Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

Ý nghĩa của truyện cổ tích đối với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo lớn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (601.57 KB, 54 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trên con đường đấu tranh cho giai cấp vô sản, Lênin nhận thức sâu sắc
về vai trò, vị trí của thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của đất nước, Lênin viết
“Chúng ta đấu tranh tốt hơn cha ông chúng ta. Con cháu chúng ta sẽ còn đấu
tranh tốt hơn nữa và chúng ta sẽ chiến thắng,… Chúng ta đã đặt nền móng
cho ngôi nhà mới và con cháu cúng ta sẽ xây dựng xong ngôi nhà đó”. Theo
nhận định của Lênin thì thế hệ trẻ chính là công cụ tốt nhất để kế thừa và phát
triển những thành quả của nhân loại. Chủ tịch Hồ Chí Minh khi còn sống
cũng như lúc sắp lâm chung, Bác vẫn luôn lo lắng cho trẻ mầm non, các cháu
nhi đồng, thanh thiếu niên,… Bác lo cho các cháu ăn có đủ no không? Áo có
đủ mặc không? Sức khoẻ và học hành như thế nào? Trong di trúc thiêng liêng
của mình, Bác cũng không quên căn dặn Đảng và nhân dân ta phải chăm lo
giáo dục thế hệ trẻ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội
vừa “hồng”vừa “chuyên”.
Ngày nay, giáo dục mầm non ngày càng khẳng định vị trí quan trọng
của mình. Nó là mắt xích đầu tiên trong giáo dục quốc dân, là bậc học đầu
tiên đặt nền móng ban đầu cho việc giáo dục hình thành và phát triển nhân
cách trẻ em. Luật giáo dục (2005) đã xác định nhiệm vụ và mục tiêu giáo dục
mầm non:“Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể
chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân
cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp Một”. Như vậy, trong mục tiêu giáo dục toàn
diện cho trẻ mầm non thì phát triển ngôn ngữ là một trong những nhiêm vụ
hàng đầu. Nó là phương tiện giao tiếp, vừa là công cụ để phát triển tư duy,
nhận thức, góp phần hình thành những nhân tố đầu tiên của nhân cách, là
hành trang cho trẻ bước vào lớp Một.

3


Khi nghiên cứu một số vấn đề xoay quanh “sự phát triển toàn diện của


trẻ” các nhà khoa học, giáo dục, tâm lý, ngôn ngữ, đã chỉ ra rằng: Văn học
dân gian đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển nhân cách của trẻ. Trong
đó, truyện cổ tích chiếm dung lượng lớn nhất, nó góp phần giáo dục đạo đức,
thẩm mỹ cho trẻ. Đặc biệt thông qua các câu chuyện cổ tích trẻ tích luỹ một
số vốn từ mới, từ đó mở rộng vốn từ, mở rộng phạm vi giao tiếp, các mối
quan hệ, mở rộng nhận thức, phát triển ngôn ngữ, tư duy, trí tuệ của trẻ.
Ngay từ khi còn bé, các em đã muốn bà, mẹ, anh chị kể cho nghe những
câu chuyện cổ tích để thoả mãn trí tưởng tượng, thoả mãn nhu cầu giải trí.
Chính vì vậy, truyện cổ tích đã trở thành “món ăn tinh thần” không thể thiếu
được đối với trẻ mẫu giáo.
Mặt khác, trong thời đại ngày nay, xã hội ngày càng phát triển, sự bùng nổ
mạnh mẽ của công nghệ thông tin và khoa học kỹ thuật khiến cho con người
cùng một lúc có thể tiếp nhận tri thức từ nhiều kênh thông tin khác nhau. Trẻ
em cũng là một lực lượng năng động, được làm quen với nhiều loại hình giải
trí: trò chơi điện tử, truyện tranh, tốn nhiều thời gian mà xa dần những trang
cổ tích giản dị trong sáng.
Chính vì chúng tôi nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng của truyện cổ tích
đối với sự phát triển toàn diện của trẻ, thấy được tính cấp thiết của truyện cổ
tích đối với trẻ mầm non, chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài: Ý nghĩa của
truyện cổ tích đối với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo lớn làm khoá
luận tốt nghiệp của mình. Chúng tôi nghĩ rằng, đây sẽ là một đề tài hấp dẫn và
thiết thực với những người quan tâm đến trẻ em và ngành giáo dục mầm non.
2. Lịch sử vấn đề
Truyện cổ tích là một thể loại chiếm dung lượng lớn trong văn học dân
gian Việt Nam. Nó hơn mọi thể loại khác ở sức hấp dẫn lạ kỳ, vốn có một đời
sống trước thuật phong phú và sớm hơn rất nhiều so với một số thể loại khác.

4



Vì thế, từ lâu truyện cổ tích đã trở thành một đề tài hấp dẫn đối với các nhà
nghiên cứu trên thế giới với các công trình nghiên cứu, các bài viết trên báo,
tạp chí, về truyện cổ tích trên nhiều khía cạnh khác nhau. Đầu tiên phải kể
những tên tuổi lớn như: Mác, Ăng - ghen, Gorki. Hay như nhà văn Nga
Puskin đã đóng góp rất nhiều công sức trong việc nghiên cứu truyện cổ tích
và tìm cho mình một hướng đi mới qua những sáng tác truyện cổ tích bằng
thơ.
Ở Việt Nam, ngay từ những năm 50, đầu những năm 60 nhiều nhà
nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam đã đưa ra những ý kiến xác đáng về
truyện cổ dân gian Việt Nam, truyện cổ tích trên cơ sở những quan điểm Mác
xít như nhà nghiên cứu lão thành đầu tiên Trần Thanh Mại với “Tìm hiểu và
phân tích truyện cổ Việt Nam”, (1955).
Trong “Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam”, (5 tập), (1958-1982) do
Nguyễn Đổng Chi sưu tầm, biên soạn, khảo dị, nghiên cứu về 200 cốt truyện
của người Kinh; đồng thời đưa ra ba đặc điểm để nhìn nhận truyện cổ tích, đó
là: tính chất cổ của sự việc; trong sự việc được kể đừng có yếu tố quá xa lạ
với bản sắc dân tộc; truyện cổ tích ít nhất phải thể hiện tính tư duy và tính
nghệ thuật.
Hoàng Trọng Miên trong “Việt Nam học toàn thư”, (1959), phân loại
truyện cổ dân gian thành năm loại: truyện cổ tích phong tục, truyện cổ tích thế
sự, truyện cổ tích hoang đường, truyện cổ tích tôn giáo. Mặc dù cách phân
loại này chưa hợp lý lắm nhưng nó đã góp phần mở đầu cho các công trình
nghiên cứu khác đi sâu tìm hiểu thể loại truyện cổ tích.
Nhà nghiên cứu Đinh Gia Khánh cũng có công trình mang tính chất mở
đầu quý giá trong việc nghiên cứu truyện cổ tích qua công trình “Tìm hiểu sơ
bộ những vấn đề của truyện cổ tích Tấm Cám”, (1968), tác phẩm đã tổng hợp

