Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Tìm hiểu thực trạng động cơ học tập của học sinh lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.11 KB, 66 trang )

Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
Đất nước ta đang trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
thời kì hội nhập kinh tế quốc tế, thời kì xây dựng nền kinh tế tri thức, ...nên
ngay từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định:
"Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu
nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài[10, 107]. Mà
trong hệ thống giáo dục quốc dân thì "giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh
hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo
đức, trí tuệ, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để tiếp tục học trung học cơ sở[5,
30]. Do đó, bậc tiểu học là bậc học rất quan trọng và nó có ảnh hưởng trực tiếp
đến tương lai đất nước.
Trong sự phát triển nhân cách học sinh, vấn đề động cơ là vấn đề trung
tâm trong cấu trúc của nhân cách. Và chiều hướng phát triển của nhân cách
cũng phụ thuộc rất nhiều vào động cơ. Do đó, để hình thành cho trẻ em những
cơ sở ban đầu của nhân cách con người Việt Nam hiện đại thì việc nghiên cứu
động cơ và việc hình thành động cơ học tập đúng đắn cho học sinh là một điều
rất cần thiết.
Động cơ học tập thúc đẩy con người suy nghĩ và hành động học tập,
vượt qua những khó khăn để đạt được mục đích học tập. Động cơ học tập khó
tự nhiên mà có, nó phải được hình thành chính trong quá trình hoạt động học
tập của người học.
Trong thực tế học tập, nhiều học sinh đạt kết quả cao như nhau nhưng
lại được thúc đẩy bằng những động cơ học tập khác nhau như: do lòng ham
học hỏi, do mong muốn đươc khen, được thưởng, mong muốn cha mẹ vui lòng
hay mong mình sẽ giỏi hơn bạn,... nhưng vấn đề là cần giáo dục cho học sinh
những động cơ đúng đắn, những động cơ gắn liền với nội dung dạy học, làm
cho những động cơ đó chiếm vị trí chủ đạo trong cấu trúc động cơ học tập của

1



học sinh. Do đó, việc nghiên cứu để nắm được thực trạng động cơ học tập của
học sinh là vô cùng cần thiết.
Và lớp 3 là giai đoạn nối tiếp giữa giai đoạn đầu tiểu học và giai đoạn
thứ hai tiểu học. Nên tôi chọn đề tài: "Tìm hiểu thực trạng động cơ học tập của
học sinh lớp 3 để góp phần làm rõ thêm động cơ học tập ở giai đoạn trung
gian của quá trình dạy học.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài này nhằm phát hiện động cơ học tập của học sinh lớp 3. Trên cơ
sở đó, đề xuất một số biện pháp nhằm góp phần hình thành động cơ học tập
tích cực cho học sinh.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng động cơ học tập của học sinh lớp 3.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Tôi tiến hành nghiên cứu 37 học sinh lớp 3A1 và 35 học sinh lớp 3A2 ở
trường Tiểu học Xuân Hoà tại phường Xuân Hoà, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh
Phúc.
4. Giả thuyết khoa học
Hoạt động học tập của học sinh lớp 3 được thúc đẩy bởi nhiều động cơ
khác nhau tạo thành một hệ thống động cơ. Trong đó có những động cơ học
tập đóng vai trò chủ yếu và những động cơ học tập đóng vai trò thứ yếu.
Học sinh có động cơ học tập ưu thế khác nhau thì biểu hiện về thái độ
học tập cũng khác nhau.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu những vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài.
5.2. Phát hiện và phân tích động cơ của học sinh lớp 3.
5.3. Đề xuất một số biện pháp nhằm phát triển động cơ học tập của học
sinh.


2


6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp quan sát
Tôi tiến hành quan sát và ghi biên bản các tiết học. Qua biểu hiện hành
vi, hành động, thái độ của học sinh, ta có thể đánh giá được phần nào động cơ
học tập của học sinh. Mặc dù, đây là một công việc rất khó khăn vì động cơ là
cái bên trong mỗi học sinh. Nhưng đối với học sinh tiểu học thì nhu cầu, động
cơ học tập thường dễ bộc lộ qua thái độ, qua quan hệ của học sinh đối vối việc
học.
Cùng với việc quan sát học sinh ở trên lớp, tôi gửi phiếu điều tra đến
cha mẹ học sinh và đề nghị cha mẹ học sinh theo dõi hoạt động học tập của
các em khi ở nhà và đánh dấu vào phiếu đã được in sẵn những biểu hiện cụ thể
của học sinh.
6.2. Phương pháp trò chuyện
Tôi tiến hành trò chuyện với các em theo nội dung đã chuẩn bị trước.
6.3. Phương pháp điều tra
Tôi tiến hành điều tra động cơ học tập của học sinh qua các phiếu
điều tra, phiếu bài tập (phần phụ lục).
6.4. Phương pháp thống kê toán học
7. Phạm vi nghiên cứu
Mỗi một lứa tuổi, một cấp học, một lớp học lại có động cơ học tập khác
nhau. Do thời gian và điều kiện có hạn nên đề tài đi sâu tìm hiểu động cơ học
tập của học sinh lớp 3 trường Tiểu học Xuân Hoà.
8. Cấu trúc khoá luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và phần tài liệu tham khảo
thì nội dung chính của khoá luận gồm:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Thực trạng động cơ học tập của học sinh lớp 3


3


Nội dung
Chương 1. Cơ sở lí luận
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài khoá
luận
Động cơ học tập là một trong những vấn đề quan trọng của tâm lí học
và giáo dục học. Nó là yếu tố thúc đẩy hoạt động học tập và quyết định chất
lượng của hoạt động này. Việc nghiên cứu động cơ học tập có ý nghĩa quan
trọng cả về lí luận và thực tiễn. Nó giúp ta xác định được phương tiện, phương
pháp tác động có hiệu quả đến hoạt động học tập của con người. Do đó, động
cơ học tập đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà tâm lí học trong nước và trên
thế giới.
1.1.1. Các công trình nghiên cứu động cơ học tập của học sinh ở
nước ngoài
Vấn đề động cơ đã được nhiều nhà tâm lí học trên thế giới nghiên cứu
như: B.G. Ananhiép, X.L. Rubinstein, A.N. Lêônchiev, L.I. Bozovic,...
X.L. Rubinstein đã mô tả các loại động cơ học tập của học sinh biểu
hiện ra bên ngoài thông qua hứng thú học tập của học sinh.
A.N. Lêônchiev với công trình: Sự phát triển động cơ học tập của học
sinh.
L.I. Bozovic cùng với M.G. Mozova và L.S. Slavina đã tiến hành nghiên
cứu Sự phát triển động cơ học tập của học sinh Liên Xô bắt đầu từ trẻ mẫu
giáo cho đến học sinh lớp cuối cấp phổ thông trung học.
A.K. Markova không chỉ phân tích động cơ học tập là gì, phân loại nó
mà còn chỉ ra những biểu hiện của động cơ học tập, những phương pháp
nghiên cứu động cơ học tập của học sinh, giúp giáo viên có thể nhận biết,
nghiên cứu và giáo dục động cơ học tập của học sinh nhằm nâng cao chất

lượng giáo dục.

