Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật trong tiểu thuyết gia đình của khái hưng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.5 KB, 67 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
----------

NGUYỄN THỊ THANH LOAN

NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ TÂM LÝ
NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT
"GIA ĐÌNH" CỦA KHÁI HƯNG
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI - 2011


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
----------

NGUYỄN THỊ THANH LOAN

NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ TÂM LÝ
NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT
"GIA ĐÌNH" CỦA KHÁI HƯNG
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học
Th.S THÀNH ĐỨC BẢO THẮNG

HÀ NỘI - 2011




LỜI CẢM ƠN
Khóa luận của em được hồn thành là nhờ sự tận tình giúp đỡ của thạc
sĩ Thành Đức Bảo Thắng. Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất của
mình đến Thầy.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ văn học Việt Nam,
trong khoa, trong trường đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình học
tập, nghiên cứu.
Xin cảm ơn bạn bè đã ln động viên, giúp đỡ tơi hồn thành khóa
luận.
Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2011.
Người viết khóa luận

Nguyễn Thị Thanh Loan


LỜI CAM ĐOAN
Sau một thời gian học tập, rèn luyện và hồn thành khóa luận tốt nghiệp
với tinh thần làm việc nghiêm túc, tơi xin cam đoan khóa luận này là kết quả
của quá trình tự nghiên cứu dưới sự hướng dẫn, chỉ bảo của thạc sĩ Thành Đức
Bảo Thắng.
Kết quả nghiên cứu của tôi không trùng với kết qủa của các tác giả khác.
Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2011
Người viết khóa luận

Nguyễn Thị Thanh Loan


MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ..................................................................... 3
2.1. Trước Cách mạng tháng 8/1945 .......................................................... 3
2.2. Sau Cách mạng tháng 8/1945.............................................................. 4
2.2.1. Ở miền Bắc trước năm 1975 ............................................................ 4
2.2.2. Ở miền Nam trước năm 1975 ........................................................... 6
2.3. Từ sau đổi mới năm 1986 đến nay ...................................................... 7
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................ 8
4. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................ 9
5. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................... 9
6. Phương pháp nghiên cứu........................................................................ 9
7. Đóng góp của khóa luận......................................................................... 9
8. Bố cục của khóa luận ............................................................................. 10

NỘI DUNG.................................................................................... 11
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG.................................................. 11
1.1. Tác giả Khái Hưng.............................................................................. 11
1.1.1. Cuộc đời .......................................................................................... 11
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác ........................................................................... 12
1.2. Nhân vật và ý nghĩa của việc miêu tả tâm lý nhân vật......................... 15
1.2.1. Khái niệm nhân vật .......................................................................... 15
1.2.2. Vai trò của việc miêu tả tâm lý nhân vật .......................................... 16
Chương 2: MÊU TẢ TÂM LÝ NHÂN VẬT QUA NGOẠI HÌNH, HÀNH
ĐỘNG VÀ THIÊN NHIÊN ....................................................................... 20
2.1. Tạo dựng tình huống xung đột tâm lý ................................................. 17


2.1.1. Tình huống xung đột giữa hai thế hệ cũ và mới trong gia đình phong

kiến .............................................................................................................. 22
2.2.2. Tình huống xung đột giữa hai tuyến nhân vật tốt và xấu, lương thiện
và bất lương ............................................................................................... 26
2.2.3. Tình huống xung đột giữa hai lớp thanh niên mang tư tưởng cải cách
và không cải cách ...................................................................................... 28
2.2. Miêu tả tâm lý qua ngoại hình và hành động....................................... 30
2.2.1. Miêu tả tâm lý qua ngoại hình.......................................................... 31
2.2.2. Miêu tả tâm lý qua hành động .......................................................... 32
2.2.2.1. Nhân vật có hành động nhất quán với động cơ tâm lý ................... 33
2.2.2.2. Nhân vật có hành động không nhất quán với động cơ tâm lý ........ 35
2.2.2.3. Nhân vật có hành động mang tính chất lặp đi lặp lại ..................... 38
2.3. Miêu tả tâm lý qua hình ảnh thiên nhiên ............................................. 40
Chương 3: MIÊU TẢ TÂM LÝ NHÂN VẬT QUA NGƠN NGỮ......... 44
3.1. Ngơn ngữ nhân vật mang tính cá thể hóa ......................................... 44
3.1.1. Ngơn ngữ của nhân vật mang tâm lý hám danh................................ 44
3.1.2. Ngôn ngữ của nhân vật mang tâm lý lưỡng phân ............................. 47
3.1.3. Ngôn ngữ của nhân vật mang tư tưởng cải cách xã hội .................... 47
3.2. Ngôn ngữ đối thoại hướng vào nội tâm ............................................... 48
3.3. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm................................................................ 54
3.3.1. Độc thoại nội tâm tái hiện cảm xúc, tâm tư nhân vật ........................ 55
3.3.2. Độc thoại nội tâm tái hiện những diễn biến tâm lý phức tạp............. 58
KẾT LUẬN .............................................................................................. 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………..63


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bước sang đầu thế kỷ XX, nền văn học Việt Nam đã có sự chuyển
mình bứt phá để hịa vào mạch nguồn đang cuồn cuộn chảy của dịng văn học
thế giới. Nó từng bước đi vào quỹ đạo hiện đại và thực hiện xứ mệnh cao cả

của mình – hồn tất q trình hiện đại hóa. Q trình hiện đại hóa ấy có sự
đóng góp của rất nhiều trào lưu, khuynh hướng và các tổ chức văn học. Trong
đó, trào lưu văn học lãng mạng bắt đầu với nhóm Tự lực văn đồn và phong
trào “Thơ mới” đã góp một tiếng nói rất quan trọng vào sự cách tân nền văn
học nước nhà.
Đến nay phong trào “Thơ mới” đã chiếm được vị trí khá vững vàng
trên văn đàn ngơn luận. Cịn “Tự lực văn đồn là một món nợ tinh thần cần
phải được thanh toán và là một vấn đề văn học sử chưa được giải quyết triệt
để” [15, 520]. Thời gian không chỉ phủ một lớp bụi mờ mà chắc chắn sẽ định
lại giá trị của những tác phẩm đó, bởi trong khoảng trên dưới mười năm, Tự
lực văn đồn đã có cơng lớn trong việc đổi mới nền văn học, góp phần quan
trọng vào việc xây dựng một nền văn học hiện đại. Các cơng trình nghiên cứu
về Tự lực văn đồn lần lượt xuất hiện:“Tự lực văn đoàn” của giáo sư Phan
Cự Đệ, các luận án tiến sĩ của Trịnh Hồ Khoa, Lê Thị Dục Tú…cùng nhiều
cơng trình nghiên cứu khác có thể xem là một bước tiến mới trong cách nhìn
nhận, đánh giá văn chương Tự lực văn đồn. Khi nghiên cứu về đối tượng
này chúng tơi muốn tìm ra “những hạt ngọc ẩn giấu dưới lớp bụi thời gian”,
tìm kiếm những mạch tinh thần mới của văn chương Tự lực văn đoàn.
Tác phẩm của Tự lực văn đoàn bao gồm nhiều thể loại như: kịch, thơ,
văn xuôi… nhưng tiểu thuyết là thể loại được nhiều người nhắc đến hơn cả.
Trong cuốn “Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại”, tác giả Phan Cự Đệ đã đánh giá:
“Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn vào loại bán chạy nhất lúc bấy giờ”, và khẳng