5



các kiểu truyện cổ tích Tấm Cám trên thế giới đồng thời đề cập đến tính dân
tộc, tính quốc tế, tính địa phương và tính nhân dân trong truyện cổ tích.
Nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh đã cho ra đời các công trình nghiên cứu
về truyện cổ tích như: “Người anh hùng làng Dóng”, (1969) và “Tìm hiểu trữ
tình văn học dân gian Việt Nam”, (1974). Trong đó, ông đưa ra việc phân tích
và khảo sát cụ thể một tác phẩm truyện cổ dân gian trên một diện rộng, từ
điền dã, diễn xướng, truyện kể, đến các thư tịch cổ ghi chép sử ca, sách sử, để
thấy được đặc trưng của loại truyện cổ tích – Anh hùng cao cả.
Đồng tác giả Đinh Gia Khánh và Chu Xuân Diên, trong cuốn giáo trình
“Văn học dân gian Việt Nam”, NXB Đại học Tổng hợp, 1990 nêu ra khái
niệm, phân loại, đặc điểm truyện cổ tích.
Bài viết “ thế kỉ XX và việc nghiên cứu truyện cổ dân gian Việt Nam”,
Tạp chí Văn học số 6, 2001 của tác giả Nguyễn Thị Huế đã sưu tầm những
nghiên cứu về truyện cổ dân gian, trên cơ sở đó nêu ra những cách phân loại
truyện cổ tích về thế kỉ XX.
Giáo trình “Từ điển thuật ngữ Tiếng Việt”, 2006, NXB Giáo dục, (Hà
Nội) của đồng tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi cũng đưa
ra khái niệm truyện cổ tích và phân loại truyện cổ tích thành ba loại: truyện cổ
tích thần về loài vật, truyện cổ tích thế sự, truyện cổ tích sinh hoạt dựa trên
tiêu chí đề tài và phương diện sáng tác.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, các bài viết trên tạp chí, sách
xuất bản, các cuốn giáo trình trong các trường Cao đẳng , Đại học,… thường
thiên về những khuynh hướng quen thuộc: sưu tầm truyện cổ tích Việt Nam,
giải thích cốt truyện, phân loại bình giảng, bình giảng những hình tượng trong
truyện. Từ đó, đưa ra các khái niệm truyện cổ tích, phân loại truyện cổ tích
với thể loại khác.

6



Tuy nhiên những năm gần đây, khi ngành giáo dục mầm non phát triển
và ngày càng khẳng định vị trí của nó trong nền giáo dục nước nhà thì trẻ em
được đặt lên làm mối quan tâm hàng đầu, dẫn tới rất nhiều nhà lý luận văn
học, các nhà khoa học đã bước đầu đi tìm hiểu ý nghĩa của truyện cổ tích đối
với trẻ em như:
Bài viết “Truyện cổ tích đối với trẻ thơ” – Tạp chí văn học số 7 – 1994
của tác giả Tăng Kim Ngân nêu lên khái quát vị trí cũng như tầm quan trọng
của truyện cổ tích đối với trẻ thơ.
Đứng trên phương diện một nhà giáo dục, một nhà tâm lý học, tác giả
Nguyễn Ánh Tuyết đi nghiên cứu ý nghĩa của truyện cổ tích trong việc bồi
dưỡng xúc cảm thẩm mỹ lành mạnh và trong sáng, góp phần phát triển giáo
dục đạo đức cho trẻ qua hai cuốn: “Giáo dục mầm non những vấn đề lý luận
và thực tiễn”, (2007) NXB Đại học Sư phạm; “Tâm lý học trẻ em lứa tuổi
mầm non”, (2007) NXB Đại học Sư phạm .
Như vậy, hầu hết các công trình nghiên cứu đều đi nghiên cứu về khái
niệm, đặc điểm, phân loại truyện cổ tích, hoặc ý nghĩa của truyện cổ tích
trong đối với sự phát triển của trẻ thơ. Nhưng chưa có một công trình nghiên
cứu nào đi sâu nghiên cứu ý nghĩa của truyện cổ tích đối với sự phát triển
ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo lớn. Vì vậy, đề tài nghiên cứu của chúng tôi là
hoàn toàn mới mẻ.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Chúng tôi đi sâu nghiên cứu đề tài nhằm khai thác triệt để ý nghĩa to
lớn của truyện cổ tích đối với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo lớn.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài: Ý nghĩa của truyện cổ tích
đối với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo lớn.

7



5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lý luận của đề tài
- Tìm hiểu ý nghĩa của truyện cổ tích đối với sự phát triển ngôn ngữ
của trẻ mẫu giáo lớn
- Trên cơ sở của hai nhiệm vụ trên, chúng tôi đã thực nghiệm và đưa ra
một số đề xuất nhằm phát triển truyện cổ tích trong trường Mầm non.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp thực nghiệm.
7. Cấu trúc khoá luận
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, nội dung khoá luận gồm ba
chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2. Ý nghĩa của truyện cổ tích đối với sự phát triển ngôn ngữ
của trẻ mẫu giáo lớn
Chương 3. Thực nghiệm và một số đề xuất phát triển truyện cổ tích
trong trường Mầm non.

