Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Vận dụng phương pháp thí nghiệm trong dạy học môn khoa học lớp 4 theo cách tiếp cận người học là chủ thể tích cực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (990.38 KB, 72 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nước ta đang bước vào thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
nền kinh tế, văn hóa, xã hội đang có nhiều chuyển biến vô cùng mạnh mẽ.
Một trong những yêu cầu đặt ra của sự phát triển kinh tế - xã hội, đó là phải
có những con người lao động mới, có trình độ học vấn cao, có năng lực, bản
lĩnh, đáp ứng được mọi yêu cầu của nền kinh tế - xã hội hiện đại. Từ đó đòi
hỏi phải có sự đổi mới về mọi mặt, trong đó, đổi mới nền giáo dục được coi là
có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đáp ứng những yêu cầu của xã hội.
Để hoàn thành được sứ mệnh to lớn này giáo dục phải có sự đổi mới toàn
diện, từ mục tiêu, nội dung đến phương pháp, hình thức tổ chức, kĩ thuật dạy
học, trong đó cần có sự đổi mới các phương pháp dạy học theo hướng phát
huy tính tích cực của trẻ. Sự kết hợp này sẽ góp phần vào việc phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của HS trong quá trình học tập.
Ở Tiểu học, cùng với các môn học khác như Toán, Tiếng Việt, Đạo
đức, Hát nhạc, Mỹ thuật, Thể dục, thì các môn về Tự nhiên và xã hội là các
môn học mang tính tích hợp cao, môn học cung cấp cho HS những hiểu biết
cơ bản ban đầu về các sự vật, sự kiện, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và
mối quan hệ của chúng với con người. Trong đó môn Khoa học có một vai trò
quan trọng trong viêc cung cấp cho HS những nội dung đa dạng, phong phú
về tự nhiên và xã hội, được bao hàm trong các chủ đề Con người và sức khỏe,
Vật chất và năng lượng, Thực vật và động vật.
Với môn học này, người giáo viên phải hình thành được niềm tin khoa
học cho HS. Trên cơ sở đó đòi hỏi hoạt động tổ chức, hướng dẫn của GV phải
hướng tới hoạt động chiếm lĩnh kiến thức, rèn luyện kĩ năng học tập của HS.
HS phải được hoạt động, phải được bộc lộ mình và được phát triển tổi đa
thông qua các hoạt động học tập. Để hoàn thành tốt những mục tiêu đó GV

1



cần có sự kết hợp nhịp nhàng các phương pháp dạy học cũ và mới nhằm phát
huy tính tích cực, chủ động của HS trong quá trình học tập.
Đặc biệt, trong dạy học môn Khoa học với nhiều chủ đề đa dạng luôn
đòi hỏi tính đầy đủ và chính xác của những tri thức khoa học thì phương pháp
tỏ ra hiệu quả và gây ấn tượng sâu sắc ở HS đối với môn học này là phương
pháp thí nghiệm. Đây là phương pháp dạy học đặc trưng phù hợp với những
nội dung khoa học. Nhưng vận dụng phương pháp thí nghiệm như thế nào để
ko còn tình trạng giáo viên độc diễn và phát huy được tính tích cực, chủ động
của học sinh là điều đáng quan tâm. Vì thế chúng tôi chọn đề tài: “Vận dụng
phương pháp thí nghiệm trong dạy học môn Khoa học lớp 4 theo cách tiếp
cận người học là chủ thể tích cực” để tìm hiểu và nghiên cứu trong khóa
luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm nghiên cứu, vận dụng phương pháp thí nghiệm
để tổ chức dạy học môn Khoa học lớp 4 theo hướng tiếp cận người học là chủ
thể tích cực. Qua đó, góp phần phần nâng cao chất lượng dạy và học môn
Khoa học lớp 4.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu việc sử dụng phương pháp thí nghiệm trong dạy học
môn khoa học lớp 4 theo cách tiếp cận người học là chủ thể tích cực.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Do thời gian có hạn nên phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ dừng lại ở việc
sử dụng phương pháp thí nghiệm trong dạy học môn khoa học lớp 4.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu nội dung chương trình môn Khoa học lớp 4

2



- Tìm hiểu cơ sở lí luận việc sử dụng phương pháp thí nghiệm theo cách
tiếp cận người học là chủ thể tích cực trong dạy học môn Khoa học lớp
4.
- Tìm hiểu quy trình vận dụng phương pháp thí nghiệm theo cách tiếp cận
người học là chủ thể tích cực trong dạy học môn Khoa học lớp 4.
- Vận dụng phương pháp vào trong dạy học môn Khoa học lớp 4.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu sử dụng phương pháp thí nghiệm theo cách tiếp cận người học là
chủ thể tích cực vào dạy học môn khoa học lớp 4 sẽ góp phần phát huy tính
tích cực của học sinh trong quá trình dạy học môn Khoa học lớp 4. Đồng thời
nâng cao chất lượng dạy học môn Khoa học lớp 4 nói riêng, các môn học ở
tiểu học nói chung.
6. Phương pháp nghiên cứu đề tài
6.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Căn cứ vào mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, bản thân tôi
đã thu thập tài liệu từ các nguồn khác nhau: đọc sách báo, tạp chí chuyên
ngành, các báo cáo khoa học, các đề tài nghiên cứu khoa học, thông tin tài
liệu trên mạng Internet, tài liệu giáo dục (edu) và các tài liệu liên quan như
sách giáo khoa, sách hỏi đáp, sách giáo viên môn Khoa học lớp 4.
6.2. Phương pháp trò chuyện
Trong quá trình nghiên cứu, tôi có trò chuyện với GV, bạn bè để tìm
hiểu thêm về vấn đề vận dụng phương pháp thí nghiệm trong dạy học môn
Khoa học lớp 4 theo cách tiếp cận người học là chủ thể tích cực hiện nay.
6.3. Phương pháp điều tra
Để nâng cao hiệu quả nghiên cứu và tính chính xác của đề tài, tôi có sử
dụng phương pháp điều tra để thu thập kết quả, từ đó phân tích, so sánh với
nội dung tôi đang cần tìm hiểu.

3



6.4. Phương pháp quan sát
Đây là phương pháp góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả
và tính chính xác của đề tài.