định “công lao chủ yếu của Nhất Linh và Khái Hưng là đã có đóng góp trong
việc xây dựng một nền tiểu thuyết hiện đại” [15, 51 – 82]. Tự lực văn đồn là
sự đóng góp của rất nhiều cây bút, trong đó Khái Hưng được đánh giá là ngơi
sao sáng nhất, là cây bút trụ cột. Với sự già dặn về nghệ thuật và dồi dào về
năng lực sáng tác, Khái Hưng đã để lại một văn nghiệp vừa phong phú, vừa đa
dạng. Với hàng chục cuốn tiểu thuyết, truyện ngắn và kịch đã tạo được sự mến

mộ của đông đảo công chúng đương thời. Nhưng trước hết và trên tất cả, “Khái
Hưng là nhà tiểu thuyết có biệt tài”, ơng đã có sự đóng góp quan trọng vào
cuộc canh tân văn học đầu thế kỷ.
Đọc tiểu thuyết giai đoạn đầu của Khái Hưng như: “Hồn bướm mơ tiên”,
“Nửa chừng xuân”, “Trống mái”… chúng ta nhận thấy ông là nhà tiểu thuyết
về lý tưởng. Giai đoạn sau tiểu thuyết của ơng ngày càng có nhiều yếu tố hiện
thực hơn, ngả dần sang tiểu thuyết phong tục với nhiều đặc sắc. Trong đó “Gia
đình” (1936) là cuốn tiểu thuyết tiêu biểu cho những sáng tác giai đoạn sau.
Khái Hưng là nhà văn rất am hiểu và nhạy cảm về đời sống gia đình. Ơng đã tả
được chân thực khơng khí gia đình phong kiến đang bị rạn vỡ vì những xung
đột kinh tế. Đặc biệt người đọc nhận thấy ở ông sự am hiểu sâu sắc tâm lý và
một khả năng biểu đạt rất tài tình thế giới nội tâm đầy phức tạp ấy trong các
nhân vật của mình. Vì vậy khi nghiên cứu đề tài “Nghệ thuật miêu tả tâm lý
nhân vật trong tiểu thuyết Gia đình của Khái Hưng” sẽ thấy được tài năng tiểu
thuyết và quan niệm tiến bộ của ơng trong cái nhìn về con người và xã hội.
Trong chương trình Trung học phổ thơng, tiểu thuyết của Tự lực văn
đoàn chỉ được giới thiệu trong các bài văn học sử. Tác phẩm của họ chưa được
đưa vào giảng dạy trong nhà trường. Song tiểu thuyết của Tự lực văn đồn có ý
nghĩa rất quan trọng. Trước hết, cho chúng ta thấy được cụ thể và sinh động
bước chuyển mình của văn học dân tộc theo tính quy luật và từ đó, có cái nhìn
so sánh, đối chiếu với các trào lưu, khuynh hướng khác giúp bài giảng thêm sâu
sắc, phong phú hơn.


Với tất cả những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Nghệ thuật miêu tả
tâm lý nhân vật trong tiểu thuyết Gia Đình của Khái Hưng”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tự lực văn đoàn và phong trào “Thơ mới” như hai đóa hoa đẹp của văn
chương khi bước vào thời hiện đại. Nhìn lại di sản thơ một thời, tuy có những
hạn chế riêng về một dịng thơ lãng mạn, nhưng “Thơ mới” vẫn thuộc nguồn

mạch thi ca có tinh thần dân tộc, tình cảm nhân đạo, giàu cảm xúc với cái đẹp
của thiên nhiên, tạo vật… “Thơ mới” đã góp phần quan trọng đưa thơ ca vào
quỹ đạo của thời kỳ hiện đại. Từ đó nhìn lại Tự lực văn đồn cũng cần có sự
đánh giá đúng đắn và ghi nhận những đóng góp của trào lưu văn học này. Thời
gian đã đủ lắng, những cơn sóng của thời cuộc chính trị đã dịu xuống, tác phẩm
của Tự lực văn đoàn được nghiên cứu theo xu hướng khách quan, dân chủ và
cởi mở hơn.
Ngược dòng thời gian, lật lại những cơng trình nghiên cứu trước đây về
tiểu thuyết “Gia đình”, chúng ta sẽ thấy những ý kiến khơng đồng nhất, thậm
chí cịn đối lập nhau. Tổng hợp lại những cơng trình nghiên cứu ấy, có thể thấy
việc đánh giá về tiểu thuyết “Gia đình” của Khái Hưng rất phức tạp, diễn ra
theo ba thời kỳ sau:
2.1. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
Tiểu thuyết “Gia đình” được Khái Hưng viết năm 1936 và được công bố
trên báo “Ngày nay” năm 1937. Dưới đây là những ý kiến đánh giá về tác
phẩm này trước năm 1945.
Trong cuốn “Khái Hưng nhà tiểu thuyết xuất sắc”, Trương Chính đã
đánh giá cao tác phẩm “Gia đình” về nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật “Ơng
Khái Hưng, tác giả Gia đình, khác hẳn ông Khái Hưng, tác giả Hồn bướm mơ
tiên hoặc Trống mái. Ông đã thiết thực hơn trước; và hơn trước, ông giải phẫu
tâm lý nhân vật trong truyện một cách cơng phu. Khơng cịn những câu văn
bóng bẩy, nhẹ nhàng vì quá trau chuốt, những cảnh tình tứ nên thơ. Khơng cịn


những tình tiết tốt đẹp, cao thượng. Ở đây là Người với tất cả những cái nhỏ
nhen, tinh quái của Người. Tôi chưa từng thấy nhà văn nào trong văn học Việt
Nam, một nhà văn, kể cả Nhất Linh, đã tả người đàn bà một cách xác đáng như
Khái Hưng… Sự sắp đặt và cách kết cấu trong Gia đình không để ta chê trách
được ở chỗ nào cả… Nghệ thuật của Khái Hưng mỗi ngày một lão luyện trông
thấy. Gia đình có thể được xem như một tác phẩm khơng tì vết” [16, 302 – 304