8


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Cơ sở tâm lý học
1.1.1. Đặc điểm tri giác
Trẻ mẫu giáo thường tri giác những gì phù hợp với nhu cầu, những gì
thường gặp hoặc được giáo viên chỉ dẫn. Tính xúc cảm thể hiện rất rõ khi các
em tri giác. Đặc điểm tri giác của trẻ mẫu giáo mang đậm tính trực quan sinh

động, trẻ sẽ tri giác những gì trực quan rực rỡ, sinh động hấp dẫn đối với trẻ
hơn. Điều này cho thấy tính cần thiết phải đảm bảo tính trực quan trong dạy
học nói chung và kể chuyện nói riêng. Với mỗi câu chuyện cổ tích sẽ đem lại
cho trẻ những bài học đạo đức, hơn nữa là cung cấp những vốn từ vựng mới
cho trẻ. Và việc sử dụng hình ảnh trực quan sinh động sẽ giúp cho mỗi câu
chuyện cổ tích hấp dẫn trẻ hơn. Đồng thời, nó giải quyết nhiệm vụ giải thích
từ mới cho trẻ mẫu giáo.
1.1.2. Đặc điểm chú ý
Trẻ 5 - 6 tuổi thì chú ý không chủ định phát triển mạnh, chú ý có chủ
định đã xuất hiện nhưng còn hạn chế. Trẻ chỉ tập trung chú ý vào những gì
mới mẻ, rực rỡ, các em chỉ thực sự chú ý khi có động cơ cần được thúc đẩy
như: được cô khen, được các bạn biểu dương, thán phục. Vậy khen thưởng có
ý nghĩa lớn đối với các em.
1.1.3. Đặc điểm trí nhớ
Trẻ mẫu giáo lớn trí nhớ trực quan phát triển mạnh hơn trí nhớ từ ngữ
lôgíc. Trẻ ghi nhớ những sự vật, hiện tượng cụ thể dễ dàng hơn nhiều so với
lời giải thích dài dòng khuynh hướng. Ghi nhớ máy móc là đặc điểm nổi bật
và cần được phát huy trong những câu chuyện cổ tích.

9


1.1.4. Đặc điểm tƣ duy
Tư duy trực quan hình tượng của trẻ mẫu giáo phát triển mạnh mẽ và
chủ yếu. Tuy nhiên ở cuối độ tuổi mẫu giáo thì kiểu tư duy này không đáp
ứng được nhu cầu nhận thức đang phát triển mạnh mẽ ở trẻ mẫu giáo lớn, vì
vậy xuất hiện thêm kiểu tư duy trực quan – hình tượng mới đó là kiểu tư duy
trực quan - sơ đồ, kiểu tư duy này vẫn giữ mãi tính chất hình tượng song bản
thân hình tượng cũng trở nên khác trước: hình tượng đã bị mất đi những chi
tiết rườm rà mà chỉ còn giữ lại những yếu tố chủ yếu giúp trẻ phản ánh một

cách khái quát sự vật chứ không phải là từng sự vật riêng lẻ. Điều này cho
thấy khả năng giao tiếp của trẻ đang mở rộng, giáo viên cần nắm bắt rõ đặc
điểm tư duy của trẻ để thúc đẩy quá trình phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu
giáo lớn.
1.1.5. Đặc điểm ngôn ngữ
Nhìn chung, ở độ tuổi mẫu giáo lớn đã có khả năng nắm được ý nghĩa
của từ vựng thông dụng, phát âm đúng sự phát âm của người lớn. Tuỳ theo
địa phương có giọng nói như thế nào thì trẻ sẽ nói như vậy, trẻ biết dùng ngữ
điệu phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp và đặc biệt là nói đúng ngữ pháp phức
tạp bao gồm những quy luật ngôn ngữ tinh vi nhất về phương diện cú pháp và
phương diện tu từ, nói năng mạch lạc thoải mái.
Tóm lại, trẻ đã thực sự nắm vững tiếng mẹ đẻ. Như vậy, việc cho trẻ
tiếp xúc nhiều những câu chuyện cổ tích sẽ giúp trẻ tích luỹ nhiều vốn từ
vựng cần thiết và rèn kỹ năng nói đúng ngữ pháp của trẻ mẫu giáo lớn.
1.1.6. Đặc điểm tƣởng tƣợng
Tuổi mẫu giáo là tuổi thần tiên, lứa tuổi có nhiều trí tưởng tượng phong
phú nhất, trẻ có thể tưởng tượng mình gặp được Hoàng tử, Công chúa, đi chơi
cùng Lọ Lem, Cô Tấm. Đó là những giấc mơ hết sức hồn nhiên, hết sức đáng
yêu của trẻ, song tưởng tượng của trẻ còn tản mạn. Những đồ dùng trực quan

10


sinh động những cử chỉ điệu bộ, ngôn ngữ giàu nhạc đệm của giáo viên là
điều kiện tốt nhất để trẻ hình thành tưởng tượng.
1.1.7. Sự phát triển nhân cách
Trẻ từ 3 - 6 tuổi là thời điểm quan trọng cho việc hình thành và phát
triển nhân cách. Ở lứa tuổi này, những tác động giáo dục ảnh hưởng chủ đạo
đến sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ nhỏ. Trong giai đoạn 5 - 6
tuổi, sự phát triển nhân cách của các em tương đối êm đềm, phẳng lặng. Tuy

nhiên, cũng có những biểu hiện rõ nét mới: trẻ dễ xúc động khi kìm hãm cảm
xúc. Tình cảm của trẻ gắn liền với đặc điểm trực quan, hình ảnh cụ thể.
1.2. Cơ sở giáo dục
Giáo dục mầm non là quá trình trong đó dưới tác động chủ đạo của
giáo viên, trẻ hoạt động, học tập, vui chơi. Hoạt động chủ đạo của trẻ là hoạt
động vui chơi. Trẻ học tập thông qua hoạt động với đồ vật. Quá trình giáo dục
hình thành hành vi đã dược quy định đáp ứng được mục đích và nhiệm vụ
giáo dục trong trường mầm non. Giáo dục để hình thành và phát triển nhân
cách, không chỉ giáo dục trẻ về hành vi và đạo đức mà còn giáo dục về thẩm
mỹ, thể chất cho trẻ.
Chương trình kể chuyện trong bộ môn “cho trẻ làm quen với tác phẩm
văn học” cho trẻ mẫu giáo nói chung và cho trẻ 5 - 6 nói riêng thì hầu hết các
chuyện đều hướng tới mục tiêu giáo dục toàn diện về nhân cách cho trẻ trên
nhiều mặt khác nhau. Những câu chuyện cổ tích dành cho trẻ 5 - 6 tuổi
thường là những câu chuyện dài hơn, có ý nghĩa giáo dục sâu sắc về tình yêu
quê hương, đất nước, gia đình, bạn bè, trường lớp. Khi dạy trẻ kể chuyện,
hoặc trong những giờ nghe kể chuyện, học kể chuyện, giáo viên cần giúp trẻ
hiểu được những bài học giáo dục của câu chuyện đó. Ví dụ như truyện
“Những bông hoa cúc trắng’’ giáo dục trẻ về lòng hiếu thảo của con cái dành
cho mẹ, nhờ có lòng hiếu thảo mà người con đã giúp mẹ khỏi ốm. Hay truyện