4


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lí luận
1.1. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học
1.1.1. Phương pháp dạy học
1.1.1.1. Khái niệm phương pháp dạy học
Hêghen quan niệm: “Phương pháp là cách thức làm việc của chủ thể,
cách thức này phụ thuộc vào nội dung vì phương pháp là sự vận động bên
ngoài của nội dung”.
Thuật ngữ phương pháp dạy học bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, Method có
nghĩa là con đường để đạt được mục đích dạy học. Theo đó phương pháp dạy
học là con đường để đạt được mục đích dạy học.
Phương pháp dạy dọc là hình thức, cách thức hoạt động của giáo viên
và học sinh trong những điều kiện dạy học xác định nhằm đạt được mục đích
dạy học.
Phương pháp dạy học đặc trưng bởi tính chất hai mặt gồm hoạt động
của thầy và hoạt động của trò. Hai hoạt động này tồn tại song song và được
tiến hành trong mối quan hệ biện chứng, trong đó hoạt động của thầy giữ vai
trò chủ đạo.
1.1.1.2. Đặc trưng của phương pháp dạy học ở Tiểu học
a. Phương pháp dạy học Tiểu học phụ thuộc vào nội dung dạy học
Trong nhà trường Tiểu học, học sinh được lĩnh hội hệ thống tri thức, kĩ

năng, kĩ xảo thông qua các môn học, do đó cần phải sử dụng nhiều phương
pháp dạy học khác nhau để phù hợp với nội dung từng môn học hay nói cách
khác nội dung dạy học mang tính toàn diện thì phương pháp dạy học Tiểu học
cũng phải mang tính toàn diện.

5


b. Phương pháp dạy học Tiểu học phụ thuộc vào đặc điểm sinh lí của người
học
Độ tuổi học sinh Tiểu học còn thấp, năng lực chú ý và trí nhớ kém bền
vững, do đó không nên kéo dài nội dung bài học từ giờ này sang giờ khác.
Làm như vậy học sinh sẽ dễ mệt mỏi, chán nản, không lĩnh hội được đầy đủ
và chính xác nội dung bài học. Trong khoảng thời gian ngắn (30 - 35 phút)
với dung lượng kiến thức vừa phải HS lĩnh hội nội dung tài liệu học tập ngay
trong tiết học. Như vậy không nên sử dụng một phương pháp trong giờ lên
lớp mà phải kết hợp đan xen các phương pháp dạy học khác nhau, nhằm giúp
học sinh tập trung chú ý cao và hứng thú học tập.
c.Phương pháp dạy học Tiểu học phụ thuộc vào vai trò, vị trí của nhà sư
phạm
Vai trò của thầy (cô) giáo có vị trí rất quan trọng. Đối với học sinh Tiểu
học người thầy luôn là “mẫu người lí tưởng”. Do vậy, một giờ học thành công
hay không phụ thuộc phần lớn vào khả năng sư phạm của người giáo viên.
Với người giáo viên Tiểu học, ngoài năng lực chuyên môn, nghiệp vụ còn rất
cần có một khuôn mặt, nụ cười đôn hậu, giọng nói và một chút năng khiếu
nghệ thuật.
d. Phương pháp dạy học phụ thuộc vào các yếu tố khác
Các phương tiện dạy học hỗ trợ không nhỏ đến hiệu quả sử dụng các
phương pháp dạy học ở Tiểu học. Điều này phụ thuộc nhiều vào cơ sở vật
chất và các đồ dùng dạy học ở mỗi nhà trường. Giáo viên cần chú ý sử dụng

tối đa các phương tiện, đồ dùng dạy học gắn liền với các phương pháp dạy
học để giờ học đạt kết quả cao.
1.1.2. Sự cần thiết của đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học
Các tiến bộ của xã hội đòi hỏi con người của thời đại mới phải có các
khả năng mới: học tập, giải quyết vấn đề, trao đổi, làm việc theo tổ, làm công

6


dân, làm lãnh đạo... Những khả năng mới này chưa được hệ thống giáo dục cổ
điển đề cập tới và HS chưa được trang bị những tri thức và kỹ năng cần thiết
để đáp ứng những đòi hỏi mới. Xã hội phải tiến hành đào tạo lại người lao
động sau khi tiếp nhận các HS đã hoàn thành việc học tập trong trường học.
Tiến bộ xã hội đang gây sức ép, buộc hệ thống giáo dục phải có những thay
đổi để có thể cung cấp những con người phù hợp với yêu cầu mới của xã hội
hiện đại.
Giáo dục hiện nay đang đứng trước yêu cầu và thách thức lớn lao của
xã hội hiện đại. Mô hình trường học theo kiểu xưởng máy của thế kỉ trước
không còn phù hợp. Việc học tập của HS không thể là thụ động tiếp thu bài
giảng của giáo viên mà phải là sự tham gia tích cực vào các hoạt động tập thể,
theo dự án, để có thể tham gia vào các hoạt động sản xuất của xã hội sau này.
Ngày nay, học sinh cần nắm rõ trạng thái tri thức của mình, phải xây dựng
nó, cải tiến nó, và ra quyết định trong việc đối diện với sự không chắc chắn
của môi trường. Hai khái niệm về tri thức đã được John Dewey (1916) chỉ ra
là việc nắm vững văn hoá và sự tham dự vào các quá trình hoạt động thực tế
như vẫn được diễn tả bởi từ "làm". Xã hội quan niệm học sinh tốt nghiệp là
người có thể nhận diện, giải quyết được vấn đề và có đóng góp cho xã hội
trong cuộc đời họ - những người thể hiện phẩm chất của "chuyên gia thích
ứng". Việc đạt tới tầm nhìn này đòi hỏi phải tư duy lại điều đã được dạy, cách
các giáo viên giảng dạy và cách đánh giá học sinh học thế nào. Chính vì sự

phát triển này của loài người mà đòi hỏi sự cần thiết phải đổi mới phương
pháp dạy học.
1.1.3. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học
Theo kết luận của hội nghị VI Ban chấp hành Trung ương khóa IX
(07/2002) về tiếp tục thực hiện nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, phương
hướng phát triển Giáo dục - Đào tạo, khoa học và công nghệ từ nay đến năm