].
Như vậy từ những năm đầu tiên của quá trình nghiên cứu, nghệ thuật
miêu tả tâm lý nhân vật đã được bắt đầu sử dụng vào việc định giá tiểu thuyết
“Gia đình” nhưng hầu hết các cơng trình nghiên cứu lại chưa xem xét kỹ về
mặt thi pháp.
2.2. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945
Do hồn cảnh lịch sự xã hội có sự biến đổi nên việc đánh giá, nghiên cứu
tiểu thuyết “Gia đình” cũng có sự thay đổi và khác nhau ở hai miền Nam –
Bắc.
2.1.1. Ở miền Bắc trước 1975
Tiếp tục các cơng trình nghiên cứu đã có từ trước và đi sâu tìm hiểu tiểu
thuyết của Khái Hưng, phần lớn các nhà nghiên cứu đều nhấn mạnh mặt hạn
chế về tư tưởng nhiều hơn những đóng góp về nghệ thuật. Nhìn chung, tiểu
thuyết “Gia đình” ở miền Bắc trước 1975 ít được nói đến hoặc có nói đến thì
chê nhiều hơn khen.
Trương Chính vẫn tiếp tục đánh giá cao về tiểu thuyết “Gia đình”.
Trong bài viết về Khái Hưng năm 1957, ông khẳng định: “Khái Hưng lãng mạn
nhưng tiểu thuyết của ông có vẻ thực, nhân vật của ông sáng tạo đều rất sống
động, chỉ có điều tình tiết hay nói cho đúng hơn nhiều tình tiết trong truyện là
bịa đặt. Về sau Khái Hưng già dặn hơn và khi phong trào lãng mạn đã qua thì
tiểu thuyết của ơng lại hay, chẳng hạn như ba cuốn Thoát ly, Thừa tự, Đẹp và
một phần cuốn Gia đình, lúc bấy giờ ơng chỉ đi sâu vào tâm lý nhân vật và


phản ánh lại cái phong tục của xã hội ta, là nếp sống trong gia đình phong kiến
hoặc tư sản”.
Trong khi đó Phan Cự Đệ, Vũ Đức Phúc, Hồng Dung… lại đánh giá
thấp, thậm chí cịn phê phán nặng nề các tác phẩm của Khái Hưng nói chung và
tiểu thuyết “Gia đình” nói riêng.
Phan Cự Đệ cho rằng: “Khái Hưng không bao giờ cắt đứt được hẳn liên

hệ với phong kiến bởi nhân vật Hạc và Bảo trong Gia đình là chủ ấp tức xuất
thân từ tầng lớp áp bức bóc lột vừa theo kiểu phong kiến vừa theo kiểu tư sản
nhưng lại khốc áo nhân từ”. Ơng cũng nhận xét: “Khái Hưng chỉ am hiểu
chính sách lớn của thực dân phong kiến, những hoạt động xã hội của bọn tai to
mặt lớn, của giới tư sản và giới trí thức mang tính chất cơng khai, ngồi ra
khơng biết gì những hoạt động cách mạng của Đảng cộng sản Đông dương,
những cuộc đấu tranh bí mật của quần chúng cần lao ấy mang tính chất và tinh
thần vơ sản. Ngay cả việc Khái Hưng phản ánh cuộc sống giới quan trường.
Phong trào cải lương xã hội, sinh hoạt và tâm lí của quan lại phong kiến tâm
trạng của trí thức, tư sản và tiểu tư sản thành thị, tính tình và phong cách của
phụ nữ thuộc tầng lớp trên cũng có sự lệch lạc [4, 266 – 268].
Vũ Đức Phúc và Nguyễn Đức Đàn nhận định về tiểu thuyết“Gia đình”:
“Chủ nghĩa cải lương biểu hiện rõ nhất trong Gia đình, ở đây tác giả muốn địa
chủ vừa có học lại vừa rộng rãi, muốn cải thiện đời sống cho dân nghèo đồng
thời vẫn sống một cách trang trọng” [19, 87].
Khuynh hướng phủ nhận Khái Hưng nói chung và “Gia đình” nói riêng
ở miền Bắc kéo dài đến những năm sau 1975, tuy cách nói bớt gay gắt hơn
trước nhưng có thể thấy những năm này được xem là thời kỳ thăng trầm nhất
của Khái Hưng và Tự lực văn đoàn.
2.2.2. Ở miền Nam trước năm 1975
Việc tiếp cận tiểu thuyết của Khái Hưng trong đó có tiểu thuyết “Gia
Đình” nói riêng có xu hướng thiên về nghệ thuật. Có thể kể đến các cơng trình


đề cập hoặc đi sâu nghiên cứu tiểu thuyết Khái Hưng như: “Bình giảng về Tự
lực văn đồn” (Nguyễn Văn Xung – 1958), “Khảo luận về Khái Hưng” (Lê
Hữu Mục – 1960), “Việt Nam văn học sử giản ước tân biên” (tập 3 của Phạm
Thế Ngũ – 1960), “Phê bình văn học thế hệ” (tập 2 của Thanh Lãng – 1972)…
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu ở miền Nam trước 1975 có xu hướng đề cao
Khái Hưng như là một nhà cách tân nghệ thuật song các ý kiến ấy vẫn chưa

