng Tiếng Việt. Trên cơ sở đó nhằm
nâng cao vốn từ ngữ cho học sinh hay còn gọi là mở rộng vốn từ, phát triển
vốn từ ngữ để xây dựng một kho tàng từ ngữ phong phú, thường trực và có hệ
thống trong trí nhớ của học sinh tạo điều kiện cho từ đi vào hoạt động ngôn
ngữ như: nghe, nói, đọc, viết được thuận lợi.
Tính hệ thống của từ ngữ trong từ vựng giúp các em trau dồi vốn từ
một cách khoa học. Bởi vì ở lứa tuổi Tiểu học, nhận thức chưa cao,mặt bằng
nhận thức chưa đều; cần phải lập theo trường nghĩa để giúp học sinh nhận rõ
tính hệ thống logic của từ vựng. Qua đó, học sinh xây dựng được vốn từ ngữ
thực của mình.
Tóm lại, để tích lũy và mở rộng vốn từ, người ta có thể dựa trên ý nghĩa
của từ. Về nguyên tắc, các từ ngữ có ý nghĩa giống nhau thì người ta có thể
đưa nó vào một trường nghĩa và ghi nhớ theo trường nghĩa. Vì thế, việc lập
trường nghĩa sẽ là cách tốt nhất để học sinh tích lũy và mở rộng vốn từ.

11


1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1.Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh cuối cấp tiểu học
Ở giai đoạn cuối tiểu học, tư duy cụ thể của học sinh vẫn tiếp tục phát
triển, tư duy trìu tượng đang dần hình thành và chiếm ưu thế.
Học sinh có khả năng thực hiện các thao tác trí tuệ với ngôn ngữ và các
loại ký hiệu của các môn học để tiếp thu tri thức. Các em đã biết quan sát tìm
ra các dấu hiệu đặc trưng bản chất của sự vật, hiện tượng, có khả năng tri giác

các sự vật như một chỉnh thể thống nhất, có mục đích và phương hướng rõ
ràng. Khi khái quát hóa các em đã biết dựa vào bản chất bên trong để tìm ra
khái niệm, quy luật. Các em đã biết quan sát các sự vật hiện tượng theo diễn
biến, vận động; nắm bắt được phép duy luận ngược lại nên hiểu được một sự
vật có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau. Bước đầu có khả năng lập luận
trong phán đoán của mình, không chỉ xác lập mối quan hệ nguyên nhân - kết
quả mà còn xác lập mối quan hệ từ kết quả đến nguyên nhân.
Tâm lý học đã chỉ ra rằng: HSTH thuộc lứa tuổi từ 10 đến 11 tuổi (lớp
4, lớp 5) có đặc diểm nhận thức là khi quan sát đã biết tìm các dấu hiệu đặc
trưng riêng cho sự vật, biết phân biệt các sắc thái của chi tiết để đi đến so sánh
tổng hợp, có khả năng tri giác sự vật như một tổng thể, có tính mục đích và
phương hướng rõ ràng. Khi khái quát hóa các em bắt đầu biết dựa vào các dấu
hiệu bản chất bên trong, những dấu hiệu chung để tìm ra khái niệm, quy luật.
Các em đã có khả năng lập luận cho phán đoán của mình.
Cũng theo tâm lý học,ngôn ngữ của HSTH phát triển mạnh cả về ngữ
âm, ngữ pháp và từ vựng. Vốn từ, vốn ngữ pháp được tăng lên nhanh nhờ các
em học nhiều môn học, diện tiếp xúc ngày càng rộng. Cách diễn đạt cũng
ngày càng thêm phong phú.
Như vậy tư duy của HSTH giai đoạn này đã phát triển, đủ điều kiện để
tổ chức cho các em tự phát hiện, khám phá ra tri thưc ở một mức độ phù hợp.