7


2005 và đến năm 2010 cũng nhấn mạnh “đổi mới nội dung, chương trình,
phương pháp giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, tăng cường giáo
dục tư duy sáng tạo, năng lực tự học, tự tu dưỡng, tự tạo việc làm”. Có thể
thấy, đổi mới phương pháp dạy học thực chất là một quá trình nâng cao hiệu
quả của việc dạy học, làm cho việc dạy học gắn bó, phục vụ tốt hơn, ngày
càng nâng cao hơn cho việc hình thành và phát triển các phẩm chất nhân cách
của người Việt Nam hiện tại và tương lai như trong định hướng mà các Đại
hội của Đảng đã chỉ ra.
Đổi mới phương pháp dạy học thể hiện ở những định hướng cơ bản sau:
+ Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy cao độ tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của người học trong quá trình lĩnh hội tri thức.
+ Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng kết hợp một cách nhuần
nhuyễn các phương pháp dạy học khác nhau (truyền thống và hiện đại) sao
cho vừa đạt được mục tiêu dạy học vừa phù hợp với đối tượng và điều kiện
thực tiễn ở cơ sở.
+ Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển khả năng tự học
của người học.
+ Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng kết hợp hoạt động cá nhân
với hoạt động nhóm và phát huy khả năng của cá nhân.
+ Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tăng cường kĩ năng thực

hành.
+ Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng sử dụng phương tiện dạy học
hiện đại vào dạy học. Ứng dụng công nghệ thông tin vào trong dạy học nhằm
tạo ra một mộ trường mang tính tương tác cao giữa giáo viên và học sinh, tích
cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh, nâng cao chất lượng dạy và học.
+ Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng đổi mới cả phương pháp
kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của người học.

8


+ Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng đổi mới cách thiết kế bài
dạy, lập kế hoạch bài học và xây dụng mục tiêu bài học.
Trong các định hướng trên thì nội dung định hướng đổi mới phương
pháp dạy học theo hướng tích cực hóa, tiếp cận người học là chủ thể tích cực
nhằm tạo ra môi trường mang tính tương tác cao giữa giáo viên và học sinh,
tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh, nâng cao chất lượng dạy và
học là một trong những vấn đề được các nhà nghiên cứu giáo dục quan tâm
nhiều hơn cả vì nó mang tính chiến lược lâu dài và cần thiết cho nền giáo dục
nước ta.
1.2. Sử dụng phương pháp thí nghiệm theo cách tiếp cận người học là chủ
thể tích cực
1.2.1. Khái niệm chủ thể tích cực
1.2.1.1. Khái niệm chủ thể
Khái niệm chủ thể là một phạm trù của triết học.
Theo từ điển bách khoa toàn thư, khái niệm "chủ thể" lúc đầu được
dùng theo nghĩa rộng: “Là cái mang những đặc tính, trạng thái, hoạt động và
đồng nghĩa với khái niệm thực thể”.
Từ thế kỉ 17, khái niệm "chủ thể" bắt đầu được dùng trước hết với ý
nghĩa nhận thức luận. Theo nghĩa rộng: “Trong lí luận phản ánh, vật chất là

chủ thể của mọi sự biến đổi”. Theo nghĩa hẹp: “Chủ thể là con người (cá nhân
hoặc nhóm) tiến hành hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn”.
1.2.1.2. Khái niệm tích cực
Theo từ điển Tiếng Việt, “tích cực” là thể hiện sự chủ động, có những
hoạt động nhằm tạo ra sự biến đổi theo hướng phát triển hay là sự thể hiện
lòng nhiệt tình đối với nhiệm vụ, với công việc.

9


1.2.1.3. Khái niệm chủ thể tích cực
Chủ thể tích cực được hiểu theo nghĩa rộng: chủ thể chủ động trong mọi
hoạt động, tự tiến hành các hoạt động tác động vào đối tượng nhằm nhận thức
đối tượng hoặc tạo ra sự biến đổi của đối tượng theo hướng phát triển.
Trong giáo dục, chủ thể tích cực được hiểu: người học chủ động trong
các hoạt động học tập, tự mình tìm hiểu, khám phá và tiếp thu tri thức mới
thông qua việc tác động vào các đối tượng học tập.
1.2.2. Dạy học theo cách tiếp cận người học là chủ thể tích cực
1.2.2.1. Khái niệm dạy học
Trong lịch sử phát triển của giáo dục và nhà trường, dạy học tồn tại như
là một hoạt động của xã hội. Nó gắn liền với hoạt động của con người - hoạt
động dạy và hoạt động học của thầy và trò, nhằm thực hiện mục đích và
nhiệm vụ của giáo dục, đào tạo của nhà trường. Các nhiệm vụ đó phản ánh
tính toàn vẹn của quá trình giáo dục, bao gồm các mặt: giáo dục trí tuệ, giáo
dục đạo đức, giáo dục thể chất, giáo dục thẩm mĩ và giáo dục lao động.
Để thực hiện các nhiệm vụ giáo dục, nhà trường phổ thông phải dựa
vào nhiều con đường có mối quan hệ biện chứng với nhau: dạy học, lao động
sản xuất, hoạt động chính trị - xã hội, hoạt động văn hóa - thẩm mĩ, sinh hoạt
tập thể, vui chơi …trong đó, dạy học là con đường, phương tiện quan trong
nhất.

Vậy dạy học có thể hiểu là một quá trình gồm toàn bộ các thao tác có tổ
chức và có định hướng giúp người học từng bước có năng lực tư duy và năng
lực hành động với mục đích chiếm lĩnh các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các
kĩ năng, các giá trị văn hóa mà nhân loại đã đạt được để trên cơ sở đó có khả
năng giải quyết được các tình huống thực tế đặt ra trong cuộc sống của mỗi
người.

10


1.2.2.2. Dạy học theo cách tiếp cận người học là chủ thể tích cực
Trong lí luận dạy học có những quan niệm khác nhau về vai trò của
giáo viên và vai trò của học sinh nhưng tựu chung lại có hai hướng: hoặc tập
trung vào vai trò hoạt động của giáo viên (lấy giáo viên làm trung tâm) hoặc
tập trung vào vai trò hoạt động của học sinh (lấy học sinh làm trung tâm).
Trong những năm gần đây, nền giáo dục của nước ta dần chuyển từ dạy học
lấy giáo viên làm trung tâm sang dạy học lấy người học làm trung tâm. Có thể
nói, dạy học lấy học sinh làm trung tâm là một tư tưởng, quan điểm chi phối
toàn bộ quá trình dạy học của giáo viên. Quan điểm dạy học lấy người học
làm trung tâm cũng chính là quan điểm dạy học theo cách tiếp cận người học
là chủ thể tích cực.
Học sinh vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của hoạt động học. Quan
điểm dạy học theo cách tiếp cận người học là chủ thể tích cực chính là nhấn
mạnh đến vai trò chủ thể tích cực trong hoạt động học tập của học sinh.
Từ thế kỉ XVII, A.Kômenski đã viết: “Giáo dục có mục đích đánh thức
năng lực nhạy cảm, phán đoán, phát triển nhân cách…”. Một số tác giả khác:
K.Barry và King (1993), John Dewey và Carl Rogers cũng đã đề cập đến vai
trò chủ thể tích cực trong hoạt động học tập của học sinh. Các tác giả này đề
cao nhu cầu, lợi ích của người học, đề xuất việc để cho người học lựa chọn
nội dung học tập, được tự lực tìm tòi nghiên cứu.