thực sự đầy đủ, thuyết phục.
Phạm Thế Ngũ cho rằng: “Trong một loại thứ hai, Khái Hưng chuyên
mô tả những khía cạnh phong tục của cái gia đình cũ Việt Nam. Có ba tác
phẩm Gia đình, Thừa tự, Thốt ly. Gia đình là bức tranh phong tục và tâm lý
của một gia đình quyền q. Cái gia đình Việt Nam mà trước năm 1932, phía
cựu học thường ca ngợi như một nền tảng của xã hội, nơi nảy nở những đức
tính tốt đẹp nước Việt Nam xưa. Trong những tiểu thuyết trên của Khái Hưng
hiện ra với tất cả những hệ đoan của khía cạnh bi hài của nó. Câu chuyện của
ơng Án Báo ta thấy trong nhà, lịng ghen tuông biến ruột thịt thành kẻ thù. Mà
ghen tuông ở một cái danh hão, tức tối nhau chỉ vì một tiếng gọi “Bà huyện, cô
tú”, giỗ chạp, tết nhất anh chị em họp mặt nhau chỉ là dịp người ta bì tị nhau,
kích bác nhau. Ở xã hội Việt Nam xưa dường như người ta chỉ sống bằng danh
gia tộc ra xóm làng, và coi khơng gì q hơn, vẻ vang hơn là cái danh “Quan
lớn”. Cuốn tiểu thuyết của Khái Hưng cũng là một cáo trạng dữ dội phanh phui
tất cả bề trong nhớp nhúa của cái nghề danh giá ấy dưới thời Pháp thuộc” [9,
469 – 471].
Bàng Bá Lân nhận định: “Khái Hưng không chỉ viết tiểu thuyết luận đề
như Nhất Linh mà còn chuyên về những tiểu thuyết phong tục nhằm đả phá
những tập tục cổ truyền của xã hội Việt Nam cũ. Trong những tiểu thuyết : Gia
đình, Thừa tự, Thốt ly ơng đã lột trần những cái dở, cái rởm, những cái nhỏ
nhen, ganh tị, ỷ lại, giả dối của các nhân vật trong gia đình cổ Việt Nam nhất là
các gia đình trưởng giả q phái. Những nhận xét của ơng rất đúng, những điều


quan sát về tâm lý phụ nữ Việt Nam (nhất là phụ nữ trong gia đình q phái,
trưởng giả) của ông thật xác đáng. Cách hành văn của ông vừa giản dị, sáng
sủa, thanh thoát, hấp dẫn nên những tiểu thuyết phong tục của ơng thật có giá
trị xứng đáng được hoan nghênh” [5, 478].
Những ý kiến tuy có khác nhau song cũng đã nêu được những đóng góp
nhất định của Khái Hưng trong nền văn học dân tộc khi tác phẩm “Gia đình”

ra đời.
2.3. Từ sau đổi mới 1986 đến nay
Dưới ánh sáng của Đại Hội Đảng VI, với tư tưởng đổi mới mọi lĩnh vực
trong cuộc sống và nghệ thuật trong đó có văn học thì những đóng góp của Tự
lực văn đồn nói chung và tiểu thuyết đã được nhìn nhận lại một cách tồn diện
và thỏa đáng hơn. Sau thời kì đổi mới, tiểu thuyết “Gia đình” đã được các nhà
nghiên cứu đánh giá như sau:
Vu Gia nhận định về tình hình cũ: “Qua tiểu thuyết Gia đình hầu hết các
cây bút ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa và những cây bút ở miền Nam trước 1975
chưa thể định vị: Khái Hưng, ông là ai ?” [8, 15]. Từ đó Vu Gia nhận định tình
hình mới: “Đến nay hầu hết các tác phẩm, nhất là tiểu thuyết của Khái Hưng
trong đó có Gia đình của dịng văn học lãng mạn của thời kỳ này nói chung
được các nhà xuất bản từ Trung ương đến địa phương in lại khá đầy đủ. Vì vậy
theo chúng tơi việc “Đãi cát tìm vàng” trong kho tàng văn học quá khứ là một
việc nên làm. Bởi “Ôn cố tri tân” khơng những là hệ tư tưởng phương Đơng mà
cịn là một phần bản sắc văn hóa dân tộc” [8, 15].
Trong khơng khí đổi mới đó, Hà Minh Đức đã đưa ra những nhận định
thỏa đáng hơn về dòng văn học lãng mạn 1930 – 1945. Ông cho rằng: Ở thời
kỳ mặt trận dân chủ, văn học lãng mạn đã có xu hướng trở về với những vấn đề
của cuộc sống. Đặc biệt khi bàn về tác phẩm “Gia đình”, ông đề cao khuynh
hướng xã hội và nghệ thuật của tác giả và khẳng định: Khái Hưng là cây bút
xuất sắc của Tự lực văn đoàn “Khái Hưng đã tạo cho tác phẩm Gia đình khơng


khí chân thực, Gia đình là một trong những tác phẩm tiêu biểu mà vẫn được
xem là một cuốn sách mang đậm nét phong cách” [10, 9].
Nhìn chung việc nghiên cứu tác phẩm “Gia đình” được nhìn nhận theo
những hướng khác nhau nhưng chúng ta có thể khẳng định rằng chưa có sự
nhất quán của nhà nghiên cứu về tiểu thuyết này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Tìm hiểu nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật trong tiểu thuyết “Gia
đình”, chúng tơi muốn khẳng định những đóng góp của Khái Hưng đối với thể
loại tiểu thuyết nói riêng và đối với nền văn học Việt Nam nói chung. Hơn thế
còn giúp chúng ta nhận ra những quan điểm nhân sinh mới mẻ và tiếng nói
riêng của nhà văn Khái Hưng trong q trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc.
Khóa luận đề ra nhiệm vụ tìm hiểu: “Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật
trong tiểu thuyết Gia đình của Khái Hưng” một cách hệ thống, dưới góc độ lý
luận học và thi pháp học. Nghĩa là soi sáng tư tưởng nhà văn bằng hình tượng
nghệ thuật trong tác phẩm thơng qua việc tìm hiểu: những vấn đề chung về tác
giả; nhân vật, vai trò của việc miêu tả tâm lý nhân và đặc biệt đi sâu phân tích
nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật trong tiểu thuyết “Gia đình” của Khái
Hưng.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng chủ yếu mà chúng tơi tập trung tìm hiểu trong khóa luận này
là nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật trong tiểu thuyết “Gia đình” của Khái
Hưng.
5. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi chính của khóa luận là tập trung vào nghệ thuật miêu tả tâm lý
nhân vật trong tiểu thuyết “Gia đình” của Khái Hưng. Tuy nhiên có thể so
sánh với nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật trong các tác phẩm khác của Khái
Hưng hoặc liên hệ so sánh với nghệ thuật miêu tả tâm lý của những nhà văn


cùng trào lưu, các nhà văn hiện thực để soi sáng đối tượng mà chúng tơi muốn
tìm hiểu.
6. Phương pháp nghiên cứu
– Phương pháp phân tích tác phẩm theo thể loại
– Phương pháp so sánh
– Phương pháp phân tích tổng hợp
– Phương pháp thống kê

7. Đóng góp của khóa luận
Về mặt khoa học: Trên cơ sở tìm hiểu, phát hiện những giá trị đặc sắc
trong nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật trong tiểu thuyết “Gia đình” của Khái
Hưng nhằm khẳng định tài năng, những đóng góp của Khái Hưng đối với thể
loại tiểu thuyết và vị trí của ông trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
Về mặt thực tiễn: Những kết quả mà khóa luận thu được có thể bổ sung
cách nhìn đối với tác phẩm “Gia đình” nói riêng và với nhà văn Khái Hưng nói
chung. Đồng thời, khóa luận có thể bổ sung tài liệu tham khảo, nghiên cứu về
Khái Hưng và một phần nào đó cho việc nghiên cứu về dịng văn học giai đoạn
1930 – 1945.
8. Bố cục của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, khóa luận
được chia làm ba chương chính:
– Chương 1: Những vấn đề chung.
– Chương 2: Miêu tả tâm lý nhân vật qua ngoại hình, hành động và
thiên nhiên.
– Chương 3: Miêu tả tâm lý nhân vật qua ngôn ngữ.