4


1.1.2. Các công trình nghiên cứu động cơ học tập của học sinh ở
trong nước
ở Việt Nam, vấn đề động cơ học tập cũng được nhiều tác giả nghiên
cứu như: Đặng Xuân Hoài, Đỗ Ngọc Lan, Phạm Thị Nguyệt Lãng, Nhâm Văn
Chăn Con,... Cụ thể:
Từ năm 1976, tác giả Đặng Xuân Hoài với báo cáo:Vấn đề động cơ và
nhân cách và sau này tác giả cùng cộng sự của mình đã nghiên cứu về vấn đề
động cơ xã hội ở lứa tuổi học sinh cấp I và cấp II.
Năm 1980, tác giả Lê Đức Phúc đã nghiên cứu về vấn đề động cơ học
tập của học sinh lưu ban. Năm 1982, tác giả Nguyễn Xuân Bính với báo cáo
Phân tích động cơ nghề nghiệp của học sinh, tác giả Bùi Văn Huệ, Lí Minh
Tiến với Tìm hiểu đặc điểm động cơ giải bài tập của học sinh.
Năm 1986 có tác giả Phạm Thị Nguyệt Lãng đã nghiên cứu về vấn đề
động cơ vì xã hội ở học sinh cấp III.
Trong luận án của mình, tác giả Nhâm Văn Chăn Con cũng đã tìm hiểu
động cơ học tập của học sinh cấp II.
ở bậc tiểu học có công trình nghiên cứu động cơ học tập của học sinh
lớp 1 dưới ảnh hưởng của phương pháp nhà trường của tác giả Trịnh Quốc
Thái. Rồi luận án Thạc sĩ Tìm hiểu động cơ học tập của học sinh lớp 5 của
thầy Lê Xuân Tiến.
Vậy vấn đề động cơ học tập là vấn đề được rất nhiều tác giả quan tâm.
Và hầu hết các tác giả có công trình nghiên cứu đều cho rằng: Hoạt động học
tập của học sinh được thúc đẩy bằng một hệ thống các động cơ và các động cơ
đó liên quan đến nhau, kết hợp với nhau để cùng tác động đến hoạt động học
tập của học sinh. Trong đó có một số động cơ giữ vai trò chủ đạo, còn lại là

những động cơ thứ yếu.
Như vậy, động cơ học tập của học sinh đã được nghiên cứu tương đối
sâu sắc cả về lí luận và thực tiễn. Và qua đó, ta cũng có được nhiều tư liệu

5


quý. Tuy nhiên, vấn đề nghiên cứu động cơ học tập của học sinh tiểu học vẫn
chưa nhiều. Đề tài nghiên cứu của tôi sẽ góp phần làm rõ thêm động cơ học
tập của học sinh lớp 3 là giai đoạn trung gian của lứa tuổi học sinh tiểu học.
1.2. Một số quan điểm về động cơ trong tâm lí học
Theo Từ điển Tiếng Việt thì: Động cơ là cái có tác dụng chi phối, thúc
đẩy người ta suy nghĩ và hành động [7, 334].
Trong tâm lí học, động cơ là một vấn đề quan trọng và phức tạp. Về mặt
lí luận có nhiều quan điểm khác nhau về động cơ tâm lí người. Để hiểu rõ hơn
ta điểm qua những quan điểm về động cơ của hai dòng phái tâm lí: dòng phái
tâm lí học phương Tây và dòng phái tâm lí học Mác xít.
1.2.1. Quan niệm về động cơ của dòng phái tâm lí học phương Tây
Các nhà tâm lí học hành vi (J. Watson, B. Skinner, E. Tolmal,...) đưa ra
mô hình kích thích - phản ứng coi kích thích là nguồn tạo ra phản ứng - là
động cơ. Họ giải thích nguồn gốc của động cơ hành vi là những lực trừu tượng
khó nhận biết, là bản năng vô thức.
Theo thuyết phân tâm học (S. Freud, A. Atler,...) lại cho rằng: động lực
thúc đẩy hoạt động của con người là vô thức, nguồn gốc vô thức là những bản
năng nguyên thuỷ mang tính chất sinh vật và nhấn mạnh vai trò của các xung
năng tính dục.
Các nhà tâm lí học cấu trúc (K. Lewin, K. Lissner,...) xem động cơ chỉ
là sự tác động qua lại giữa những nội lực ở bên trong với trường lực ở bên
ngoài. Các nhà tâm lí học cấu trúc hiểu tâm lí người như là một trường lực nào
đó và tất cả những thay đổi của động cơ được họ giải thích như là sự tương tác

giữa các lực nằm bên trong trường lực này, phủ nhận sự tác động của thế giới
bên ngoài, coi thường kinh nghiệm của con người, đánh giá thấp những đặc
điểm của nhân cách.
Nhìn chung, các nhà tâm lí học phương Tây đã đứng trên bình diện của
khoa học tự nhiên để nghiên cứu về động cơ hành vi con người, vẫn coi động

6


cơ tâm lí người chỉ là những kích thích mang tính chất bản năng sinh học và
tạo ra một cách bẩm sinh. Những hạn chế này của các nhà tâm lí học phương
Tây có nguyên nhân cơ bản là sai lầm của phương pháp luận trong quá trình
nghiên cứu. Họ nghiên cứu tâm lí con người ở trạng thái siêu hình tách rời
khỏi hoạt động, tách rời khỏi các mối quan hệ xã hội mà nó đang sống.
1.2.2. Quan niệm về động cơ của dòng phái tâm lí học Mác xít
Dòng phái tâm lí học Mác xít với những nhà tâm lí học tiêu biểu như:
L.X. Vưgôtxki, X.L. Rubinstêin, A.N. Lêônchiev, A.N. Luria,... Dòng phái
tâm lí học Mác xít lấy triết học Mác - Lênin là cơ sở lí luận và phương pháp
luận, xây dựng nền tâm lí học lịch sử người. Tâm lí học Mác xít nghiên cứu
từng con người cụ thể đang sống trong một hoàn cảnh xác định nào đó cụ thể.
Bởi mọi hoạt động của mọi cá nhân đều đặt trong một hệ thống quan hệ xã
hội. Nên muốn hiểu tâm lí của một người nào đó, trước hết phải đi từ cuộc
sống thực của người đó. Với sự ra đời của tâm lí học Mác xít thì vấn đề động
cơ hoạt động của con người đã có cơ sở lí luận và phương pháp luận để phát
triển và ngày càng được các nhà tâm lí học quan tâm. Như:
Năm 1926, L.X. Vưgôtxki đã xác định phải xây dựng một khoa học về
hành vi con người xã hội. Và ông đã nêu ra một quan điểm: hoạt động bên
trong và hoạt động bên ngoài có cùng một cấu trúc duy nhất. Tuy L.X.
Vưgốtxki chưa nêu rõ được về vấn đề động cơ hoạt động của con nhưng ông
đã xây dựng cơ sở lí luận và phương pháp luận để từ đó hàng loạt các công