11


“Hai anh em’’ giáo dục trẻ về đức tính chăm chỉ lao động. Hoặc giáo dục trẻ
có tấm lòng yêu thương con người cũng như mọi vật xung quanh giống như
chú bé trong câu chuyện “Quả bầu tiên,” tất cả đều mang đến cho trẻ những
bài học đạo đức sâu sắc.
Giáo dục không chỉ đơn thuần trong nhà trường mà còn đòi hỏi sự tác
động từ nhiều phía: gia đình, nhà trường và xã hội. Giáo dục cũng có trình tự

logic, phù hợp với tâm sinh lý của trẻ. Quá trình giáo dục diễn ra từ dễ đến
khó, từ đơn giản đến phức tạp. Giáo dục ghi nhận rằng tuổi càng nhỏ giáo dục
hành vi, ý thức cũng phải rất nhỏ bởi vì kinh nghiệm sống và khả năng nhận
thức của trẻ còn vô cùng ít ỏi. Vì vậy, việc giáo dục trẻ thông qua những câu
chuyện không phải là việc một sớm một chiều mà phải lâu dài và phải được
tác động thường xuyên điều đó sẽ mang lại hiệu quả cao trong giáo dục.
Việc cho trẻ tiếp xúc nhiều với truyện cổ tích và việc giáo dục đạo đức
cho trẻ thông qua ý nghĩa các câu chuyện là hai hướng đi song song nhất quán
thúc đẩy hỗ trợ phát triển cho trẻ và dần hình thành nhân cách trẻ thơ. Người
giáo viên mầm non cần phải biết phối hợp khéo léo về nội dung và phương
pháp giáo dục của câu chuyện kể nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đề ra.
1.3. Cơ sở sinh lý
Não bộ và hệ thần kinh của trẻ mẫu giáo lớn đang phát triển và dần
hoàn thiện nên trẻ rất dễ bị kích động. Do vậy người lớn, giáo viên cần tránh
quát mắng, nạt nộ trẻ, ngắt lời thô bạo khi trẻ đang tham gia học tập, vui chơi.
Giáo viên cần nhẹ nhàng, dịu dàng, tế nhị trong quá trình dạy trẻ.
1.4. Cơ sở ngôn ngữ
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của loài người.
Ngoài ra ngôn ngữ là phương tiện biểu lộ tâm trạng, tình cảm. Bởi thế, Lênin
đã từng viết: “Con người muốn tồn tại thì phải gắn bó với cộng đồng. Giao
tiếp là một hoạt động đặc trưng của con người. Ngôn ngữ là phương tiện giao

12


tiếp quan trọng nhất’’[ 7;8]. Hàng vạn năm, khi con người ở thời kỳ nguyên
thuỷ thì ngôn ngữ chưa hề xuất hiện. Trải qua quá trình lao động sản xuất con
người cần trao đổi những thứ thu lượm được. Cuộc sống đã cho con người âm
thanh trong giao tiếp, để trao đổi những ý tưởng hay, ngưỡng kinh nghiệm
lịch sử xã hội đó. Âm thanh chữ viết đó chính là ngôn ngữ, nói cách khác

ngôn ngữ góp phần quan trọng, tích cực cho quá trình hình thành tâm lý con
người. Tiến xa hơn nữa, ngôn ngữ có vai trò rất quan trọng trong đời sống.
1.5. Vai trò của truyện cổ tích trong trƣờng Mầm non
Hoạt động vui chơi luôn chiếm vị trí quan trọng trong trường Mầm
non. Còn hoạt động học tập chỉ dừng lại ở dạng sơ khai. Khi cho trẻ làm quen
với tác phẩm văn học (truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn…), làm quen với môi
trường xung quanh.
Ngày nay, nhiệm vụ của giáo viên mầm non không chỉ đơn thuần là
nuôi dưỡng, chăm sóc mà còn là giáo dục trẻ. Nói chác khác là dạy dỗ trẻ,
giúp các em phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mĩ, cung cấp cho các em một
hành trang tri thức nhất định để sẵn sàng bước vào lớp Một.
Làm quen với tác phẩm văn học là để trẻ tiếp thu môn Tiếng Việt ở
tiểu học.
Làm quen với môi trường xung quanh hay khám phá khoa học là cơ
sở để trẻ học môn Tự nhiên – Xã hội.
Trẻ tập tô tạo tiền đề cho trẻ học viết và Chính tả.
Trẻ làm quen với Toán là cơ sở để trẻ tiếp thu môn Toán học của lớp
Một.
Tuy nhiên, căn cứ vào đặc điểm tâm lý của trẻ lứa tuổi này, chúng tôi
thấy để truyền đạt những kiến thức sơ đẳng về môi trường xung quanh, về tác
phẩm văn học, Toán học cho trẻ không phải là dễ, nó đòi hỏi cần có sự phối
hợp chặt chẽ, hài hoà giữa nhiều phương pháp giáo dục: nhóm phương pháp

13


trực quan, nhóm phương pháp dùng lời, nhóm phương pháp trò chơi, nhóm
phương pháp thực hành. Dưới đây là bảng một số phương pháp giáo dục
thường được sử dụng trong trường mầm non
Bảng số 1: Bảng thống kê những phƣơng pháp giáo dục đƣợc sử dụng

trong trƣờng mầm non
Phƣơng pháp
STT
giáo dục

1

2

Trực quan

Dùng lời

Hình thức

Phƣơng tiện

- Tiếp xúc
- vật thật
- Quan sát
- Tham quan
- Xem phim

- Đồ vật thật
- Mô hình
- Tranh ảnh
- Băng đĩa

- Trên lớp
+ Giảng giải

+ Thuyết
trình
+ Hướng dẫn
+ Chỉ dẫn
+ Nhắc nhở
+ Đàm thoại
+ Kể truyện
- Ngoài giờ
+ Trò truyện

