Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Vai trò của nhân vật loài vật trong ngụ ngôn laphôngten

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (539.48 KB, 58 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1 Lý do khoa học
Văn học là một trong những loại hình nghệ thuật không thể thiếu trong
đời sống tinh thần của con người. Nó không chỉ giúp con người giải trí mà
còn phản ánh thiên nhiên, xã hội, con người tinh tế và sâu sắc. Đối với thiếu
nhi văn học như một món quà vô giá qua những trang viết các em biết yêu
thương, cảm thông chia sẻ, biết phân biệt đúng sai, biết đạo lý làm người…
Không chỉ ở Việt Nam mà trên khắp năm châu trên thế giới văn học là một
món ăn tinh thần không thể thiếu đối với con người nói chung và thiếu nhi nói
riêng chính vì thế có rất nhiều tác phẩm được đưa vào nhà trường với thể loại
đa dạng và phong phú nhưng có lẽ một trong những tác phẩm độc đáo và đặc
sắc nhất phải kể đến thơ Ngụ ngôn La Phôngten. La Phôngten là một trong
những tác giả viết truyện ngụ ngôn nổi tiếng nhất thế giới. Các câu chuyện về
loài vật của ông luôn có sức lôi cuốn mạnh mẽ đối với bạn đọc, đặc biệt là trẻ
nhỏ khắp hành tinh. Đọc Ngụ ngôn La Phôngten, các em nhỏ sẽ được đến với
những câu chuyện ngụ ngôn vô cùng thú vị, dí dỏm và hấp dẫn. Với cách thức
chuyển tải nhẹ nhàng, cuốn hút, các nhân vật gần gũi với thế giới trẻ thơ Ngụ
ngôn La Phôngten đã giúp các em ngày càng lớn khôn và trưởng thành hơn!
Qua hình ảnh loài vật, ông đã biến thơ ngụ ngôn của mình thành một
thứ “hài kịch có cả trăm màn khác nhau” qua đó mô tả tất cả mọi tình cảm,
mọi đam mê, mọi hoàn cảnh và mọi ngành nghề của con người.
Xã hội loài vật trong ngụ ngôn tượng trưng cho xã hội Pháp thời đại La
Phôngten sống, với các cung bậc, tầng lớp, những mâu thuẫn bộc lộ bản chất
của xã hội đó: từ những người thấp cổ bé họng đến những vị quyền cao chức
trọng. Những người dân Việt chúng ta ở thế kỷ hai mươi và đã cắp sách đến
trường, không ai quên những bài thơ ngụ ngôn dí dỏm và rất quen thuộc của



Đỗ Thị Kiều Hoa

1

Lớp K34 - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

La Phôngten chỉ với Rùa và Thỏ, Bác sĩ Sói, Sư Tử xuất quân, Quạ và Cáo,
Gà Trống và Cáo mà ông đã để lại một dấu ấn sâu sắc trong lòng các em thiếu
nhi. Tên tuổi của ông gắn liền với Ngụ ngôn, ông một cây đại thụ trong nền
văn học cổ điển Pháp, một nhà thơ kiệt xuất và là người có công đưa ngụ
ngôn vốn bị coi là “hạ đẳng” lên một vị trí xứng đáng với tầm vóc của nó.
Mỗi bài được xây dựng như một vở kịch nhỏ, có xung đột, cao trào, thắt nút,
cởi nút, giàu kịch tính và ẩn sâu trong nó là những triết lý sâu xa, ý nghĩa. Với
trẻ em, tùy thuộc vào trình độ nhận thức mà mỗi em có thể rút ra những bài
học phù hợp với lứa tuổi của mình. Các tác phẩm của La Phôngten tạo cho
các em sự suy ngẫm, khơi gợi trí tò mò và làm sống dậy sự ham thích được
khám phá với tâm hồn trẻ thơ bay bổng.
1.2 Lý do sư phạm
Nghiên cứu đề tài Vai trò của nhân vật loài vật trong Ngụ ngôn La
Phôngten có ý nghĩa rất to lớn trong công tác giảng dạy sau này. Nó giúp tôi
có cái nhìn cụ thể về thể loại ngụ ngôn sự yêu thích của thiếu nhi khi tiếp
nhận thơ Ngụ ngôn La Phôngten và những giá trị luân lý to lớn mà ông đã để
lại cho nhân loại.
Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã viết:

“Hiền dữ đâu phải là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
(Nửa đêm – Nhật ký trong tù)
Là một giáo viên Tiểu học tương lai gánh vác trên vai sứ mệnh giáo
dục những thế hệ “măng non của đất nước” với nhiệm vụ không chỉ cung cấp
cho các em tri thức cơ bản, đơn thuần mà còn qua đó cung cấp cho các em kỹ
năng sống, cách ứng xử, giao tiếp trong môi trường lứa tuổi. Giúp các em có
cái nhìn, cách đánh giá đúng đắn về thế giới xung quanh, phân biệt được tốt –

Đỗ Thị Kiều Hoa

2

Lớp K34 - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

xấu, đúng – sai, những việc nên làm, những điều cần tránh, hoàn thiện nhân
cách của bản thân…
Việc giáo dục các em qua các câu chuyện ngụ ngôn là hết sức quan
trọng. Hiểu được giá trị đích thực của thơ ngụ ngôn là cơ sở vững chắc cho
công tác giảng dạy tốt môn Tiếng Việt và giáo dục học sinh Tiểu học sau này.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Tìm hiểu vai trò của nhân vật loài vật trong ngụ ngôn Ngụ ngôn La
Phôngten để thấy được sự đa dạng, phong phú của thế giới nhân vật nói chung
và sự đặc sắc của nhân vật loài vật nói riêng. Đồng thời khám phá những khía
cạnh khác nhau của mỗi câu chuyện qua đó rút ra bài học ý nghĩa cho học

sinh Tiểu học.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Nội dung nghiên cứu chủ yếu của khóa luận là: Tìm hiểu về vai trò của
nhân vật loài vật trong Ngụ ngôn La Phôngten
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Để nghiên cứu đề tài “Tìm hiểu về vai trò của nhân vật loài vật trong
Ngụ ngôn La Phôngten” tôi xác định sẽ thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu
sau:
- Tìm hiểu các giáo trình, các sách giáo khoa Tiếng Việt ở tiểu học,
sách giáo khoa Ngữ văn trung học cơ sở, các khóa luận của sinh viên đi trước
để lĩnh hội một cách hệ thống về vai trò của nhân vật loài vật trong Ngụ ngôn
La Phôngten.
- Khảo sát nội dung chương trình dạy học về truyện Ngụ ngôn La
Phôngten trong sách giáo khoa Tiếng Việt ở tiểu học, tìm hiểu ý nghĩa của
việc dạy học những bài ngụ ngôn này để có thể trang bị cho bản thân kiến
thức, phương pháp dạy học phù hợp trong tương lai.

