PHỊNG GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO SƠNG LƠ
TRƯỜNG MẦM NON QUANG YÊN
=====***=====
BÁO CÁO KẾT QUẢ
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
CẤP: TỈNH
Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ
Mẫu giáo lớn dân tộc thiểu số qua việc
làm quen với tác phẩm văn học
Môn: Phát triển ngôn ngữ
Tổ: 5 – 6 tuổi
Mã: 04
Người thực hiện: Nguyễn Thị Hồng Thuận
Điện thoại: 0963003635; Email:
Quang Yên, ngày 25 tháng 05 năm 2013
1
MỤC LỤC
Mục lục
STT
Số
trang
Phụ lục
2-3
Phần 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
4-6
1.1
Lý do chọn đề tài
1.2
Mục đích nghiên cứu:
5
1.3
Nhiệm vụ nghiên cứu
5
1.4
Đối tượng nghiên cứu
5
1.5
Phương pháp nghiên cứu
1.6
Giới hạn về không gian của phạm vi nghiên cứu
6
1.7
Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu
6
4-5
Phần 2: NỘI DUNG
2.1
Cơ sở lý luận
2.2
Thực trạng phát triển ngôn ngữ cho trẻ mấu giáo lớn làm quen
5-6
7 - 26
7
7 - 11
với tác phẩm văn học
2.2.1
Đối với giáo viên
2.2.2
Đối với trẻ
2.2.3
Thực trạng phát triển ngôn ngữ cho trẻ mấu giáo lớn dân tộc
7-8
8
8 -10
thiểu số làm quen với tác phẩm văn học
2.2.3
Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ Mẫu giáo lớn 11 - 23
dân tộc thiểu số làm quen với tác phẩm văn học.
2.3.1
Biện pháp1: Bồi dưỡng chuyên mơn, nâng cao trình độ nhận
thức cho bản thân.
11-12
2.3.2
Biện pháp 2: Linh hoạt, sáng tạo trong hoạt động có chủ đích
12 - 14
2
2.3.3
Biện pháp 3: Khảo sát kỹ năng quan sát, nghe, nói, đọc của 14 - 16
trẻ.
2.3.4
Biện pháp 4: Tạo mơi trường ngôn ngữ phong phú, đa dạng
16 - 18
2.3.5
Biện pháp 5: Tích hợp qua các hoạt động khác
18 - 21
2.3.6
Biện pháp 6: Giáo dục cá nhân trẻ dân tộc tạo niềm tin cho trẻ 21 - 22
khi học Tiếng Việt.
2.3.7
Biện pháp7: Ứng dụng công nghệ thông tin
2.3.8
Biện pháp 8: Công tác phối hợp, tuyên truyền với phụ huynh
22 - 23
2.4
Kết quả nghiên cứu
23 - 26
2.5
Bài học kinh nghiệm
26
Phần 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.3
Kết luận
3.2
Một số kiến nghị, đề xuất
22
27 - 28
27
27 - 28
3
PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Lý do chọn đề tài
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp hữu hiệu nhất giúp con người biểu đạt
được những mong muốn, sở thích, tình cảm, cảm xúc… của mình. Một đứa trẻ
bắt đầu phát triển ngơn ngữ thậm chí trước khi có trẻ dùng từ ngữ như khóc hay
khi muốn địi một gì đó khi cịn nhỏ. Việc chậm phát triển kỹ năng ngơn ngữ có
thể ảnh hưởng khơng tốt đến trẻ cũng như thiếu hụt khả năng truyền tải thơng tin
sau này. Vì vậy phát triển ngôn ngữ rất quan trọng đối với trẻ nhỏ trong việc trao
đổi thơng tin chính xác với bạn bè, với người khác theo cách có ý nghĩa nhất đặc
biệt là đối với trẻ dân tộc thiểu số việc phát triển ngơn ngữ sẽ giúp trẻ dễ hịa
nhập trong giao tiếp và thu nhận thông tin kiến thức. Có nhiều cách biểu đạt
ngơn ngữ nhưng thơng qua tác phẩm văn học thì việc phát triển ngơn ngữ cho trẻ
sẽ là con đường ngắn nhất và nhanh nhất bởi lẽ:
“Tác phẩm văn học - nhựa sống tâm hồn trẻ thơ’’. Văn học là nghệ thuật
ngơn từ, là hình thức nghệ thuật sử dụng ngôn từ làm chất liệu để chiếm lĩnh tái
hiện thế giới. Qua những tác phẩm văn học thế giới tràn đầy âm thanh màu sắc,
hình khối ngơn ngữ đã dần được hiện lên trong trí tưởng tượng về cuộc sống gần
gũi quen thuộc của trẻ. Ngôn ngữ chính là phương tiện quan trọng để phát triển
trí tuệ giúp cho việc tiếp thu kiến thức học tập tốt ở tiểu học và các cấp học sau
này. Đó là nền tảng để hiểu về thế giới văn học và tiếp nhận nhiều tri thức mới.
Vì vậy cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là một trong những nội dung quan
trọng cho trẻ Mẫu giáo. Đối với trẻ Mẫu giáo khi làm quen với tác phẩm văn học
(qua sự truyền thụ của giáo viên) giúp trẻ phát triển khả năng tư duy, ngơn ngữ,
phát triển tình cảm và kỹ năng xã hội, rèn luyện được khả năng chú ý, tái tạo và
đặc biệt phát triển khả năng tưởng tượng sáng tạo. Ngoài ra việc cho trẻ làm
quen với tác phẩm văn học còn phát triển tư duy trực quan hành động và đặc biệt
phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ. Khi trẻ làm quen với tác phẩm văn học tạo
nền tảng để giúp trẻ thể hiện sự tự tin thể hiện tình cảm, cảm xúc của mình trước
sự vật, hiện tượng xung quanh và diễn đạt rõ ràng, giao tiếp có văn hóa trong
cuộc sống hằng ngày. Qua đó trẻ phát triển một cách tồn diện hơn cả về tâm lý
và sinh lý.
Tiếng Việt với tư cách là ngơn ngữ quốc gia, là ngơn ngữ chính thức dùng
trong nhà trường, việc chuẩn bị cho trẻ vào học lớp Một ở trường phổ thông là
một trong những mục tiêu giáo dục toàn diện của giáo dục mầm non. Trong đó
việc chuẩn bị ngơn ngữ tiếng Việt là vấn đề vơ cùng quan trọng, bởi vì ngơn ngữ
có chức năng làm công cụ tư duy, công cụ biểu đạt tư tưởng, tình cảm và là
phương tiện giao tiếp của các thành viên trong xã hội.
Trong thực tế cho thấy phần lớn trẻ em dân tộc thiểu số trước khi tới
trường lớp mầm non đều sống trong môi trường tiếng mẹ đẻ, ít có mơi trường
giao tiếp tiếng Việt, đến trường trẻ vẫn thích giao tiếp với nhau bằng tiếng mẹ
đẻ, thậm trí trong hoạt động vui chơi, học tập hàng ngày, do đó trẻ dân tộc thiểu
số vẫn còn nhút nhát chưa mạnh dạn tự tin trong khi giao tiếp với bạn bè người
4
kinh. Vì vậy tơi gặp rất nhiều khó khăn trong khi tổ chức cho trẻ làm quen với
tác phẩm văn học.
Hướng dẫn giáo viên chuẩn bị tiếng việt cho trẻ mẫu giáo vùng dân tộc
thiểu số đã được sở Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo thực hiện trong nhiều năm qua
đã chỉ rõ tầm quan trọng của ngôn ngữ tiếng việt cho trẻ. Với đặc điểm ở lớp
mẫu giáo 5 tuổi việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ tốt nhất là cho trẻ làm quen với
tác phẩm văn học. Trên cơ sở chỉ đạo, triển khai, quan tâm giúp đỡ của Phịng
Giáo dục huyện Sơng Lơ và sự hướng dẫn trực tiếp của Ban giám hiệu nhà
trường. Qua thực tiễn đặc điểm tình hình lớp 5 tuổi A4 do tơi phụ trách, có
51,4% là trẻ dân tộc thiểu số khả năng giao tiếp, của trẻ dân tộc còn nhiều bất
cập.Cùng với sự tìm tịi, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp, tơi đã tích lũy đúc
rút được một số kiến thức và đã bắt tay vào nghiên cứu đề tài: “Một số biện
pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ Mẫu giáo lớn dân tộc thiểu số qua việc làm
quen với tác phẩm văn học” làm sáng kiến kinh nghiệm của mình với mục đích
đem đến cho trẻ dân tộc những giờ làm quen với tác phẩm văn học thật hấp dẫn
và thú vị, nhằm nâng cao khả năng giao tiếp tốt nhất, có vốn từ, kỹ năng nói, khả
năng hiểu và diễn đạt, đặc biệt sẽ gây được ấn tượng mạnh, ghi nhớ có chủ đích
của trẻ để trẻ phát huy được tính tái tạo, tính tưởng tưởng sáng tạo theo logic
khoa học. Và đây cũng là tiêu chí mà tôi đưa ra cho bản thân để tự khắc phục và
hướng tới thực hiện có hiệu quả.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ Mẫu giáo lớn dân
tộc thiểu số qua việc làm quen với tác phẩm văn học nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục Mầm non, hòa nhập trẻ dân tộc.
1.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Một số vấn đề khi cho trẻ dân tộc làm quen với tác phẩm văn học trong
trường Mầm non.
Thực trạng phát triển ngôn ngữ khi cho trẻ Mẫu giáo lớn, trẻ dân tộc làm
quen với tác phẩm văn học trong trường Mầm non Quang Yên.
Nghiên cứu để tìm ra nhiều biện pháp khác nhau phù hợp với từng chủ đề
để dạy trẻ, giúp trẻ hứng thú trong tiết học nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ
Mẫu giáo lớn và trẻ dân tộc khi làm quen với tác phẩm văn học.
Đề xuất những biện pháp chỉ đạo và dạy học môn làm quen với tác phẩm
văn học cho trẻ Mẫu giáo, trẻ dân tộc thiểu số học tiếng Việt ở trường Mầm non
Quang Yên.
1.4. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu 37 trẻ Mẫu giáo lớn lớp 5 tuổi A4 (trong đó có 19 trẻ em là
dân tộc tiểu số) Trường mầm non Quang Yên- Sông Lô- Vĩnh phúc.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ Mẫu giáo dân tộc thiểu số qua việc làm quen
với tác phẩm văn học.
1.5. Phương pháp nghiên cứu
5
Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp nghiên cứu (phân tích, tổng hợp tài liệu Internet, tập san, sách
báo có liên quan đến đề tài).
Phương pháp điều tra giáo dục.
Phương pháp quan sát sư phạm.
Phương pháp so sánh, phân tích tổng hợp.