trình nghiên cứu về động cơ hoạt động con người ra đời.
L.X. Rubinstêin đã xây dựng những luận điểm chung về động cơ hoạt
động thông qua việc phân tích những dạng hoạt động cụ thể. Tuy nhiên, vấn
đề động cơ chủ yếu vẫn trên bình diện lí luận.
A.G. Seev không nêu lên động cơ là gì mà chỉ nêu lên vai trò của động
cơ. Ông còn phát hiện ra động cơ quá trình và động cơ kết quả.

7


A.N. Lêônchiev đã khởi thảo một lí thuyết chung về động cơ. ở đó, tác
giả đã xem xét vấn đề động cơ xuất phát từ việc phân tích quá trình tạo thành
ý thức con người trong sự phát sinh cá thể. Ông quan tâm đặc biệt đến mối
quan hệ giữa động cơ và nhu cầu. Theo ông, động cơ như là đối tượng của
hoạt động trong đó những nhu cầu của con người được cụ thể hoá. Hay theo
A.N. Lêônchiev không phải nhu cầu, không phải sự trải nghiệm về nhu cầu là
động cơ của hoạt động, mà động cơ là một khách quan mà trong đó nhu cầu
tìm thấy bản thân mình trong những điều kiện nhất định cái khách quan ấy
làm cho hoạt động thành hoạt động có đối tượng và là cái hướng hoạt động
vào một kết quả nhất định. [1, 305].
Và A.N. Lêônchiev cho rằng: động cơ hoạt động của con người cực kì
đa dạng nảy sinh từ những nhu cầu, hứng thú khác nhau, một hoạt động có thể
có nhiều động cơ thúc đẩy. Và trong cấu trúc của hoạt động, các động cơ này
được sắp xếp theo một hệ thống có thứ bậc.
Ông chia hệ động cơ thành: động cơ tạo ý và động cơ kích thích. Và
theo ông, động cơ có hai chức năng. Đó là: thúc đẩy, hướng dẫn hoạt động và
tạo ra cho hoạt động có ý của chủ thể.
Những luận điểm trên đây của nhà tâm lí học A.N. Lêônchiev về vấn đề
động cơ hoạt động chủ yếu vẫn trên bình diện lí luận. Tuy nhiên, nó là cơ sở
cở cho các công trình nghiên cứu thực nghiệm sau này.

Qua những quan điểm trên ta thấy:
Hầu hết những nhà tâm lí học Mác xít đều cho rằng: muốn tìm hiểu
tâm lí người nói chung và hoạt động học tập nói riêng thì phải đi từ cuộc sống
thực, đi từ phân tích các dạng hoạt động và những mối quan hệ của nó đối với
xã hội.
Các tác giả đều đề cập đến mối quan hệ giữa nhu cầu và động cơ.
Và trong quá trình nghiên cứu động cơ ở trong cuộc sống thực, các tác
giả đều nhận thấy: một hoạt động hay giao tiếp của con người có một hệ thống

8


động cơ thúc đẩy. Hệ thống này được sắp xếp theo thứ bậc, có những động cơ
giữ vai trò chủ đạo, có những động cơ lại giữ vai trò thứ yếu trong hình thành,
định hướng nhân cách con người.
Trong các tác giả thì có một số tác giả đã đi đến phân loại động cơ.
Nhưng mỗi tác giả lại đứng trên các bình diện khác nhau để phân loại động
cơ. Nhưng chính sự khác nhau nhau đó giúp ta hiểu đầy đủ hơn, có cái nhìn
chính xác hơn về động cơ. Tuy nhiên sự phân chia động cơ chỉ có ý nghĩa về
mặt lí thuyết còn thực tế thì ta khó có thể tách ra để phân loại động cơ một
cách rạch ròi. Bởi động cơ là một vấn đề phức tạp và động cơ của con người
luôn ẩn mình, luôn ở bên trong nên ta rất khó có thể xét đoán về lượng.
1.3. Hoạt động học tập của học sinh tiểu học
Hoạt động học tập là một loại hoạt động đặc thù của con người được
điều khiển bởi mục đích tự giác để lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mới,
những hình thức hành vi và những dạng hoạt động nhất định [3, 20].
Hay: Hoạt động học tập là hoạt động được thực hiện theo phương thức
nhà trường, do người học thực hiện dưới sự hướng dẫn của thầy giáo nhằm tiếp
thu tri thức, khái niệm khoa học và hình thành kĩ năng, kĩ xảo tương ứng, phát
triển trí tuệ và năng lực con người để giải quyết các nhiệm vụ cuộc sống đặt

ra.[9, 148].
Thông thường, các hoạt động khác hướng vào làm thay đổi khách thể.
Trong khi đó, hoạt động học tập hướng vào làm thay đổi chủ thể của hoạt
động này. Hoạt động học tập là hoạt động tiếp thu (lĩnh hội) những nội dung
và hình thức lí luận của tri thức và kĩ năng, kĩ xảo tương ứng với chúng [3].
Để hình thành hoạt động học tập cho học sinh cần hình hành động cơ
học tập, hình thành mục đích học tập và hình thành các hành động học tập.
Hoạt động học tập có đối tượng là tri thức khoa học, đối tượng này là
nơi hiện thân của động cơ học tập. Hay nói cách khác động cơ học tập của học
sinh được hiện thân ở tri thức, kĩ năng... Đối tượng học tập được cụ thể hoá ở