- Lời nói
- Giọng đọc,
kể (truyện,
thơ, ca dao,
dân ca, )
- Vần điệu,
nhịp điệu, cử
chỉ, điệu bộ,
nét mặt

- Trên lớp
trong các
giờ học
- Ngoài giờ
- Khi trẻ
14

- Lời nói
- Đồ dùng,
đồ chơi


Một số lƣu ý khi
sử dụng
- Nhóm phương
pháp trực quan là
phương pháp được
sử dụng rộng rãi
trong tất cả các môn
học trong trường
mầm non.
- Có thể tích hợp với
phương pháp dùng
lời, trò chơi, đạt
hiệu quả cao trong
giáo dục.
- Là một trong
những phương pháp
quan trọng và được
sử dụng nhiều nhất
ở trường mầm non
không chỉ với hoạt
động học tập mà còn
với hoạt động vui
chơi.
- Có thể phối hợp
với tất cả các
phương pháp giáo
dục khác.
- Trẻ tham gia vào
hoạt động tích cực

vào các hoạt động:
học tập, vui chơi,
lao động


3

Thực hành

tham gia
hoạt động

4

Trò chơi -

- Trên lớp:
+ Trong giờ
+ Ngoài giờ

- Là phương pháp để
ôn luyện củng cố
nên được sử dụng và
kết hợp trong các
tiết học của trẻ.
- Đồ dùng,
đồ chơi
- Lời nói
- Vùng không
gian, ngoài

lớp

- Đây là một phương
pháp hấp dẫn với trẻ
- Nên sử dụng phối
hợp với các phương
pháp khác
- Vận dụng hợp lí
trong các tiết học để
đạt hiệu quả cao
- Là một phương
pháp tác động mạnh
vào tâm lí làm cho
trẻ dễ tiếp thu.

Ngoài bốn phương pháp giáo dục trọng tâm trên còn một số phương
pháp cũng được sử dụng và đạt hiệu quả giáo dục nhất định.
Phương pháp thống nhất tác động môi trường giáo dục này có ý nghĩa
tích cực hay tiêu cực với sự phát triển của trẻ, với người tạo dựng môi trường
đó. Phương pháp này cần được kết hợp chặt chẽ với nhau để có kết quả giáo
dục tốt nhất.
Phương pháp nêu gương và phương pháp khen chê là hai phương pháp
tác động mạnh mẽ lên đời sống tình cảm của trẻ, do đó ảnh hưởng lớn đến
tâm lý của các em, góp phần vào quá trình giáo dục đạo đức cho trẻ. Phương
pháp này được sử dụng một cách hợp lý và có kế hoạch.
Để trẻ có thể tham gia vào các hoạt động học tập, hoạt động vui chơi
và đáp ứng được nhu cầu của các hoạt động này mang lại thì đòi hỏi trẻ phải
có một vốn ngôn ngữ nhất định để tư duy và giao tiếp với cô và bạn; để hiểu
được yêu cầu của giờ học. Do đó, giáo viên mầm non cần nắm vững những
phương pháp giáo dục cho sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mầm non.

15


Quá trình tìm hiểu và nghiên cứu các phương pháp giáo dục được sử
dụng trong trường mầm non, chúng tôi nhận thất bốn phương pháp đều đã
được nêu trên là những phương pháp quan trọng thúc đẩy quá trình phát triển
ngôn ngữ của trẻ một cách mạnh mẽ và nhanh chóng. Nhưng nhóm phương
pháp dùng lời là đặc trưng nhất, chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong quá
trình giáo dục trẻ ở mầm non. Bởi vì, dù sử dụng phương pháp nào thì cũng
cần tới phương pháp dùng lời để trẻ hiểu mục đích, yêu cầu của cô cũng như
nhiệm vụ của trẻ.
Việc sử dụng phương pháp dùng lời: kể truyện, đọc thơ, trò truyện,
đem lại hiệu quả cao trong giáo dục trẻ. Với trí tưởng phong phú của trẻ để
thoả mãn nhu cầu của trẻ thì chỉ thông qua những câu chuyện cổ tích phù hợp
với đặc điểm, tâm sinh lí của trẻ. Mỗi câu chuyện cổ tích ngoài những bài học
đạo đức sâu sắc mà trẻ học được thông qua những câu chuyện thì việc nghe,
đọc, kể chuyện cổ tích trẻ sẽ được mở rộng mối quan hệ xã hội, từ đó thúc
đẩy ngôn ngữ củe trẻ phát triển. Đó sẽ là món quà quý báu nhất mà tuổi thơ
của đứa trẻ nào cũng cần có nó.
Như vậy, truyện cổ tích là một trong những phương pháp giáo dục quan
trọng nhất ở trường mầm non. Nó nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ và chắp cánh
ước mơ bay cao, bay xa của trẻ và hơn thế nó giúp trẻ thoả mãn nhu cầu giao
tiếp khi ngôn ngữ của trẻ ngày càng phát triển.
1.6. Khái niệm, đặc điểm, phân loại truyện cổ tích
1.6.1. khái niệm truyện cổ tích
Cho đến nay, truyện cổ tích đã có rất nhiều khái niệm, song nhìn chung
là giống nhau nhau về cơ bản, mỗi một khái niệm mà các nhà nghiên cứu đưa
ra đã bổ sung, làm phong phú thêm những hiểu biết của chúng ta về thể loại
truyện cổ tích.