Đỗ Thị Kiều Hoa

3

Lớp K34 - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

5. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
La Phôngten (Jean de La Fontaine) (8 tháng 7 năm 1621 – 13 tháng 4

năm 1695), là một nhà văn, nhà thơ ngụ ngôn nổi tiếng Pháp. Ông sinh ra ở
Satô – Chieri một gia đình trung lưu. Sớm mồ côi mẹ, La Phôngten chịu ảnh
hưởng sâu sắc sự giáo dục của cha – một quan chức trong Hội đồng tư vấn
của nhà vua, coi sóc Thủy lợi và Nông lâm, ưa sống tự do, phóng túng. Năm
19 tuổi La Phôngten vào chủng viện Thiên chúa giáo, sau đó học luật trở
thành luật sư của Tối cao pháp viện, nhưng ông bỏ nghề luật sư chiều theo ý
cha làm việc trong ngành Thủy lợi và Nông lâm. Sáu năm sau ông quyết định
ở hẳn Pari và theo sự nghiệp văn chương.
Ông yêu thích văn học, đọc khá nhiều sách văn học trong nước và nước
ngoài (Tự sự và giáo huấn ca của Hêziôt Hy Lạp, các loại truyện kể của
Arixtôt, Bôcaxiô, đọc các nhà văn nổi tiếng như Marô, Rabơle, Malecbơ,
Voatuya…) Ông nghiền ngẫm say sưa với những luồng tư tưởng mới lạ trong
các tác phẩm. Ông dạo chơi nơi này nơi khác, mơ mộng suy tưởng la cà và
nổi tiếng là con người lơ đãng khó sửa. Ông dành nhiều thời gian để sáng tác
văn học và thường xuyên gặp gỡ các nhà văn, nhà thơ như Môlie, Raxin,
Boalô. Tiếp xúc với các nhà văn có tên tuổi đồng thời chịu ảnh hưởng của họ,
La Phôngten đã đứng cùng một trận tuyến chung, đấu tranh cho lý tưởng thẩm
mỹ của chủ nghĩa cổ điển, nhưng vẫn khẳng định được phong cách riêng.
Ông làm thơ, viết văn, kể chuyện song ngụ ngôn lại là thể loại quyết
định, làm lên tên tuổi La Phôngten. Chính thể loại này đã nâng ông lên vị trí
ngang tầm với các nhà thơ, nhà văn gạo cội khác. Ngụ ngôn của ông đã được
cả thế giới biết đến như một hiện tượng lạ, độc đáo và sâu sắc, ông đã kế thừa
truyền thống sáng tác của các nhà thơ ngụ ngôn trước ông như Êdốp (Hy
Lạp), Brabiux (Syria), Pheđơrơ (La Mã) và sáng tạo nhiều hình tượng có tính

Đỗ Thị Kiều Hoa

4

Lớp K34 - GDTH



Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

chất thời đại. Trong quá trình 26 năm sáng tác Ngụ ngôn (1668 - 1694) gồm
12 quyển được in thành 3 tập:
Năm 1668, tập I (từ quyển 1 đến quyển 6) gồm 124 bài được xuất bản.
Năm 1678 – 1679, tập II (từ quyển 7 đến quyển 11) gồm 87 bài ra mắt
độc giả.
Năm 1694, tập III (quyển 12) gồm 27 bài.
Vì La Phôngten và Ngụ ngôn La Phôngten vô cùng nổi tiếng nên các
nhà lý luận, nhà phê bình văn học trong nước cũng như trên thế giới đã tốn
không ít giấy mực để viết về cuộc đời và tác phẩm của ông. Do khuôn khổ
của một khóa luận tốt nghiệp , đặc biệt là do khả năng ngoại ngữ có hạn nên
phần lịch sử vấn đề chỉ xây dựng từ những bài viết từ một số ý kiến đánh giá
của các tác giả trong nước và những bài viết của một số tác giả nước ngoài đã
dịch sang tiếng Việt.
Nhắc đến thể loại ngụ ngôn người ta nhớ ngay đến Êdốp (Hy Lạp)
(sinh năm 620 và mất năm 560 trước công nguyên) – ông tổ của thể loại này
với 350 truyện ngụ ngôn. Cuộc đời nhà thông thái dân gian này chất ngập
những câu chuyện, những huyền thoại chứa đựng những chân lý sâu sắc. Về
những tác phẩm của Êdốp, tiền thân của nó là những mẩu chuyện tranh dân
gian, được lưu truyền từ đời này sang đời khác, được bồi đắp thêm bớt, dần
dà chậm chạp làm cho nó ngày càng phong phú, sâu sắc hơn. Êdốp đã có công
sưu tầm, gọt dũa, đồng thời trong đó cũng có một số lớn các sáng tác của ông.
Những truyện ngụ ngôn của Êdốp đều được viết bằng văn xuôi. Những tập
khác do Planude biên soạn gồm 140 truyện do công sức của thầy tu
Bysantins. Năm 1610 Neveiet, một luật sư của Thượng nghị viện cho xuất

bản ở Francfort tập "Huyền thoại Esope" gồm 297 truyện. Còn có những bản
viết tay người ta sưu tầm được lên tới con số 358 truyện. Số liệu này được
nhà xuất bản văn chương chuyên in các tập san cho Trường Đại Học Văn

Đỗ Thị Kiều Hoa

5

Lớp K34 - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khoa Pháp xác nhận. Cũng trong các tập san này xuất bản 150 truyện Ngụ
ngôn do nhà thơ La Mã Pheđrơ viết bằng thơ. Nhà thơ này sống dưới thời vua
Auguste và Tibère thế kỉ I sau công nguyên. Ở La Mã cũng xuất hiện những
bản viết tay các tập truyện ngụ ngôn gồm 97 truyện. Năm 1840 một học giả
Minuidès Minas tìm thấy một tập truyện viết tay gồm 123 truyện của Babrius,
nhà ngụ ngôn Hy Lạp thể kỉ II,III sau công nguyên. Đến nửa thế kỷ XVII, La
Phôngten đã kế thừa Êdốp và sáng tác thơ ngụ ngôn với 238 bài. Ngụ ngôn La
Phôngten là một kiểu phúng dụ bằng thơ, ngắn gọn, mang nội dung giáo dục
đạo đức. Đánh giá về thơ Ngụ ngôn La Phôngten có rất nhiều ý kiến:
Nguyễn Ngọc Thi trong cuốn Tác gia, tác phẩm văn học nước ngoài
trong nhà trường cho rằng:
“Thơ Ngụ ngôn La Phôngten tự nhiên tinh tế, triết lý nhẹ nhàng, dễ đi
vào lòng người có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Qua câu chuyện giữa các loài vật,
La Phôngten bóc trần cái xấu xa độc ác của kẻ thống trị với giọng châm biếm
sâu cay, đồng thời mỉa mai và phê phán thói hư tật xấu của con người nói

chung. La Phôngten đã khẳng định : “.. những ngụ ngôn này là bức tranh mà
mỗi người đều thấy mình vẽ lên ở đó”
Với Ngụ ngôn, La Phôngten không chỉ tạo dựng lên được một xã hội
sôi động, phức tạp mà còn vẽ lên bức tranh thiên nhiên rộng lớn với tất cả
cảnh sắc của nó. Đây cũng là sắc thái riêng của tác phẩm La Phôngten trong
dòng văn học cổ điển chủ nghĩa” [14; 315]
Trong cuốn Từ điển các tác gia văn học và sân khấu nước ngoài, Nxb
Văn Hóa Hà Nội, 1982, Hữu Ngọc có viết:
“Tập thơ Ngụ ngôn (1668 - 1694) đã khiến La Phôngten nổi tiếng khắp
thế giới. Đề tài lấy ở nhiều nguồn (truyện ngụ ngôn Hy Lạp, Ấn Độ). Sử dụng
thể thơ tự do (thời ấy ít dùng) và ngôn ngữ nhân dân xây dựng những đoạn
kịch phản ánh một cách trào phúng xã hội Pháp với những bất công, thói