Phương pháp thực hành, thực nghiệm sư phạm.
Phương pháp sử dụng công nghệ thông tin.
Phương pháp kiểm tra đánh giá.
Phương pháp thực hành nghệ thuật.
1.6. Giới hạn về không gian của phạm vi nghiên cứu
Đề tài này chỉ tập trung tìm ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất
lượng cho trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số tại lớp 5 tuổi A4 trường Mầm non
Quang Yên - huyện Sông Lô - tỉnh Vĩnh Phúc.
1.7. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu
Từ tháng 8/2012, tôi đã quan sát, trao đổi, theo dõi đánh giá và nắm bắt
được đặc điểm tình hình tâm, sinh lý của trẻ đặc biệt là về quá trình phát triển
ngơn ngữ của trẻ dân tộc, tơi đã bắt tay vào công việc nghiên cứu tài liệu, học
hỏi kiến thức qua đồng nghiệp và các phương tiện thông tin đại chúng, tiếp tục
theo dõi trẻ và tìm ra một số biện pháp mới để nâng cao chất lượng phát triển
ngôn ngữ cho trẻ dân tộc thiểu số làm quen với tác phẩm văn học.
Tháng 9/2013 áp dụng, triển khai các biện pháp nghiên cứu và thực hiện
tại lớp 5 tuổi A4 trường Mầm non Quang Yên.
Đến hết tháng 5/2013 ghi chép tổng hợp các số liệu, báo cáo kết quả sáng
kiến kinh nghiệm.
6
PHẦN 2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận
Trong cuộc sống, chúng ta đều phải sử dụng ngôn ngữ để nhận thức thế
giới, giao tiếp với mọi người và tư duy. Phát triển ngôn ngữ là phát triển các kỹ
năng nghe, nói, đọc và viết. Trẻ Mầm non bắt đầu học ngơn ngữ, mà chủ yếu là
hình thành và phát triển kỹ năng nghe, nói, hiểu.
Đối với trẻ Mầm non, ngơn ngữ không phải là một bộ “quy tắc và ngữ
pháp” mà ngôn ngữ là công cụ để trẻ biểu đạt ý nghĩa tình cảm, cảm xúc và
mong muốn của mình với người khác và qua đó người khác hiểu được trẻ. Ngơn
ngữ đóng vai trị đặc biệt quan trọng trong việc phát triển tư duy, hình thành và
phát triển nhân cách, là công cụ để trẻ giao tiếp, học tập, vui chơi...Ngơn ngữ có
vai trị rất quan trọng trong việc phát triển trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục
thẩm mĩ và phát triển thể lực cho trẻ.
Song vị trí của phát triển ngôn ngữ cho trẻ Mầm non tương đối đặc biệt vì
từ sự phát triển ngơn ngữ sẽ tham gia trực tiếp vào phát triển các lĩnh vực khác.
Bởi ngơn ngữ là phương tiện giao lưu tình cảm, phương tiện để trẻ nhận thức,
khám phá tự nhiên và xã hội.
Trên những nét cơ bản đối với trẻ Mẫu giáo dân tộc thiểu số tiếng việt là
ngôn ngữ thứ hai. Quá trình trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số được phát triển ngơn
ngữ tiếng việt khác với q trình học ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ ở một số đặc điểm
như sau: Môi trường ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số chủ yếu là môi
trường nhân tạo, bị thu hẹp cả về không gian lẫn thời gian. Là ngôn ngứ thứ hai
nên chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ thứ nhất ở mức độ nhất định. Sự khác biệt về
điều kiện sống và chất lượng cuộc sống của dân tộc thiểu số có tác động nhất
định đối với việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số. Sự khác
biệt về văn hóa giữa các dân tộc, trong đó có ngơn ngữ, ngơn ngữ dân tộc có
cách phát âm, ngữ điệu, một số từ vựng... làm cho trẻ khó khăn nhất định khi
tiếp thu ngơn ngữ tiếng việt.
Trong quá trình cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học ở trường Mầm
non, tôi nhận thấy trẻ dân tộc thiểu số vẫn còn hạn chế trong khi giao tiếp, trẻ
vẫn còn nhút nhát chưa mạnh dạn, tự tin khi muốn trình bày ý kiến, mong muốn
của mình. Một số trẻ cịn nói ngọng, nói lắp, diễn đạt chưa mạch lạc rõ ràng, nói
khơng đủ câu.
Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ Mẫu giáo lớn dân tộc thiểu số là vô cùng
cần thiết, để chuẩn bị chuẩn bị tốt tâm thế cho trẻ vào lớp 1. Từ những hạn chế
trên của trẻ tôi luôn suy nghĩ và trăn trở xem mình phải làm gì và làm như thế
nào để nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ dân tộc trong trường
Mầm non.
2.2. Thực trạng phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo lớn dân tộc thiểu số
qua việc làm quen với tác phẩm văn học.
2.2.1. Đối với giáo viên
7
Chưa phát huy hết khả năng sáng tạo, linh hoạt trong tổ chức hoạt động
phát triển ngôn ngữ cho trẻ dân tộc, đơi khi cịn dập khn, máy móc, chưa có
kinh nghiệm khi xây dựng kế hoạch giáo dục lấy trẻ làm trung tâm.
Chưa khái thác hết khả năng phát triển ngôn ngữ của trẻ dân tộc, chưa chú
ý đến việc thể hiện tình cảm, cảm xúc của trẻ dân tộc trong các hoạt động hàng
ngày.
Giáo viên có ít thời gian làm đồ chơi sáng tạo để phục vụ cho các hoạt
động phát triển ngôn ngữ của trẻ dân tộc.
Khả năng truyền thụ tác phẩm văn học của giáo viên khơng đồng đều, một
số giáo viên cịn hạn chế khi trị chuyện, đàm thoại kích thích được sự phát triển
kỹ năng nghe, hiểu, nói của trẻ.
2.2.2. Đối với trẻ
Nhận thức của trẻ không đồng đều. Khả năng sáng tạo của trẻ cịn hạn chế.
Số trẻ đơng, một số trẻ cịn quá hiếu động, một số trẻ nhút nhát nên việc
rèn kỹ năng cá nhân ảnh hưởng đến việc tiếp thu kiến thức. Số trẻ dân tộc thiểu
số chiếm tỷ lệ cao 19 trẻ chiếm 51,3% tổng số trẻ.
Khả năng giao tiếp của trẻ còn nhiều hạn chế, vốn từ của trẻ chưa phong
phú do bất đồng ngôn ngữ , quá trình trải nghiệm, tiếp xúc với mơi trường bên
ngồi cịn có những hạn chế nhất định.
Sự khác biệt về văn hóa dân tộc, trong đó khía cạnh ngơn ngữ cũng ảnh
hưởng tới việc học tiếng Việt của trẻ Mẫu giáo dân tộc thiểu số.
Một số trẻ cịn nói ngọng, phát âm không chuẩn nên ảnh hưởng tới sự tiếp
thu kiến thức của trẻ.
Tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai của trẻ dân tộc thiểu số nên chịu ảnh
hưởng bởi ngôn ngữ thứ nhất ở mức độ nhất định, bởi ảnh hưởng sự giao thoa
ngôn ngữ của tiếng mẹ đẻ và những điều kiện xã hội tác động vào việc học ngôn
ngữ thứ hai. Để phát triển ngôn ngữ khi cho trẻ Mẫu giáo dân tộc thiểu số qua
việc làm quen với tác phẩm văn học đòi hỏi giáo viên cần phải linh hoạt, năng
động và sáng tạo trong việc xây dựng kế hoạch giáo dục, tổ chức các hình thức,
sử dụng phương pháp linh hoạt, chủ động, sáng tạo phù hợp với đặc điểm của
trẻ, giúp trẻ hoạt động tích cực, hứng thú.
2.2.3. Thực trạng phát triển ngôn ngữ cho trẻ Mẫu giáo lớn dân tộc thiểu số
làm quen với tác phẩm văn học.
Đầu năm học tôi nghiên cứu và tìm hiểu thấy được các cháu dân tộc thiểu
số ít được sự quan tâm, chăm sóc, khả năng phát triển ngôn ngữ, kỹ năng giao
tiếp cho trẻ dân tộc (vốn từ, kỹ năng nói, khả năng hiểu và diễn đạt) cịn nhiều hạn
chế. Tơi nhận thấy một số giáo viên trong trường chưa tư duy sáng tạo trong việc
lập kế hoạch giảng dạy lấy trẻ làm trung tâm, giáo viên vẫn còn dạy trẻ theo
hướng thụ động đa phần vẫn là sự truyền đạt ở cô nên chưa phát huy được tính
tích cực ở trẻ trong q trình tổ chức, hướng dẫn trẻ giáo viên thường hay mắc
phải một số nhược điểm sau: Giáo viên cịn nói nhiều khơng phát huy được tính
8
tích cực của trẻ khi tham gia các hoạt động, sử dụng các phương pháp phát triển
ngôn ngữ cho trẻ dân tộc, nhất là khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học cịn
hạn chế, cơ chưa tạo ra được tình huống, chưa thường xuyên đặt ra được câu hỏi
mang tính gợi mở, khuyến khích tư duy của trẻ, tạo cho trẻ có cơ hội được diễn
đạt nhiều. Hình thức tổ chức các hoạt động chưa linh hoạt, sáng tạo và cứng
nhắc, dập khuôn, sử dụng nhiều từ địa phương. Sử dụng đồ dùng trực quan còn
lúng túng, chưa khoa học.
Do đặc điểm tâm lý của trẻ dân tộc rất nhút nhát, thiếu tự tin trong giao
tiếp, do môi trường giao tiếp của trẻ cịn bó hẹp trong phạm vi gia đình, người
thân, mà người thân của trẻ cũng là dân tộc thiểu số nên khi giao tiếp với nhau
chủ yếu bằng tiếng dân tộc, do đó trẻ khơng có cơ hội được giao tiếp tiếng việt
thường xuyên, chủ yếu trẻ chỉ được giao tiếp với ngôn ngữ tiếng việt khi ở
trường. Trẻ thường mắc một số lỗi như nói khơng hết câu, nói khơng gãy góc,
nói chống khơng, diễn đạt khơng rõ ràng mạch lạc...Bên cạnh đó khi cho trẻ làm
quen với tác phẩm văn học trẻ rất ít giơ tay phát biểu, mà chủ yếu do cô dùng
biện pháp khuyến khích và gọi đích danh tên trẻ, lúc đó trẻ mới có phản ứng,
nhưng câu trả lời của trẻ thường diễn ra không theo ý nghĩa của câu hỏi. Từ
những thực trạng nêu trên để có phương pháp giáo dục phù hợp cho trẻ dân tộc là
việc làm thiết thực để giảm sự chênh lệch về ngôn ngữ giữa trẻ kinh với trẻ dân
tộc.