9


nội dung học tập của học sinh. Nội dung đó chính là các khái niệm khoa học.
Và học sinh lĩnh hội các khái niệm khoa học thông qua việc giải quyết các
nhiệm vụ học tập. Nhiệm vụ học tập là hình thức cụ thể hoá nội dung học
thành mục đích học tập và phương tiện đạt mục đích đó. Việc giải quyết các
nhiệm vụ học tập tạo cho mỗi học sinh một năng lực mới thể hiện ở kết quả
học tập.
Học sinh thực hiện nhiệm vụ học tập bằng các hành động học tập như:
hành động phân tích, hành động mô hình hoá, hành động cụ thể hoá và hành
động kiểm tra đánh giá. Như vậy, muốn tạo ra sự phát triển tâm lí của học sinh
nói chung và hình thành động cơ học tập nói riêng trong học tập phải lấy hành
động học tập của các em làm cơ sở.
1.4. Động cơ học tập của học sinh
1.4.1. Khái niệm động cơ học tập
Khi con người có nhu cầu học tập, xác định được đối tượng cần đạt thì
xuất hiện động cơ học tập.
Các nhà tâm lý học phương Tây cho rằng : động cơ học tập bao gồm

không chỉ những yếu tố bên trong mang tính chủ quan mà còn cả những yếu
tố mang tính khách quan. Những yếu tố này được tạo ra bởi bản thân con
người với tư cách như một chủ thể hoạt động, bởi tính chất của những hoàn
cảnh bên ngoài cùng những kích thích bản năng bên trong [8; 28].
Các nhà tâm lý học Mác xít nghiên cứu hoạt động học tập như một quá
trình, có vị trí nhất định trong cuộc sống của con người. Theo họ, động cơ học
tập của con người được quan niệm như là những kích thích mà con người ý
thức được, có tác dụng thúc đẩy hoạt động học tập.
A.N. Lêônchiev hiểu động cơ học tập của trẻ như là sự định hướng của
các em đối với việc lĩnh hội tri thức, với việc giành điểm tốt và sự khen ngợi
của giáo viên, cha mẹ,...

10


Theo L.I. Bozovic và các cộng sự của bà thì động cơ học tập là cái vì
nó khiến trẻ học tập hay nói cách khác cái kích thích trẻ học tập [8, 30].
Trong tài liệu tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm, các tác giả
quan niệm: Động cơ học tập của học sinh được hiện thân ở đối tượng của
hoạt động học; tức là những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, thái độ, giá trị, chuẩn
mực,...mà giáo dục sẽ đưa lại cho họ. [2; 92].
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, tôi tán thành quan điểm về động
cơ học tập của L.I. Bozovic. Tức cho rằng: động cơ học tập là tất cả các biểu
hiện: trẻ học vì cái gì, cái gì thúc đẩy trẻ học tập và tất cả những kích thích đối
với hoạt động học tập của các em.
Những quan điểm của các nhà tâm lí học về động cơ học tập, chúng tôi
đã trình bày ở trên. Từ đó, chúng tôi rút ra một số kết luận cũng chính là công
cụ nghiên cứu đề tài:
Một là, động cơ học tập không phải thuần tuý tinh thần. Động cơ ấy
phải được vật thể hoá ra ngoài, tức là nó phải mang một hình thức tồn tại vật

chất bên ngoài. Khi ở bên ngoài, nó phải hiện thân vào một thực thể khác, là
đối tượng hoạt động học tập. Trên cùng một đối tượng học tập có thể "bám
vào" nhiều động cơ khác nhau.
Hai là, động cơ học tập được biểu hiện ở nhận thức, thái độ, hành động.
Ba là, động cơ học tập chỉ được hình thành chính trong quá trình học
sinh giải quyết những nhiệm vụ học tập.
Bốn là, hoạt động học tập của học sinh được thúc đẩy bởi nhiều động
cơ. Các động cơ này tạo thành cấu trúc xác định có thứ bậc của các kích thích,
trong đó có một số động cơ là chủ đạo, là cơ bản, một số động cơ khác là phụ,
là thứ yếu.
1.4.2. Phân loại động cơ học tập
Trong các công trình nghiên cứu của mình, nhiều nhà tâm lí học đều
khẳng định rằng: hoạt động học tập của học sinh được thúc đẩy bằng một hệ

11


thống các động cơ. Trong đó có những động cơ mạnh giữ vai trò chủ đạo và
cũng có những động cơ khác giữ vai trò thứ yếu. Tuỳ theo tiêu chí phân loại
mà các nhà tâm lí học chia động cơ học tập thành các loại khác nhau:
Theo L.I. Bozovic, A.K. Pusaviski,... động cơ học tập được chia thành
hai loại: động cơ mang tính xã hội và động cơ mang tính nhận thức.
Tán thành quan điểm trên, A.K. Markova chia động cơ học tập thành
hai nhóm, mỗi nhóm lại chia thành những động cơ cụ thể:
Nhóm 1: những động cơ nhận thức gồm:
+ Những động cơ nhận thức rộng
+ Những động cơ học tập - nhận thức
+ Những động cơ tự đào tạo
Những động cơ này kích thích, thúc đẩy học sinh vượt qua mọi khó
khăn và tích cực nhận thức, rèn luyện và sáng tạo.

Nhóm 2: những động cơ xã hội bao gồm:
+ Loại động cơ xã hội rộng rãi
+ Loại động cơ xã hội hẹp
+ Loại động cơ hợp tác xã hội chủ nghĩa
Theo bà để phát triển nhân cách tốt thì phải có sự kết hợp giữa các loại
động cơ trên.
Nhà tâm lí học M.P. Jacopson lại chia động cơ học tập làm 3 loại:
Loại thứ nhất là những động cơ được hình thành ở bên ngoài hoạt động
học tập - ta có thể gọi nó là động cơ tiêu cực vì nó mang tính tiêu cực.
Loại thứ hai là loại động cơ cũng được hình thành bên ngoài hoạt động
học tập nhưng mang tính tích cực.
Loại thứ ba: động cơ được nảy sinh trong chính quá trình học tập.
Theo ông, ba loại động cơ này luôn kết hợp với nhau cùng tác động đến
hoạt động học tập. Và chúng lập thành một hệ thống động cơ.