Trong dạy học theo cách tiếp cận người học là chủ thể tích cực, toàn bộ
quá trình dạy học đều hướng vào nhu cầu, khả năng, lợi ích của học sinh. Mục
đích là phát triển ở học sinh kĩ năng và năng lực độc lập học tập và giải quyết
các vấn đề… Vai trò của giáo viên là tạo ra những tình huống để phát triển
vấn đề, giúp học sinh nhận biết vấn đề, lập giả thuyết, làm sáng tỏ và thử
nghiệm các giả thuyết, rút ra kết luận.

11


Như vậy: Dạy học theo cách tiếp cận người học là chủ thể tích cực tức
là quá trình dạy học theo hướng có thể khơi gợi được những yếu tố tích cực
tiềm ẩn trong mỗi học sinh, giáo viên tạo điều kiện để học sinh được bộc lộ
khả năng của mình.
Theo quan điểm trên, dạy học theo cách tiếp cận người học là chủ thể
tích cực chi phối toàn bộ quá trình dạy học: từ mục tiêu, nội dung, phương
pháp, hình thức dạy học và cách kiểm tra đánh giá kết quả học tập.
1.2.3. Sự cần thiết phải sử dụng phương pháp dạy học theo cách tiếp cận
người học là chủ thể tích cực
Các tiến bộ của xã hội đòi hỏi con người của thời đại mới phải có các
khả năng mới: học tập, giải quyết vấn đề, trao đổi, làm việc theo tổ chức, …
Những khả năng mới này chưa được hệ thống giáo dục cổ điển đề cập tới và
học sinh chưa được trang bị những tri thức và kĩ năng cần thiết để đáp ứng đòi
hỏi mới. Xã hội phải tiến hành đào tạo lại người lao động sau khi tiếp nhận
các học sinh đã hoàn thành việc học tâp trong trường học. Tiến bộ xã hội đang
gây sức ép, buộc hệ thống giáo dục phải có những thay đổi để có thể cung cấp
những con người phàu hợp với yêu cầu của xã hội hiện đại. Chính vì sự phát
triển của loài người mà đòi hỏi sự cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy
học, do:
Thứ nhất, là sự phát triển sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Sự cần thiết đổi mới trong giáo dục đã được ghi trong nghị quyết
40/2000/QH10 về đổi mới Chương trình giáo dục phổ thông và thể hiện trong
Chỉ thị 14/2001/CT-TT ngày 11/6/2001 của thủ tướng Chính phủ về thực hiện
Nghị quyết số 40/2000/QH10 của Quốc hội:
Sự phát triển sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi
những con người năng động, sáng tạo, tự lực, tự cường.

12


Thế giới đã chuyển sang thời kì kinh tế tri thức, cho nên đầu tư vào chất
xám sẽ là cách đầu tư hiệu quả nhất cho sự hưng thịnh của mỗi quốc gia.
Cũng vì lí do này mà nhu cầu học tập của người dân ngày càng nhiều, trình độ
dân trí ngày một tăng, xã hội học tập đang hình thành và phát triển…
Như vậy, khi đổi mới mục tiêu và nội dung dạy học, những phương
pháp đã và đang sử dụng sẽ không đáp ứng được yêu cầu đào tạo thế hệ trẻ
năng động, sáng tạo của tương lai nếu không có sự đổi mới về cách thức tiến
hành các phương pháp dạy học.
Thứ hai, là sự đổi mới của chương trình tiểu học
Với yêu cầu đặt ra cho giáo dục những nhiệm vụ mới: xem xét lại mục
tiêu, nội dung chương trình giáo dục ở mọi bậc học. Bậc Tiểu học là bậc học
nền tảng nên sự đổi mới lại càng cần thiết và quan trọng. Chính vì vậy đã từ
nhiều năm nay, giáo dục Tiểu học đã có những thay đổi mạnh mẽ:
- Về mục tiêu
Chương trình dạy học Tiểu học truyền thống chủ yếu gồm các đích cần đạt
và danh mục các nội dung dạy học. Điều này đã gây khó khăn cho người sử
dụng chương trình, nên trong đổi mới chương trình Tiểu học, mục tiêu đã
được cụ thể hóa bằng kế hoạch hành động sư phạm bao gồm:
+ Những đích cuối cùng (thể hiện ở cấp bậc mục tiêu: bậc học, môn học,
chủ đề, bài học …).

+ Những nội dung kiên thức và phẩm chất năng lực cần đạt ở học sinh.
+ Các phương pháp và phương tiện dạy học, các hoạt động dạy học cụ
thể.
+ Các cách thức đánh giá kết quả học tập của học sinh.
- Về nội dung
Nội dung chương trình Tiểu học được soạn thảo hiện đại, tinh giản,
thiết thực và cập nhật sự phát triển của khoa học - công nghệ, kinh tế - xã hội,