Văn học dành cho trẻ từ lâu đã trở thành dụng cụ hữu hiệu nhất giúp trẻ
phát triển ngơn ngữ đồng thời qua đó giúp trẻ phát triển về cả mặt nhận thức và
tình cảm xã hội cùng với kỹ năng giao tiếp. Chính vì vậy trẻ nghe đọc tác phẩm
văn học (truyện, thơ, ca dao, tục ngữ…) sẽ giúp cho trẻ phát triển ngôn ngữ và
nhiều vốn từ vựng, ngữ pháp phong phú và đặc biệt trẻ cần được cung cấp kiến
thức, kinh nghiệm giao tiếp hằng ngày với bạn bè, và hàng xóm xung quanh nơi
trẻ sinh sống, từ những hoạt động mang ý nghĩa thông qua giao tiếp sẽ giúp trẻ
phát triển toàn diện hơn.
Giáo án điện tử sẽ làm cho tiết học sinh động hơn, giúp trẻ hứng thú hơn
khi hoạt động nhưng xin các thầy cô (nhà giáo dục) lưu ý một điều đó là khơng
nên lạm dụng cơng nghệ thông tin quá mức khi cho trẻ làm quen với tác phẩm
văn học vì khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học thông qua sự truyền thụ
của người kể (cô giáo) trẻ sẽ phát huy khả năng tư duy tưởng tưởng ra các hình
ảnh - nhân vật và mỗi trẻ sẽ có một hình ảnh khác nhau như vậy khi cho trẻ kể
hoặc hình dung rồi miêu tả, vẽ lại hình ảnh… sẽ đa dạng, phong phú và sinh
động. Nhưng nếu khi cô miêu tả một nhân vật nào đó trong tác phẩm văn học mà
cơ đưa hình ảnh qua máy tính lên thì tất cả các trẻ sẽ chỉ tập chung vào một hình
ảnh mẫu của cơ và lúc này những hình ảnh trong đầu trẻ sẽ bị tan biến hết. Như
vậy sẽ làm cho trẻ tiếp thu kiến thức một cách thụ động.
Dựa vào đặc điểm tình hình lớp, đặc điểm tâm lý, nhận thức của trẻ kinh
với trẻ dân tộc thiểu số tôi đưa ra bảng khảo sát đánh giá so sánh giữa trẻ kinh
với trẻ dân tộc kết quả như sau.
9
Đối với trẻ dân tộc Kinh: 18 trẻ
Nội dung
Xếp loại
Tốt
Khá
Đạt
- Nghe hiểu nội dung tác phẩm 6/18=33,3%
văn học.
8/18=44,5%
4/18=22,2%
- Nghe và làm theo từ 3 lời chỉ 6/18=33,3%
dẫn liên tiếp trở lên.
7/18=38,9%
5/18=27,8%
- Mạch lạc, rõ ràng, nói đủ 4/18=22,2%
câu, khơng nói lắp, nói ngọng.
9/18=50%
5/18=27,8%
- Tự tin khi giao tiếp, biết kể 4/18=22,2%
lại trình tự sự việc một cách
mạch lạc.
9/18=50%
5/18=27,8%
- Biết kể chuyện theo tranh, 3/18=16,6%
đọc sách qua hình vẽ
5/18=27,8%
10/18=55,6%
Đối với trẻ dân tộc thiểu số: 19 trẻ
Nội dung
Xếp loại
Tốt
Khá
Đạt
- Nghe hiểu nội dung tác 2/19=10,5%
phẩm văn học.
4/19=21%
- Nghe và làm theo từ 3 lời 2/19=10,5%
chỉ dẫn liên tiếp trở lên.
7/19=36,8% 10/19=52,6%
- Mạch lạc, rõ ràng, nói đủ 3/19=15,8%
câu, khơng nói lắp, nói ngọng.
7/19=36,8% 9/19=47,4%
- Tự tin khi giao tiếp, biết kể 3/19=15,8%
lại trình tự sự việc một cách
mạch lạc.
7/19=36,8% 9/19=47,4%
- Biết kể chuyện theo tranh, 2/19=10,5%
đọc sách qua hình vẽ
7/19=36,8% 10/19=52,6%
13/19=68,5%
Sau khi khảo sát tôi thấy tỷ lệ trẻ Kinh tỷ lệ “tốt”, “khá” ở mức độ cao
hơn đối với trẻ dân tộc thiểu số.
Từ những kết quả trên tôi nhận thấy rằng nâng cao chất lượng phát triển
ngôn ngữ cho trẻ Mẫu giáo dân tộc thiểu số qua việc làm quen với tác phẩm văn
học là rất cần thiết. Nên tôi đã nghiên cứu, và đưa ra một số biện pháp phát triển
ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số qua việc làm quen với tác phẩm văn
học. Tôi xin mạnh dạn đưa ra để các quý đồng nghiệp cùng tham khảo.
10
2.3. Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ Mẫu giáo dân tộc thiểu số
qua làm quen với tác phẩm văn học.
2.3.1. Biện pháp 1: Bồi dưỡng chuyên mơn, nâng cao trình độ nhận thức cho
bản thân.
Giúp cho bản thân có kiến thức, kỹ năng, tổ chức hoạt động giáo dục phát
triển ngôn ngữ cho trẻ, nhất là bồi dưỡng lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ
dân tộc thiểu số.
Tìm hiểu đặc điểm tâm - sinh lý của trẻ dân tộc thiểu số theo lứa tuổi. Học
tập ngôn ngữ của dân tộc thiểu số (Cao Lan) để hiểu được nhu cầu, mong muốn
của trẻ khi trẻ chưa biết thể hiện qua ngôn ngữ Tiếng Việt nhằm giúp đỡ trẻ.
Nắm chắc mục tiêu, nội dung, kết quả mong đợi trong chương trình giáo
dục Mẫu giáo nói chung và mục tiêu, nội dung, kết quả mong đợi của từng độ
tuổi nói riêng, trong lĩnh vực phát triển ngơn ngữ cho trẻ mẫu giáo lớn dân tộc
thiểu số.
Căn cứ mục tiêu, nội dung, kết quả mong đợi của từng độ tuổi trong lĩnh
vực phát triển ngôn ngữ và cho trẻ dân tộc thiểu số tôi chủ động xây dựng kế
hoạch hoạt động, hình thức thức tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ cho
trẻ, lựa chọn phương pháp giáo dục lấy trẻ làm trung tâm sao cho phù hợp hiệu
quả, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ. Tổ chức tốt môi
trường vật chất và môi trường xã hội, tạo cơ hội cho trẻ được thực hành trải
nghiệm, ứng dụng vào đời sống thực tiễn của trẻ. Ngồi ra tơi cịn thường xun
theo dõi sự phát triển của trẻ dân tộc thiểu số qua phiếu theo dõi sau mỗi chủ đề
kết thúc, từ đó để điều chỉnh kế hoạch giáo dục cho phù hơp với từng đối tượng
trẻ.
Thường xuyên nghiên cứu tài liệu về giáo dục Mần non, chương trình giáo
dục Mần non nhất là sách hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục các độ
tuổi, bồi dưỡng thường xuyên, đặc biệt là tài liệu hướng dẫn giáo viên chuẩn bị
tiếng việt cho trẻ mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số, để hiểu được mục đích, u
cầu của chương trình.
Hàng tháng lên kế hoạch tự học, tự bồi dưỡng về những mặt còn hạn chế
của bản thân như: Thiết kế một hoạt động phát triển ngơn ngữ. Tơi ln phải đọc
kỹ tác phẩm, phân tích kỹ nội dung của tác phẩm, đưa ra bài học gì qua tác
phẩm, qua tác phẩm giáo dục trẻ những nội dung gì, từ đó tơi đưa ra mục tiêu
của hoạt động. Tơi tìm và chọn những phương tiện hỗ trợ cho việc đưa tác phẩm
đến với trẻ một cách dễ hiểu và hứng thú nhất sau đó tơi tiến hành làm đồ dùng,
đồ chơi phục vụ cho hoạt động. Từ mục đích, u cầu, chuẩn bị như trên tơi
chọn những phương pháp hỗ trợ để tiến hành một hoạt động nhẹ nhàng mà gây
được hứng thú cho trẻ bằng các phương tiện hỗ trợ như máy vi tính, trị chơi,
trao đổi, giao lưu tình cảm, cảm xúc với trẻ, gần gũi hơn với những trẻ dân tộc
thiểu số để trẻ tin tưởng và yên tâm vào cô ...Trẻ được lĩnh hội kiến thức với tâm
trạng vui vẻ phấn khởi như vừa trải qua một cuộc vui chơi đầy hấp dẫn.
11
Cần sử dụng ngôn từ gãy gọn, không dùng tiếng địa phương khi truyền
thụ cho trẻ, để không mắc phải những lỗi trên, tôi đã khắc phục bằng cách nhờ
giáo viên chung lớp quay video lại tiết dạy của mình, tơi dùng dây dẫn kết nối
với máy vi tính sau đó xem lai tồn bộ hoạt động của mình. Những từ ngữ chưa
mềm mại, chưa thuyết phục, chưa truyền cảm tôi tự luyện tập ở mọi lúc mọi nơi
và đã sửa được một số lỗi như dùng từ địa phương, nói chưa truyền cảm đã được
đồng nghiệp đánh giá cao.
Khi đã hiểu biết đặc điểm tâm – sinh lý của trẻ dân tộc thiểu số kết hợp
với kiến thức, trình độ chuyên môn, nắm chắc các phương pháp, linh hoạt trong
khi tổ chức đã giúp trẻ dân tộc thiểu số hứng thú hơn và thích được trình bày
mong muốn của mình với tơi và các bạn trong lớp như: Thích được tự mình kể
chuyện, đọc thơ, liên hệ kể về hoàn cảnh sống hàng ngày của trẻ khi ở nhà.
2.3.2. Biện pháp 2: Linh hoạt, sáng tạo trong hoạt động có chủ đích.
Hoạt động có chủ đích là hình thức cơ bản và chủ yếu, tôi là người trực
tiếp hướng dẫn, gợi mở giúp trẻ thu nhận kiến thức, kỹ năng, thái độ một cách có
hệ thống lơgíc khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học.
Để hoạt động có chủ đích đi vào tâm hồn trẻ một cách sống động, khơng
khơ khan, cứng nhắc thì tơi thực sự phải có một tài nghệ dẫn dắt. Hoạt động học
làm quen với tác phẩm văn học đưa trẻ đến thế giới cổ tích, cuộc sống xung
quanh (thơ, truyện, đồng dao) đến với trẻ bằng nhiều phương pháp, hình thức
khác nhau. Các phương pháp, hình thức đó gắn liền với nhau một cách chặt chẽ.