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Tác giả Khái Hưng
1.1.1. Cuộc đời
Khái Hưng (hay Nhị Linh) tên thật là Trần Khánh Giư, sinh năm 1896.
Bút danh của ông được ghép từ các chữ cái của tên Khánh Giư. Tên khai sinh
vốn là Trần Giư. Khi đỗ tú tài ông không muốn làm công chức nên về Ninh
Giang mở đại lý bán dầu hỏa nhưng thường bị viên quan thực dân nghi ngờ và
gây phiền phức. Vì vậy ơng đệm thêm chữ “Khánh” để giống vị tướng Trần
Khánh Dư thời Trần thất thế phải bán than, cịn ơng thất thế phải đi bán dầu

hỏa.
Khái Hưng xuất thân trong một gia đình quan lại phong kiến ở xã Cổ
Am, huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương (nay thuộc Hải Phòng). Lớn lên ông
theo học và tốt nghiệp ở trường Anbe Xarô (Hà Nội) năm 1927, sau đó ơng đi
dạy ở trường Thăng Long, Hà Nội. Năm 1930, Nguyễn Tường Tam từ Pháp về
nước và cũng dạy học ở trường này. Khái Hưng đã quen Nhất Linh ở đó và sau
đó họ trở thành cặp tác giả nổi tiếng.
Năm 1933, Khái Hưng là một trong những thành viên đầu tiên khi
Nhất Linh tuyên bố thành lập Tự lực văn đoàn. Tổ chức văn học này ra đời với
chủ trương cách tân nền văn học: một mặt đấu tranh cho giải phóng cá nhân,
coi cá nhân là cơ sở của xã hội; mặt khác đấu tranh cho sự trong sáng của ngôn
ngữ và hoạt động hóa các thể loại văn học. Tự lực văn đồn khơng chỉ hoạt
động độc lập cơng khai mà cịn có cơ quan ngơn luận riêng, nhà xuất bản riêng.
Báo “Phong hóa” trở thành cơ quan ngơn luận đầu tiên của văn đồn và khi tờ
báo này bị đình bản thì tờ “Ngày nay” trở thành cơ quan ngơn luận tiếp theo.
Với sự ra đời của tổ chức Tự lực văn đồn thì nhà xuất bản “Đời nay” cũng


được thành lập. Lần đầu tiên ở nước ta có một nhà xuất bản theo đuổi mục đích
và làm việc dưới một tôn chỉ văn học. Khái Hưng là cây bút trụ cột của Tự lực
văn đoàn bên cạnh Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam) và Hoàng Đạo (Nguyễn
Tường Long).
Trong những năm 1933 – 1945, Khái Hưng là nhà văn được khá nhiều
thanh niên thành thị ưa chuộng. Họ coi ông là người hiểu biết tâm hồn họ hơn
cả. Độc giả của ông không phải là những người lao động mà là thanh niên trí
thức tiểu tư sản, trong đó phần đông là các cô gái. Lời văn của Khái Hưng lúc
đầu bay bướm, sau bình dị hơn. Ơng đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy
ngôn ngữ tiếng Việt phát triển.
Trong đại chiến thế giới thứ hai, Khái Hưng đi vào hoạt động chính trị.
Do tham gia Đảng Đại Việt dân chính thân Nhật nên ơng từng bị chính quyền

thực dân Pháp bắt giam. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (3/1945), Khái Hưng
được tự do, đã cùng Hoàng Đạo, Nguyễn Tường Bách ra báo “Ngày nay kỷ
nguyên mới” ủng hộ chính quyền tay sai của Nhật.
Sau tổng khởi nghĩa tháng Tám, Khái Hưng có một loạt bài báo, truyện
ngắn, kịch ngắn trên các báo của Việt Nam Quốc dân Đảng song khơng có tác
phẩm nào xuất sắc. Từ một nhà văn có khuynh hướng tư sản cấp tiến, về sau
các sáng tác của ông dần đi ngược lại với xu thế chung của lịch sử. Ông mất
năm 1947 tại Xuân Trường, Nam Định.
Mặc dù giai đoạn cuối đời, Khái Hưng đã có sự lựa chọn sai lầm khi đi
ngược lại với xu thế chung của lịch sử nhưng chúng ta khơng thể phủ nhận
những đóng góp quan trọng của ông vào sự đổi mới của thể loại thuyết hiện đại
nói riêng và sự phát triển của nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung.
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác
Đến với văn chương trong khoảng mười năm, Khái Hưng đã để lại một
số lượng tác phẩm rất lớn bao gồm nhiều thể loại. Nguyễn Hoành Khung trong
lời giới thiệu của bộ văn xuôi Việt Nam 1930 – 1945, đã nhận định Khái Hưng


“xứng đáng được gọi là cây bút dồi dào, tài hoa hơn cả của nhóm Tự lực văn
đồn”.
Tiểu thuyết: “Hồn bướm mơ tiên”(1933), “Gánh hàng hoa” (viết
chung với Nhất Linh năm1934), “Nửa chừng xuân” (1934), “Tiêu sơn tráng
sĩ”(1934), “Đời mưa gió” (viết chung với Nhất Linh năm 1934), “Trống mái”
(1936), “Gia đình” (1936), “Thốt ly” (1937), “Thừa tự” (1938), “Đẹp”
(1939), “Thanh Đức”, “Băn khoăn” (1943).
Truyện ngắn: “Anh phải sống” (viết chung với Nhất Linh năm 1943),
“Dọc đường gió bụi” (1936), “Tiếng suối reo” (1937), “Đợi chờ” (1939),
“Cái ấm đất” (1940), “Đội mũ lệch” (1941), “Cái ve” (1944).
Kịch: “Tục lụy” (1937), “Cóc tía” (1940), “Đồng bệnh” (1942). Ngồi
ra cịn những vở hài kịch ngắn đăng trên báo “Phong hóa” và “Ngày nay”.