12


Một số nhà tâm lí học như Nguyễn Kế Hào, A.V. Petropxki,... chia
động cơ học tập làm hai loại là động cơ bên ngoài và động cơ bên trong.
Động cơ bên ngoài là những động cơ liên quan đến những yêu cầu của
người lớn, nghề nghiệp trong tương lai,...
Động cơ bên trong là những động cơ có liên quan đến nội dung học tập
và phương pháp đạt được tri thức.
Theo Lê Văn Hồng thì đều chia động cơ học tập làm hai loại:
Một là, những động cơ hoàn thiện tri thức
Thuộc về loại động cơ hoàn thiện tri thức, chúng ta thấy học sinh có
lòng khao khát mở rộng tri thức, mong muốn có nhiều hiểu biết, say mê với
bản thân quá trình giải quyết nhiệm vụ học tập. Tất cả những biểu hiện này
đều do sự hấp dẫn, lôi cuốn của bản thân tri thức cũng như phương pháp giành

lấy tri thức đó. Mỗi lần giành được cái mới ở đối tượng học thì các em cảm
thấy nguyện vọng hoàn thiện tri thức được thực hiện một phần. Trường hợp
này nguyện vọng hoàn thiện tri thức được hiện thân ở đối tượng hoạt động. Do
đó, ta gọi loại động cơ học tập này là động cơ hoàn thiện tri thức.
Hoạt động được thúc đẩy bởi động cơ hoàn thiện tri thức thường không
chứa đựng xung đột bên trong. Nó cũng có thể xuất hiện những sự khắc phục
khó khăn trong tiến trình học tập và đòi hỏi phải có sự nỗ lực ý chí. Nhưng nó
là những nỗ lực hướng vào khắc phục những trở ngại bên ngoài để đạt được
nguyện vọng đã nảy sinh, chứ không phải hướng vào đấu tranh với chính bản
thân mình. Do đó, chủ thể của hoạt động học tập thường không có những căng
thẳng tâm lí. Hoạt động học tập được thúc đẩy bởi động cơ này là tối ưu theo
quan điểm sư phạm.
Hai là, những động cơ quan hệ xã hội
Thuộc về loại động cơ quan hệ xã hội, chúng ta thấy học sinh say sưa
học tập nhưng sự say sưa đó lại vì sức hấp dẫn, lôi cuốn của một cái khác ở
ngoài mục đích trực tiếp của việc học tập. Những cái đó lại chỉ đạt được trong

13


điều kiện mà các em chiếm lĩnh được tri thức khoa học. Những thí dụ về
những cái khác đó là: thưởng và phạt, đe doạ và yêu cầu, thi đua và áp lực,
khêu gợi lòng hiếu danh, mong đợi hạnh phúc và mong ước tương lai, cũng
như sự hài lòng của bố mẹ, sự khâm phục của bạn bè,... Đây là những mối
quan hệ khác nhau của các em. ở đây những tri thức, kĩ năng, thái độ, hành
vi,...đối với đối tượng đích thực của hoạt động học tập chỉ là phương tiện để
đạt mục tiêu cơ bản khác. Trong trường hợp này, những mối quan hệ xã hội
của cá nhân được hiện thân ở đối tượng học tập. Do đó, người ta gọi loại động
cơ này là động cơ quan hệ xã hội.
Hoạt động học tập được thúc đẩy bởi động cơ quan hệ xã hội ở một mức

độ nào đấy mang tính chất cưỡng bách và có lúc xuất hiện như một vật cản
cần khắc phục trên con đường đi tới mục đích cơ bản.
Nét đặc trưng của loại động cơ này là có những lực chống đối nhau (như
kết quả học tập không đáp ứng mong ước về địa vị của cá nhân trong xã hội
sau này), vì thế đôi khi nó gắn liền với sự căng thẳng tâm lí đáng kể, đòi hỏi
phải có những nỗ lực bên trong, đôi khi cả sự đấu tranh với chính bản thân
mình. Khi đó có những xung đột gay gắt, học sinh thường có hiện tượng vi
phạm nội quy (quay cóp, phá bĩnh), thờ ơ với học tập hay bỏ học.
Cả hai loại động cơ này cần được hình thành ở học sinh, chúng lập
thành một hệ thống được sắp xếp theo thứ bậc. Vấn đề là ở chỗ trong những
điều kiện và hoàn cảnh xác định nào đó của dạy và học thì loại động cơ học
tập nào được hình thành mạnh mẽ hơn, nổi lên hàng đầu và chiếm địa vị ưu
thế trong sự sắp xếp theo thứ bậc của hệ thống động cơ [3].
Như vậy, mỗi tác giả lại có một cách phân loại động cơ học tập theo
một cách riêng. Tuy nhiên, hầu hết các tác giả đều chia động cơ học tập làm
hai loại chính đó là những động cơ xuất phát từ bản thân hoạt động học tập.
Đó là động cơ nhận thức, động cơ bên trong,... Và nhóm động cơ xuất phát từ
mối quan hệ của trẻ với môi trường sống, với những người xung quanh, đối

14


với xã hội. Mỗi loại thúc đẩy hoạt động của chủ thể ở các khía cạnh khác
nhau. Nhưng cả hai loại động cơ đều rất cần thiết cho sự thành công của hoạt
động học tập.
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi tán thành quan điểm của A.K.
Marcova, Lê Văn Hồng, chia động cơ học tập làm hai nhóm:
- Nhóm những động cơ hoàn thiện tri thức (động cơ nhận thức).
- Nhóm những động cơ quan hệ xã hội.
1.4.3. Vai trò của động cơ học tập

Tâm lí học hoạt động quan niệm rằng: Đã là hoạt động tâm lí thì phải
có động cơ phù hợp. Không thể có một hoạt động nào không có động cơ;
hoạt động không động cơ không phải hoạt động thiếu động cơ mà là hoạt
động với một động cơ ẩn giấu về mặt chủ quan và về mặt khách quan[8, 41].
Theo A.N. Lêônchiev thì động cơ học tập của trẻ như là một sự định
hướng của các em đối với việc lĩnh hội tri thức, với việc giành điểm tốt và sự
khen ngợi của cha mẹ, giáo viên,...
Động cơ có hai chức năng là thúc đẩy và hướng dẫn hoạt động, tạo cho
hoạt động có ý của chủ thể.
Hoạt động học tập của học sinh được thúc đẩy bằng một hệ thống động
cơ khác nhau. Trong đó có những động cơ kích thích và có những động cơ tạo
ý. Vì vậy động cơ học tập có ý nghĩa quyết định đối với hoạt động học tập. Do
đó, nhiệm vụ của người giáo viên là hình thành động cơ học tập cho chính học
sinh của mình, đặc biệt là hình thành động cơ tạo ý cho các em. Và đây cũng
chính là một trong những vấn đề trung tâm trong tâm lí học trẻ em và sư
phạm, là một nhiệm vụ quan trọng trong nhà trường phổ thông hiện nay.
1.4.4. Hình thành động cơ học tập cho học sinh
Động cơ học tập có vai trò rất quan trọng trong hoạt động học tập của
các em nói riêng và hình thành nhân cách con người nói chung. Nên hình