12


1.2.2. Nội dung chương trình luyện từ và câu lớp 4 hiện nay
Nội dung chương trình luyện từ và câu lớp 4 có sự phân hóa rõ rệt. Các
bài tập luyện tập về mở rộng vốn từ theo chủ đề và các bài tập luyện tập về
những nội dung cấu tạo từ, giải nghĩa từ, câu.
Các bài tập luyện tập về Mở rộng vốn từ theo chủ đề:
Nội dung “mở rộng vốn từ được sách giáo khoa trình bày xoay quanh

10 chủ điểm trong đó có 5 chủ điểm học kỳ I và có 5 chủ điểm học kỳ II. Mỗi
chủ điểm được học trong 3 tuần, riêng chủ điểm ‘khám phá thế giới” học
trong 4 tuần. mỗi chủ điểm trong sách giáo khoa thường có 2 bài (thường
được bố trí vào các tuần 2, tuần 3 của chủ điểm ấy). Các chủ điểm được dạy
cụ thể từng tuần như sau:
- Chủ điểm 1: “Thương người như thể thương thân” (dạy từ tuần 1 đến
tuần 3).
Mở rộng vốn từ: Nhân hậu, đoàn kết (2 tiết).
- Chủ điểm 2: “Măng mọc thẳng” (dạy từ tuần 4 đến tuần 6).
Mở rộng vốn từ: Trung thực,tự trọng (2 tiết).
- Chủ điểm 3: “Trên đôi cánh ước mơ” (dạy từ tuần 7 đến tuần 9).
Mở rộng vốn từ: Ước mơ (1 tiết): dạy ở tiết 9.
- Chủ điểm 4: “Có chí thì nên” (dạy từ tuần 11 đến tuần 13).
Mở rộng vốn từ: Ý chí nghị lực (2 tiết).
- Chủ điểm 5: “Tiếng sáo diều” (dạy từ tuần 14 đến tuần 16).
Mở rộng vốn từ: Trò chơi – đồ chơi (2 tiết).
- Chủ điểm 6: “Người ta – hoa đất” (dạy từ tuần 18 đến tuần 20).
Mở rộng vốn từ: Tài năng (1 tiết): dạy ở tuần 19;sức khỏe (1 tiết): dạy ở
tuần 20.
- Chủ điểm 7: “Vẻ đẹp muôn màu” (dạy từ tuần 21 đến tuần 23).
Mở rộng vốn từ: Cái đẹp (2 tiết).

13


- Chủ điểm 8: “Những người quả cảm” (dạy từ tuần 24 đến tuần 27).
Mở rộng vốn từ: Dũng cảm (2 tiết).
- Chủ điểm 9: “Khám phá thế giới” (dạy từ tuần 28 đến tuần 31).
Mở rộng vốn từ: Khám phá,phát minh (1 tiết): dạy ở tuần 29;du lịch,
thám hiểm (1 tiết): được dạy từ tuần 30.

- Chủ điểm 10: “Tình yêu cuộc sống” (dạy từ tuần 32 đến tuần 34).
Mở rộng vốn từ: lạc quan (1 tiết): dạy ở tuần 33;vui vẻ (1 tiết): dạy ở
tuần 3.
Như vậy, trong 10 chủ điểm được học ở lớp 4 có tổng số tiết là 19 tiết
mở rộng và hệ thống hóa vốn từ. Mỗi chủ điểm được dạy trong 2 tiết. Riêng
chủ điểm 3: “Trên đôi cánh ước” chỉ có một tiết mở rộng vốn từ về “Ước
mơ”. Nội dung các bài đều liên quan đến chủ điểm được học.
1.2.3. Nội dung chương trình luyện từ và câu lớp 5 hiện nay
Phân môn luyện từ và câu lớp 5 gồm những nội dung chính sau:
1.2.3.1. Mở rộng hệ thống hóa vốn từ (18 tiết)
Từ ngữ mở rộng và hệ thống hóa trong phân môn luyện từ và câu lớp 5
bao gồm các từ thuần Việt, Hán Việt, thành ngữ và tục ngữ phù hợp với chủ
điểm học tập của từng đơn vị học. Cụ thể:
- Học kỳ I: (9 tiết), gồm các bài: Tổ Quốc, Nhân Dân (Chủ điểm con
người với Thiên Nhiên – tuần 8 và 9). Bảo vệ môi trường (Chủ điểm giữ lấy
màu xanh – tuần 12 và tuần 13); hạnh phúc (Chủ điểm vì hạnh phúc con
người – tuần 11).
- Học kỳ II: (9 tiết), gồm các bài: Công dân (Chủ điểm người công dân
tuần 20), trật từ an ninh (Chủ điểm vì cuộc sống thanh bình – tuần 23 và tuần
24); truyền thống (Chủ điểm nhớ nguồn – tuần 26 và tuần 27), nam và nữ
(Chủ điểm nam và nữ tuần 30 và tuần 31), trẻ em và bổn phận (Chủ điểm
những chủ nhân tương lai – tuần 33 và tuần 34).