Đỗ Thị Kiều Hoa

6

Lớp K34 - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

chuyên quyền áp bức; lạc quan yêu cái lành mạnh, yêu thiên nhiên; thông cảm
với đau nỗi khổ đau của kể yếu hèn. La Phôngten tạo được một thế giới riêng,
loài vật và cỏ cây nói và hành động như con người. Những bài thơ Ngụ ngôn
ngắn gọn kết hợp với nhiều thể loại (bi kịch, hài kịch, hùng ca trữ tình, nghị
luận, triết lý)” [10; 263].
Trong cuốn Truyện ngụ ngôn La Phôngten, Nxb Văn hóa Thông tin,

2005 đã viết:
“Thật thích thú nếu làm một cuộc so sánh giữa từng câu chuyện mà La
Phôngten viết với nguyên mẫu của nó. Ta sẽ dễ dàng nhận ra được sự bắt
chước của La Phôngten không “mang tính lệ thuộc” mà đầy sáng tạo phong
phú mà nguyên bản không sánh kịp” [12; 14]
Ngoài những ý kiến đánh giá của các tác giả trong nước còn có ý kiến
đánh giá của một số tác giả trên khắp thế giới đã được dịch sang tiếng Việt:
Một nhà phê bình Liên Xô đã khẳng định: “Những Ngụ ngôn của La
Phôngten là sự nghiệp chính của đời ông La Phôngten. Bằng những Ngụ ngôn
đó ông nói ra tư tưởng sâu kín của mình mà ông đã cố nghiên cứu một cách
thận trọng”.
Nhà Văn học – sử học Mô Cunxki cho rằng Ngụ ngôn của La
Phôngten là “cả một phòng triển lãm thênh thang gồm những bức tranh của xã
hội Pháp hồi thế kỷ XVII” [2; 184].
Tennơ, triết gia, nhà phê bình văn học Pháp thế kỷ XVIII đã nhận xét
về La Phôngten như sau: “Ông là nhà thơ. Tôi tin rằng đối với người Pháp
chúng ta, ông thực sự là một nhà thơ chân chính. Hãy chú ý đến tính chất độc
đáo trong bản chất và cốt cách nghệ thuật của ông. Tác phẩm của ông là
những bức tranh sinh động về cuộc đời và xã hội Pháp thế kỷ XVII” [12; 15].
Nisơ – nhà văn thế kỷ XVIII nhận thấy tính giáo dục trong thơ Ngụ
ngôn La Phôngten phù hợp với mọi đối tượng thuộc các tầng lớp khác nhau

Đỗ Thị Kiều Hoa

7

Lớp K34 - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp


Trường ĐHSP Hà Nội 2

trong xã hội như sau: “độc giả ở mọi lứa tuổi đều đọc Ngụ ngôn La Phôngten.
Cùng trong những chuyện đó, tùy theo tuổi tác khi đọc sẽ rút ra từ tác phẩm,
sự thích thú những hiểu biết bổ ích, kinh nghiệm sống, cách xử thế phù hợp
với tâm lý và tuổi tác của mình”. Ông con viết: “sức hấp dẫn trong các câu
chuyện của ông được kích thích bằng những tình huống bất ngờ giống như
những kịch tính trong kịch bản sân khấu, có khác là khác ở chỗ tình tiết ngắn
hơn, sự say mê hào hứng kết thúc nhanh, người đọc thích thú vì chẳng những
đã thưởng thức những bất ngờ mà sau đó lại cảm thụ được ý nghĩa sâu sắc của
câu truyện” [12; 22].
Xanhtơ Bơvơ – nhà văn, nhà phê bình văn học Pháp thế kỷ XVIII thì
tìm thấy ở La Phôngten những cảm xúc chân thành, những băn khoăn, trăn trở
trước những vấn đề bức xúc trong xã hội đã bật thành lời nhưng không gay
gắt mà nhẹ nhàng, tế nhị: “Ông suy tưởng và viết bằng trái tim chân thành, có
những nhận xét tinh tế, vui, dí dỏm, cùng các ngôn ngữ dân gian giỏi, khéo
léo chọn hàm súc và có vần điệu” [12; 21].
Gúttavơ Lăngsông – nhà phê bình văn học Pháp thế kỷ XIX cho rằng:
“Giăng Giắc Rútxô và La Máctanh và một số ít người khác thường chê truyện
Ngụ ngôn của La Phôngten không có chức năng giáo dục. Họ chỉ thấy trong
tác phẩm những gương xấu ích kỷ, tàn ác, cục cằn, vụ lợi, lừa đảo… Ngoài
những lý do thành kiến cá nhân làm cho các nhà văn trên lạc hướng, phán xét
và suy diễn sai về ý nghĩa luân lý của những câu chuyện, họ còn rút ra từ
những câu chuyện những quy tắc giáo huấn, trong khi thực chất La Phôngten
chỉ nêu lên và đúc kết những điều nhận xét, những kinh nghiệm, những hiện
tượng có thật trong cuộc sống đời thường, để rồi qua đó người đọc dễ dàng
cảm thụ được ý nghĩa răn đời” [12; 24].
Lơ Sanoa Lơmơ – nhà phê bình văn học Pháp, nhà sư phạm phát biểu:
“Các chuyện ngụ ngôn Đông Tây nguồn gốc cổ điển là kho tàng chung của