15


thành động cơ học tập cho học sinh là một trong những vấn đề trung tâm của
quá trình dạy học.
Động cơ học tập của các em không phải có sẵn mà cũng không thể áp
đặt, mà phải được hình thành dần dần chính trong quá trình học sinh ngày
càng đi sâu chiếm lĩnh đối tượng học tập dưới sự tổ chức và điều khiển của
thầy. Nếu trong quá trình dạy học, thầy luôn thành công trong việc tổ chức
cho học sinh phát hiện những điều mới lạ (cả bản thân tri thức và cách thức

giành tri thức đó), giải quyết thông minh những nhiệm vụ học tập, tạo ra được
những ấn tượng tốt đẹp đối với việc học thì dần dần nảy sinh nhu cầu của các
em đối với tri thức khoa học. Học tập dần dần trở thành nhu cầu không thể
thiếu của các em.
Muốn có được điều này phải làm sao cho những nhu cầu phải được gắn
liện với một trong những mặt của hoạt động học tập (mục đích, quá trình hay
kết quả) hay với tất cả các mặt đó. Khi đó các mặt này của việc học tập sẽ
biến thành các động cơ và bắt đầu thúc đẩy hoạt động học tập tương ứng. Nó
sẽ tạo nên sức mạnh tinh thần thúc đẩy các em vượt qua mọi khó khăn để
giành lấy tri thức [4].
Và trong quá trình hình thành động cơ học tập của học sinh thì điều
kiện đầu tiên của quá trình hình thành động cơ học tập cho học sinh là xác
định các tình huống xuất phát của dạy học. Về phương diện này có hai tình
huống cần phân biệt:
Tình huống thứ nhất: Trẻ em đã có hành động học tập được hình thành
trước đó. Trong trường hợp này nhiệm vụ chủ yếu của người giáo viên là
chuyển hoá mục đích thành động cơ học tập. Tương ứng với nó là chuyển
hành động thành hoạt động. Và để thực hiện nhiệm vụ giáo viên trước hết phải
xác định được những loại động cơ học tập. Từ đó đưa học sinh vào các trường
hợp dạy học tương ứng.

16


Tình huống thứ hai: Trẻ chưa có hành động học tập. Trường hợp này
thường gặp ở các trẻ nhỏ lứa tuổi mẫu giáo bé. ở đây, đầu tiên phải hình thành
cho các em hành động học tập với tư cách hành động có mục đích. Sau đó mở
rộng phạm vi chức năng của mục đích đó và chuyển hoá nó thành động cơ
tương ứng.
Cuối cùng cần phải nhấn mạnh rằng: Việc xây dựng động cơ hết sức

rộng lớn và muôn hình muôn vẻ. Muốn hình thành động cơ học tập trước hết
hình thành ở các em nhu cầu nhận thức, nhu cầu chiếm lĩnh đối tượng học tập.
Bởi vì, khi nhu cầu gặp đối tượng thì nhu cầu trở thành động cơ.
1.5. Học sinh lớp 3
Bậc tiểu học là bậc học bắt buộc đối với mọi trẻ em từ 6 đến 14 tuổi,
được thực hiện trong năm năm học, từ lớp 1 đến lớp 5. Trong giai đoạn này,
hoạt động học là hoạt động chủ đạo đối với sự phát triển nhân cách của học
sinh. Hoạt động học tập của học sinh tiểu học được phân chia làm hai giai
đoạn.
Giai đoạn thứ nhất (học sinh lớp 1, 2, 3): hoạt động học tập bắt đầu
được hình thành từ lớp 1 và định hình ở lớp 3, hình thành ở học sinh cách học
với những thao tác trí óc cơ bản. Giai này còn gọi là giai đoạn học tập cơ bản.
Giai đoạn 2 (học sinh lớp 4, 5): hoạt động học tập tiếp tục phát triển,
học sinh sử dụng cách học để học các môn học. Giai đoạn này còn gọi là giai
đoạn học tập sâu.
Lớp 3 như là một nhịp cầu nối giai đoạn 1 với giai đoạn 2. Cuối lớp 3
là khoảng thời gian chuyển tiếp từ giai đoạn học tập cơ bản sang giai đoạn học
tập sâu. Hoạt động học tập của học sinh lớp 3 diễn ra như thế nào và theo đó là
sự phát triển tâm lí của các em phụ thuộc vào sự giảng dạy của giáo viên đứng
lớp nói riêng và sự tác động của giáo dục từ nhà trường, gia đình và xã hội nói
chung.

17


Sự tác động từ giáo dục của nhà trường, gia đình và xã hội là sự tác
động của nội dung, phương pháp và tổ chức hoạt động giáo dục. Và trong sự
tác động đó thì tác động giáo dục từ phía nhà trường giữ vai trò chủ đạo.

18



Chương 2
thực trạng động cơ học tập của học sinh lớp 3
2.1. Các loại động cơ học tập của học sinh lớp 3
2.1.1. Các yếu tố kích thích học sinh học tập
Để tìm hiểu các yếu tố kích thích học sinh lớp 3 học tập, chúng tôi thiết
kế một phiếu điều tra trong đó ghi sẵn 10 yếu tố kích thích học sinh học tập.
Chúng tôi hướng dẫn để các em chọn từng yếu tố phù hợp với ý nghĩa của
mình rồi trả lời bằng cách đánh dấu x vào một trong các cột chỉ mức độ:
Rất quan trọng, Quan trọng, ít quan trọng, và Không quan trọng(phụ
lục số 2, phiếu số 1).
Các mức độ khác nhau được tính hệ số điểm khác nhau:
- Rất quan trọng:

4 điểm

- Quan trọng

:

3 điểm

- ít quan trọng :

2 điểm

- Không quan trọng: 1 điểm
Phiếu điều tra được thực hiện với 72 học sinh lớp 3 gồm 40 học sinh
nam và 32 học sinh nữ ở hai lớp 3A1 và lớp 3A2 trường Tiểu học Xuân Hoà.

Kết quả điều tra được thống kê ở bảng sau:

19


Bảng 1: Các yếu tố kích thích được học sinh nhận thức
Học sinh(72)
Stt

Các yếu tố

Điểm

Thứ
bậc

1

Để được lên lớp

277

1

2

Để học được nhiều điều hay, điều mới lạ

265


3

3

Để cha mẹ vui lòng

249

6

4

Để được thưởng

140

9

5

Để sau này làm việc tốt

272

2

6

Để được cô giáo khen, các bạn ngưỡng mộ


192

8

7

Để học giỏi hơn bạn

206

7

8

Để biết suy nghĩ

250

5

9

Để luôn đạt điểm giỏi

253

4

10


Để bố mẹ không sai làm việc nhà

100

10

Từ số liệu thống kê ở bảng 1, chúng tôi có một số nhận xét như sau:
- Hoạt động học tập của học sinh lớp 3 được thúc đẩy bởi không chỉ một
động cơ mà được thúc đẩy bởi một hệ thống các động cơ. Đó có thể là những
động cơ gần như: để được lên lớp, để được cha mẹ vui lòng, để được thưởng,
để luôn đạt điểm giỏi,...và có cả những động cơ xa như: để sau này làm việc
tốt. ở các em có cả động cơ nhận thức như: để học được nhiều điều hay, điều
mới lạ, để biết suy nghĩ và cả những động cơ vật chất như để được thưởng...
- Động cơ nổi trội nhất ở các em là học để được lên lớp (được 277 điểm,
xếp bậc 1), tiếp đến là học để sau này làm việc tốt (được 272 điểm, xếp bậc 2),
học tập để học được nhiều điều hay, điều mới lạ (được 265 điểm, xếp bậc 3).
Sau đó là học tập để luôn đạt điểm giỏi (được 253 điểm, xếp bậc 4), học tập để
biết suy nghĩ (được 250 điểm, xếp bậc 5), học để cha mẹ vui lòng (được 249
điểm, xếp bậc 6)