Mỗi phương pháp, hình thức đều có ưu thế và hạn chế nhất định. Vì vậy khi dạy
trẻ làm quen với tác phẩm văn học bản thân tơi lựa chọn các phương pháp, hình
thức phù hợp với yêu cầu của từng tiết dạy, để thu hút sự tập trung chú ý tạo
hứng thú của trẻ trong tiết học, giúp cho giờ học đạt hiệu quả cao.
Cụ thể: Tơi đưa trẻ vào trung tâm của q trình hoạt động. Phát huy tính
tích cực của trẻ. Dạy trẻ theo hướng lồng ghép tích hợp.
Tơi dùng câu hỏi gợi mở để dẫn dắt trẻ, cho trẻ được thực hành trải nghiệm:
đọc thơ, diễn kịch, trả lời câu hỏi của cô nhiều lần, cho trẻ được thảo luận nhóm,
thảo luận vai chơi, giao tiếp và trình bày những nhận xét của bản thân mình về
các nhân vật, tác phẩm văn học.
Ví dụ: Khi cho trẻ tự kể chuyện và hướng dẫn trẻ tập kể chuyện, tôi đã cho trẻ
kể chuyện bằng nhiều cách khác nhau như: Tôi kể một đoạn rồi cho trẻ kể tiếp
cho đến khi kết thúc câu chuyện; tôi cho trẻ kể chuyện theo tranh về một câu
chuyện dựa trên yếu tố trực quan; kể chuyện sáng tạo dựa trên ý tưởng, vốn kinh
nghiệm, sự tưởng tượng sáng tạo của cá nhân trẻ. Tôi thực hiện theo các bước
sau:
Trò chuyện với trẻ để giúp trẻ chọn ý tưởng và nội dung câu chuyện.
Đàm thoại với trẻ nhằm khơi gợi các hình ảnh liên quan đến nội dung câu
chuyện.
12
Cho trẻ tập kể chuyện: Tôi gọi từng trẻ lên kể vì mỗi trẻ có một cách kể chuyện
riêng và đặt tên cho câu chuyện của mình.
Tơi kể sáng tạo nhưng không áp đặt cách kể của cô theo khuôn mẫu đối với trẻ.
Tơi khen ngợi, động viên, khuyến khích tất cả các trẻ tham gia vào hoạt động
kể chuyện.
Từ đó trẻ đưa ra bài học kinh nghiệm cho bản thân, diễn đạt nhu cầu mong
muốn của mình với bạn và cô giáo. Tôi thường xuyên quan tâm trao đổi, trò
chuyện nhiều hơn với trẻ dân tộc thiểu số liên hệ từ tác phẩm văn học với cuộc
sống hàng ngày của trẻ, động viên, khuyến khích trẻ bằng lời nói, ánh mắt, cử
chỉ, điệu bộ nhẹ nhàng, thân thương mà gần gũi.
Một yêu cầu đặt ra đối với tôi khi cho trẻ dân tộc thiểu số "Làm quen với
tác phẩm văn học" là các kiến thức khi truyền thụ đến trẻ phải hết sức ngắn gọn,
tuyệt đối tránh hình thức, dập khuôn, luôn sáng tạo đổi mới câu từ phù hợp vì
thế trước khi thực hiện một tiết dạy "Làm quen với tác phẩm văn học " tôi phải
chuẩn bị đồ dùng, soạn bài và nghiên cứu kỹ bài soạn. Nắm rõ yêu cầu của bài
dạy chọn trò chơi phù hợp với nguyên tắc với chủ đề. Chuẩn bị tâm thế bằng
cách tôi luyện đọc, kể tác phẩm văn học nhiều lần để câu từ ln chính xác, rõ
ràng, giúp trẻ dễ hiểu, nhập tâm vào tác phẩm để truyền tình cảm của mình tới
tất cả các học sinh trong lớp, đặt ra những tình huống sư phạm và nghiên cứu tìm
ra biện pháp giải quyết hữu hiệu nhất để trẻ vừa giải quyết được thắc mắc của
bản thân mà khơng cảm thấy khó chịu, ghi nhớ kiến thức.
Ví dụ: Với tiết dạy kể chuyện sáng tạo. Tôi lựa chọn nội dung tác phẩm
cho phù hợp, chuẩn bị đồ dùng khi trẻ tham gia kể sáng tạo: mũ, trang phục... để
trẻ được nhập vai mình vào các nhân vật trong truyện kể lại bằng ngôn ngữ,
hành động cho cô và các bạn cùng nghe.
Với tiết thơ: Tôi chuẩn bị bài thơ với tranh, hình ảnh động sáng tạo cho trẻ làm
quen. Đầu tiên tôi đọc thơ diễn cảm cho trẻ nghe nhiều lần, cho trẻ đọc đi đọc lại
nhiều lần theo tổ, nhóm, cá nhân dưới nhiều hình thức: Ln phiên theo tổ, to,
nhỏ, nối tiếp... Trong quá trình trẻ đọc tôi chú ý lắng nghe, quan sát, khen ngợi,
động viên trẻ. Chú ý đến trẻ dân tộc thiểu số: quan tâm trẻ, trao đổi, cho trẻ đọc
đi đọc lại nhiều lần trước lớp, sửa sai cho trẻ.
Bài ca dao, đồng dao: Tôi chọn những bài phù hợp với cuộc sống sinh hoạt
hàng ngày, gần gũi với trẻ như “Xỉa cá mè” sau khi tôi cùng trẻ đọc nhiều lần
khi trẻ đã thuộc, tơi chỉ dùng ngun hình ảnh rồi cho trẻ đọc theo trình tự hình
ảnh đó hoặc cho trẻ vừa đọc vừa gắn hình ảnh tương ứng và trình bày cảm xúc,
thái độ của mình với tác phẩm văn học ấy.
Lấy hình ảnh sinh động từ mạng, sách báo làm đồ dùng dạy học cho trẻ để
tăng tính hứng thú cho trẻ. Qua đó cũng phát huy được tính tái tạo và sáng tạo
của trẻ khi cho trẻ kể chuyện sáng tạo. Để tạo hứng thú cho trẻ đạt hiệu quả cao
tôi rèn luyện nghệ thuật lên lớp mọi lúc mọi nơi để ngôn ngữ diễn đạt ngắn gọn,
mềm mại, chính xác để hấp dẫn trẻ vào tiết học. Trước khi vào bài tôi thường kể
13
chuyện (dựa trên chủ đề) hoặc sáng tác thơ, vè hay những trò chơi nhằm cuốn
hút trẻ vào thực tế để trẻ dễ nhớ, dễ hiểu tránh gị bó.
Qua những tiết hoạt động có chủ đích như vậy: Trẻ dân tộc thiểu số rất
hứng thú, sôi nổi tham gia trả lời câu hỏi của tôi đưa ra, đồng thời trẻ đã biết sử
dụng câu hỏi của mình để giải quyết những thắc mắc của bản thân, thích được
thể hiện tình cảm, cảm xúc của mình với tác phẩm văn học: “con thích nhân vật
Cơ Út vì cơ Út có hiếu với mẹ”... Trẻ đã biết kết hợp thảo luận, trao đổi với các
bạn trong nhóm của mình: “mình thích hoặc khơng thích nhân vật này vì nhân
vật này có hiếu hay nhân vật này không yêu thương mẹ...”
2.3.3. Biện pháp 3: Khảo sát kỹ năng quan sát, nghe, nói, đọc của trẻ.
Khảo sát kỹ năng quan sát, nghe, nói, đọc, để có kế hoạch bổ xung, rèn
luyện cho trẻ thường xuyên trong ngày, trong các hoạt động để trẻ được quan
sát, nghe, nói, đọc một cách đầy đủ. Từ kết quả khảo sát đó tơi có kế hoạch xây
dựng hệ thống kiến thức, câu hỏi sắp xếp thời gian bồi dưỡng cho những trẻ
chưa đạt yêu cầu.
Sau mỗi chủ đề kết thúc, tôi tổ chức khảo sát, đánh giá trẻ theo các bài tập
với các kỹ năng quan sát, nghe, nói đọc
Kỹ năng nghe và quan sát: Thì khi đàm thoại, giao tiếp với trẻ tơi dùng
những lời nói nhẹ nhàng, sinh động, gần gũi với cuộc sống hàng ngày của trẻ
giúp trẻ dễ hiểu và hình dung ra vấn đề và có câu trả lời sẽ nhanh và chính xác
hơn. Thường xuyên giao tiếp, trao đổi gần gũi với trẻ về cuộc sống hàng ngày
đồng thời cung cấp thêm vốn từ cho trẻ. Đặt nhiều câu hỏi đặc biệt là những câu
hỏi gợi mở như: Ví dụ: Trong câu chuyện “Tích Chu”, tơi đưa ra lời gọi của bà
khi bà bị ốm “Tích Chu ơi lấy cho bà ngụm nước, bà khát quá” hỏi trẻ: Tiếng gọi
này của ai? Trong câu chuyện gì? vì sao con biết? và cho trẻ tập diễn đạt lại
giọng điệu, lời nói của bà. Những câu hỏi về so sánh như “hai bức tranh này/ hai
nhân vật này giống và khác nhau ở chỗ nào?” và giành thời gian khuyến khích
để trẻ hứng thú tham gia trả lời. Khuyến khích trẻ đặt câu hỏi, trân trọng câu hỏi
và câu trả lời của trẻ.
Giao bài tập cho trẻ bằng cách cho trẻ nghe một câu truyện, bài thơ trên đĩa
máy vi tính (chỉ có lời, khơng có hình hoặc chỉ có hình mà khơng có lời) rồi đưa
ra câu hỏi về tác phẩm văn học đó như: Cơ con mình vừa được xem phim gì?
Phim đó có những nhân vật nào? Trong câu chuyện gì? Rồi tiến hành cho trẻ kể/
đọc tác phẩm văn học đó.
Ví dụ: Tơi cho trẻ xem hình ảnh Chị Tấm đang cho bống ăn thì trẻ sẽ liên tưởng
đến câu chuyện “Tấm Cám” và kể lại câu chuyện đó.
Hoặc tơi trích dẫn một đoạn lời kể trong truyện “Tấm Cám” như “bống bống
bang bang lên ăn cơm vàng, cơm bạc nhà ta...” trẻ sẽ nhớ lại nội dung câu
chuyện đó và cho trẻ cùng kể lại truyện.
Sau khi khảo sát như vậy tơi thấy trong lớp vẫn cịn những trẻ chỉ được ở mức
“đạt” tơi lại tiến hành bố trí thời gian, không gian và xây dựng kế hoạch, kiến
14
thức bồi dưỡng thêm cho trẻ như vào các buổi chiều, giờ đón - trả trẻ để củng cố
thêm kiến thức và vốn từ cho trẻ.