13


tăng cường thực hành vận dụng, gắn bó với thực tiễn Việt Nam, tiến kịp trình
độ phát triển chung của chương trình giáo dục phổ thông của các nước trong
khu vực và quốc tế. Hơn nữa, nội dung chương trình và sách giáo khoa có
tính thống nhất cao, phù hợp với trình độ phát triển chung của số đông học
sinh, góp phần phát hiện và bồi dưỡng những học sinh có năng lực đặc biệt.
- Về phương pháp
Theo xu hướng chung hiện nay, đổi mới phương pháp dạy học là đổi
mới theo quan điểm dạy học lấy người học là trung tâm. Quan điểm này có cơ
sở lí luận từ việc nhận thức quá trình dạy học luôn luôn vận động và phát triển
không ngừng chịu sự chi phối của nhiều quy luật, trong đó quy luật về mối
quan hệ biện chứng giữa dạy và học, giữa thầy và trò trong quas trình dạy học
là quy luật cơ bản. Thầy và trò - cả hai chủ thể này đều chủ động, tích cực
bằng hoạt động của mình hướng tới tri thức. Thầy giữ vai trò chủ đạo, tổ chức
điều khiển hoạt động nhận thức của trò. Trò thì hoạt động tích cực chiếm lĩnh
tri thức và biến nó thành vốn hiểu biết của mình để tiếp tục hoạt động nhận
thức và hành động thực tiễn. Do vậy, khi bàn về phương pháp dạy học chúng
ta phải bàn đến phương pháp dạy của thầy và phương pháp học của trò. Sự
phù hợp của phương pháp dạy học sẽ cho ta hiệu quả thực sự của việc dạy
học. Trước thực tiễn này thì đổi mới phương pháp dạy học là nội dung hết sức

quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy và học, vì:
+ Thầy dạy thế nào để đạt được mục tiêu dạy học cụ thể đã đề ra và thầy
có thể đo được kết quả ấy.
+ Thầy dạy thế nào để hình thành được năng lực cho học sinh.
+ Thầy dạy thế nào để học sinh hứng thú với mọi hiện tượng xung quanh
mình.
+ Thầy dạy thế nào để học sinh tìm được sự hữu dụng từ các kiến thức đã
học.

14


+ Thầy dạy thế nào để học sinh có khả năng hợp tác, chia sẻ công việc để
biết cùng chung sống và thích ứng dần với cuộc sống luôn biến động.
+ Thầy dạy thế nào để học sinh phát huy hết tiềm năng và sự sáng tạo của
bản thân.
+ Thầy dạy thế nào để học sinh có khả năng tự học, tự đánh giá.
+ Và thầy dạy thế nào để học sinh biết yêu cuộc sống, yêu quê hương, đất
nước …
Trong giáo dục Tiểu học - bậc học cơ sở của giáo dục phổ thông, việc
học tập của học sinh phụ thuộc rất nhiều vào việc dạy của thầy. Nếu chúng ta
trả lời được các câu hỏi trên cũng là chúng ta thực hiện được những mục tiêu
giáo dục Tiểu học đặt ra, tức là “giúp học sinh hình thành những cơ sở ban
đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ
và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên bậc học trung học cơ sở”.
Tuy nhiên cho đến nay sự chuyển biến về phương pháp dạy học trong các
loại hình nhà trường vẫn còn diễn tiến chậm; chủ yếu vẫn là cách dạy truyền
thống; thầy thông báo những kiến thức có sẵn, trò thu nhận chúng một cách
thụ động, xem kẽ trong các bài dạy có sử dụng các phương pháp vấn đáp tái
hiện, hoặc giải thích, minh họa với sự hỗ trợ của đồ dùng trực quan…

Nếu cứ tiếp tục với cách dạy thụ động như thế, giáo dục sẽ không đáp ứng
được yêu cầu đòi hỏi của xã hội, do vậy việc cải cách nền giáo dục nước nhà,
trong đó có sự đổi mới căn bản về phương pháp dạy học là một thách thức
không nhỏ và cần phải thực hiện.
1.2.4. Một vài nét về phương pháp thí nghiệm
1.2.4.1. Khái niệm phương pháp thí nghiệm
Để có thể hiểu rõ hơn về phương pháp thí nghiệm thì trước tiên chúng
tôi đi tìm hiểu về khái niệm thí nghiệm:

15


Theo từ điển Tiếng Việt của tác giả Hoàng Phê thì: “Thí nghiệm là gây
ra một hiện tượng, một sự biến đổi nào đó trong điều kiện xác định để tìm
hiểu, kiểm tra hay chứng minh”. [9, 938]
Hay: “Thí nghiệm có nghĩa là làm thử để rút ra kinh nghiệm”.
Theo tác giả Nguyễn Thị Lan thì: “Thí nghiệm là những công việc để tạo
ra những hiện tượng nhằm phát hiện được đầy đủ bản chất, nguyên nhân của
hiện tượng đó”. [8, 24]
Thí nghiệm có vai trò quan trọng trong nghiên cứu khoa học và trong
dạy học. Thí nghiệm là một phần của hiện thực khách quan được thực hiện
hoặc được tái tạo lại trong điều kiện đặc biệt, trong đó cong người có thể chủ
động điều khiển các yếu tố tác động vào các quá trình xảy ra để phục vụ cho
các mục đích nhất định. Thí nghiệm giúp con người kiểm chứng, làm sáng tỏ
những giả thuyết khoa học.
Tóm lại: Thí nghiệm là cầu nối giữa lí thuyết và thực tiễn, là tiêu chuẩn
đánh giá tính chân thực của kiến thức, hỗ trợ đắc lực cho tư duy sáng tạo. Nó
là phương tiện duy nhất giúp hình thành ở học sinh kĩ năng, kĩ xảo thực hành
và tư duy sáng tạo.
Thí nghiệm được thực hiện ở tất cả các khâu của quá trình dạy học. Thí

nghiệm được sử dụng dưới các hình thức:
- Thí nghiệm do giáo viên tự tay biểu diễn trước học sinh.
- Thí nghiệm do học sinh tự làm.
- Thí nghiệm ngoại khóa.
Vậy khái niệm phương pháp thí nghiệm là gì?
Có một số định nghĩa về phương pháp thí nghiệm:
Theo tác giả Nguyễn Thượng Giao: “Khi tiến hành các thí nghiệm, giáo
viên hoặc học sinh sử dụng các dụng cụ thí nghiệm tái tạo hiện tượng đã xảy
ra trong thực tế để tìm hiểu và rút ra các kết luận khoa học”. [3, 48]