20


Do những động cơ nổi trội là: học để được lên lớp, học để sau này làm
việc tốt, học để học được nhiều điều hay, điều mới lạ. Nên trong quá trình học
ở lớp 3A1 cũng như ở lớp 3A2, các em học sinh rất tích cực trong học tập. Cụ
thể là, ở lớp các em chăm chỉ làm bài tập trong các tiết luyện tập, hăng hái giơ
tay phát biểu trong các tiết học bài mới rồi luôn chú ý lắng nghe bạn trả lời để
có thể nhận xét, bổ sung cho câu trả lời của bạn thêm hoàn thiện. Điển hình là
các em Huyền, Mai Anh, Phương Thảo, Hiếu Thành, Thanh Thảo, Đức

Anh,...ở lớp 3A2 và các em Thu Trang, Toàn, Phúc, Tú Quỳnh ,Tùng, Quỳnh
Mai, Khánh Linh,...ở lớp 3A1. Và đây cũng là những học sinh chăm hoàn
thành các bài tập về nhà. Các em còn tích cực làm các bài tập trong sách tham
khảo, đọc các cuốn sách khoa học về các lĩnh vực vật lí, thiên văn học,... và
các cuốn sách về thiên nhiên và xã hội,...(phụ lục 4, 5)
Qua đây, ta thấy học sinh hiện nay học tập bởi cả những động cơ gần và
cả những động cơ xa. Và đối với những học sinh lớp 3 được nghiên cứu thì
những yếu tố trên có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy các em chăm chỉ,
tích cực và sáng tạo trong học tập.
- Tuy nhiên, một vài động cơ tiêu cực vẫn tồn tại ở nhiều em học sinh
được nghiên cứu. Dù ở thứ bậc không cao nhưng nó vẫn chi phối, thúc đẩy học
sinh học tập trong quá trình học tập như học tập để giỏi hơn bạn (được 206
điểm, xếp bậc 7), học để được cô giáo khen, các bạn ngưỡng mộ (được 192
điểm, xếp bậc 8), học để được thưởng (được 140 điểm, xếp bậc 9) và học để
bố mẹ không sai làm việc nhà (được 100 điểm, xếp bậc 10). Do được thúc đẩy
bởi những động cơ tiêu cực trong học tập, đa số các em học sinh này thường
không chú ý trong các tiết học. Trong các giờ học bài mới cũng như trong các
bài thực hành, các em ít phát biểu xây dựng bài hơn. Và các em chưa làm bài
tập về nhà thường nằm trong nhóm học sinh này. Như các em Tiến Đạt,
Sơn,...ở lớp 3A2 và các em Khánh Duy, Hạnh Dung,...ở lớp 3A1. Tuy nhiên, ở
cả hai lớp vẫn có những em học rất tốt trong lớp cũng được thúc đẩy bằng

21


những động cơ học tập là những động cơ tiêu cực. Nên giáo viên cần kết hợp
gia đình cùng định hướng cho các em để các em học tập bởi những động cơ
nhận thức, động cơ tích cực và hạn chế sự tác động của những động cơ tiêu
cực hay ta con gọi là những động cơ âm tính.
Số em có động cơ học tập như vậy có số lượng không nhỏ. Nhưng, đối

với học sinh lớp 3 thì chúng ta có thể chấp nhận được bởi các em vẫn đang ở
giai đoạn thứ nhất của bậc tiểu học. Và nhiệm vụ quan trọng là giáo dục các
em để những động cơ này không phát triển và chiếm vị trí chủ đạo trong hệ
thống động cơ học tập của từng học sinh.
Từ những kết quả và phân tích trên, chúng ta nhận thấy có cả một hệ
thống thúc đẩy học sinh học tập. Trong đó bao gồm cả những yếu tố nằm
trong phạm vi động cơ xã hội (yếu tố: 1,3,4,5,6,7,9,10) và cả những yếu tố
nằm trong phạm vi nhận thức (yếu tố:2, 8) nhưng trong đó các yếu tố xã hội
lại chiếm vị trí trội hơn. Trong các yếu tố thuộc phạm vi động cơ xã hội thì
các yếu tố học để được lên lớp, học để sau này làm việc tốt chiếm vị trí cao.
Từ đó, chúng ta có thể thấy học sinh hiện nay có được những động cơ học tập
xa từ rất sớm. Nhưng vẫn có sự chi phối của tình cảm rất nhiều nên các em
muốn học tập tốt để sau này lớn lên có thể làm thật nhiều giúp cho mọi người.
Trong điều kiện xã hội hiện nay, các bậc phụ huynh ngày càng quan tâm đến
việc học tập của con em mình nên có nhiều học sinh học tập bởi động cơ xã
hội là học để cha mẹ vui lòng. Yếu tố này có điểm số khá cao (249 điểm).
Yếu tố học để cha mẹ vui lòng có số điểm cao như vậy vì ở học sinh lớp 3 nói
riêng và học sinh bậc tiểu học nói chung thì yếu tố tình cảm, đặc biệt tình cảm
với người thân có ý nghĩa rất quan trọng. Qua phiếu hỏi ý kiến (phụ lục 3), các
bậc phụ huynh rất quan tâm đến việc học tập của con cái. Đây là một thuận lợi
trong việc phối hợp giữa gia đình và nhà trường để giáo dục học sinh. Tuy
nhiên, vẫn có những phụ huynh học sinh quan tâm đến việc học tập của con
bằng cách thưởng tiền, thưởng quà rồi bắt các em làm việc nhà khi các em