Tơi cịn dùng những hình ảnh sinh động để cuốn hút sự chú ý để kiểm tra
trẻ: Những hình ảnh về chủ đề, về tác phẩm văn học mà trẻ đã làm quen trên
máy tính, tranh ảnh qua đó đàm thoại với trẻ để trẻ được khám phá và phát triển
thêm vốn từ ngữ. Tôi thường xuyên làm những động tác vui, buồn... thể hiện
bằng nét mặt, cử chỉ rồi cho trẻ nhận xét, đoán xem đó là thể hiện tình cảm như
thế nào và cho trẻ bắt chước làm lại có thể kèm theo một số lời nhận xét, tả lại
quá trình mà con làm như thế nào. Cho trẻ quan sát hình ảnh có tính hệ thống: từ
gần đến xa và cho trẻ nhận xét về hình ảnh đó: hình ảnh ở gần - to hơn, hình ảnh
ở xa - nhỏ hơn.
Gây sự chú ý của trẻ bằng các hình ảnh sinh động, hấp dẫn trên máy vi
tính, tranh ảnh, sách, báo, lơ tơ, đặc biệt là những hình ảnh động để trẻ tập trung
chú ý quan sát. Cho trẻ nghe, xem tranh ảnh, xem nhiều phim (tác phẩm văn học
dưới hình thức phim) từ đó trẻ quan sát được các cử chỉ điệu bộ khác nhau theo
từng tình huống qua đó đàm thoại với trẻ để trẻ vừa phát triển ngôn ngữ: trẻ học
câu, từ rất nhanh lại tăng nghe hiểu và khả năng tư duy sáng tạo.
Tôi thường cho trẻ đọc các bài thơ dưới nhiều hình thức: đọc đồng dao,
đọc to- nhỏ, đọc ln phiên theo tổ từ đó trẻ nghe được các âm thanh, ngữ điệu,
giọng nói khác nhau và độ to, nhỏ, nhanh, chậm của giọng nói, giọng đọc.Tôi
thường xuyên mở rộng và liên hệ với thực tế cuộc sống hàng ngày gần gũi với
trẻ để trẻ tăng khả năng giao tiếp với cuộc sống xã hội.
Tôi thường sưu tầm những bộ phim, hình ảnh, làm giáo án điện tử trên
máy tính cho trẻ xem, trẻ khám phá kích thích sự tị mị ham hiểu biết của trẻ.
Kỹ năng nói - đọc: Giúp trẻ nói - đọc mạch lạc, rõ ràng, trịn vành, rõ chữ,
nói đủ câu, khơng nói lắp, nói ngọng, dạy trẻ hiểu mối quan hệ giữa lời nói và
chữ viết bằng nhiều cách khác nhau: Tôi chú ý quan sát, lắng nghe khi trẻ thể
hiện tác phẩm, nhận ra điểm sai và sửa cho trẻ bằng cách cho trẻ đọc đi đọc lại
nhiều lần. Ví dụ như trong lớp có cháu Quốc Cường nói ngọng âm n thành âm l.
Khi đó tơi thường cho cháu đọc những bài thơ có nhiều âm n và mỗi lần cháu
đọc sai, tôi lại đọc lại hoặc cho bạn khác khơng bị ngọng đọc lại câu đó, hỏi
cháu cơ và bạn đọc khác con ở chỗ nào, câu nào và cho cháu đọc lại câu đó, cứ
nhiều lần như vậy cháu sẽ khắc phục được và khơng bị nói ngọng nữa.
Bổ sung vốn từ ngữ cho trẻ, tạo cho trẻ có thói quen nói đầy đủ câu, rõ ý
Ví dụ: Khi học xong tác phẩm “ ba cô gái” cô hỏi trẻ: “Qua câu truyện con yêu
quý và học tập ai” thì trẻ sẽ trả lời “ cơ Út” như vậy vẫn chưa đủ câu, để giúp trẻ
tôi lại hỏi ngược lại lần nữa: “ ai yêu quý và học tập cơ Út nhỉ” lúc này trẻ sẽ có
câu trả lời đầy đủ và rõ ràng đó là: “con yêu quý và học tập cô Út ạ”. Cô thường
xuyên trao đổi, gần gũi chia sẻ với trẻ về cuộc sống hàng ngày của trẻ, tạo điều
kiện để trẻ chia sẻ với bạn bày tỏ thái độ tình cảm của mình với các nhân vật
15
Tôi đặt ra các câu hỏi nguyên nhân - kết quả: Tại sao? Để làm gì? Như
thế nào? Vì sao con biết? Và những câu hỏi so sánh như: tại sao? Có điểm gì
giống và khác nhau? Để trẻ tư duy lơgic và và có câu trả lời chính xác hơn, rõ
ràng hơn.
Khuyến khích trẻ tham gia biểu diễn hay đóng kịch thể hiện tình cảm của
mình với nhiên nhiên, con người, cuộc sống. Từ đó trẻ biết bày tỏ tình cảm, nhu
cầu và kinh nghiệm của bản thân rõ ràng dễ hiểu bằng những câu đơn, câu ghép
khác nhau. Trẻ biết trả lời những câu hỏi về nguyên nhân, so sánh: Tại vì, có
điểm giống và khác nhau ở chỗ, ở điểm... Và cũng biết đặt các câu hỏi: Tại sao?
Như thế nào? Để làm gì?... Biết sử dụng các từ biểu cảm, có hình ảnh. Tự tin khi
giao tiếp. Nói và thể hiện cử chỉ, điệu bộ, nét mặt phù hợp với u cầu, hồn
cảnh giao tiếp.
Tơi sưu tầm hay xây dựng những tác phẩm văn học như: Một tác phẩm chỉ
có hình ảnh mà khơng có lời để cho trẻ kể lại theo diễn biến trình tự tương ứng
với những hình ảnh trong tranh, hoặc có cả hình ảnh cả lời kể của cơ nhưng thiếu
mất một đoạn nào đó của tác phẩm để cho trẻ kể lại đoạn cịn thiếu đó... Cho trẻ
tự đọc thơ, truyện, ca dao, đồng dao, câu đố…kể lại sự việc một cách rõ ràng,
mạch lạc, dễ hiểu, diễn cảm, kể chuyện sáng tạo theo đồ vật, theo tranh, theo chủ
đề và kinh nghiệm của bản thân. Tôi là người dẫn truyện rồi cho trẻ đọc kể lại
theo trình tự của tác phẩm văn học từ đầu đến cuối, từ trên xuống dưới. Biết cách
ngắt giọng, ngừng nghỉ đúng chỗ, đúng lúc, biết cách đọc từ trái sang phải, khi
đọc ngồi ngay ngắn hướng tâm thế vào tác phẩm văn học. Động viên khen ngợi
và khuyến khích khi trẻ bày tỏ nhu cầu mong muốn của mình, kể lại sự việc có
trình tự. Tổ chức cho trẻ những buổi tập đóng kịch để giúp trẻ nhập tâm của
mình vào trong nhân vật của tác phẩm văn học, thể hiện qua lời nói, hành động,
để phân biệt được rõ cảm xúc. Việc rèn luyện những kỹ năng đó giúp trẻ khơng
những thuộc tên tác phẩm, tác giả khi làm quen với tác phẩm văn học mà trẻ còn
hiểu được nội dung và từ đó bộc lộ tình cảm, cảm xúc của bản thân khi cảm thụ
tác phẩm văn học thể hiện qua ngữ điệu lời nói, cử chỉ điệu bộ, và giáo dục trẻ,
trẻ rút ra bài học kinh nghiệm đồng thời phát triển tính tái tạo và sáng tạo thơng
qua giờ tạo hình: Cho trẻ vẽ nhân vật trong truyện, kể chuyện sáng tạo, đóng
kịch...
Nhờ có kỹ năng quan sát, nghe, nói - đọc trẻ sẽ biết thể hiện tối đa nhất về
tình cảm của mình cho tác phẩm văn học bộc lộ lên qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ,
lời nói. Đây cũng chính là những bước để tơi nắm bắt được đặc điểm tâm, sinh
lý của từng trẻ, trẻ dân tộc thiểu số trong lớp từ đó tơi đưa ra những biện pháp
chăm sóc giáo dục trẻ và chủ động điều chỉnh linh hoạt, sáng tạo, phù hợp.
2.3.4. Biện pháp 4: Tạo môi trường ngôn ngữ phong phú, đa dạng.
Môi trường giáo dục trong lớp có tác dụng tốt đến q trình chăm sóc giáo
dục trẻ, có tác động mạnh mẽ và trực tiếp tới tâm, sinh lý của trẻ. Để trẻ được
làm quen với tác phẩm văn học ở mọi lúc mọi nơi, tôi luôn tạo môi trường trong
và ngoài lớp thân thiện nhất, đẹp và sinh động để cuốn hút trẻ.
16
Ở lớp trang trí các góc bằng chính sản phẩm của cô và của trẻ phù hợp
với chủ đề. Đặc biệt là ở góc phân vai tạo những hình ảnh đẹp tượng trưng cho
trẻ nhập vai mình vào các nhân vật trong tác phẩm để trẻ được thể hiện mình qua
sự tái tạo các hình ảnh nhân vật và phát triển được tính sáng tạo. Ví dụ : Cắt, xé,
dán, vẽ, nặn những nhân vật chính trong tác phẩm văn học trang trí vào các góc
trong lớp đặc biệt là góc phân vai và cho trẻ kể lại câu truyện qua những hình
ảnh mà trẻ vừa làm được.
Tạo tình huống, môi trường ngôn ngữ trong lớp gần gũi với trẻ .Tơi ln
khuyến khích những bạn người Kinh tham gia trao đổi giao tiếp với bạn dân tộc
thiểu số. Khi cho trẻ chơi theo nhóm thì tơi cho xen kẽ, kết hợp 1 hoặc 2 bạn
người Kinh với 1 bạn người dân tộc thiểu số để trong khi trẻ hoạt động được tiếp
xúc nhiều với Tiếng Việt, tạo cơ hội để trẻ được giao tiếp, thảo luận, bày tỏ ý
kiến nhiều nhất.
Trang trí khu vườn cổ tích bằng những hình ảnh nhân vật trong truyện cổ
tích như hình ảnh truyện “Tấm Cám”, “Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn”,
“Nàng tiên cá”, “Sự tích hoa hồng”.... phù hợp với từng chủ đề để trang trí khi
cho trẻ khám phá trẻ sẽ hứng thú tham gia hoạt động đóng vai các nhân vật để kể
lại truyện.