14


1.2.3.2. Trang bị các kiến thức sơ giản về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và
văn bản, rèn luyện kỹ năng dùng từ, đặt câu liên kết và sử dụng dấu câu
- Nghĩa của từ (11 tiết):
Phần này cung cấp một số kiến thức sơ giản về các lớp từ có quan hệ về

ngữ nghĩa và cách thức sử dụng các lớp từ này. Cụ thể là: từ đồng nghĩa,
luyện tập về từ đồng nghĩa; (tuần 1: 2 tiết, tuần 2: 1 tiết); từ đồng âm, dùng từ
đồng âm để chơi chữ (tuần 5: 1 tiết, tuần 6: 1 tiết); từ nhiều nghĩa, luyện tập
về từ nhiều nghĩa (tuần 7;2 tiết, tuần 8: 1 tiết).
- Từ loại (5 tiết):
Phần này cung cấp một số kiến thức sơ giản về 2 loại có tính chất là từ
công cụ trong hoạt động giao tiếp của người Việt và luyện tập sử dụng 2 loại
từ này. Cụ thể là đại từ và Đại từ xưng hô (tuần 9: 1 tiết,tuần 11: 1 tiết); quan
hệ từ, luyện tập về quan hệ từ (tuần 11: 1 tiết, tuần 12: 1 tiết, tuần 13: 1 tiết).
- Câu: Câu ghép (8 tiết):
Phần này cung cấp kiến thức sơ giản về câu ghép:khái niệm câu ghép
(tuần 19: 1 tiết); cách nối các vế câu ghép (tuần 19: 1 tiết); nối các vế câu
ghép bằng quan hệ từ (tuần 20: 1 tiết, tuần 21: 1 tiết, tuần 22: 2 tiết, tuần 23: 1
tiết);nối các vế câu ghép bằng cặp từ hô ứng (tuần 24; 1 tiết).
- Ngữ pháp văn bản (4 tiết):
Phần này cung cấp các kiến thức sơ giản về 3 phương tiện liên kết câu
cơ bản: liên kết các câu trong bài bằng cách lặp từ ngữ (tuần 25: 1 tiết), luyện
tập thay thế từ ngữ để liên kết câu (tuần 26: 2 tiết); liên kết các câu trong bài
bằng từ ngữ nối (tuần 27: 1 tiết).
- Ôn tập (14 tiết):
Là lớp cuối cấp tiểu học, phân môn luyện từ và câu lớp 5 có phần ôn
tập hệ thống hóa tất cả các nội dung về từ và câu mà học sinh đã được học ở
cấp tiểu học. Cụ thể là:

15


Ôn tập về từ loại: 1 tiết (tuần 14)
Ôn tập về đại từ: 2 tiết (tuần 16)
Tổng kết vốn từ: 2 tiết (tuần 15: 1 tiết, tuần 16: 1 tiết)

Ôn tập về câu: 1 tiết (tuần 17)
Ôn tập về dấu câu: 8 tiết (tuần 29: 2 tiết, tuần 30; 1 tiết, tuần 31:1 tiết)
1.2.3.3. Bồi dưỡng cho học sinh ý thức và thói quen sử dụng tiếng Việt văn
hóa trong gia đình
Thông qua nội dung dạy học và cách tổ chức hoạt động trên lớp,phân
môn luyện từ và câu góp phần bồi dưỡng cho học sinh tiểu học dùng từ đúng,
nói, viết thành câu và ý thức sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp phù hợp với
các chuẩn mực văn hóa.
1.2.4. Thực tiễn việc học phân môn luyện từ và câu của học sinh lớp 4,
lớp 5 trường tiểu học Liên Minh
Trong quá trình học tập, học sinh luôn được giáo viên cung cấp vốn từ
theo từng chủ điểm ở phân môn luyện từ và câu. Các em học sinh trường Tiểu
học Liên Minh luôn tích cực tham gia xây dựng bài và hứng thú với các dạng
bài mở rộng vốn từ trong sách giáo khoa nên việc lĩnh hội kiến thức trong
phân môn luyện từ và câu có nhiều thuận lợi. Các tiết học luyện từ và câu vốn
được coi là những tiết học khô khan hơn cả so với các tiết học ở những phân
môn còn lại của chương trình Tiếng Việt Tiểu học hiện hành. Bởi nội dung
bài học đa số là bài tập, thực hành nhiều hơn lý thuyết. Nhưng với thầy và trò
trường Tiểu học Liên Minh, tiết học Luyện từ và câu lại thực sự trở nên thú
vị. Các tiết học luyện từ và câu cũng phong phú như các tiết chính tả, kể
chuyện hay tập đọc. Có được điều này là nhờ sự sáng tạo của giáo viên dạy bộ
môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học Liên Minh đã biết lồng ghép trò chơi vào
trong các tiết học luyện từ và câu giúp cho những tết này trở nên hấp dẫn và
phong phú với các em học sinh.