16


Theo tác giả Lê Bá Hán trong cuốn “Từ điển thuật ngữ Văn học” thì :
Truyện cổ tích là một thể loại truyện dân gian nảy sinh từ xã hội có giai cấp
với chức năng chủ yếu là phản ánh và lý giải những vấn đề xã hội, những số
phận khác nhau của con người trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ khi đã có
chế độ tư hữu tài sản, có gia đình riêng (chủ yếu là gia đình phụ quyền) có
mâu thuẫn và đấu tranh xã hội quyết liệt.
Trong cuốn “Từ điển Tiếng Việt” - Hoàng Phê (chủ biên), khái niệm
truyện cổ tích được diễn đạt ngắn gọn như sau: “Truyện cổ tích là truyện cổ
dân gian phản ánh cuộc đấu tranh trong xã hội, thể hiện tình cảm, đạo đức,
ước mơ của nhân dân. về hình thức thường mang nhiều yếu tố thần kỳ, tượng
trưng và ước lệ”.
“Giáo trình văn học dân gian”của tác giả Hoàng Tiến Tựu thì cho
rằng: “Truyện cổ tích là loại truyện dân gian có tính phổ biến, hình thành từ
thời cổ đại, phát triển, tồn tại qua nhiều thời kì xã hội khác nhau, gắn chặt
với quá trình tan rã của công xã nguyên thủy, hình thành gia đình phụ quyền,
và phân hóa giai cấp trong xã hội. Nó hướng vào những vấn đề cơ bản,
những số phận, những quan hệ và xung đột có tính chất riêng tư và phổ biến
trong xã hội có giai cấp (ở Việt Nam chủ yếu là xã hội phong kiến). Nó dùng
một kiểu tưởng tượng và hư cấu riêng (có thể gọi là “tưởng tượng và hư cấu
cổ tích”) kết hợp các thủ pháp nghệ thuật đặc thù để phản ánh đời sống, và
khát vọng của nhân dân, đáp ứng nhu cầu nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ và
tiêu khiển của nhân dân”[9;63].
“Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam” - Nguyễn Đổng Chi có nêu: “Khi
nói đến mấy tiếng “Truyện cổ tích” hay “Truyện đời xưa” thì chúng ta đều có
sẵn quan niệm rằng đấy là một danh từ chung bao gồm hết thảy các loại
truyện do quần chúng vô danh sáng tác và lưu truyền qua các thời đại”.


17


Từ các khái niệm trên về truyện cổ tích, ta có thể đưa ra những đặc
trưng về thể loại truyện cổ tích như sau:
- Về nguồn gốc: Truyện cổ tích ra đời từ xã hội nguyên thuỷ và phát triển
chủ yếu trong xã hội phong kiến.
- Về nội dung phản ánh: Truyện cổ tích không phản ánh mối quan hệ
giữa con người với giới tự nhiên như thần thoại mà nó phản ánh các mâu
thuẫn gia đình và các mâu thuẫn trong đời sống xã hội. Truyện cổ tích nói về
ước mơ của những người bình dị, bé nhỏ. Đó là những ước mơ được giàu
sang, được hạnh phúc, ước mơ được hoàn thiện con người, ước mơ về một xã
hội công bằng, bác ái.
- Về nghệ thuật: Truyện cổ tích nổi bật như một thể loại mang tính hư
cấu cao, là hư cấu nghệ thuật. Những đặc trưng trên giúp chúng ta có thể phân
biệt được truyện cổ tích với các thể loại truyện khác trong kho tàng văn học
dân gian Việt Nam.
1.6.2. Đặc điểm truyện cổ tích
Tất cả mọi loại hình tự sự dân gian đều được sáng tạo nên bằng cảm
quan nghệ thuật của quần chúng nên đều mong những kết cấu khá thống nhất,
có những mô típ tương đối ổn định. Vì thế, cũng khó mà vạch một cách thật
dứt khoát ranh giới của thể loại này. Hơn nữa, chúng lại được sáng tác, chỉnh
lý và truyền tụng bằng miệng nên cũng ảnh hưởng qua lại với nhau một cách
thiết thực, mật thiết. Tuy nhiên, tìm hiểu cho sâu vẫn có thể phân biệt được
loại hình này với loại hình khác trên những nét căn bản.
Theo Nguyễn Đổng Chi “Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam” có ba đặc
điểm đáng chú ý hơn để nhìn nhận loại hình cổ tích.
Một là, tính chất cổ của sự việc. Truyện cổ tích được xác định trước
tiên ở phong cách cổ của nó. Gần như bất cứ cổ tích nào cũng không ra ngoài
những qui ước về màu sắc cổ của nhân vật và không khí của câu chuyện.


18


Không khí truyền kỳ hoang đường của một số truyện cổ tích, xét cho cùng
cũng xuất phát từ tính chất cổ. Mỗi nhân vật, mỗi tính nết, mỗi hình ảnh cổ
tích đều nhất thiết phải là một nhân vật, một tình tiết hình ảnh vốn có trong
truyền thống nghệ thuật xa xưa của văn học dân gian coi là quen thuộc, đã
thấm sâu vào tiềm thức của con người. Như vậy, vấn đề xác định tính cổ của
truyện cổ tích là căn cứ chủ yếu vào sự cấu tạo hình tượng mà không nhất
thiết căn cứ vào thời điểm lịch sử của câu chuyện. Tính chất cổ là một tiêu
chuẩn không thể thiếu được khi nhận định một truyện cổ tích.
Hai là, trong sự việc được kể đừng có yếu tố gì quá xa lạ với bản sắc
dân tộc. Nghệ thuật cổ tích cho phép tác giả bịa đặt mọi tình tiết, thậm chí bịa
đặt không thể vượt ra khỏi bản sắc dân tộc. Hãy đặt một giả thuyết là có một
câu chuyện không kém lý thú và màu sắc cũng rất cổ, lưu hành phổ biến trong
khá nhiều người. Có điều nhân vật trong truyện đáng lý là Bụt, Tiên, hay
Ngọc Hoàng, Thượng đế thì ở đây lại là: Đức Chúa Trời hay Đức Mẹ Đồng
Trinh, chỉ cần thế thôi câu chuyện đã trở nên xa lạ, đã nhạt đi mất nhiều ý vị
của một cổ tích.
Chúng ta thấy cái tên Đức Chúa hay Đức Mẹ truyền vào Việt Nam từ
thế kỷ thứ XVI để đến nay đã hơn bốn trăm năm mà vẫn chưa thể nào quen
thuộc với tâm lý dân tộc. Trái lại, cái tên Bụt, Tiên cũng là mượn của những
thứ tôn giáo ngoại lai nhưng đã thành truyền thống, vì từ rất xưa, những tôn
giáo này từng là tôn giáo chung của dân tộc. Đặc điểm này cắt nghĩa tại sao
khi một truyện cổ tích của dân tộc này truyền vào một dân tộc khác thì phải
chuyển hoá thành một truyện mới, hay ít nhất cũng mang những hình tượng,
những màu sắc quan thuộc hoặc gần như quen thuộc với điều kiện sinh hoạt,
với tâm hồn của dân tộc mới.
Cần phải nói thêm là truyện cổ tích thường giàu tính tập thể. Tính tập