Đồng thời, Khái Hưng còn sáng tác một số truyện ngắn dành cho thiếu
nhi và ông cũng là một dịch giả có tài. Nhưng sự nghiệp mà ơng gặt hái được
chủ yếu là ở thể loại tiểu thuyết. Như Trương Chính đã khẳng định: “Tự lực
văn đồn đã đẩy mạnh cho phong trào văn nghệ của nước ta tiến tới. Trong
bước tiến ấy, Khái Hưng – nhà văn trụ cột của Tự lực văn đoàn – với kỹ thuật
già dặn của mình, đặc biệt ở địa hạt tiểu thuyết và truyện ngắn, đã góp một
phần đáng kể” [16, 71].
Nhìn vào hệ thống những sáng tác của Khái Hưng, chúng ta không chỉ
thấy phong phú về khối lượng tác phẩm mà cịn đa dạng về đề tài, khuynh
hướng. Nghĩa là ơng khơng chỉ có bút lực dồi dào mà cịn có ý thức trách
nhiệm trong sáng tác văn chương. Khái Hưng ln đặt mình vào những cuộc
thử nghiệm: viết truyện ngắn, truyện dài, truyện thiếu nhi, kịch, thơ… Ở mỗi
thể loại ông đều có ý thức mở rộng đề tài để thích ứng với mục tiêu của văn
đồn, đặc biệt là thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn. Nhưng cũng như những
nhà văn cùng thời, Khái Hưng cũng phải chịu tác động mạnh mẽ từ hai phía xã
hội và văn học. Đó là những tác động từ ảnh hưởng của phong trào cách mạng


do Đảng lãnh đạo và những tác động từ bọn thực dân Pháp, tay sai khiến cho
ông rơi vào thế chơng chênh, mất phương hướng.
Bên cạnh đó, chủ nghĩa lãng mạn Việt Nam ra đời sau chủ nghĩa lãng
mạn Pháp một thế kỷ. Nó mang trong mình nhiều trường phái khác nhau: chủ
nghĩa lãng mạn đầu thế kỷ XIX (Chateaubriand, Huy gơ, Lamartine, Musset,
Vigny,…), nhóm Thi sơn (Theophile, Grautier, Leconte de Lisle, Sully Prud
hoirime…), đến trường phái tượng trưng siêu thực (Verlaine, Rimbaud,
Mallerme…) khơng những nó tiếp thu một cách tự nhiên và khá xô bồ những
ảnh hưởng của triết học Bergson, Nietzchen, Freud, Andre Gide và những
trường phái hiện đại khác. Chính vì vậy trong thế giới quan của những nhà văn
thời bấy giờ nhất là nhóm Tự lực văn đồn trong đó có Khái Hưng chứa đựng
nhiều mâu thuẫn phức tạp.

Nhìn về mặt tổng thể, những sáng tác của Khái Hưng về cơ bản tập
trung trong một khuynh hướng, đó là khuynh hướng lãng mạn. Nhưng trong
những sáng tác ấy lại có sự gặp gỡ của nhiều yếu tố, khuynh hướng khác nhau:
khuynh hướng hiện thực (đa số ở những truyện ngắn và tiểu thuyết phong tục,
như: Gia đình, Thốt ly, Thừa tự), khuynh hướng cải lương tư sản, khuynh
hướng cách mạng, khuynh hướng suy đồi… Những khuynh hướng này có một
q trình thẩm thấu rất tự nhiên cho nên để tách bạch và lý giải một cách rạch
rịi là việc làm khơng đơn giản. Ta cũng bắt gặp tương tự ở Nguyễn Công Hoan
– nhà văn hiện thực với những tác phẩm lãng mạn (Thanh đạm, Tắt lửa lòng,
Lá ngọc cành vàng…) hay nhà văn Lan Khai lại “lấn sân” sang “địa hạt” của
tiểu thuyết hiện thực phê phán bằng một tác phẩm khá thành công (Lầm
than)… Nhà văn Khái Hưng khơng có những bước nhảy vọt đột ngột như thế
nhưng trong những sáng tác của ông nhất là trong tiểu thuyết, đã có sự vận
động rõ rệt của các khuynh hướng. Ban đầu ông đi từ tiểu thuyết lý tưởng (Hồn
bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân…) đến tiểu thuyết phong tục (Gia đình, Thừa
tự, Thốt ly) và cuối cùng là tiểu thuyết tâm lý (Hạnh, Đẹp, Những ngày vui…)


nhưng sự phân định như trên vẫn chưa phải là tuyệt đối. Nội dung trong các tác
phẩm của Khái Hưng lúc đậm, lúc nhạt thường pha trộn những khuynh hướng
khác nhau. Chính sự phức tạp và đa dạng này là một trong những nguyên nhân
khiến người ta khó có thể định giá tác phẩm của Khái Hưng.
Như vậy trong khoảng mười năm sáng tác, Khái Hưng đã được ghi
nhận như cây bút hàng đầu của Tự lực văn đoàn, đặc biệt với những đóng góp
quan trọng trong thể loại tiểu thuyết.
1.2. Nhân vật và ý nghĩa của việc miêu tả tâm lý nhân
1.2.1. Khái niệm nhân vật
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học” thì “Nhân vật văn học là một đơn vị
nghệ thuật đầy tính ước lệ, khơng thể đồng nhất nó với con người có thật trong
đời sống ngay cả khi tác giả xây dựng nhân vật với những nét rất gần với

nguyên mẫu có thật. Nhân vật văn học cịn thể hiện quan niệm nghệ thuật và lí
tưởng thẩm của nhà văn về con người” [18, 235]
Chức năng cơ bản của nhân vật văn học là khái quát số phận và tính
cách của con người. Nhân vật văn học thể hiện quan niệm nghệ thuật, lý tưởng
thẩm mỹ của nhà văn về con người. Với chức năng như vậy, để cho nhân vật
hiện lên một cách chân thật, sống động, có hồn thì nhà văn phải thổi vào đó
những nét tâm lý, tính cách. Nhà văn Khái Hưng đã tạo dựng được một thế giới
nhân vật khá phong phú và đa dạng. Tất cả mọi diễn biến, xung đột của tiểu
thuyết “Gia đình” đều do chính tâm lý của các nhân vật chi phối. Có thể thấy
các dạng tâm lý chủ yếu trong tác phẩm “Gia đình” như sau: nhân vật mang
tâm lý hám danh, hám quyền (ông bà án Báo, Nga, Phụng, Thoa, Viết…), nhân
vật mang tâm lý lưỡng phân (An), nhân vật mang tư tưởng cải cách xã hội
(Hạc, Bảo).
Xoay quanh những mâu thuẫn, xung đột giữa các nét tâm lý này của các
nhân vật, tiểu thuyết “Gia đình” đã được đánh giá cao về nghệ thuật miêu tả