Đỗ Thị Kiều Hoa

8

Lớp K34 - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

nhân loại. Có một nhà thơ đã công hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp làm
giàu thêm cái kho báu đó bằng sự tìm tòi quan sát rất khổ công, bằng trí tưởng
tượng tuyệt vời của mình, bằng tài năng độc đáo của mình, cuối cùng nhà thơ
đó đã làm nên một tác phẩm nghệ thuật bất hủ. Nhà thơ đó là La Phôngten và
tác phẩm của ông là một màn kịch trong: “Vở kịch hài muôn thủa hàng trăm
màn, mà bối cảnh chính là thế gian này”[12; 24].
Từ trước đến nay không phải ai cũng khen thơ La Phôngten, một số các
nhà thơ đương thời với ông và sau này cũng có nhiều ý kiến phê bình khác
nhau, chẳng hạn như:
Nhà thơ La Máctanh chê thơ Ngụ ngôn La Phôngten là “khập khiễng,
nhố nhăng…”, “không hài hòa”.
Giăng Giắc Rútxô thường chê thơ Ngụ ngôn La Phôngten không có
chức năng giáo dục. Ông thường thấy trong tác phẩm toàn những gương xấu
ích kỷ, tàn ác, cục cằn, vụ lợi, lừa đảo…
Trước một số ý kiến đánh giá về ngụ ngôn, La Phôngten trước sau chỉ
nói rằng: “Đa dạng và linh hoạt là phương châm của tôi”. Và trải qua hơn 3
thế kỷ tồn tại, Ngụ ngôn La Phôngten vẫn giữ được sức hấp dẫn của mình đối
với người đọc. Những bài học luân lý, đạo đức được thể hiện trong thơ ông

luôn khiến cho người xem tiếp nhận một cách thích thú đúng như mong muốn
của tác giả. Trong Lời tựa năm 1668 của tác phẩm mang tiêu đề rất khiêm tốn
(Những Ngụ ngôn chọn lọc chuyển thành thơ do Jean de La Fontaine). La
Phôngten đưa ra quan niệm của mình: “Ngụ ngôn gồm có hai phần: thể xác là
câu chuyện bịa, linh hồn là bài học đạo được rút ra từ câu chuyện ấy”. Tính
giáo dục trong thơ Ngụ ngôn La Phôngten là không thể phủ nhận được vì
thoạt đọc chỉ là những chân trời có giới hạn nhưng càng suy ngẫm càng thấy
tư tưởng sâu sắc, cao cả và có tầm vóc lớn tùy vào mỗi người cảm nhận mà
người đọc tự rút ra bài học cho bản thân mình.

Đỗ Thị Kiều Hoa

9

Lớp K34 - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Để góp phần nhỏ bé vào việc tìm hiểu Ngụ ngôn La Phôngten, tôi xin
phép được trình bày những hiểu biết của mình qua đề tài: “Vai trò của nhân
vật loài vật trong Ngụ ngôn La Phôngten”. Trên cơ sở đề cập đến những vấn
đề đạo đức, giáo dục tình cảm, giáo dục nhận thức cho học sinh Tiểu học - đối
tượng mà chúng tôi trực tiếp giảng dạy sau này.
6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
6.1. Giới hạn nội dung nghiên cứu
Bước đầu tập trung tìm hiểu vai trò của nhân vật loài vật trong Ngụ
ngôn La Phôngten và ý nghĩa của việc dạy Ngụ ngôn La Phôngten trong

trường Tiểu học.
6.2 Giới hạn phạm vi khảo sát
Trong khuôn khổ của một khóa luận tốt nghiệp, tôi chỉ đi sâu vào
nghiên cứu “Vai trò của nhân vật loài vật trong Ngụ ngôn La Phôngten”.
Để thực hiện đề tài này, tôi sử dụng cuốn Truyện ngụ ngôn La Phôngten, Nxb
Văn hóa Thông tin, 2005 do Nguyễn Văn Qua dịch, cuốn Ngụ ngôn chọn lọc,
Nxb Văn học, 1985 do Huỳnh Lý, Nguyễn Đình và Tú Mỡ dịch.
Nội dung vấn đề gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận.
Chương 2: Vai trò của nhân vật loài vật trong Ngụ ngôn La Phôngten.
Chương 3: Việc giảng dạy thơ Ngụ ngôn La Phôngten trong nhà
trường Tiểu học.
7. PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH
Để thực hiện đề tài này, trong việc sử dụng tài liệu khi nghiên cứu, xử
lý tôi đã dùng phương pháp:
- Phương pháp thống kê, khảo sát.
Đây là phương pháp tác giả khóa luận vận dụng để thống kê hệ thống
nhân vật loài vật trong Ngụ ngôn La Phôngten, những bài Ngụ ngôn của La

Đỗ Thị Kiều Hoa

10

Lớp K34 - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2


Phôngten trong chương trình Tiếng Việt ở Tiểu học để khảo sát, đánh giá
nhân vật loài vật trong Ngụ ngôn La Phôngten có vai trò như thế nào?
- Phương pháp phân tích.
Phương pháp này được tôi vận dụng để phân tích tình hình nghiên cứu
nhân vật loài vật đồng thời phân tích căn cứ vào số liệu thống kê khảo sát
trước khi rút ra những nhận xét, kết luận.
- Phương pháp tổng hợp.
Đây là phương pháp được tôi vận dụng để tổng hợp những vấn đề lí
luận về nhân vật nói chung, nhân vật loài vật nói riêng.
- Phương pháp này còn được tôi vận dụng để có thể rút ra những nhận
xét và kết luận đáng giá từ kết quả nghiên cứu.
- Ngoài những phương pháp trên tôi còn sử dụng các phương pháp
miêu tả, so sánh trong quá trình xử lí đề tài.

Đỗ Thị Kiều Hoa

11

Lớp K34 - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm nhân vật
Nhân vật là đối tượng chủ thể làm nên hành động. Các hành động của
nhân vật sẽ làm nảy sinh những biến cố, những mâu thuẫn trong tác phẩm.

Các mâu thuẫn gắn kết và móc xích với nhau để tạo nên cốt truyện. Vì vậy
người ta nói “nhân vật” là lực lượng tạo nên những diễn biến, nội dung của
tác phẩm. Đó là nhân vật nói chung , bên cạnh đó còn có các loại nhân vật cụ
thể như: nhân vật chính, nhân vật phụ… Về khái niệm nhân vật có các quan
điểm sau:
Theo Phương Lựu trong cuốn Lý luận văn học Nxb Giáo dục, 2002 thì:
“Nhân vật là yếu tố cơ bản nhất trong tác phẩm văn học, tiêu điểm để bộc lộ
chủ đề, tư tưởng chủ đề và đến lượt mình nó lại được các yếu tố có tính chất
hình thức của tác phẩm tập trung khắc họa. Do đó nhân vật là nơi tập chung
giá trị tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm văn học” [7; 109].
Lại Nguyên Ân trong cuốn 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội,1984 cho rằng: Nhân vật văn học là hình tượng nghệ thuật về con
người, một trong những dấu hiệu về sự tồn tại, toàn vẹn của con người trong
nghẹ thuật ngôn từ. Bên cạnh con người, nhân vật văn học có khi con là các
con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gắn những đặc điểm
giống con người. Nhân vật văn học là phương thức nghệ thuật nhằm khai thác
những nét thuộc đặc tính con người, nhân vật có ý nghĩa trước hết ở các loại
hình văn học tự sự và kịch. Các thành tố cấu tạo nên nhân vật gồm: hạt nhân
tinh thần của cá nhân, tư tưởng lợi ích đời sống, thế giới cảm xúc, ý chí, các ý
thức và hành động. Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật. Nó mang tính
ước lệ không bị đồng nhất với con người có thực ngay khi tác giả xây dựng
nhân vật với những nét rất gần với nguyên mẫu có thật. Nhân vật văn học là