16


Hay: “Phương pháp thí nghiệm là phương pháp dạy học mà thầy và trò
cùng chủ động tái tạo lại hiện tượng cần nghiên cứu trong những điều kiện
nhất định”.
Như vậy, phương pháp thí nghiệm có sự hợp tác giữa thầy và trò để
thực hiện thành công thí nghiệm, phát hiện ra tri thức của bài học. Với
phương pháp thí nghiệm làm thay đổi quan niệm, cách nhìn nhận của giáo
viên và học sinh về vai trò của mình trong quá trình dạy và học, học sinh sẽ là
người trực tiếp thực hiện thí nghiệm để từ đó phát hiện ra tri thức của bài học.
Tóm lại: Phương pháp thí nghiệm là phương pháp mà giáo viên tổ chức
cho học sinh sử dụng các dụng cụ thí nghiệm tái tạo lại những hiện tượng xảy
ra trong thực tế để tìm hiểu và rút ra những kết luận khoa học.
1.2.4.2. Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp thí nghiệm
a. Ưu điểm của phương pháp thí nghiệm
Ưu điểm của phương pháp thí nghiệm là luôn gắn lí thuyết với thực
hành. Vì vậy nó kích thích học sinh chủ động, sáng tạo và tích cực hơn trong
quá trình học tập. Phương pháp thí nghiệm cho phép học sinh sử dụng các
giác quan một cách tối đa vào quá trình học tập làm cho các em lĩnh hội được

nhiều kiến thức, đem lại kinh nghiệm và hiệu quả thực tế. Chính những ưu
điểm này đã tạo điều kiện thuận lợi cho ta áp dụng phương pháp thí nghiệm
và quá trình dạy học.
Nội dung môn Khoa học lớp 4 là tìm hiểu về vật chất, năng lượng, thực
vật, động vật, … đây là những vấn đề gần gũi với học sinh nên việc áp dụng
phương pháp thí nghiệm là không khó.
Phương pháp thí nghiệm cho phép học sinh làm việc theo nhóm, từ đó
học sinh sẽ được phát huy kĩ năng quan sát, sự hợp tác, biết lắng nghe ý kiến
và biết tự mình trình bày ý kiến.

17


b. Nhược điểm của phương pháp thí nghiệm
Bên cạnh những ưu điểm trên thì phương pháp thí nghiệm vẫn còn tồn tại một
số nhược điểm sau:
- Cơ sở vật chất, trang thiết bị của lớp học, của trường chưa đáp ứng
được yêu cầu của tất cả các thí nghiệm.
- Trọng quá trình tổ chức thí nghiệm có nhiều tình huống diễn biến ngoài
dự kiến của giáo viên. Vì vậy muốn tiến hành thí nghiệm thành công trong
một giờ học đòi hỏi giáo viên phải chuẩn bị thật kĩ mọi phương tiện và dụng
cụ phục vụ cho thí nghiệm.
- Giáo viên còn gặp khó khăn trong việc quản lí và tổ chức cho học sinh,
mất nhiều chi phí cho một giờ học.
- Về phía học sinh do vốn sống, vốn hiểu biết của các em còn ít, gặp
những thí nghiệm phức tạp đòi hỏi phân tích, tổng hợp thì học sinh vẫn còn
lúng túng khi đưa ra ý tưởng, hạn chế về ngôn ngữ diễn đạt.
Để có một giờ học Khoa học thành công, cả giáo viên và học sinh phải
khắc phục những khó khăn này thông qua rèn luyện, rút kinh nghiệm.
1.2.5. Vai trò của phương pháp thí nghiệm trong dạy học theo cách tiếp

cận HS là chủ thể tích cực
Phương pháp thí nghiệm có vai trò và ý nghĩa to lớn trong việc dạy học
môn Khoa học 4, 5 nói chung và môn Khoa học lớp 4 nói riêng theo cách tiếp
cận học sinh là chủ thể tích cực, nó đóng vai trò vừa là nội dung vừa là
phương tiện để truyền tải kiến thức, rèn luyện khả năng tư duy, kĩ năng kĩ xảo
cho học sinh.
Phương pháp thí nghiệm không chỉ nâng cao kiến thức cho người học
mà còn làm nảy sinh tư duy độc đáo cho học sinh, nó giữ vai trò cơ bản trong
việc thực hiện những nhiệm vụ của việc dạy học môn Khoa học. Thí nghiệm
là phương tiện dạy học trực quan đem lại kết quả hữu hiệu nhất trong dạy học

18


môn Khoa học ở tiểu học và thông qua thí nghiệm, học sinh có thể chủ động
tìm ra tri thức mới.
Không chỉ vậy, thí nghiệm còn rèn luyện kĩ năng thực hành, góp phần
quan trọng trong việc tạo hứng thú học tập cho học sinh. Việc làm thí nghiệm
sẽ lôi cuốn học sinh trong việc tích cực chủ động tìm kiếm những kiến thức,
kĩ năng mới làm tăng tư duy và khả năng sáng tạo. Thông qua thí nghiệm học
sinh nắm kiến thức được vững chắc và sâu hơn. Thí nghiệm được sử dụng với
tư cách là nguồn gốc, xuất xứ của kiến thức để dẫn đến lý thuyết hoặc với tư
cách kiểm tra giả thuyết còng có tác dụng phát triển tư duy giáo dục tương
quan duy vật biện chứng.
Trong quá trình làm thí nghiệm việc học sinh được trực tiếp được lựa
chọn các dụng cụ thí nghiệm và được tự mình thao tác trên các dụng cụ thí
nghiệm đó đã tạo điều kiện, môi trường tốt cho học sinh hình thành, phát triển
các kĩ năng học tập như quan sát, tư duy phân tích, tổng hợp, khái quát để
hình thành tri thức mới,… và từ đó rèn luyện thành kĩ năng, kĩ xảo. Ngoài ra,
thí nghiệm bắt buộc học sinh phải tư duy vận dụng các kiến thức cũ để tìm ra

các mối liên hệ bản chất giữa sự vật và hiện tượng.
Thí nghiệm giúp học sinh chuyển từ tư duy cụ thể sang tư duy trừu
tượng và ngược lại. Khi làm thí nghiệm, học sinh sẽ được làm quen với những
đối tượng thí nghiệm như các dạng vật chất, năng lượng, động - thực vật: đất,
đá, cây cối, không khí, nước,…và được tự mình trực tiếp quan sát, nắm bắt
các biểu hiện, các biến đổi, hay các tính chất của chúng giúp các em hiểu
được các quá trình lí hóa từ đó nắm vững được các khái niệm cần thiết.
Thí nghiệm là cầu nối giữa lí thuyết và thực tế, nhiều thí nghiệm rất gần
gũi với những vấn đề thường gặp trong cuộc sống, từ đó giúp học sinh hiểu
sâu và vận dụng tốt hơn vào thực tiễn.