16


Tuy nhiên các bài tập luyện từ và câu chưa sâu, chỉ dừng lại ở những từ
thường dùng dẫn đến khi gặp một số từ học sinh gặp khó khăn trong việc hiểu

nghĩa của những từ đó. Chính điều này cũng khiến cho kết quả của học sinh
trong những phân môn khác khi liên quan đến nghĩa của từ chưa cao.

17


Chương 2
Phân tích và miêu tả kết quả tìm hiểu sự mở rộng và hiểu biết
vốn từ ngữ miêu tả cho HSTH thông qua các dạng bài văn
miêu tả lớp 4, lớp 5
Để khảo sát sự hiểu biết của HSTH về vốn từ miêu tả, chúng tôi tiến
hành khảo sát ở lớp 4D – Trường Tiểu học Liên Minh – Vĩnh Yên – Vĩnh
Phúc với 3 dạng bài văn miêu tả: miêu tả cây cối, miêu tả con vật, miêu tả đồ
vật; tiến hành khảo sát ở lớp 5C – Trường Tiểu học Liên Minh – Vĩnh Yên –
Vĩnh Phúc với 2 dạng bài văn miêu tả: tả người và tả cảnh. Mỗi một dạng văn
miêu tả chúng tôi đưa ra một bài văn miêu tả mẫu, điển hình và yêu cầu các
em học sinh xác định những từ được dùng để miêu tả có trong bài văn đã cho
trước đó.
2.1. Sự mở rộng và hiểu biết vốn từ miêu tả trong dạng bài miêu tả cây cối
Ở dạng bài này, chúng tôi tiến hành khảo sát với 41 em học sinh của
lớp 4D – Trường tiểu học Liên Minh. Việc khảo sát của chúng tôi tiến hành
với mục đích đánh giá khả năng nhận biết từ miêu tả của học sinh trong một
bài văn miêu tả cụ thể của dạng bài văn miêu tả cây cối.
Chúng tôi đưa sẵn ra một bài văn miêu tả điển hình ở dạng bài văn
miêu tả cây cối là bài văn tả cây chuối và yêu cầu yêu cầu đưa ra như sau:
Em hãy tìm các từ dùng để miêu tả ở bài văn sau đây:
CÂY CHUỐI
Cuối vườn nhà em có một bụi chuối sứ. Từ một cây chuối nhỏ xíu ba
em xin ở quê nội, về trồng cách đây hơn một năm, giờ nó đã sinh sôi nảy nở
thành năm bảy cây lớn nhỏ khác nhau.