Đỗ Thị Kiều Hoa

12

Lớp K34 - GDTH



Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

sự thể hiện quan niệm nghệ thuật về nhà văn về con người, nó có thể được
xây dựng chỉ dựa trên cơ sở qun niệm ấy. Nhân vật văn học là một trong khái
niệm trung tâm để xem xét sáng tác của một nhà văn, một khuynh hướng,
trường phái hay phong cách [1; 249]
Lại có những nhận định: “Nhân vật văn học là con người được miêu tả
thể hiện trong tác phẩm văn học bằng phương diện văn học. Khái niệm văn
học được sử dụng một cách ẩn dụ, không chỉ một con người cụ thể mà chỉ
một hiện tượng nổi bật trong tác phẩm” [7; tr 277].
“Nhân vật văn học đó không chỉ là con người, những con người có tên
hoặc không tên được khắc họa sâu đậm chỉ thoáng qua trong tác phẩm mà còn
có thể là những sự vật loài vật khác ít nhiều mang bóng dáng, tính cách của
con người được dùng như những phương thức khác nhau để biểu hiện con
người” [4; tr 102]
Các khái niệm trên đã nêu ra những đặc điểm của nhân vật văn học
nhưng khái niệm “nhân vật” của tác giả Lại Nguyên Ân trong cuốn 150 thuật
ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,1984 là đầy đủ và chuẩn xác hơn
cả vì nhân vật trong tác phẩm văn học không chỉ bó hẹp trong phạm vi con
người mà còn có các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gắn
với những đặc điểm giống với con người để tái hiện được cuộc sống phong
phú phức tạp của con người. Nếu nhân vật trong tác phẩm chỉ đơn thuần là
con người, xoay quanh mối quan hệ giữa con người và con người thì văn học
nghiêng về sự sao chép đơn điệu cuộc sống thực. Như vậy trái với bản chất
của văn học là loại hình nghệ thuật mang tính ước lệ sáng tạo, phản ánh hiện
thực cuộc sống. Cuộc sống của con người bao gồm nhiều mối quan hệ: Con
người với con người, con người với thiên nhiên loài vật… trong đó con người
là trung tâm.


Đỗ Thị Kiều Hoa

13

Lớp K34 - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Văn học đã biến hóa những cái không thể thành cái có thể, nó đã thổi
linh hồn vào: cỏ cây, loài vật, thần thánh, ma quỷ… biến những vật từ vô tri
bỗng nhiên có tình cảm, tính cách, hành động như con người.
Ví dụ: Con Cáo đại diện cho bản chất ranh ma xảo quyệt, lúc nào cũng
chất đầy trong mình những âm mưu hiểm ác, thâm độc nó luôn tỏ ra mình là
người thông minh, nhanh nhẹn, nó phản ánh cho bọn nịnh thần, chuyên bịp
bợm, lừa đảo…
1.2. Phân loại nhân vật
Trong tác phẩm văn học, thường có một hay nhiều nhân vật nhưng
không phải mọi nhân vật trong tác phẩm đều có vai trò như nhau trong kết cấu
và chủ đề của tác phẩm. Vì vậy người ta chia ra các loại nhân vật khác nhau:
1.2.1 Nhân vật chính, nhân vật phụ
“Nhân vật chính là nhân vật then chốt của cốt truyện, giữ vị trí trung
tâm trong việc thể hiện đề tài, chủ đề, tư tưởng của tác phẩm” [5; tr 193].
“Nhân vật phụ là nhân vật giữ vị trí thứ yếu so với nhân vật chính
trong đó diễn biến cốt truyện, trong quá trình triển khai đề tài, thể hiện tư
tưởng và chủ đề của tác phẩm. Nhân vật phụ thường gắn với tình tiết, sự kiện,
tư tưởng có tính chất phụ trợ, bổ sung”[5; tr 199].

Phương Lựu cho rằng: “Nhân vật chính là loại nhân vật giữ vai trò then
chốt trong việc tổ chức và triển khai tác phẩm. Tùy theo dung lượng và mật
độ vấn đề trong tác phẩm mà số lượng nhân vật chính nhiều hay ít. Nhân vật
phụ vừa có ý nghĩa làm nổi bật, rõ thêm nhân vật chính thông qua những quan
hệ đôi bên nhưng cũng có khi vừa có ý nghĩa tương đối độc lập nếu được
dùng để triển khai một khía cạnh, một chủ đề nào đó trong tác phẩm. Có thể
xếp vào nhân vật phụ những nhân vật xuất hiện thoáng qua chỉ cốt điểm xuyết
cho bối cảnh” [7; tr 1109].

Đỗ Thị Kiều Hoa

14

Lớp K34 - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Các tác giả trong cuốn Lý luận văn học Nxb Giáo dục, 2002 nhận định:
“Nhân vật chính là nhân vật đóng vai trò chủ chốt, xuất hiện nhiều lần, giữ vị
trí then chốt của cốt truyện hay tuyến cốt truyện. Đó là những con người liên
quan đến các sự kiện chủ yếu của tác phẩm, là cơ sở để tác giả triển khai đề
tài của mình. Nhân vật chính được khắc họa đầy đủ, có tình tiết, tiểu sử nhưng
cái chính là tập trung thể hiện đề tài và chủ đề của tác phẩm. Nhân vật phụ
mang các tình tiết sự kiện, tư tưởng có tính chất phụ trợ, bổ sung” [7; tr 283]
Như vậy, cả ba định nghĩa của tác giả đều cho rằng: Nhân vật chính là
nhân vật then chốt của cốt truyện, tập trung thể hiện đề tài và chủ đề của các
tác phẩm. Nhân vật phụ mang các tình tiết, sự kiện, tư tưởng có tính chất phụ

trợ, bổ sung. Tuy nhiên các tác giả: Phương Lựu – Trần Đình Sử - Nguyễn
Xuân Nam – Lê Ngọc Trà – La Khắc Hòa – Thành Thế Thái Bình cho rằng:
Nhân vật chính là những con người liên quan đến sự kiện chủ yếu… Thế
nhưng nhân vật chính trong tác phẩm văn học không chỉ là con người mà nó
còn là loài vật, sự vật, hiện tượng, thần thánh, ma quái… nên khái niệm về
nhân vật của nhóm tác giả Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi và
tác giả Phương Lựu là bao quát và chính xác hơn cả vì khái niệm này không
trình bày cụ thể là nhân vật chính, nhân vật phụ bao gồm những gì mà chủ
yếu đi sâu vào tính chất của từng loại nhân vật. Như vậy, nó sẽ giúp các tác
giả mở nhiều hướng khám phá trong cuộc sống.
1.2.2. Nhân vật chính diện, nhân vật phản diện.
Xét về tư tưởng, về quan hệ với lý tưởng xã hội lại có thể chia ra thành:
Nhân vật chính diện, nhân vật phản diện. Sự phân biệt nhân vật chính diện,
nhân vật phản diện gắn liền với những đối kháng trong đời sống xã hội, hình
thành trên cơ sở đối lập giai cấp và quan điểm tư tưởng. Các tác giả Lê Bá
Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi cho rằng: “Nhân vật chính diện là
nhân vật thể hiện các giá trị tinh thần, những phẩm chất tốt đẹp, những hành
vi cao cả của con người được nhà văn miêu tả, khẳng định đề cao trong tác