19


Thí nghiệm là phương tiện duy nhất giúp hình thành ở học sinh kĩ năng,
kĩ xảo thực hành và tư duy kĩ thuật.
Thí nghiệm còn giúp HS củng cố niềm tin khoa học, yêu thích khoa
học, luôn muốn tự mình khám phá nhưng điều mới mẻ, đồng thời hình thành
những đức tính tốt của người lao động mới: thận trọng, ngăn nắp, trật tự, gọn
gàng, làm việc có trình tự…
1.3.Chương trình môn Khoa học lớp 4 ở Tiểu học
1.3.1. Mục tiêu môn Khoa học lớp 4
a) Về kiến thức
Có một số kiến thức cơ bản, ban đầu và thiết thực về:
- Sự trao đổi chất, nhu cầu dinh dưỡng và sự lớn lên của cơ thể người.
Cách phòng tránh một số bệnh thông thường và bệnh truyền nhiễm.
- Sự trao đổi chất, sự sinh sản của thực vật, động vật.
- Đặc điểm và ứng dụng của một số chất, một số vật liệu và dạng năng
lượng thường gặp trong đời sống và sản xuất.
b) Về kĩ năng

Bước đầu hình thành và phát triển những kĩ năng:
- Ứng xử thích hợp trong các tình huống có liên quan đến vấn đề sức
khỏe của bản thân, gia đình và cộng đồng.
- Quan sát và làm một số thí nghiệm thực hành khoa học đơn giản gần
gũi với đời sống sản xuất.
- Nêu thắc mắc, đặt câu hỏi trong quá trình học tập, biết tìm thông tin
để giải đáp, biết diễn đạt những hiểu biết bằng lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ
đồ…
- Phân tích, so sánh, rút ra những dấu hiệu chung và riêng của một sự
vật, hiện tượng đơn giản trong tự nhiên.

20


c) Về thái độ
Hình thành, phát triển những thái độ và thói quen:
- Tự giác thực hiện các quy tắc vệ sinh, an toàn cho bản thân, gia đình
và cộng đồng.
- Ham hiểu biết khoa học, có ý thức vận dụng các kiến thức đã học vào
đời sống.
- Yêu con người, yêu thiên nhiên, đất nước, yêu cái đẹp. Có ý thức và
hành động bảo vệ môi trường xung quanh.
1.3.2. Nội dung chương trình môn Khoa học lớp 4
Nội dung môn Khoa học lớp 4 được phân bố theo chương trình chung
là dạy 2 tiết / tuần x 35 tuần = 70 tiết và bao gồm các chủ đề sau:
 Con người và sức khỏe
- Sự trao đổi chất của cơ thể người với môi trường (cơ thể người sử
dụng những gì từ môi trường và thải ra môi trường những gì).
- Một số chất dinh dưỡng (chất bột, chất đạm, chất béo, vitamin,
khoáng ...) có trong thức ăn và nhu cầu các chất dinh dưỡng của cơ thể. Ăn

uống khi đau ốm.
- An toàn, phòng chống bệnh tật và tai nạn: Sử dụng thực phẩm an toàn
(rau sạch, thực phẩm tươi sống, thức ăn, đồ uống đóng hộp …); phòng chống
một số bệnh lây qua đường tiêu hóa (tiêu chảy, kiết lị); phòng đuối nước.
 Vật chất và năng lượng
- Nước: Tính chất của nước, ba thể của nước, sự chuyển thể, vòng tuần
hoàn của nước; vai trò của nước trong sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và
đời sống; sự ô nhiễm nước; sử dụng nước hợp lí, bảo vệ nguồn nước.
- Không khí: Tính chất, thành phần của không khí; vai trò của không
khí đối với sự sống, sự cháy; Sự chuyển động của không khí, gió, bão, phòng
chống bão; Sự ô nhiễm không khí; Bảo vệ bầu không khí trong sạch.

21


- Âm: Các nguồn âm, sự truyền âm, âm thanh trong đời sống, chống
tiếng ồn.
- Ánh sáng: Các nguồn sáng, sự truyền ánh sáng; Vai trò của ánh sáng.
- Nhiệt: Cảm giác nóng, lạnh, nhiệt độ, nhiệt kế, các nguồn nhiệt; Vai
trò của nhiệt.
 Thực vật và động vật
- Sự trao đổi chất của thực vật và động vật với môi trường (trong quá
trình sống thực vật và động vật sử dụng những gì từ môi trường và thải ra môi
trường những gì).
1.3.3. Đặc điểm của môn Khoa học lớp 4
Các kiến thức trong môn Khoa học lớp 4 phong phú, đa dạng và có tính
phân tầng. Sự phong phú đa dạng thể hiện ở chỗ kiến thức trong chương trình
là sự tích hợp của nhiều kiến thức của nhiều ngành khoa học như: Sinh học,
Vật lí, Hóa học, Lịch sử...
Sự phân tầng kiến thức thể hiện thông qua mạch kiến thức đi từ dễ đến

khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ cụ thể đến trừu tượng, bên cạnh kiến thức
cơ bản còn có kiến thức mở rộng và nâng cao.
Mặt khác, quá trình nhận thức của học sinh Tiểu học mang tính trực
quan, cụ thể thường gắn liền với hoạt động thực tiễn, hình ảnh cụ thể khá
nhiều. Để tiếp thu kiến thức tổng hợp trên thì giáo viên phải cho học sinh hoạt
động trực tiếp sử dụng các giác quan để tri giác đối tượng như: sờ, nhìn, nghe,
ngửi, nếm... Đây chính là lúc năng lực cá nhân được phát triển. Mỗi cá nhân
HS sẽ có cách nhìn nhận, phát hiện vấn đề (nằm trong nội dung bài học) theo
cách riêng của mình. Có em hiểu sâu, rộng nội dung bài học (học sinh khá,
giỏi) có em hiểu nông, thậm chí chưa hiểu đúng nội dung bài học (học sinh
yếu, kém).