thể tuy không đồng nhất nhưng có quan hệ khăng khít và là cơ sở của tính dân

19


tộc. Tất nhiên, trong cùng một giai đoạn lịch sử, giữa các dân tộc khác nhau,
các tập đoàn người khác nhau, vẫn có những ước mơ, hy vọng giống nhau,
cho nên thế giới trong truyện cổ tích Đông Tây vẫn thường có những nét gần
nhau. Mặt dù thế, truyện cổ tích của mỗi dân tộc vẫn phản ánh xã hội, đất
nước, cuộc sống, phong tục, những vấn đề lịch sử, cụ thể của dân tộc mình.
Dân tộc đối với cổ tích quả là một tiêu chuẩn khá quan trọng.
Ba là, truyện cổ tích ít nhiều phải thể hiện tính tư tưởng và tính nghệ
thuật. Ngày nay, nếu ta kể cho nhau nghe một câu chuyện rất xưa về ma, một
con ma gốc dễ hiện hình lè lưỡi nạt người chẳng hạn; câu chuyện ấy không
bao giờ trở thành truyện cổ tích được bởi trong đó không bao hàm một ý
nghĩa gì về cuộc đời, con người, hay không có những tình tiết gợi hứng cảm
cho người nghe. Không những truyện ma mà ngay cả truyện cười, truyện
thần, truyện vật cũng chưa hẳn phải là truyện cổ tích nếu chúng không hướng
đến một mục đích nhân sinh cao cả, hoặc có mục đích nhân sinh. Truyện cổ
tích không phải là một loại truyện “ngụ ý” tầm thường.
Tất nhiên, nếu là truyện có ý nghĩa mà lại chỉ đơn thuần chép lại sự thật
như truyện “thời sự” thì cũng không thể gọi là truyện cổ tích. Tác giả truyện
cổ tích phải vận dụng trí tưởng tượng xếp đặt nội dung, bố trí tình tiết, làm
cho mạch truyện tiến triển theo một kết cấu nghệ thuật nào đấy để đạt tới kết
luận định sẵn. Nói cách khác, truyện cổ tích phụ thuộc rất nhiều vào ý định và
tài năng của tác giả chứ không tuỳ thuộc hoàn toàn vào những câu chuyện xảy
ra tự nhiên trong đời sống hàng ngày.
Tóm lại, đặc điểm thứ ba này cho phép ta phân biệt truyện cổ tích với
các loại truyện dân gian khác, ở chỗ nó là một tác phẩm văn học nghệ thuật và
tương đối hoàn chỉnh.


20


1.6.3. Phân loại truyện cổ tích
Có rất nhiều phân loại truyện cổ tích Việt Nam được nêu lên nhưng có
bảng phân loại nào được thuyết giải đầy đủ trên cơ sở những tiêu chí rõ ràng
và nhất quán.
Một trong những cách phân loại chung được nhiều người tán thành và
vận dụng hiện nay là cách phân chia truyện cổ tích thành ba loại chính: truyện
cổ tích thần kì, truyện cổ tích loài vật, truyện cổ tích sinh hoạt. Đây cũng là
cách phân loại được tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi áp
dụng phân loại truyện cổ tích trong cuốn “Từ điển thuật ngữ Văn học”. Cách
phân loại này kết hợp vận dụng những tiêu chí quan trọng là đề tài và phương
pháp sáng tác. Phân biệt truyện cổ tích về loài người với truyện cổ tích về loài
vật chủ yếu dựa vào đề tài (đối tượng phản ánh). Còn khi tách bộ phận truyện
cổ tích về người thành hai loại (truyện cổ tích thần kì và truyện cổ tích sinh
hoạt) thì chủ yếu dựa vào phương pháp sáng tác, cách phân chia này phù hợp
với tiến trình lịch sử của truyện cổ tích các dân tộc.
Ranh giới giữa các loại truyện cổ tích nói trên không phải lúc nào cũng
rõ ràng, dứt khoát, những yếu tố thần kỳ vẫn rải rác trong các truyện cổ tích
sang những mô típ đời sống xã hội với mức độ đậm nhạt khác nhau vẫn
thường xuyên có mặt trong truyện cổ tích thần kì. Và tương tự như thế, những
loài vật thuộc nhiều loại khác nhau vẫn hay được nói tới trong các truyện cổ
tích về người. Nói tóm lại, cách phân loại truyện cổ tích như trên có tính chất
tương đối.
Trong thể loại truyện cổ tích, truyện cổ tích thần kỳ là bộ phận tiêu biểu
nhất và quan trọng nhất, ở loại truyện này, nhân vật chính vẫn là con người
trong thực tại nhưng các lực lượng thần kì, siêu nhiên có một vai trò quan
trọng. Hầu như xung đột trong thực tại giữa người với người đều bế tắc không

thể giải quyết nổi nếu thiếu yếu tố thần kỳ. Có thể nói rằng, loại truyện cổ tích

21


thần kì nằm ở vị trí gạch nối giữa thể loại truyện cổ tích và thể loại truyện
thần thoại trong tiến trình sáng tạo lâu dài của sáng tác dân gian các dân tộc.
Truyện cổ tích sinh hoạt (hay truyện cổ tích thế sự) là những truyện cổ
tích không có hoặc có rất ít yếu tố thần kỳ. Mâu thuẫn ở đây là mâu thuẫn
giữa người với người được giải quyết một cách hiện thực, không cần đến yếu
tố siêu nhiên. Những yếu tố thần kì, nếu có cũng không giữ vai trò quan trọng
và nhiều khi chỉ là đường viền cho câu chuyện thêm vẻ ly kỳ, hấp dẫn.
Truyện cổ tích loài vật là loại truyện cổ tích chủ yếu lấy loài vật (phần
lớn là động vật) làm đối tượng phản ánh, tường thuật lý giải. Loại truyện này
ở thời kỳ cổ xưa hầu hết các dân tộc đều có, các loài vật ở đây đều được nhân
cách hoá một cách hồn nhiên trong trí tưởng tượng của nhân dân thời cổ đại.
“Tuyển tập truyện cổ dân tộc ít người Việt Nam” viện khoa học xã hội
Việt Nam phân chia các truyện cổ tích cụ thể như sau:
Truyện cổ tích Loài vật trong quan hệ với loài vật
về loài vật