18


Cây chuối cao đến hơn hai mét. Thân tròn và to như cột nhà, gồm
nhiều lớp bẹ ốp sát vào nhau. Mấy chiếc bẹ ngoài màu nâu, lấm chấm những
vết đen. Xung quanh ngọn là những tàu lá to dài màu xanh thẫm, mặt dưới
phủ một lớp phấn trắng mỏng. Mấy chiếc lá già màu vàng bị gió xé rách đang
héo dần.
Buồng chuối gần chục nải đã trổ được hơn hai tháng. Mỗi nải có hai
tầng quả xếp trồng lên nhau. Trái chuối hơi cong màu xanh nhạt, to gần bằng
chuôi dao, đầu trái vẫn còn dính mẩu núm đen.
Do sức nặng của buồng chuối, cây chuối mẹ nghiêng hẳn về một bên.
Ba em phải lấy hai khúc tràm cột chéo đầu lại, tạo thành một giá đỡ cho cây
khỏi đổ. Ba còn xúc đất đắp thêm vào gốc. Từ các kẽ nứt mấy cây chuối con
đang nhô lên, mập mạp trông chẳn khác gì bầy con thơ xúm xít bên chân mẹ.
Nhìn buồng chuối to, dài sắp chín, em vui nghĩ đến một ngày không xa, sau
bữa cơm cả nhà em sẽ được thưởng thức vị ngọt thơm của những trái chuối
chín vàng do chính tay ba em trồng.
(Những bài làm văn mẫu lớp 4)
Kết quả thu được sau quá trình khảo sát
Có tất cả 34 từ được dùng để miêu tả trong bài văn tả cây chuối mà
chúng tôi đã đưa ra. Học sinh tìm được số lượng từ đúng nhiều nhất là 27 từ
(đạt 79,4 % so với tổng số từ miêu tả có trong bài). Học sinh tìm được ít nhất
là 16 từ (đạt 47,1 % so với tổng tổng số từ miêu tả có trong bài). Tuy nhiên
trong những từ mà học sinh đã tìm được thì chủ yếu là các từ tìm nhầm, từ sai
nghĩa; số lượng từ tìm đúng lại ít hơn nhiều so với 34 từ được dùng để miêu
tả có trong bài. Trung bình, mỗi học sinh tìm được 21 từ đúng.
Chúng tôi nhận thấy rất nhiều học sinh đều tìm được đầy đủ các từ
được dùng để miêu tả là từ láy có trong bài. Trong bài văn miêu tả cây chuối

mà chúng tôi đã đưa ra có 3 từ được dùng để miêu tả là từ láy và có 29 học

19


sinh tìm được hết 3 từ này trong tổng số 41 học sinh tham gia khảo sát (đạt
70,7 %). Từ được dùng để miêu tả là những từ đơn cũng được học sinh tìm ra
đáng kể.Bài văn miêu tả cây chuối có tất cả 14 từ được dùng để miêu tả là từ
đơn và có 11 % số học sinh tham gia khảo sát tìm được đủ cả 14 từ này.
Ngược lại, trong số 20 từ được dùng để miêu tả là từ ghép có trong bài thì chỉ
có một học sinh tìm được nhiều nhất là 13 từ, không có học sinh nào tìm được
đủ cả 20 từ ghép được dùng để miêu tả (đạt 0 % số học sinh tìm đủ số từ miêu
tả là từ ghép có trong bài).
Như vậy kết quả học sinh tìm được là tương đối thấp. Có học sinh tìm
nhầm tới 20 từ (cũng là từ dùng để miêu tả nhưng những từ mà học sinh tìm
nhầm lại không có trong bài văn mà chúng tôi đưa ra). Bên cạnh đó học sinh
còn tìm được một số từ sai nghĩa. Học sinh thường bỏ sót các từ: nhỏ xíu, cao
đến hơn hai mét, như cột nhà, xé rách, héo dần, sắp chín. Các từ mà học sinh
đã tìm ra phần lớn là những từ tìm nhầm và từ sai nghĩa. Những từ mà học
sinh tìm nhầm tuy có nghĩa nhưng đa số là các danh từ, trạng từ, một số động
từ không phải dùng để miêu tả và các từ đồng nghĩa hay gần nghĩa với những
từ được dùng để miêu tả có trong bài. Chẳng hạn học sinh đã tìm được các từ
như: “một bên, súc đất, sức nặng, xếp...” đều không phải là những từ dùng để
miêu tả. hay các cụm từ “chéo hẳn về một bên,ôm sát vào nhau, đặt trồng vào
nhau…” tuy đều là những cụm từ miêu tả nhưng lại không có trong bài văn tả
cây chuối đã cho mà nó gần nghĩa với các cụm từ miêu tả: “nghiêng hẳn về
một bên, ốp sát vào nhau, xếp trồng lên nhau”. Ngoài việc tìm nhầm, học sinh
còn tìm cả những từ không có nghĩa như: “sinh soi,chô, nghiêm một bên…”.
Nguyên nhân
Cả bài văn chỉ có 35 từ là từ dùng để miêu tả nhưng có nhiều học sinh

tìm được tới 40 từ (hầu hết đều tìm được trên 35 từ) và trong các từ học sinh
đã tìm đa số là từ sai. Sở dĩ như vậy là do học sinh chưa định hình được