Đỗ Thị Kiều Hoa

15

Lớp K34 - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2


phẩm theo một quan điểm, tư tưởng, một lý tưởng xã hội, thẩm mỹ nhất
định”[5; tr 194].
“Nhân vật phản diện là nhân vật mang những phẩm chất xấu xa trái với
đạo lý và tư tưởng của con người được nhà văn miêu tả trong tác phẩm với
những thái độ chế giễu, lên án, phủ định” [5; tr 198]
Nhóm tác giả Phương Lựu – Trần Đình Sử - Nguyễn Xuân Nam – Lê
Ngọc Trà – La Khắc Hòa – Thành Thế Thái Bình cũng cho rằng: “Nhân vật
chính diện mang lý tưởng, quan điểm tư tưởng, đạo đức tốt đẹp của tác giả và
của thời đại. Đó là người mà tác giả khẳng định và đề cao như những tấm
gương về phẩm chất cao đẹp của con người một thời. Trái lại nhân vật phản
diện lại mang những phẩm chất xấu xa, trái với đạo lý và lý tưởng, đáng lên
án và phủ định. Như vậy hai loại nhân vật này luôn luôn đối kháng với nhau
như nước với lửa” [7; tr 284].
Phương Lựu đưa ra khái niệm: “Nhân vật chính diện hoặc nhân vật tích
cực, nhân vật phản diện hay nhân vật tiêu cực là được xét theo tiêu chuẩn tiêu
biểu hoặc chống đối những lý tưởng thẩm mỹ - đạo đức của nhân dân trong
nền văn học tiến bộ xưa nay của lý tưởng Cộng Sản trong nền văn học cách
mạng hiện đại” [7; tr 110].
Các khái niệm trên đều cho rằng nhân vật chính diện và nhân vật phản
diện là những phạm trù lịch sử, thể hiện mâu thuẫn đối khắng của con người
về mặt hành vi, phẩm chất đạo đức. Thực chất hai loại nhân vật này, tác giả
muốn thể hiện cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, xác định chuẩn mực giá
trị đạo đức trong quan hệ giữa con người với con người.
Qua ba khái niệm về nhân vật chính diện, nhân vật phản diện của các
nhóm tác giả thì khái niệm của nhóm tác giả Lê Bá Hán – Trần Đình Sử Nguyễn Khắc Phi là đầy đủ và bao quát hơn cả. Nhân vật chính diện là nhân
vật thể hiện các giá trị tinh thần, những phẩm chất tốt đẹp, những hành vi cao
cả của con người mà nhân vật gồm nhiều loại như: con người, sự vật, hiện
tượng, thần thánh…

Đỗ Thị Kiều Hoa


16

Lớp K34 - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA NHÂN VẬT LOÀI VẬT
TRONG NGỤ NGÔN LA PHÔNGTEN
Ngụ ngôn La Phôngten là một thế giới thu nhỏ sinh động và kỳ thú.
Nhân vật trong Ngụ ngôn của ông rất đa dạng và độc đáo. Số đông các nhân
vật trong Ngụ ngôn La Phôngten là nhân vật loài vật. Trong cuốn Truyện Ngụ
ngôn La Phôngten, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội do Nguyễn Văn Qua dịch
(2005) có 108 bài thì có tới 94 bài có nhân vật loài vật xuất hiện chiếm 87%
tổng số bài.
BẢNG THỐNG KÊ CÁC NHÂN VẬT LOÀI VẬT TRONG NGỤ NGÔN LA
PHÔNGTEN

STT

Tên truyện

Nhân vật loài vật

Trang

1


Ve và Kiến.

Ve, Kiến.

27

2

Quạ và Cáo.

Quạ, Cáo.

29

3

Ếch ương muốn to bằng Bò.

Ếch, Bò.

31

4

Hai con Lừa.

Lừa.

33


5

Chó Sói và Chó giữ nhà.

Chó Sói, Chó giữ nhà.

35

6

Cái túi đeo.

Khỉ, Gấu, Voi, Cá voi, Kiến,

37

Bọ.
7

Chim Nhạn và bầy chim nhỏ.

Chim Nhạn, Chim.

39

8

Chuột cống và Chuột đồng.


Chuột cống, Chuột đồng.

41

9

Chó Sói và Cừu non.

Chó Sói, Cừu.

43

10

Những tên trộm và con Lừa.

Lừa.

45

11

Tử thần và lão tiều phu.

12

Cáo và Cò.

13


Cây Sậy và Cây Sồi.

14

Hội đồng Chuột.

Đỗ Thị Kiều Hoa

47
Cáo, Cò.

48
50

Mèo, Chuột.

17

52

Lớp K34 - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

15

Khỉ xử kiện giữa Sói và Cáo.


Sói, Cáo, Khỉ.

54

16

Con Dơi và hai con Chồn.

Dơi, Chồn.

56

17

Chim Phượng hoàng và Bọ Phượng hoàng, Bọ hung,

58

hung.

Thỏ.

18

Bồ câu và Kiến.

Bồ câu, Kiến.

60


19

Sư tử và Mắt muỗi.

Sư tử, Mắt muỗi.

62

20

Con Lừa chở bọt biển và con Lừa

64

Lừa chở muối.
21

Sư tử và Chuột nhắt.

Sư tử, Chuột.

66

22

Thỏ và Ếch nhái.

Thỏ, Ếch nhái.


68

23

Gà trống và Cáo

Gà trống, Cáo.

70

24

Quạ muốn bắt chước Chim Quạ, Chim ưng.

72

ưng.
25

Công phàn nàn với hoàng hậu Công

74

Giu – nông.
26

Sư tử và Lừa đi săn.

Sư tử, Lừa.


27

Ông già say bột, cậu con trai

76
78

và con Lừa.
28

Chân Tay và Dạ Dày.

80

29

Chó Sói giả dạng người chăn Chó Sói, Cừu.

82

Cừu.
30

Bầy Ếch nhái kén vua.

Ếch nhái, Sếu.

84

31


Cáo và Dê.

Cáo, Dê

86

32

Chàng say rượu và vợ anh ta.

33

Sói và Cò.

Chó Sói, Cò.

90

34

Con Cáo và chùm nho.

Cáo

92

Đỗ Thị Kiều Hoa

88


18

Lớp K34 - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

35

Những con Sói và bầy Cừu.

Cừu ,Sói.

93

36

Con Sư tử già.

Sư tử, Ngựa, Chó Sói, Bò

95

rừng, Lừa
37

Mèo và Chuột già.


Mèo, Chuột.

97

38

Con Lừa và con Chó.

Lừa, Chó.

99

39

Con Sáo sậu trang điểm lông Sáo sậu, Công.

101

Công.
40

Con Lạc đà và những mẩu gỗ Lạc đà.

103

nổi lên mặt nước.
41

Nhái và Chuột.