Loài vật trong quan hệ với con người
Truyện chàng trai khoẻ, chàng dũng sĩ

Truyện
cổ tích

Truyện cổ tích Truyện người con riêng
thần kì


Truyện người đội lốt thú
Truyện người lấy thú vật

Truyện cổ tích Truyện về sinh hoạt gia đình
sinh hoạt

Truyện về sinh hoạt xã hội

Tác giả khoá luận đồng ý với cách phân chia này của “Viện nghiên cứu
khoa học xã hội Việt Nam”. Như vậy, truyện cổ tích thần kì là một trong ba
thể loại truyện cổ tích.
Tóm lại, dựa trên những cơ sở nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm,
phân loại truyện cổ tích cho ta thấy truyện cổ tích rất phù hợp với trẻ mẫu

22


giáo nói chung, đặc biệt là trẻ mẫu giáo lớn bởi các đặc điểm về trí nhớ, tư
duy, tưởng tượng, ngôn ngữ của trẻ ở giai đoạn này đã phát triển hơn nhiều so
với các độ tuổi trước. Mỗi câu chuyện sẽ mang đến cho trẻ một thế giới huyền
ảo với những bài học đạo đức sâu sắc qua các mối quan hệ xã hội. Đồng thời
mở ra một bầu trời tri thức để từ đó nhận thức của trẻ được mở rộng, tạo điều
kiện cho sự phát triển ngôn ngữ của trẻ.

23


CHƢƠNG 2
Ý NGHĨA CỦA TRUYỆN CỔ TÍCH ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN NGÔN NGỮ CỦA TRẺ MẪU GIÁO LỚN

2.1. Yếu tố ngôn ngữ trong truyện cổ tích của trẻ mẫu giáo lớn
Khả năng nhận thứ của trẻ mẫu giáo lớn ngày càng mở rộng. Để thỏa
mãn nhu cầu khám phá và tâm sinh lý của lứa tuổi này thì các thể loại truyện
nói chung cũng như truyện cổ tích nói riêng dành cho trẻ mẫu giáo lớn đều có
dung lượng lớn phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi này.
Truyện cổ tích luôn đi kèm những bài học giáo dục sâu sắc: ở hiền gặp
lành, gieo gió gặp bão, tham thì thâm. Từ đó, trẻ có vốn hiểu biết sâu sắc hơn
về cuộc sống xã hội: thế nào là tốt? Thế nào là xấu? Chẳng hạn khi nghe câu
chuyện “Cây tre trăm đốt”, trẻ hiểu được anh Khoai là người như thế nào?
Tên địa chủ tham lam độc ác ra sao? Trẻ hiểu được ý nghĩa sâu sắc của bài
học giáo dục trong câu chuyện là gì? Hay khi nghe câu chuyện “Cây khế” trẻ
biết được những đức tính tốt của người em và biết người anh sống tham lam,
ích kỉ như thế nào? Thông qua mỗi câu chuyện, mỗi bài học giáo dục trẻ lại
được mở rộng nhận thức của trẻ cũng như tích luỹ vốn từ quý giá cho bản
thân. Đồng thời trẻ sẽ hiểu được ý nghĩa của từ “chăm chỉ”, “tham lam độc
ác” một cách sinh động. Hơn nữa, trẻ sẽ được tiếp xúc nhiều với những câu
văn vần, những từ ngữ bóng bẩy giàu hình ảnh qua những từ ngữ miêu tả
phong cảnh quê hương, đất nước, từ ngữ miêu tả đặc điểm, tính cách nhân
vật, các loài vật trong truyện cổ tích loài vật hoặc những từ ngữ miêu tả đặc
điểm, tính cách nhân vật trong truyện cổ tích thần kì hay các mối quan hệ
phức tạp trong truyện cổ tích sinh hoạt. Giúp trẻ ngày càng tích lũy được vốn
từ phong phú để mở rộng nhận thức, mở rộng các mối quan hệ giao tiếp trong
thế giới thực tại.

24


Truyện cổ tích của trẻ mẫu giáo nói chung và trẻ mẫu giáo lớn nói riêng
đều cung cấp cho trẻ rất nhiều vốn từ tự nhiên và vốn từ xã hội.
Theo những tiêu chí đặc điểm yếu tố ngôn ngữ của truyện cổ tích trong

cuốn “Văn học dân gian những tác phẩm chọn lọc”của tác giả Bùi Mạnh Nhị
(chủ biên), chúng tôi có bảng thống kê sau:
Bảng số 2: Bảng thống kê yếu tố ngôn ngữ trong truyện cổ tích
Truyện cổ tích
Thể loại truyện cổ tích

STT
Tên truyện
cổ tích

1

Ả Chức chàng Ngưu

2

Ai mua
hành tôi

3

Ba chàng
thiện nghệ

4

Ba người bạn

5


Cây khế

6

Cây nêu
ngày tết

7

Cây tre
trăm đốt

8

phát triển ngôn
ngữ

Truyện

Truyện

Truyện

Vốn từ

Vốn từ

cổ tích

cổ tích


cổ tích

thiên

xã hội

loài vật

thần kỳ

sinh hoạt

nhiên

x

x

x

x

x

x

x

x


x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x


Cái cân

x

thủy ngân

25


9

Con Thỏ

x

và con Hổ
10

Chàng Ngốc

x

được kiện
11

Chó phải

x


đòn oan
12

Chuột và Mèo

13

Chử Đồng Tử

x
x

– Tiên Dung
14

x

x

x

x

x

x

x

x


x

x

x

x

Chưa đỗ ông
nghè đã đe

x

hàng tổng
15

Dã tràng

x

x

x

16

Đá Vọng Phu

x


x

x

17

Em bé

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x


thông minh
18

Gái ngoan

x

dạy chồng
19

Gốc tích tiếng

x

kêu của Vạc,
Cộc, Dủ Dỉ,
Đa Đa và
Chuột
20

Hà rầm hà bạc

21

Không nên lấy
oán trả ơn

x
x


26


22

Làm theo

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x


x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x


x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x

x


x

vợ dặn
23

Lấy vợ cóc

24

Mưu con thỏ

25

Mụ dì ghẻ

x
x

độc ác
26

Nàng tiên ốc

27

Người con út
hiếu thảo

28


Người dân
nghèo và
Ngọc Hoàng

29

Người học trò

x

và con Chó Đá
30

Ông đầu rau

31

Phân xử

x
x

tài tình
32

Quạ và Công

33

Sọ Dừa


34

Sự tích cây
huyết dụ

35

Sự tích con
sam

36

Sự tích chim
tu hú

37

Sự tích chim

x

27


×