20


những từ được dùng để miêu tả thường là danh từ, động từ hay tính từ…,
chúng có đặc điểm chung như thế nào và phát hiện chúng ra sao. Học sinh chỉ
biết cố gắng kể ra thật nhiều từ và đúng được càng nhiều thì càng tốt. Thậm
chí học sinh kể ra cả những từ không có trong bài.
Học sinh kể ra rất nhiều từ đồng nghĩa, gần nghĩa với các từ được dùng
để miêu tả trong bài là do học sinh đã không chú ý, không có sự tập trung cao
nên tuy nhận ra các từ miêu tả đó nhưng khi liệt kê lại kể nhầm sang các từ
cùng nghĩa hay gần nghĩa.
Việc học sinh kể ra cả những từ không có nghĩa có hai nguyên nhân:
hoặc là học sinh sai về lỗi chính tả dẫn đến sự sắp xếp sai giữa các con chữ,
hoặc là học sinh còn yếu về vốn từ trong các chủ điểm khi học phân môn
luyện từ và câu.
Biện pháp
Trước hết,văn miêu tả cây cối là một dạng văn miêu tả có lượng từ
miêu tả rất phong phú. Mỗi một sự vật đều có nhiều cách để miêu tả khác
nhau, và thông qua việc miêu tả nhiều sự vật ta lại có được một vốn từ lớn
hơn. Vì vậy, mở rộng vốn từ miêu tả cây cối cho học sinh là một trong những
cách hiệu quả nhất để làm giàu vốn từ cho các em. Để bản thân học sinh có
được vốn từ lớn này giáo viên cần mở rộng, bồi dưỡng cho học sinh vốn từ
miêu tả cây cối thông qua việc hướng cho học sinh quan sát sự vật từ những
góc nhìn khác nhau từ đó có những nhận định, đánh giá khác nhau về một sự
vật. Bên cạnh những từ được đưa ra để miêu tả giáo viên có thể tổ chức cho
học sinh tìm ra các từ đồng nghĩa hay gần nghĩa với các từ đó để vốn từ miêu
tả cây cối của học sinh được trở nên phong phú hơn.

Cần củng cố kỹ hơn vốn từ của học sinh trong những tiết luyện từ và
câu để không còn tình trạng học sinh đưa ra những từ không có nghĩa và việc
củng cố về chính tả cũng cần được chú trọng hơn.

21


2.2. Sự mở rộng và hiểu biết vốn từ miêu tả trong dạng bài miêu tả con vật
Để khảo sát sự hiểu biết của HSTH về vốn từ miêu tả con vật, chúng tôi
tiến hành khảo sát ở lớp 4D – trường tiểu học Liên Minh – Vĩnh Yên – Vĩnh
Phúc với bài văn miêu tả chú cún. Chúng tôi yêu cầu HS xác định từ dùng để
miêu tả trong bài văn cho trước. Chúng tôi tiến hành việc khảo sát với mục
đích đánh giá khả năng nhận biết từ miêu tả của học sinh trong một bài văn
miêu tả con vật cụ thể.
Câu hỏi đưa ra như sau:
Em hãy tìm các từ dùng để miêu tả ở bài văn sau đây:

Chú cún
Năm ngoái, bác Đông mang từ quê lên cho em một chú cún mới được
hai tháng tuổi. Thoáng nhìn nó em đã thích ngay. Ôi chú chó mới xinh làm
sao! Em đặt tên nó là Tô-ny.
Tô-ny lớn nhanh như thổi. Giờ đây nó đã là một chú chó trưởng thành
với hình dáng cân đối. Toàn thân nó phủ một lớp lông dày màu vàng nâu. Hai
cái tai nhọn luôn dỏng lên nghe ngóng động tĩnh. Đôi mắt to, sáng. Lỗ mũi
đen ướt, đánh hơi rất thính. Cái lưỡi màu hồng thè dài và hàm răng trắng
bóng với bốn răng nanh cong, nhọn.
Tô- ny có dáng như chó săn. Cái ức nở đầy đặn, bụng thon, bốn chân
cao, gân guốc và vững trãi. Cái đuôi xù cuốn tròn thành chữ O trên lưng.
Nó đi dứng nhẹ nhàng và chạy rất nhanh. Sáng sáng Tô-ny giỡn với
chú mèo tam thể trên sân. Chúng đuổi nhau, vờn nhau không biết chán. Thấm