tâm lý, xứng đáng khi được giới nghiên cứu văn học nhận định là “một cơng
trình văn chương đích đáng”.
1.2.2. Ý nghĩa của việc miêu tả tâm lý nhân vật
Tiểu thuyết là một thể loại văn chương, là “hình thái chủ yếu của nghệ
thuật ngơn từ” [6, 184]. Nó có khả năng phản ánh hiện thực một cách bao quát
và sinh động theo hướng tiếp cận trên cả bề rộng lẫn bề sâu. Để có được một
cuốn tiểu thuyết hay có thể nói rằng nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của nhà
văn chiếm vị trí quan trọng hàng đầu. Tâm lý là: “Tồn bộ nói chung sự phản
ánh của hiện thực khách quan và ý thức con người, bao gồm nhận thức, tình
cảm, ý chí… biểu hiện trong hành động và cử chỉ của mọi người” [18, 782].
Một nhà văn có tài sẽ thổi hồn được vào nhân vật, làm cho nhân vật hiện lên
đầy sức sống như nó vốn có ở ngồi đời, đồng thời thể hiện được vốn sống, vốn
hiểu biết của chính mình.

Khái Hưng đã tạo dựng được sức sống nội tại cho chính nhân vật của
mình. Sự hiểu biết sâu sắc về đời sống của tầng lớp trung lưu cùng khả năng
quan sát tinh tế, một tâm hồn nhạy cảm và một năng lực biểu hiện rất tài hoa
thế giới nội tâm con người đã giúp Khái Hưng trở thành cây bút tiểu thuyết
xuất sắc của Tự lực văn đoàn.
Sức sống của nhân vật trong tiểu thuyết “Gia đình” được tạo nên bởi
chính chiều sâu trong nghệ thuật miêu tả tâm lý của Khái Hưng. Đọc “Gia
đình” chúng ta thấy nhà văn chú trọng đến những suy nghĩ và sự biến đổi bên
trong hơn là hình thức bên ngồi của nhân vật. Các nhân vật của ơng sống
động, góc cạnh và rất hiện thực, như: Phụng, Nga… khơng cịn lãng mạn, u
đời mà họ đã thực sự là những con người ngoài đời. Bởi họ bộc lộ những thói
xấu ăn sâu trong bản năng của người đàn bà: nhỏ nhen, đố kị, giả dối, chèn ép
nhau, làm cho nhau đau khổ một cách vô lý…Hay quan huyện Viết hiện lên là
một kẻ mưu mô, sảo quyệt với đủ món nghề “ăn tiền” lọc lõi trên chốn quan
trường mà độc giả vẫn có thể bắt gặp một con người như thế trong xã hội hôm


nay, đủ để thấy sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt, lâu bền của những “đứa con tinh
thần” dưới một ngòi bút tiểu thuyết tài hoa.
Như vậy, Khái Hưng đã khiến cho người đọc say mê, yêu thích, đồng
cảm, hoặc căm ghét, oán trách, hờn giận… với những nhân vật mà tác giả tạo
dựng nên; thậm chí, có lúc nào đó người đọc cũng cảm thấy nhân vật tiểu
thuyết có chút gì đó giống bản thân mình, giống người đã gặp, đã quen. Đó
chính là sức sống nội tại mà Khái Hưng đã tạo nên cho chính nhân vật của
mình.
Miêu tả tâm lý khơng chỉ bộc lộ tâm lý, tính cách, số phận, giai cấp,
thời đại của nhân vật mà còn bộc lộ cả vốn sống, vốn hiểu biết của tác giả. Khái
Hưng – nhà tiểu thuyết xuất sắc của Tự lực văn đoàn – đã cung cấp cho độc
giả những tài liệu sống về con người cũ và thời đại cũ. Tiểu thuyết “Gia đình”
được xem là gần với văn học hiện thực, bởi trong tác phẩm Khái Hưng đã đặt

ra hàng loạt vấn đề: sự khủng hoảng trong gia đình đại phong kiến, lên án hủ
tục làng quê, tố cáo trực diện hơn vào bọn quan lại phong kiến và đặc biệt tác
phẩm còn đề cập đến vấn đề cải cách xã hội.
Tiểu thuyết “Gia đình” cho người đọc hiểu biết về nếp sống của gia
đình đại phong kiến với sự cổ hủ, lỗi thời của nó. Nó trở thành địa ngục đối với
những người ít nhiều có tư tưởng mới mẻ, muốn sống tự do. Tâm lý hám danh
và đầu óc gia tộc hẹp hịi đã đầu độc tâm hồn con người, phá hoại cả mối quan
hệ cốt nhục. Mấy chị em con gái ông Án Báo bị thói đố kị, ghen tị thiêu đốt, đã
từ chỗ ruột thịt mà trở thành kẻ thù của nhau. Mà thói ghen tị ấy lại được chính
bà mẹ của họ khơi dậy và ni dưỡng.
Tác phẩm cịn dành nhiều trang tả thực sắc sảo về xã hội quan trường
thối nát. Nào là tệ ăn của đút trắng trợn từ trên xuống dưới như một thứ phong
tục bền vững. “Biết làm quan nghĩa là biết ăn tiền”, ăn tiền bằng mọi cách, bất
chấp cả liêm sỉ. Rồi kèn cựa, ton hót, luồn cúi, lo lễ lạt từ vợ bé đến thằng hầu
quan trên; rồi chơi bời sa đọa, tổ tôm, bài bạc, đĩ điếm, chim chuột vợ chồng


của nhau… Đằng sau cái danh “quan lớn” mà người đời kính trọng, thèm khát
là những cái thật bỉ ổi, nhơ nhớp.
Hơn nữa tác phẩm còn là bức tranh chân thực về phong tục, tập quán
của người Việt Nam. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan nhận xét: “Quan sát
phong tục nước ngoài là một việc mà đến nay các nhà văn nước ta chưa gặp.
Nhưng quan sát những việc nước mình cho được đúng, cũng là một việc khó
rồi. Về phương diện đó, Khái Hưng là một nhà tiểu thuyết rất đáng khen ngợi
vì những điều quan sát của ơng về những cổ tục trong gia đình Việt Nam,
khơng một ai dám bảo là khơng có giá trị [16, 32 – 33]. Các thủ tục rườm rà,
nặng nề, cổ hủ của những đám ma chay, giỗ tết, ăn khao, ăn mừng… đi vào
trong nếp sống như một điều tất yếu, thậm chí cịn là dịp để người ta khoe
trương cái danh giá, bề thế trong gia đình phong kiến. Những mâu thuẫn, xung
đột giữa quan niệm và lối sống của những kiểu người cũ và mới đang khiến cho