Nhái, Chuột.

105

42

Con Cáo và tượng bán thân.

Cáo, Lừa.

107

43

Chó Sói, Dê mẹ và Dê con.

Chó Sói, Dê.

108

44

Chó Sói , người mẹ và đứa Chó Sói.

110

con nhỏ.
45


Chim Sơn ca, bầy chim con Chim Sơn ca.

112

và người chủ đồng.
46

Bình đất và Bình sắt.

115

47

Con Cá nhỏ và người đi câu

Cá.

117

48

Con Cáo cộc đuôi.

Cáo.

119

49

Ngựa và Chó Sói


Ngựa, Chó Sói.

121

50

Người nông dân và các con

51

Con Gà đẻ trứng vàng.



125

52

Con Lừa mang kiệu thánh.

Lừa

126

53

Con Rắn và cái dũa.

Rắn


128

54

Sư Tử và cuộc chiến tranh.

Sư tử, Voi, Gấu, Cáo, Khỉ,

130

123

Lừa, Thỏ.

Đỗ Thị Kiều Hoa

19

Lớp K34 - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

55

Gấu và hai chàng lái buôn.


Gấu.

132

56

Lừa đội lốt Sư tử.

Lừa.

134

57

Sư tử và mục đồng.

Sư tử, Sói, Bê, Bò.

135

58

Lừa và các ông chủ của nó.

Lừa.

137

59


Người nhà quê và con Rắn.

Rắn.

139

60

Sư tử ốm và Cáo.

Sư tử, Cáo.

141

61

Ngựa và Lừa.

Ngựa, Lừa.

143

62

Người phu xe bị sa lầy.

63

Tên bịp bợm bẻm mép.


64

Gái góa trẻ.

149

65

Muông thú nhiễm bệnh dịch Sư tử, Cáo, Hổ, Gấu Lừa.

151

145
Lừa.

147

hạch.
66

Con Chuột ẩn dật.

Chuột, Mèo.

154

67

Con Diệc.


Diệc, Rô.

156

68

Triều đình Sư tử.

Sư tử, Gấu, Khỉ, Cáo.

158

69

Cỗ xe và Ruồi trâu.

Ruồi trâu.

160

70

Cô gái và bình sữa.

71

Chàng trai và con Rận.

72


Thần Chết và ông lão hấp hối.

166

73

Nhà tư bản và thợ chữa giày.

168

74

Con Gấu và ông lão làm Gấu, Ruồi.

171

162
Rận.

164

vườn.
75

Tang lễ Sư tử cái.

Sư tử, Hươu.

173


76

Lừa và Chó.

Lừa, Chó.

175

77

Sự hơn hản của trí thức.

Mèo, Chuột, Chồn, Cú Mèo.

178

78

Mèo và Chuột.

Mèo

180

Đỗ Thị Kiều Hoa

20

Lớp K34 - GDTH



Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

79

Chó Sói và người thợ săn.

Hươu, Lợn rừng, Sói.

182

80

Đôi Bồ câu.

Bồ câu, Quạ, Kền Kền,

184

Chim ưng.
81

Khỉ và Báo.

Khỉ, Báo.

187


82

Quả Sồi và Bí ngô.

83

Con Sò và Người đi kiện.

Sò.

191

84

Chó Sói và Chó gầy.

Sói, Chó.

193

85

Mèo và Cáo.

Mèo, Cáo.

195

86


Khỉ và Mèo.

Khỉ, Mèo.

197

87

Người và Rắn độc.

Rắn, Bò.

199

88

Rùa và đôi Vịt trời.

Rùa, Vịt.

202

89

Chó Sói và những người chăn Sói.

189

204


Cừu
90

Nhện và chim Nhạn.

Nhện, chim Nhạn.

206

91

Vì ai con Chó bị cắt tai.

Chó.

208

92

Sư tử và Gấu cái.

Sư tử, Gấu.

210

93

Con Sư tử

Báo, Sư tử, Cáo.


212

94

Người chủ trại, Chó giữ nhà Cáo, Chó.

214

và Cáo.
95

Giác mộng của anh chàng xứ

216

Mô – gun.
96

Ông già và ba chàng trai trẻ.

218

97

Sói và Cáo.

98

Chim Phượng hoàng và chim Chim Ác là, Phượng hoàng.


Cáo, Sói.

220
222

Ác là.
99

Cáo, những con Ruồi và

Cáo, Ruồi, Nhím.

224

Nhím.

Đỗ Thị Kiều Hoa

21

Lớp K34 - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

100 Cáo, Chó Sói và Ngựa.


Cáo, Chó Sói, Ngựa.

226

101 Cáo và những con Gà tây.

Cáo, Gà.

228

102 Chuột và Voi.

Chuột, Voi, Mèo.

230

103 Chuột và Sò.

Chuột, Sò.

232

104 Nhà hiền triết.

234

105 Hai con Dê cái.

Dê.


236

106 Mèo và hai con chim Sẻ.

Mèo, chim Sẻ.

238

107 Hươu soi mình trong bóng Hươu.

240

nước
108 Thỏ và Rùa

Thỏ, Rùa.

242

(Theo Truyện Ngụ ngôn La Phôngten do Nguyễn Văn Qua dịch, Nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2005)
Thiên nhiên trong Ngụ ngôn La Phôngten thì được miêu tả một cách
đầy cảm hứng, những vật vô tri như dòng suối, khu rừng … đều sống động có
hồn. Đến cả những đồ vật quen thuộc của người dân lao động như cái rìu, cái
nồi… cũng mang tâm tư, tình cảm như con người. Bên cạnh những nhân vật
ấy còn có những nhân vật là thần tiên, ma quỷ hay con người đó là thần Héc –
quyn, thần Giupie, thần Chết… hay bác tiều phu, bác thợ giày…
Thế giới nhân vật loài vật trong Ngụ ngôn La Phôngten rất đa dạng và
phong phú với đầy đủ các loài vật khác nhau, từ con vật chốn rừng xanh (Sư
Tử, Hổ, Cáo, Sói, Ngựa, Gấu, Khỉ, Lừa…) thế giới côn trùng (Ruồi trâu, Mắt

muỗi, Ve, Kiến, Rận…) thế giới các loài chim (Phượng hoàng, Nhạn, Sẻ,
Công, Quạ…) đến các con vật gần gũi quen thuộc xung quanh chúng ta (Chó,
Mèo, Gà, Chuột…) Qua ngòi bút của La Phôngten mọi nhân vật đều có hồn,
ông đã thổi vào đó một luồng sinh khí mới biến chúng trở thành một con
người thực sự - chúng biết nói, biết vui, buồn, giận hờn và chúng phản ánh rõ