mệt, Tô-ny trèo lên thềm, nằm sấp gác mõm lên hai chân trước, lim dim ngủ.
Xin chớ lầm tưởng nó ngủ say. Tuy lơ mơ thế nhưng hai cái tai úp
xuống không bỏ sót một tiếng động nào. Chỉ cần có tiếng bước chân nhè nhẹ
ngoài rào là nó đứng phắt dậy, linh hoạt hẳn lên. Nếu là người lạ, lập tức nó

22


cất tiếng sủa vang. Còn người quen đi đâu về là nó chạy ra, vẫy đuôi mừng
tíu tít.
Ngày nào em đi học về, Tô-ny cũng ra tận cổng đón. Nó chồm hai chân
trước ôm chầm lấy em và quấn quýt không rời. Đến đêm, khi cả nhà đi ngủ,
một mình Tô-ny thức trông nhà. Có nó, mọi người yên tâm ngủ ngon sau một
ngày làm việc mệt nhọc.
Tô-ny được mọi người yêu mến. Đi xa về, ai cũng có phần quà riêng
cho nó. Lúc thì cái bánh, lúc thì cái kẹo. Nó đón nhận với vẻ mừng rỡ và biết
ơn. Tô-ny khôn ngoan và trung thành. Nó được coi là thành viên không thể
thiếu trong gia đình em.
(Những bài làm văn mẫu lớp 4)
Kết quả thu được như sau
Ở bài văn miêu tả chú cún này có 49 từ được dùng để miêu tả. Các từ
miêu tả trong bài văn là những từ miêu tả ngoại hình, tính cách, hoạt động của
chú cún. Học sinh tìm ra số từ nhầm, từ sai chiếm gần 50 % so với tổng số từ
học sinh đã tìm. Học sinh tìm được số lượng từ đúng nhiều nhất là 31 từ đạt
63, 3 % (chỉ có 1 bài tìm được 31 từ trong tổng số 41 bài). Học sinh tìm được
số lượng từ đúng ít nhất là 16 từ (đạt 47,1 %). Trung bình, mỗi học sinh tìm
được 23 từ trong tổng số 49 từ miêu tả có trong bài.
Trong bài văn miêu tả chú cún có 18 từ miêu tả là từ đơn. Chỉ có 2 học
sinh là tìm được nhiều nhất là 13 từ đơn (4,8 % tìm được 72,2 % số từ miêu tả
là từ đơn có trong bài). Đa số đều tìm được 11 từ (đạt 61,1 %). Như vậy, tỉ lệ

học sinh tìm đúng các từ đơn cũng tương đối cao.Từ được dùng để miêu tả là
những từ láy cũng được học sinh tìm ra đáng kể. Bài văn miêu tả chú cún có
tất cả 4 từ được dùng để miêu tả là từ láy. Có 18 học sinh trong tổng số 41
học sinh tìm được đủ cả 4 từ láy này (đạt 43.9 % học sinh tìm được 100 % từ
miêu tả là từ láy có trong bài). Bên cạnh đó, trong số 27 từ được dùng để miêu