22


Thêm vào đó nội dung của môn Khoa học lớp 4 chủ yếu gồm những bài
học giúp các em có thêm những hiểu biết về cơ thể người, thực vật, động vật
và những vấn đề liên quan hay đặc điểm và ứng dụng của một số chất, một số
vật liệu, dạng năng lượng thường gặp. Những nội dung này vốn học sinh đã
có những hiểu biết nhất định (khác nhau là ở sự hiểu biết của mỗi học sinh) vì
vậy dạy học môn Khoa học bằng phương pháp tích cưc lấy học sinh là chủ thể
của mọi hoạt động sẽ đảm bảo cho việc dạy sát đối tượng, phát huy và bồi
dưỡng những năng lực, hiểu biết mà học đã có.
1.3.4. Vai trò của việc sử dụng phương pháp thí nghiệm trong dạy học
môn Khoa học lớp 4
Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm, bản chất của phương pháp thí nghiệm
và đặc điểm nội dung của môn Khoa học, tôi thấy vận dụng phương pháp thí
nghiệm vào dạy môn Khoa học là rất cần thiết vì nó phù hợp với nội dung
kiến thức của môn học. Do Khoa học là một môn học tích hợp kiến thức của
khoa học tự nhiên và khoa học xã hội nên nội dung của nó mang tính thực tiễn

cao. Những hiểu biết mà học sinh tiếp thu được sẽ ứng dụng được rất nhiều
vào trong cuộc sống. Học sinh có thể tư duy và tranh luận để giải quyết các
vấn đề nảy sinh trong thực tế để từ đó tìm ra được kiến thức của bài học, hình
thành niềm tin khoa học. Phương pháp thí nghiệm đóng vai trò quan trọng
giúp các em hiểu chúng và làm sáng tỏ những giả thuyết khoa học này.
Quá trình nhận thức của học sinh mang tính trực quan cụ thể. Tri giác
của học sinh gắn liền với hoạt động thực tiễn, trí nhớ mang tính chất hình ảnh,
cụ thể, trực tiếp. Quá trình dạy học bằng phương pháp thí nghiệm lại luôn đặt
học sinh vào những hoạt động trực tiếp, lấy hoạt động của học sinh làm trung
tâm dưới sự chỉ đạo của giáo viên, học sinh thực hành thí nghiệm dựa vào
kiến thức, kinh nghiệm sẵn có để hình thành thí nghiệm. Vì vậy, việc dạy học
bằng phương pháp này rất phù hợp. Bằng các hoạt động tự lực thực hiện thí

23


nghiệm, học sinh sẽ nắm bắt kiến thức, ghi nhớ kiến thức một cách sâu sắc và
vững chắc. Phương pháp thí nghiệm còn tạo cơ hội cho học sinh tìm hiểu,
khám phá, đánh giá, học hỏi lẫn nhau thông qua bài tập thực tế. Các thí
nghiệm thí nghiệm thực hành thúc đẩy, đáp ứng và mở rộng nhu cầu nhận
thức của học sinh. Còn một điều đáng chú ý nữa, với phương pháp thuyết
trình thì khả năng ghi nhớ của học sinh đạt 25%, còn với phương pháp thí
nghiệm thí kết quả đạt tới 75%. Như vậy, ta có thể thấy được sự cần thiết của
việc áp dụng phương pháp này vào dạy học
Phương pháp thí nghiệm còn giúp học sinh hiểu được bản chất vấn đề
một cách nhanh chóng và chính xác. Học sinh được đặt vào tình huống có vấn
đề và tự mình lựa chọn thí nghiệm, tự tổ chức thí nghiệm thông qua sự hướng
dẫn của giáo viên. Học sinh tự thực hiện thi nghiệm và trình bày trước lớp dù
làm hỏng hay làm tốt, các em đều được trình bày, giải thích kết quả của mình.
Chính qua những lần thử nghiệm liên tiếp ấy, qua những sai lầm của mình

học sinh sẽ rút ra kinh nghiệm và hiểu sâu được bản chất của vấn đề.
Phương pháp thí nghiệm có tác dụng kích thích động cơ học tập của
học sinh. Khi nhận được các vấn đề học sinh nảy sinh nhu cầu muốn tiến hành
thí nghiệm để giải quyết vấn đề được nêu ra. Học sinh sẽ tự nghiên cứu, nêu
ra các ý tưởng rồi dần dần chiếm lĩnh tri thức. Hơn thế nữa, trong phương
pháp thí nghiệm học sinh luôn ở trạng thái vận động, sử dụng mọi giác quan.
Điều này sẽ giúp học sinh không chỉ lĩnh hội được nhiều thông tin, kiến thức,
kĩ năng mà còn giúp học sinh phát triển về thể chất. Đó là mục tiêu phát triển
toàn diện mà mục đích của giáo dục nêu ra.
Phương pháp thí nghiệm góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất
lượng dạy học môn Khoa học nhằm đạt được mục tiêu dạy học đề ra. Vì vậy
cần vận dụng phương pháp thí nghiệm một cách sáng tạo nhằm phát huy tính
tích cực của học sinh.

24


2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Mục đích khảo sát thực trạng
Để đạt được những mục đích mà nội dung đề tài đã đưa ra, trên cơ sở lý
luận đã đề xuất ở trên, chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm sư phạm bước đầu
nhằm mục đích sau:
- Xác định thực trạng sử dụng các phương pháp dạy học môn Khoa học
lớp 4.
- Xác định thực trạng sử dụng phương pháp thí nghiệm trong dạy học
môn Khoa học lớp 4.
- Xác định thực trạng về vai trò chủ thể tích cực của học sinh trong hoạt
động học tập môn Khoa học lớp 4.
2.2. Nội dung khảo sát thực trạng
Để nắm được thực trạng dạy học môn Khoa học lớp 4 và thực trạng sử

dụng các phương pháp dạy học, đặc biệt là phương pháp thí nghiệm trong dạy
học môn Khoa học lớp 4. Chúng tôi đã tiến hành điều tra tại trường Tiểu học
Đồng Xuân - Phúc Yên - Vĩnh Phúc.
2.3. Kết quả khảo sát thực trạng
2.3.1. Thực trạng dạy học môn Khoa học lớp 4 ở Tiểu học
Đầu tiên chúng tôi điều tra thực trạng thời lượng dạy học môn Khoa
học lớp 4. Để có kết quả chính xác, khách quan chúng tôi đã sử dụng phiếu
điều tra kết hợp với trao đổi, trò chuyện với 11 giáo viên dạy khối 4 trong
trường Tiểu học Đồng Xuân.
Nội dung phiếu điều tra: Câu 1 (phụ lục 1)
Kết quả điều tra như sau:
Thời lượng

1 tiết/tuần

2 tiết/tuần

Ý kiến khác

Tỉ lệ

35%

55%

10%

Bảng 1: Thời lượng dạy học môn Khoa học 4

25



×