22


không học tập. Những biện pháp này không những làm cho các em không tự
giác, tích cực học tập mà còn làm cho các em học tập mang tính chất đối phó.
Và những yếu tố thuộc phạm vi động cơ nhận thức cũng giữ vị trí khá

cao như xếp bậc 3 là yếu tố học tập để học được nhiều điều hay, điều mới lạ,
xếp bậc 5 là học tập để biết suy nghĩ. Như vậy, các em đã có những động cơ
học tập nhận thức từ sớm. Điều này rất tốt. Nhưng đó chưa phải vị trí chủ đạo.
Nếu được hướng dẫn và giáo dục chu đáo thì những động cơ nhận thức sẽ dần
dần thay thế những động cơ xã hội và dành vị trí chủ đạo ở các lớp trên.
2.1.2. Tìm hiểu động cơ học tập của học sinh qua phiếu bài tập
Để tìm hiểu thực trạng động cơ học tập của học sinh lớp 3, chúng tôi đã
thiết kế phiếu bài tập (phụ lục 1) đưa ra 2 bài tập ở hai mức độ: dễ - khó, các
bài tập này đều cho điểm như nhau và cho học sinh chọn một trong hai bài tập
để hoàn thành trong 5 phút. Sau đó thu phiếu bài tập và căn cứ vào việc học
sinh chọn bài tập nào mà sắp xếp vào các loại động cơ học tập khác nhau.
Chỉ tiêu sắp xếp:
- Nếu học sinh chọn loại bài tập 1 thì động cơ xã hội chiếm ưu thế. Ta
xếp vào loại động cơ xã hội.
- Nếu học sinh chọn bài tập 2 thì động cơ nhận thức chiếm ưu thế. Ta
xếp vào loại động cơ nhận thức.
Phiếu học tập được thực hiện với 72 học sinh lớp 3 gồm 40 em nam và
32 em nữ. Thu phiếu, thống kê kết quả, quy ra tỉ lệ phần trăm, ta được bảng
sau:
Bảng 2: Động cơ học tập của học sinh lớp 3
Loại động cơ học tập

Động cơ nhận thức

Động cơ xã hội

Kết quả

25 hs


47 hs

(34,72%)

(65,28%)

23


Từ số liệu thống kê ở bảng 2, chúng tôi rút ra nhận xét:
ở học sinh lớp 3, động cơ xã hội chiếm tỉ lệ cao hơn so với động cơ
nhận thức. Cụ thể: động cơ xã hội chiếm 65,28% (47/72hs) còn động cơ nhận
thức chiếm tỉ lệ 34,72% (25/72hs) trên tổng số học sinh. Như vậy số học sinh
có động cơ xã hội chiếm tỉ lệ gần gấp đôi so với số học sinh có động cơ nhận
thức. Và trong những động cơ xã hội thì những động cơ xã hội tích cực như
học sinh học để cha mẹ vui lòng, học sinh học để mai sau làm việc tốt thường
chiếm ưu thế hơn so với những động cơ xã hội tiêu cực hay ta còn gọi là
những động cơ âm tính như học để học giỏi hơn bạn, học để bố mẹ không
sai làm việc nhà,... Do vậy, trong quá trình học tập, đa số các em học tập rất
tích cực giơ tay phát biểu xây dựng bài, chú ý nghe giảng trên lớp và tích cực
làm bài tập về nhà,... (phụ lục 4, phụ lục 5)
Như vậy, hiện nay số đông học sinh học tập bởi động cơ xã hội. Bởi học
sinh lớp 3 thuộc giai đoạn thứ nhất bậc tiểu học và đó là giai đoạn định hình
hoạt động học tập. Giai đoạn mà học sinh bị chi phối rất nhiều về mặt tình
cảm. Tuy nhiên, động cơ nhận thức cũng chiếm tỉ lệ khá cao. Đó là do có sự
đổi mới trong giáo dục và đào tạo từ mục đích, nội dung đến phương pháp dạy
học. Từ đó hoạt động học tập trở nên hấp dẫn hơn. Bên cạnh đó, xã hội ngày
càng phát triển nên các bậc phụ huynh ngày càng quan tâm đến việc học tập
của con em mình nên học sinh ngày càng có nhu cầu tiếp thu tri thức mới,
phương pháp mới. Nhưng vẫn còn nhiều phụ huynh quan tâm đến các em

không đúng cách nên những động cơ "âm tính" vẫn tồn tại ở một số em học
sinh.
2.1.3 So sánh động cơ học tập của học sinh nam và học sinh nữ
Để thấy rõ hơn về sự tác động của các yếu tố thuộc phạm vi động cơ
nhận thức và thuộc phạm vi động cơ xã hội, ta thống kê và xếp thứ bậc các
yếu tố kích thích đối với học sinh nam và học sinh nữ. Phiếu điều tra được

24


phát đến 72 học sinh gồm: 40 học sinh nam và 32 học sinh nữ. Sau đó thống
kê kết quả, ta được bảng sau:
Bảng 3: Các yếu tố kích thích học tập ở học sinh nam và nữ
Nam (40hs)
Stt

Các yếu tố

Điểm

Nữ (32hs)

Thứ
bậc

Thứ
Điểm

bậc


1

Để được lên lớp

145

1

132

1

2

Để học được nhiều điều hay, điều mới lạ

141

2

124

3

3

Để cha mẹ vui lòng

132


5

117

6

4

Để được thưởng

76

9

64

9

5

Để sau này làm việc tốt

140

3

131

2


6

Để được cô giáo khen, các bạn ngưỡng mộ

95

8

97

8

7

Để học giỏi hơn bạn

101

7

105

7

8

Để biết suy nghĩ

130


6

120

4

9

Để luôn đạt điểm giỏi

133

4

119

5

51

10

49

10

10 Để bố mẹ không sai làm việc nhà

Nhìn vào bảng số liệu ta thấy rằng: các yếu tố chi phối, kích thích quá
trình học tập của học sinh có sự sắp xếp chênh lệch không đáng kể. Đứng đầu

vẫn là các yếu tố như: học để được lên lớp, học để sau này làm việc tốt và học
để học được nhiều điều hay, điều mới lạ đối với cả học sinh nam và học sinh
nữ. Cụ thể là: ở cả học sinh nam và học sinh nữ thì động cơ đứng thứ nhất đều
là động cơ xã hội học để lên lớp; đối với học sinh nam yếu tố học để học
được nhiều điều hay, điều mới lạ có thứ bậc thứ 2 thì đối với học sinh nữ yếu
tố này có thứ bậc thứ 3. Còn đối với học sinh nữ yếu tố học để sau này làm
việc tốt đứng thứ 2 thì đối với học sinh nam yếu tố này lại đứng thứ 3. Từ số
liệu trên ta thấy rằng động cơ học tập của học sinh nam và học sinh nữ cũng
không có sự chênh lệch lớn lắm. Và đối với cả học sinh nam cũng như học

25


×