Tạo môi trường giao tiếp bằng ngôn ngữ cho trẻ: Tơi thường xun giao
tiếp, trao đổi, trị chuyện với trẻ chú ý đến trẻ dân tộc thiểu số thông qua các hoạt
động ở mọi lúc, mọi nơi về những chủ đề gần gũi với cuộc sống.
Ví dụ: Tơi thường xuyên trò chuyện với trẻ vào các thời điểm đón trẻ, giờ chơi,
giờ sinh hoạt, lúc rảnh rỗi nhằm tìm hiểu nhu cầu, hứng thú, tâm trạng, tình cảm
của trẻ về bản thân, sự vật hiện tượng xung quanh như thời tiết hôm nay như thế
nào? Con cảm thấy mình như thế nào? Những đồ vật này có cơng dụng gì? Cái
này có thể dùng vào những việc gì?
Động viên khuyến khích trẻ tham gia trị chuyện với cơ và bạn, tổ chức trị
chơi ngơn ngữ cho trẻ, trị chơi kết hợp vận động với lời ca, lời đồng dao đưa trẻ
vào hoạt động bằng cách bắt chước vần điệu và nhịp điệu ngôn ngữ. Thường
xuyên tập cho trẻ nghe và phân biệt âm thanh từ các giọng khác nhau: Giọng của
cô, của từng bạn, âm thanh của của các đồ vật khác nhau. Tổ chức các hoạt động
có sử dụng văn hóa địa phương: Nghe, kể chuyện dân gian, hò, vè... của dân tộc
bằng Tiếng Việt.
Chụp lại những khoảnh khắc của cô và trẻ trong khi chơi, dạo chơi hay
đóng kịch kể lại truyện, khi trẻ được thực hành trải nghiệm, làm hình ảnh trang
trí dán vào tường trong lớp học để khi trẻ được tham gia trẻ nhận thấy sự tự tin,
hào hứng, phấn khởi, gần gũi, thân quen. Trên các mảng tường, tại các góc lớp
tơi trang trí nhiều hình ảnh đẹp, sinh động phù hợp với từng chủ đề và mỗi hình
ảnh đó đều được gắn tên gọi để trẻ được làm quen, khám phá: phát âm, tìm chữ,
gắn thẻ chữ…
17
Từ những hình ảnh tơi trang trí trong và ngồi lớp khi trẻ nhìn vào trẻ nói
được bằng ngơn ngữ Tiếng Việt đó là ai trong tác phẩm nào, và kể lại được tác
phẩm ấy bằng ngôn ngữ Tiếng Việt, đồng thời trẻ đã biết thể hiện cảm xúc, tình
cảm của mình với các nhân vật ấy bằng cách tâm sự với tơi và các bạn.
2.3.5. Biện pháp 5: Tích hợp qua các hoạt động khác.
Theo yêu cầu đổi mới giáo dục mầm non hiện nay, việc tổ chức cho trẻ
dân tộc làm quen với tác phẩm văn học cần phải đặt trong mối liên hệ với các
hoạt động khác cùng chủ đề, phải tổ chức theo tính tích hợp, nhằm kích thích
tính tích cực và huy động được nhiều kinh nghiệm sống của trẻ.
Để thực hiện được yêu cầu này, tôi dựa trên khả năng, đặc điểm tâm - sinh
lý của trẻ dân tộc thiểu số, khả năng của chính mình và những điều kiện cụ thể
của trường, lớp, địa phương để lựa chọn hướng tích hợp mang lại hiệu quả nhất.
Tích hợp mơn âm nhạc : Tơi thường chọn những bài thơ, câu chuyện ngắn
phù hợp với nội dung bài hát. Cho trẻ đọc thơ, kể cho trẻ nghe những mẩu
chuyện ngắn trong phần tạo hứng thú và cũng có thể ở phần kết thúc nếu phù
hợp.Ví dụ như khi cho trẻ hát theo nhạc bài hát “Màu hoa” cho trẻ làm quen với
tác phẩm thơ “Bó hoa tặng cơ”.
Tích hợp mơn tìm hiểu mơi trường xung quanh: Môi trường xung quanh
trẻ rất đa dạng và phong phú, ví dụ khi cho trẻ “tìm hiểu về một số con vật ni
trong gia đình” tơi sử dụng những câu đố về con vật đó cho trẻ đốn qua đó trẻ
cũng được phát triển vốn từ của mình...
Tích hợp mơn làm quen với toán: Trong khi cho trẻ làm quen với tốn tơi
sử dụng các nhân vật trong tác phẩm, gắn số thẻ tương ứng. Hoặc trong câu
truyện đó. Đặt ra các câu hỏi khác nhau như: Trong truyện có mấy nhân vật, có
mấy người con, có mấy anh em? Như vậy trẻ sẽ phải nhẩm và đếm số người
trong tác phẩm đó và trả lời.
Tích hợp bộ mơn tạo hình: Sau khi trẻ đã hoạt động nhiều thì mơn tạo
hình rất phù hợp với trạng thái tĩnh. Tơi cho trẻ tơ màu các nhân vật đó theo u
cầu của cô hoặc trẻ được cắt ra dán, xé dán các làm bộ sưu tập người tốt, người
xấu. Tôi dùng câu hỏi gợi mở yêu cầu trẻ nhẹ nhàng hình dung tưởng tượng và
vẽ, phác họa chân dung về các nhân vật trong tác phẩm.
Với mong muốn nhằm nâng cao chất lượng cho trẻ dân tộc phát triển ngôn
ngữ qua việc làm quen với tác phẩm văn học, tôi cần phải cố gắng tranh thủ tận
dụng triệt để và hiệu quả các hoạt động trong ngày để trẻ làm quen một cách hợp
lý và khoa học nhất.
Giờ đón - trả trẻ: Có thể cho trẻ đọc đồng dao, trị chuyện, đàm thoại bằng
những câu hỏi gần gũi, đơn giản với trẻ. Khuyến khích trẻ kể lại sự việc ngày
hơm qua, khi về nhà có những vui, buồn như thế nào cho cô và các bạn cùng
nghe.
18
Hoạt động chung có mục đích ( học ): Ngồi tiết dạy cho trẻ làm quen với
tác phẩm văn học với tất cả các mơn học khác nếu có thể đều lồng ghép thêm tác
phẩm văn học vào sao cho phù hợp với bài dạy.
Hoạt động góc : Tơi cùng trẻ làm ra các sản phẩm về chủ đề rồi gắn những
hình ảnh sinh động của tác phẩm văn học về chủ đề, chủ điểm đó để cho trẻ quan
sát, khám phá, tìm tịi và hứng thú để thể hiện, biểu diễn tác phẩm đúng theo
trình tự hình ảnh. Đặc biệt là ở góc phân vai cơ gắn những hình ảnh sáng tạo về
các nhân vật trong tác phẩm nào đó rồi cho trẻ quan sát phát hiện và tìm ra đó là
nhân vật nào trong tác phẩm gì rồi dùng lời nói hành động cử chỉ kể lại tác phẩm
đó hoặc kể lại những lời nói cử chỉ của nhân vật đó tơi có thể là người dẫn
truyện để hướng dẫn, giúp đỡ, động viên trẻ thực hiện.
Ví dụ : Góc phân vai tơi cho trẻ đóng kịch một tác phẩm văn học ví dụ
như tuyện “Tích Chu” chủ đề gia đình.Tơi hướng dẫn trẻ biết thỏa thuận chơi,
nhận vai chơi thảo luận nhóm, đồn kết giúp đỡ bạn, liên kết, giao tiếp, thảo luận
trong nhóm chơi, góc chơi và giữa các góc với nhau.
Ví dụ: Góc xây dựng tôi tổ chức cho trẻ lắp ghép, xây dựng suối Tiên,
đường đến suối Tiên, ngôi nhà, khu vườn của bà và Tích Chu.
Ví dụ: Góc thư viện - học tập, cho trẻ xem tranh ảnh về câu truyện, hình
ảnh các nhân vật trong truyện “Tích Chu”, lơ tơ về gia đình: ơng bà, các cháu...
Làm bộ sưu tập về gia đình.
Ví dụ: Góc nghệ thuật, tổ chức hướng dẫn cho trẻ nặn, vẽ, cắt - xé - dán,
tô màu các nhân vật trong tác phẩm: Tích Chu, bà, cơ Tiên. Múa hát những bài
hát về chủ đề, ca ngợi về bà: “cháu u bà”, “cả nhà thương nhau”...
Ví dụ: Góc thiên nhiên, tơi cùng trẻ tạo hình ảnh bà, Tích Chu bằng cách
xếp hình từ cây, que, lá khơ, sỏi. Vẽ hình ảnh, chân dung bà, Tích Chu, Cơ Tiên
trên cát. Khi thực hiện xong tôi cho trẻ kể lại truyện theo trình tự diễn biến, miêu
tả các nhân vật bằng ngơn ngữ.
Hoạt động ngồi trời, tơi cho trẻ quan sát và kể lại hoặc đọc các tác phẩm
văn học thông qua hoạt động quan sát, đàm thoại, nhận xétMuốn trẻ học được
bài hiệu quả nhanh và nhớ lâu, nếu trẻ được trực tiếp tham gia vào các hoạt động
đó. Tơi sưu tầm, sáng tác một số trị chơi khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn
học tăng hứng thú, cung cấp củng cố kiến thức, kỹ năng cho trẻ.
Trẻ Mầm non “ học bằng chơi, chơi mà học”. Muốn trẻ học được bài hiệu
quả nhanh và nhớ lâu, nếu trẻ được trực tiếp tham gia vào các hoạt động đó.
Giáo viên cần phải sưu tầm, sáng tác một số trò chơi khi cho trẻ làm quen với tác
phẩm văn học tăng hứng thú, cung cấp củng cố kiến thức kỹ năng cho trẻ.
Tơi đóng vai trị là người hướng dẫn trẻ, hoặc có thể cũng làm một trong
những vai chơi trong nhóm để chơi cùng trẻ.
Ví dụ Trị chơi: “đóng kịch” Cách chơi: Trẻ giả làm các nhân vật trong tác
phẩm văn học rồi kể lại truyện thể hiện bằng cử chỉ, nét mặt điệu bộ… theo đúng
trình tự của từng nhân vật.
19
Trị chơi “ghép tranh” (Tơi chuẩn bị sẵn các miếng ghép thể hiện trình tự
tác phẩm văn hoc). Cách chơi: Trẻ xếp miếng ghép theo trình tự diễn biến của
tác phẩm văn học. Luật chơi: Sau thời gian là 1 bản nhạc, nếu đội nào xếp nhanh
và đúng sẽ là đội chiến thắng. Nếu đội nào ghép sai miếng ghép tức là sai trình
tự diễn biến của tác phẩm sẽ khơng được tính điểm.