23


tả là từ ghép có trong bài thì chỉ có 3 học sinh tìm được nhiều nhất là 15 từ,
không có học sinh nào tìm được đủ cả 27 từ ghép được dùng để miêu tả (đạt 0
% số học sinh tìm đủ 100 % số từ miêu tả là từ ghép có trong bài).
Như vậy kết quả học sinh tìm được thấp. Trong khi đó có học sinh tìm
nhầm tới 29 từ, nhiều hơn cả số từ mà học sinh đó tìm đúng. Trung bình mỗi
học sinh tìm nhầm tới 14 từ. Học sinh thường bỏ sót các từ: sáng,đen ướt, rất
thính hay các từ được dùng để miêu tả là động từ như: trèo, nằm sấp, gác
mõm, chạy rất nhanh, sủa vang, trông nhà,úp xuống. Các từ mà học sinh đã
tìm ra chiếm nhiều từ là từ tìm nhầm,có một số từ còn sai nghĩa. Có tới 2 em
học sinh đưa ra 3 từ sai nghĩa. Những từ mà học sinh tìm nhầm tuy có nghĩa
nhưng đa số là các danh từ, trạng từ,tính từ một số động từ không phải dùng
để miêu tả. Chẳng hạn học sinh đã tìm được các từ như: “quà, cất tiếng, lập
tức, mệt nhọc, đón nhận, vẻ, yên tâm, yêu mến, tam thể...” đều không phải là
những từ dùng để miêu tả. Đặc biệt từ vững trãi thường bị học sinh tìm nhầm
thành vững trắc. Ngoài ra, học sinh còn tìm cả một số từ không có nghĩa như:
“không bỏ sát, quốn, gân gước, …”. Tuy nhiên,ở bài văn tả chú cún này, số
lượng từ sai nghĩa xuất hiện ít hơn ở bài văn tả cây chuối. Mặc dù có học sinh
tìm tới 3 từ sai nghĩa nhưng đa số học sinh không tìm phải từ sai nghĩa.
Nguyên nhân
Học sinh tìm nhầm nhiều từ như vậy là do học sinh đã nhầm lẫn giữa
các từ được dùng để miêu tả với các từ chỉ đối tượng được đem ra để miêu tả.

Và học sinh chưa nắm chắc lý thuyết về văn miêu tả nên chưa phát hiện ra
rằng động từ cũng là những từ để miêu tả hoạt động của con vật. Vì thế mà
học sinh chỉ tập trung vào đi tìm các tính từ có trong bài văn và đã thiếu đi
một số lượng lớn các từ để miêu tả là động từ.

24


Biện pháp
Giáo viên cần giúp học sinh nắm chắc lý thuyết về dạng văn miêu tả
con vật để không bị mất đi một vốn từ miêu tả lớn là các động từ. Trong quá
trình dạy học phân môn tập làm văn, giáo viên cần cho học sinh thấy rõ được
sự khác biệt giữa từ được dùng để miêu tả với từ để chỉ đối tượng được đem
ra miêu tả.
2.3. Sự mở rộng và hiểu biết vốn từ miêu tả ở dạng bài miêu tả đồ vật
Với dạng bài miêu tả đồ vật,chúng tôi đi tiến hành khảo sát với 41 em
học sinh của lớp 4D – Trường tiểu học Liên Minh.Việc khảo sát được chúng
tôi tiến hành với mục đích đánh giá khả năng nhận biết từ miêu tả của học
sinh trong một bài văn miêu tả cụ thể của dạng bài văn miêu tả đồ vật.
Chúng tôi đưa sẵn ra bài văn miêu tả cái trống trong dạng bài văn miêu
tả đồ vật với yêu cầu như sau:
Em hãy tìm các từ dùng để miêu tả ở bài văn sau đây:
CÁI TRỐNG TRƯỜNG EM
Trước ngày khai giảng năm nay, chiếc trống cũ kỹ của trường em đã
được thay thế bằng chiếc trống mới thật đẹp. Cô Lan chủ nhiệm nói rằng
chiếc trống này do hội phụ huynh quyên góp mua tặng nhà trường. Trống
dược đặt trên cái giá gỗ vững trắc ngay trước cửa văn phòng.
Dáng vẻ chiếc trống mới oai vệ làm sao! Nó to gần bằng chiếc chum
đựng nước, sơn màu đỏ thẫm. Hai đầu trống viền đen đóng chi chít những
chiếc đinh tre để ghim chặt mặt trống vào thân trống. Thân trống là những

thanh gỗ hơi khum lại. Chính giữa thân trống là một vòng dây mây bện xoắn
ôm tròn hai mặt trống làm bằng da trâu, dầy và nhẵn bóng. Mỗi khi chú bảo
vệ vung cao chiếc dùi gỗ nện vào mặt trống là trống lại phát ra những âm
thanh vang động cả sân trường: tùng…tùng…tùng.

25


×