Đỗ Thị Kiều Hoa

22

Lớp K34 - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

rệt tính cách của đủ hạng người trong xã hội. Chính điều đó đã làm nên nét
đặc sắc cũng như sự khác biệt giữa thể loại ngụ ngôn với các thể loại khác mà
chúng ta không thể nhầm lẫn được. La Phôngten đã nói: “Tôi dùng thú vật để
dạy người” ông đã lồng ghép, đan xen qua những nhân vật đó những câu
chuyện, bài học hữu ích để răn đời.
Nhân vật loài vật trong Ngụ ngôn La Phôngten luôn phản ánh hiện thực
của cuộc sống. Qua lăng kính của mình ông đã cho người đọc thấy đủ những
tầng lớp của xã hội, từ những người dân “thấp cổ bé họng” đến những ông
hoàng “đức cao vọng trọng”, từ những kẻ gian trá, xảo quyệt đến những
người ngốc nghếch, ngu si… Và ẩn sau những nhân vật ấy là sự mục nát của
xã hội lúc bấy giờ - bất công vô số và những kẻ a dua nịnh bợ thì đầy dẫy.
Ngụ ngôn La Phôngten không chỉ đem lại niềm vui, tiếng cười cho bạn
đọc mà còn thấm đẫm triết lý sâu xa mang theo bài học đạo đức sâu sắc. Đằng

sau những câu chuyện cười tưởng như vô bổ đó lại là sự suy ngẫm để rút ra
bài học cho riêng mình. Sáng tác thơ Ngụ ngôn, La Phôngten muốn dựng lên:
“ Một tấn hài kịch quy mô với hàng trăm hồi khác nhau
Mà sân khấu là cả thế gian.”
Như ông đã nói:
“Tôi cố gắng biến cái xấu thành cái lố bịch
Vì không thể tấn công nó bằng cánh tay của Héc - quyn”
La Phôngten – “một con người đã đọc tất cả” bằng cách gắn mình vào
cuộc sống thực tiễn, ông đã khám phá, cần mẫn như một con ong chăm chỉ
hút nhụy trăm hoa cóp nhặt từ khắp nơi kể cả các tác phẩm của những nhà thơ
không có tiếng tăm để là tư liệu, cơ sở cho bài viết của mình. La Phôngten
hiểu rõ sự sáng tạo không nằm trong chất liệu mà trong cách thể hiện:
“ Một bài học luân lý trần trụi mang đến sự buồn tẻ
Câu chuyện tìm cách để tuồn vào trong nó lời khuyên giáo

Đỗ Thị Kiều Hoa

23

Lớp K34 - GDTH


Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Bằng cái lối giả vờ ấy, mà tiến hành giáo dục và mua vui
Kể chuyện để mà kể chuyện hình như tôi ít quan tâm”
2.1 Thông qua nhân vật loài vật La Phôngten đã lồng ghép vào đó những
bài học đạo đức để răn đời

Thế giới nhân vật loài vật trong Ngụ ngôn La Phôngten vô cùng đặc
sắc, bằng tuyến nhân vật đó ông đã đào sâu, khai thác một cách triệt để sự độc
đáo của ngụ ngôn. Thời kỳ La Phôngten viết ngụ ngôn là thời kỳ quân chủ
chuyên chế đã trở thành phản động, quần chúng nhân dân rên xiết dưới ách
thống trị của tầng lớp quý tộc thượng lưu và mâu thuẫn xã hội trở lên gay gắt.
Thế giới ngụ ngôn của ông tái hiện lại hiện thực xã hội đó với đủ mọi hạng
người, đủ mọi thói hư tật xấu đều được đem ra mổ xẻ nhằm phê phán và sửa
chữa. Ông không chọn cách viết trực tiếp mà muợn hình ảnh loài vật để nói
về con người. La Phôngten đã khẳng định: “…những ngụ ngôn này là bức
tranh mà mỗi người đều thấy mình được vẽ lên ở đó”. Ông đã biến các nhân
vật: Sư tử, Cáo, Sói, Lừa… thành các nhân vật của một vở kịch hài hước cô
đúc đến cao độ. Ông từng nói:
“Truyện ngụ ngôn tùy theo cách kể
Truyện ngắn thôi hoặc kể dài dòng
Phỏng theo (hoặc) sáng tác tùy lòng
Phải vui câu chuyện, phải răn được đời ”
La Phôngten đã vẽ lên những con người của thời đại mình bằng một
bức tranh rất sinh động với đầy đủ màu sắc vốn có của nó. Từ những vị vua
tai to mặt lớn, những tên nịnh thần xum xoe, khúm lúm, những người nông
dân bé nhỏ, cam chịu…tất cả chỉ bằng hình ảnh loài vật thân thương.
Đầu tiên chúng ta hãy đến với những vị vua đứng đầu thiên hạ xem
chúng trị vì thần dân của mình như thế nào. Nhân vật thường đóng vai trò
nhân vật chính, được mệnh danh là chúa tể rừng xanh phải kể đến đó là Sư tử.

Đỗ Thị Kiều Hoa

24

Lớp K34 - GDTH



Khóa luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Chúng ta bắt gặp một con Sư tử kiêu ngạo, hống hách, nghênh ngang trong Sư
tử và Muỗi mắt. Cậy mình to khỏe lại là người đứng đầu muông thú nên Sư tử
đã tỏ ra kiêu căng, hợm hĩnh, khinh thường “đồ muỗi mắt yếu hèn trên trái
đất ”. Với sự ngạo nghễ đó Sư tử đã một phen khốn đốn trong trận chiến với
Muỗi và phải chịu một bài học thích đáng:
“Muỗi liên tiếp đốt cổ, tai, mũi mắt
Vuốt nanh mình, tự cắn xé mình rách nát,
Máu ra nhiều, Sư tử chết nhe răng! ”
Sau khi thắng cuộc thì Muỗi mắt lại trở thành một “con Sư tử thứ hai”
huênh hoang, vênh váo và cũng phải chịu kết cục bi thương:
“ Bay đó, bay đây khải hoàn ca rộn rã
Trên đường bay sa vào lưới nhện chăng ”
Ở cuối bài La Phôngten đã kết lại hai chân lý vô cùng sâu sắc đó là:
“Một nói rằng: Trong những kẻ thù ta
Kẻ nhỏ nhất nhiều khi nguy hiểm nhất
Hai nói lên: Chuyện lớn lao nguy ngập
Vượt được qua mà chuyện nhỏ thì không
Chuyên bình thường mà dẫn tới diệt vong! ”
Không nặng về lý thuyết sáo rỗng, chỉ qua một câu chuyện tưởng
chừng để mua vui mà La Phôngten một bài học với nội dung giáo dục sâu sắc
đến bất ngờ.
La Phôngten đã miêu tả nhân vật Sư tử ở mọi góc cạnh lúc hống hách,
độc đoán, chuyên quyền trong Triều đình vua Sư Tử, Tang lễ của Sư tử cái…
lúc lại ngây thơ, ngốc nghếch, si tình trong Sư tử mê gái…
Không phải trong Ngụ ngôn của La Phôngten con Sư tử nào cũng xấu

xa, độc đoán mà trong Sư tử và Chuột Nhắt nó mang dáng dấp của bậc bề trên
độ lượng và hào hiệp. Và cũng nhân vật Sư tử đó trong bài Sư tử và cuộc

Đỗ Thị Kiều Hoa

25

Lớp K34 - GDTH


×