Trị chơi: “bé tập làm phim”. Cách chơi: Lần lượt trẻ lên sắp xếp theo
trình tự diễn biến tác phẩm ở trên máy tính bằng cách chọn tấm hình nào thì sẽ
kích chuột vào hình đó nếu đúng trình tự thì tấm hình đó tự động di chuyển lên
trên và máy tính sẽ tự động báo khen, khuyến khích trẻ. Luật chơi: Nếu lựa chọn
tấm hình mà khơng đúng trình tự diễn biến của tác phẩm thì khi kích chuột vào
miếng hình đó sẽ khơng di chuyển và máy sẽ báo không được và sẽ phải nhường
lượt chơi cho bạn khác.
Trò chơi “kể chuyện theo tranh”. Cách chơi: Khi cô đưa tranh của đoạn
nào trong tác phẩm thì trẻ phải kể lại diễn biến của đoạn đó.Vì vậy bản thân tơi
ln chịu khó tìm tịi sưu tầm và sáng tạo sáng tác ra các trò chơi và biết vận
dụng hợp lý các trò chơi ấy vào các giờ học ở mọi lúc mọi nơi một cách phù hợp
sẽ kích thích trẻ ham tìm tịi, học hỏi, sáng tạo và trẻ sẽ hứng thú hơn khi đến lớp
và sẽ sôi nổi khi tham gia các hoạt động.
Đặc biệt hơn nữa là các trò chơi dân gian, với trò chơi dân gian có đặc
điểm thường là các trị chơi có lời: vè, đồng dao, hị… trẻ vừa chơi vừa đọc lời
trong trị chơi bằng Tiếng Việt. Qua đó vốn từ của trẻ ngày càng phát triển
phong phú hơn.
Ngoài ra cũng có thể cho trẻ vẽ hình trên cát, xếp hình bằng các cây, que,
lá cây rồi trẻ ghép kể lại thành trình tự một tác phẩm văn học hồn chỉnh.
Trong giờ ăn, tôi cho trẻ hoặc cùng trẻ giải thích món ăn, dinh dưỡng
trong món ăn, cho trẻ đọc thơ, vè, đồng dao về chủ đề… qua đó rèn kỹ năng
trong vệ sinh ăn uống cho trẻ. Tôi đọc câu đố về các loại món ăn cho trẻ lắng
nghe và tìm ra câu trả lời.
Giờ ngủ, trước khi trẻ ngủ tơi có thể kể chuyện, ngâm thơ cho trẻ nghe
hoặc hát những bài hát ru mang âm hưởng nhẹ nhàng dần đưa trẻ vào giấc ngủ.
Hoạt động chiều, cho trẻ múa hát những bài thơ được phổ nhạc sang thành
bài hát hoặc đồng dao hay tổ chức cho trẻ đóng kịch: Trẻ sẽ được trực tiếp nhập
vai và trở thành nhân vật trong tác phẩm văn học như vậy trẻ sẽ phát triển toàn
diện hơn.
Qua ngày lễ, ngày hội , thơng qua khơng khí của ngày lễ, ngày hội có thể
cho trẻ được trực tiếp thể hiện các tác phẩm văn học như: kể truyện, đọc thơ…
Hoặc cũng có thể kể lại khơng khí và trình tự của ngày hội, phát biểu cảm nhận
của mình đối với ngày hội đó.
Mọi hoạt động trong ngày của trẻ đều được lồng ghép các tác phẩm văn
học, mọi lúc mọi nơi trẻ dân tộc thiểu số đều được thể hiện bằng ngôn ngữ Tiếng
Việt sẽ giúp trẻ tạm thời quên đi tiếng mẹ đẻ từ đó vốn từ ngữ của trẻ càng được
20
mở rộng và phong phú hơn, trẻ dần hòa nhập mình vào ngơn ngữ Tiếng Việt. Trẻ
nói chính xác câu từ, vành trịn rõ chữ, khơng nói ngọng, đầy đủ câu và lễ phép
hơn trong khi giao tiếp.
2.3.6. Biện pháp 6: Giáo dục cá nhân trẻ dân tộc tạo niềm tin cho trẻ khi học
Tiếng Việt.
Việc giáo dục cá nhân có tác động tốt đến trẻ. Đặc biệt trong lĩnh vực cho
trẻ làm quen với tác phẩm văn học, giáo dục cá nhân sẽ giúp cô giáo củng cố bổ
sung kiến thức, kỹ năng phát âm và kỹ năng giao tiếp cho trẻ. Trong quá trình
cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học tơi ln tìm hiểu khả năng, đặc điểm tâm,
sinh lý của trẻ. Từ đó xây dựng các biện pháp giáo dục phù hợp.Trong lớp có 19
trẻ (chiếm 51,4%) trẻ dân tộc khả năng giao tiếp còn nhiều hạn chế do vốn từ
chưa phong phú, do trẻ ít được va chạm với mơi trường bên ngồi, trẻ chưa tự tin
vào bản thân, chưa mạnh dạn, và ít giơ tay phát biểu, tơi có khuyến khích thì
cũng chỉ nói nhỏ và khơng giơ tay. Tơi thường xun trao đổi, gần gũi, chia sẻ
và quan tâm đến trẻ cung cấp thêm vốn từ cho trẻ bằng những câu đơn giản, câu
ngắn có nội dung gần gũi, dễ hiểu gắn với kinh nghiệm sống của trẻ, hàng ngày
tôi lại tăng dần, mở rộng vốn từ cho trẻ. Đặc biệt tôi hay khen cháu trước lớp khi
trẻ làm được một việc tốt dù rất nhỏ, động viên, khuyến khích để giúp trẻ mạnh
dạn tham gia các hoạt động và học tập, mạnh dạn trình bày những nhu cầu,
mong muốn và ý kiến của mình khi cơ hỏi. Tơi thường xun nêu gương bạn tốt
cho trẻ noi theo. Bên cạnh đó động viên trẻ trả lời những câu hỏi dễ tăng dần
mức độ khó của câu hỏi lên để trẻ phát triển cả khả năng tư duy và ghi nhớ,
khuyến khích trẻ tham gia các hoạt động cùng các bạn và cô giáo. Tơi ln quan
tâm đến đời sống của trẻ, tìm hiểu bằng cách gần gũi nhiều hơn, trò chuyện về
cuộc sống để trẻ bộc lộ tình cảm của mình bằng ngơn ngữ tiếng việt, tin tưởng
vào tình cảm của tơi giành cho trẻ, giúp trẻ mạnh dạn hơn.
Ngồi ra cịn phối, kết hợp với gia đình thường xun trị chuyện, chơi
cùng trẻ, động viên trẻ tham gia nhiều hoạt động tập thể khác. Tranh thủ các cơ
hội trẻ thể hiện để phát hiện và cho trẻ nhập mình vào các tác phẩm văn học để
trẻ mạnh dạn, tự tin hơn khi thể hiện mình.Trẻ mạnh dạn và tự tin hơn khi giao
tiếp, chơi nhóm và tham gia các hoạt động làm quen với tác phẩm văn học và
cũng như các hoạt động khác. Đặc biệt và bất ngờ hơn là một số trẻ còn rất sáng
tạo trong khi thực hiện.
Trẻ hiếu động thường rất hay nghịch ngợm và đùa nghịch trong giờ học
không để ý, quan tâm đến cô giáo hoạt động, vì thế làm cho trẻ khơng nhớ được
tên tác phẩm, tên tác giả, tên các nhân vật trong tác phẩm và nội dung của tác
phẩm. Với những trẻ hiếu động như vậy tôi thường cho trẻ tham gia vào các hoạt
động tĩnh nhưng có giới hạn thời gian, trong giờ học chú ý đến trẻ hơn, hay gọi
trẻ phát biểu, dùng nhiều hình thức hấp dẫn thu hút trẻ chú ý hơn. Sau khi thực
hiện được một thời gian thì thấy trẻ ít nghịch đi và ham học hơn, thích giúp đỡ
bạn và thích tham gia các trị chơi học tập, nhớ được nội dung và chủ đề của tác
phẩm và tích cách các nhân vật, trong tác phẩm văn học.
21
Sự gần gũi, u thương của cơ và hịa đồng với các bạn trẻ yên tâm về cả
thể chất và tinh thần. Tự tin, mạnh dạn giao tiếp, trao đổi ý kiến của mình với
mọi người bằng ngơn ngữ Tiếng Việt.
2.3.7. Biện pháp 7: Ứng dụng công nghệ thông tin.
Trong giai đoạn đổi mới, việc ứng dụng và sử dụng công nghệ thông tin
vào công tác giảng dạy là vô cùng quan trọng, sử dụng công nghệ thông tin giúp
cho trẻ có tư duy trực tiếp để phát huy tính tích cực của trẻ, trẻ hứng thú bao
nhiêu thì kết quả đạt được càng lớn. Nếu lựa chọn đề tài để dạy trẻ trên mọi tiết
học mà chỉ có tranh ảnh khơng thì trẻ rất dễ bị nhàm chán, chất lượng trẻ chắc
chắn sẽ không cao, hơn nữa sẽ không phát huy được tính tích cực, chủ động,
ham hiểu biết của trẻ. Chính vì vậy mà tơi ln tìm tịi, xây dựng bài giảng có
tương tác điện tử, các trị chơi trên máy tính với những hình ảnh sinh động và
ngộ nghĩnh. Đồng thời tơi cũng khám phá những trị chơi trong phần mềm
kidsmart, kixpix và happykids đưa ra cho trẻ chơi và khám phá thêm về cuộc
sống xung quanh trẻ.
Tôi cho trẻ trực tiếp lên thực hiện thao tác như vẽ, tơ màu chân dung nhân
vật nào đó trong tác phẩm văn học trên phần mềm kixpix và đánh dấu bài của
mình bằng kí hiệu riêng, khi trẻ thực hiện xong tơi in ra và treo tranh lên góc
“tranh đẹp của bé” để trẻ có cơ hội quan sát, ngắm lại những ý tưởng riêng của
mình đồng thời cũng thông báo tới các bậc phụ huynh về khả năng cảm nhận tác
phẩm văn học và trí tái tạo, tưởng tượng, sáng tạo của con em mình.