chế độ đại gia đình âm thầm rạn nứt.
Như vậy, Khái Hưng đã nhận thấy vai trò của nhân vật, nhất là hiểu rõ
tầm quan trọng của việc miêu tả tâm lý nhân vật trong tiểu thuyết, vì vậy tác
phẩm “Gia đình” đã tạo được một sức hút, sức sống và sức cảm mạnh mẽ tới
đông đảo bạn đọc xưa và nay. Điểm đáng chú ý nhất trong cuốn tiểu thuyết này
là sự am hiểu sâu sắc và miêu tả rất tinh tế, tài hoa quá trình diễn biến tâm lý
của nhân vật. Nội dung này sẽ được trình bày cụ thể trong chương 2 và 3 của
khóa luận. Quả thực Khái Hưng rất xứng đáng với biệt danh của một “nhà tiểu
thuyết có biệt tài”: đồng hành với việc tạo dựng được một bức tranh phong tục,
tập quán về cuộc sống sinh hoạt của người dân Việt Nam đầy giá trị là khả
năng “phân tách tâm lý, mổ xẻ tinh vi hình tượng con người… vào loại bất tử”.


CHƯƠNG 2: MÊU TẢ TÂM LÝ NHÂN VẬT QUA NGOẠI
HÌNH, HÀNH ĐỘNG VÀ THIÊN NHIÊN

Mỗi một nhà văn đều mang trong mình một quan niệm văn chương và
quan niệm đó sẽ chi phối rất lớn đến các sáng tác của họ. Khái Hưng quan niệm
đã là nhà văn phải thành thật “Thành thật là đức tính khơng có khơng được của
nhà văn” [12, 76] và nhà văn phải viết ra những cuốn sách phơ diễn những cái
sâu kín nhất trong lịng: “Bao giờ nhà văn cũng chỉ ích kỉ, và chính nhờ về lịng
ích kỉ mà họ đã giúp cho nhân loại bằng cách đem phơ diễn cái sâu kín, âm
thầm, băn khoăn…” [12, 75]. Vì vậy mà Khái Hưng lãng mạn nhưng tiểu
thuyết của ơng vẫn có vẻ thực. Nhân vật ông sáng tạo đều rất sinh động, đặc
sắc và gần gũi với cuộc sống đời thường.
Nhà văn Khái Hưng đã rất chú ý đến những ý nghĩ, cử chỉ và sự biến
đổi bên trong của nhân vật hơn là hình thức bên ngồi. Ơng phân biệt rõ các
động cơ khác nhau, có khi mâu thuẫn nhau của một hành động, và làm cho ta
thấy rõ được sự mâu thuẫn đó. Ơng là một nhà văn quan sát kĩ và có một hiểu
biết sâu sắc về tâm lý con người. Tiểu thuyết của Khái Hưng đều được các nhà

nghiên cứu đánh giá cao nghệ thuật miêu tả tâm lý. Ông đã miêu tả, phân tích
một cách tinh tế, sâu sắc những diễn biến trong đời sống tâm lý của nhân vật,
“có thể diễn đạt được mọi ngoắt ngoéo của tâm lý con người”. Tiểu thuyết
“Gia đình” được đánh giá “là cơng trình văn chương đích đáng của ơng Khái
Hưng”. Có thể nói rằng cơng trình “văn chương đích đáng” ấy có sự góp phần
rất lớn của nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật.
2.1. Tạo dựng tình huống xung đột tâm lý
Theo tác giả Lại Nguyên Ân trong “150 thuật ngữ văn học” thì xung
đột: “là sự đối lập, sự mâu thuẫn với tư cách một nguyên tác tương tác giữa các
hình tượng trong tác phẩm nghệ thuật” [15, 412]. Vậy các xung đột đã xuất
hiện như thế nào? “Các xung đột thường xuất hiện dưới dạng những va chạm


tức là những xung đột và chống đối trực tiếp giữa các thế lực hoạt động được
miêu tả trong tác phẩm: giữa tính cách với hồn cảnh, giữa các tính cách với
nhau, giữa các mặt khác nhau của một tính cách” [15, 413].
Để tạo ra được những xung đột tâm lý nhà văn phải đặt nhân vật của
mình vào những tình huống để nhân vật bộc lộ tồn bộ đời sống nội tâm của
mình. Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã đa ra quan niệm về tình huống trong
truyện như sau: “Tình huống là cái tình thế xảy ra trong truyện, là khoảnh khắc
mà trong đó sự sống hiện ra rất đậm đặc, là cái khoảnh khắc chứa đựng cả một
đời người”. Tình huống truyện cịn được hiểu “là mối quan hệ đặc biệt giữa
nhân vật này với nhân vật khác, giữa nhân vật với hồn cảnh và mơi trường
sống, qua đó nhân vật bộc lộ rõ tâm trạng, tính cách hay thân phận của nó, góp
phần thể hiện sâu sắc tư tưởng của tác phẩm” [15, 122]. Khái Hưng đã đặt nhân
vật của mình vào mơi trường gia đình và trong quan hệ với những người thân
để miêu tả những xung đột tâm lý. Chính gia đình lớn là nơi bộc lộ nhiều nhất
những mâu thuẫn trong tâm lý của các nhân vật. Họ thường gặp gỡ nhau trong
những ngày lễ tết, người khoe của, người khoe danh, kẻ thất thế, tủi buồn; các
kiểu ngơn từ răn đe, đưa đón, nịnh bợ, lấp lửng… được dịp trình bày, đặc biệt

là ở những nhân vật nữ, những bà lớn và những người mong ước thành bà lớn.
Chúng tôi sẽ đi phân tích việc miêu tả những xung đột tâm lý của nhà
văn Khái Hưng qua ba phương diện, đó là: Tình huống xung đột giữa hai thế hệ
cũ và mới trong gia đình phong kiến; tình huống xung đột giữa hai tuyến nhân
vật tốt và xấu, lương thiện và bất lương; tình huống xung đột giữa hai lớp thanh
niên mang tư tưởng cải cách và khơng cải cách.

2.1.1. Tình huống xung đột giữa hai thế hệ cũ và mới trong gia đình
phong kiến
Mâu thuẫn mở đầu và xuyên suốt tiểu thuyết “Gia đình” được bắt đầu
từ tâm lý hám danh, hám quyền. Tâm lý này ăn sâu trong suy nghĩ, thường trực


×