Qua các trị chơi trên máy vi tính như vậy trẻ của lớp tơi hứng thú, say mê
học hơn, đồng thời các thao tác trên máy của trẻ được làm quen và thiết lập, tư
duy phát triển mạnh, sự ghi nhớ các hình ảnh đúng - sai được dễ dàng. Tôi
thường xuyên sưu tầm những tài liệu về các tác phẩm văn học phù hợp với lứa
tuổi hợp với sức của trẻ và tôi sử dụng trên đĩa hình đưa vào máy vi tính và vào
các buổi chiều tôi thường mở trên máy vi tính cho trẻ xem như những bộ phim
được chuyển thể từ các tác phẩm văn học, những bài thơ, bài hát, vè, đồng
dao…bên cạnh đó tơi sưu tầm những hình ảnh mang tính giáo dục treo ở góc
tun truyền như: Trẻ đang đóng kịch, đang biểu diễn kể chuyện, ngâm thơ...
qua những hình ảnh đó tơi có thể tiến hành ứng dụng dạy trẻ trên tiết học hoặc
trong các hoạt động để khắc sâu kiến thức hơn cho trẻ.
Qua những hình ảnh sinh động trẻ thích được kể chuyện, đọc thơ hơn, lúc
nào cũng muốn mình được làm các nhân vật trong tác phẩm văn học để biểu
diễn, kể lại cho mọi người nghe.
2.3.8. Biện pháp 8: Công tác phối hợp, tuyên truyền với phụ huynh
Khi trẻ đến trường được tôi cho làm quen với tác phẩm văn học thông qua
các hoạt động với nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên các kiến thức, kỹ năng
mà trẻ thu nhận được cũng cần phải được ơn luyện tại nhà. Vì vậy để trẻ được
học tốt cần có sự phối hợp cộng tác giữa giáo viên và phụ huynh học sinh. Trong
22
khi đó để cơng tác tun truyền với phụ huynh một cách khoa học và đạt hiệu
quả tốt, tôi đã thực hiện như sau:
Hàng ngày tôi thường xuyên, trao đổi với phụ huynh về tình hình sức
khỏe và học tập của trẻ để về nhà phụ huynh kết hợp dạy thêm, cho trẻ ôn luyện
them bằng cách hỏi trẻ như: Hơm nay con được chơi trị chơi gì, chơi như thế
nào, con được hát bài hát gì?.. con kể, hát, làm lại cho bố mẹ xem. Ví dụ về chủ
đề gai đình thì tơi phối hợp với phụ huynh ơn kiến thức cho trẻ ở nhà bằng cách
tạo ra tình huống như: “Hôm nay là sinh nhật mẹ con hát tặng cho mẹ bài hát để
chúc mừng mẹ nào”....
Ví dụ: Khi cho trẻ làm quen với bài thơ “đàn gà con” ở lớp, thì tơi trao đổi với
phụ huynh về bài thơ đó và gợi ý cho phụ huynh cho trẻ quan sát đàn gà con thật
tại nhà và kết hợp đọc thơ, giáo dục trẻ biết yêu quý những con vật gần gũi. Như
vậy trẻ vừa phát triển them vốn từ, hình ảnh trong trí nhớ của trẻ càng gần gũi và
sinh động.
Lên kế hoạch, thơng báo chương trình dạy trẻ ghi rõ ràng nội dung giáo
dục vào bảng “cha mẹ cần biết” để phụ huynh theo dõi, ôn luyện thêm cho con
em mình khi ở nhà. Đưa nội dung trẻ đã được học ở lớp, cho phụ huynh về nhà
cùng tham khảo và hướng dẫn trẻ.
Giới thiệu các loại sách, vở có tính giáo dục phù hợp với độ tuổi, chương
trình tới phụ huynh. Trao đổi một số nhược điểm của trẻ: cách phát âm, cách thể
hiện cử chỉ, điệu bộ, kỹ năng giao tiếp… để phụ huynh nắm được. Từ đó phụ
huynh ln kết hợp với giáo viên để hướng dẫn, giúp đỡ trẻ và bên cạnh đó khi
tuyên truyền phụ huynh ủng hộ, sưu tầm nguyên vật liệu, phế thải và các đồ
dùng đồ chơi phục vụ chuyên đề cũng dễ dàng và nhanh hơn, hiệu quả cao hơn.
Khuyến khích phụ huynh trao đổi về đặc điểm, tâm lý, nhu cầu tình cảm
của trẻ để tơi nắm rõ đặc điểm từng trẻ, từ đó giúp tơi lựa chọn và điều chỉnh kế
hoạch linh động, sáng tạo phù hợp với trẻ.
Sự kết hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh, dân tộc thiểu số, phụ huynh
đã nhận thấy tầm quan trọng của Tiếng Việt, khi ở nhà phụ huynh đã hạn chế nói
tiếng mẹ đẻ. Từ mơi trường Tiếng Việt trẻ nói được rõ ràng, mạch lạc, gãy gọn,
khơng nói ngọng, nói lắp, nói đủ câu và có lễ phép.
2.4. Kết quả nghiên cứu
Dựa trên những nghiên cứu với những biện pháp trên sau một thời gian tơi
thấy trẻ có tiến bộ rõ rệt, kết quả mà tơi thu được cụ thể đó là:
Trẻ đã mạnh dạn, tự tin khi thể hiện, trình bày tác phẩm, thể hiện tình cảm
cảm xúc của mình trước sự vật hiện tượng bằng những câu đơn, câu ghép khác
nhau. Diễn đạt được suy nghĩ, nhu cầu, kinh nghiệm, nhận xét của bản thân theo
từng tình huống và đối tượng thích hợp bằng lời nói. Kể lại sự việc một cách
mạch lạc theo tình tiết diễn biến.
Trẻ nói - đọc mạch lạc, rõ ràng vành trịn rõ chữ, nói đủ câu, khơng bị nói
lắp nói ngọng, trẻ đã hiểu được mối quan hệ giữa lời nói và chữ viết. Đặc biệt và
23
bất ngờ hơn nữa đó là trẻ nhập tâm vào trong các nhân vật của tác phẩm văn học
và đã biết dùng lời nói, cử chỉ, hành động điệu bộ để thể hiện rõ ràng cảm xúc.
Quan sát được các cử chỉ, điệu bộ, sắc thái: vui, buồn, đồng ý hoặc khơng
đồng ý của người khác theo từng tình huống khác nhau.
Trẻ nghe và phân biệt được các âm thanh, ngữ điệu, giọng nói khác nhau
và độ to, nhỏ, nhanh, chậm của giọng nói, giọng đọc. Biết trả lời những câu hỏi
về nguyên nhân , kết quả, so sánh và đã biết đặt câu hỏi, tại sao, như thế nào, để
làm gì? cho người khác. Dùng cử chỉ, điệu bộ, nét mặt để thể hiện cảm xúc của
mình, phù hợp với yêu cầu và hoàn cảnh giao tiếp.
Trẻ dân tộc đã biết thể hiện tác phẩm: thơ, đồng dao, ca dao… kể lại sự
việc một cách rõ rang dễ hiểu, kể chuyện sáng tạo theo đồ vật, theo tranh theo
chủ đề và kinh nghiệm của bản thân. Thể hiện tác phẩm văn học theo một trình
tự từ trên xuống dưới, từ đầu đến cuối. Biết cách ngắt giọng, ngừng nghỉ đúng
chỗ, đúng lúc, biết đọc từ trái sang phải.
Phụ huynh của trẻ dân tộc đã nhận thức rõ tầm quan trọng của ngôn ngữ
tiếng việt, qua việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, Đặc biệt hơn nữa là
rất phấn khởi khi thấy con em mình biết thể hiện một tác phẩm văn học có trình
tự, thể hiện tình cảm, cảm xúc của mình vào trong tác phẩm.
Qua việc nghiên cứu và thực hiện các biện pháp trên, tôi đã thu được một
số thành quả cụ thể như sau
*Kết quả của trẻ
Đối với trẻ dân tộc Kinh: 18 trẻ
Nội dung
Xếp loại
Tốt
Đạt
Khá
- Nghe hiểu nội dung tác 10/18=55,6%
phẩm văn học.
7/18=38,9%
1/18=5,5%
- Nghe và làm theo từ 3 lời 9/18=50%
chỉ dẫn liên tiếp trở lên.
8/18=44,5%
1/18=5,5%
6/18=33,3%
0
- Tự tin khi giao tiếp, biết kể 10/18=55,6%
lại trình tự sự việc 1 cách
mạch lạc.
8/18=44,5%
0
- Biết kể chuyện theo tranh, 9/18=50%
đọc sách qua hình vẽ
8/18=44,5%
1/18=5,5%
- Mạch lạc, rõ ràng, nói đủ
câu, khơng nói lắp, nói ngọng. 12/18=66,7%
Đối với trẻ dân tộc thiểu số: 19 trẻ
24
Nội dung
Xếp loại
Tốt
Khá
Đạt
- Nghe hiểu nội dung tác 8/19=42,1%
phẩm văn học.
10/19=52,6%
1/19=5,3%
- Nghe và làm theo từ 3 lời 11/19=57,9%
chỉ dẫn liên tiếp trở lên.
7/19=36,8%
1/19=5,3%
10/19=52,6%
0
- Tự tin khi giao tiếp, biết kể 10/19=52,6%
lại trình tự sự việc 1 cách
mạch lạc.
9/19=47,4%
0
- Biết kể chuyện theo tranh, 9/19=47,4%
đọc sách qua hình vẽ
8/19=42,1%
2/19=10,5%
- Mạch lạc, rõ ràng, nói đủ
câu, khơng nói lắp, nói ngọng. 9/19=47,4%
Nhìn vào bảng đánh giá, so sánh trên tơi nhận thấy sau khi áp dụng những
biện pháp trên vào việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số.
Tôi thấy nội dung phát triển ngôn ngữ của trẻ dân tộc có tỷ lệ tương đương với
nội dung phát triển ngôn ngữ của trẻ em Kinh.
Bảng so sánh kết quả đánh giá trẻ dân tộc thiểu số đầu năm và cuối năm
Các nội dung
Khảo sát đầu năm
Tốt
2/19
- Nghe hiểu nội
dung tác phẩm (10,5)
văn học.
Kết quả cuối năm
Khá
4/19
(21%)
Đạt
13/19
(8,5%)
Tốt
8/19
(42,%)
Khá
Đạt
10/19
1/19
(52,6%) (5,3%)
11/19
(57,%)
7/19
1/19
(36,8%) (5,3%)
- Nghe và làm
theo từ 3 lời chỉ
dẫn liên tiếp trở
lên.
2/19
(10,5%)
7/19
(36,8%)
10/19
(2,6%)
- Mạch lạc, rõ
ràng, nói đủ câu,
khơng nói lắp,
nói ngọng.
3/19
(15,8%)
7/19
(36,8%)
9/19
9/19
10/19
(47,4%) (47,4%) (52,6%)
0
- Tự tin khi giao
tiếp, biết kể lại
trình tự sự việc 1
cách mạch lạc.
3/19
(15,8%)
7/19
(36,8%)
9/19
10/19
9/19
(47,4%) (52,6%) (47,4%)
0
25