Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Yếu tố hội họa trong thơ victo huygo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (737.47 KB, 100 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

Bùi Vũ Ngọc Dung – k33A Ngữ Văn

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã nhận được sự động viên, giúp
đỡ tận tình của các thày cô giáo, gia đình và bạn bè.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới giảng viên
Th.S.ĐỖ THỊ THẠCH, người đã hết lòng giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận
này.
Tôi cũng chân thành cảm ơn các thày, cô giáo trong tổ Văn học nước
ngoài, cũng như các thày cô giáo trong khoa Ngữ Văn, trường Đại Học Sư
phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình nghiên cứu,
học tập.

Hà Nội, tháng 5 năm 2011
Tác giả khóa luận

Bùi Vũ Ngọc Dung

Trường ĐHSP Hà Nội 2

1


Khóa luận tốt nghiệp

Bùi Vũ Ngọc Dung – k33A Ngữ Văn

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận “Yếu tố hội họa trong thơ Victo Huygô”


là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu trong khóa luận là trung thực, khóa luận này chưa từng
được công bố trong bất cứ công trình nào. Nếu những lời cam đoan trên là sai
tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Tác giả khóa luận

Bùi Vũ Ngọc Dung

Trường ĐHSP Hà Nội 2

2


Khóa luận tốt nghiệp

Bùi Vũ Ngọc Dung – k33A Ngữ Văn

MỤC LỤC
TRANG
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................... 6
2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................... 7
3. Mục đích nghiên cứu............................................................................... 9
4. Giới hạn đề tài ..................................................................................... 10
5. Phương pháp nghiên cứu....................................................................... 10
6. Bố cục ................................................................................................... 10
NỘI DUNG
Chương 1: Tìm hiểu chung ...................................................................... 11
1.1. Hội họa trong thơ ............................................................................ 11

1.1.1. Hội họa................................................................................... 11
1.1.1.1. Khái niệm ................................................................... 11
1.1.1.2. Các yếu tố của hội họa ................................................. 12
1.1.2. Yếu tố hội họa trong thơ......................................................... 12
1.1.2.1. Một số quan niệm về hội họa trong thơ ........................ 12
1.1.2.2. Vị trí của yếu tố hội họa trong thơ ca ........................... 17
1.2. Yếu tố hội họa trong tương quan với các yếu tố khác trong thơ....... 21
Chương 2: Yếu tố hội họa trong thơ Victo Huygô.................................. 23
2.1 Dấu hiệu hội họa trong thơ V.Huygô.............................................. 23
2.1.1 Vị trí vai trò............................................................................ 23
2.1.2 Các sắc thái hội họa trong thơ V.Huygô ................................. 26
2.2 Sự thể hiện của yếu tố hội họa trong thơ V.Huygô ......................... 29
2.2.1 Màu sắc.................................................................................. 29

Trường ĐHSP Hà Nội 2

3


Khóa luận tốt nghiệp

Bùi Vũ Ngọc Dung – k33A Ngữ Văn

2.2.1.1

Những gam màu chủ đạo.............................................. 30

2.2.1.2

Phân loại màu sắc......................................................... 37


2.2.1.3

Ý nghĩa thể hiện của màu sắc ....................................... 41

2.2.2 Ánh sáng ................................................................................ 44
2.2.2.1

Các nguồn sáng trong thơ V.Huygô.............................. 45

2.2.2.2

Cách thức thể hiện ánh sáng ......................................... 51

2.2.2.3

Ý nghĩa thể hiện của ánh sáng ...................................... 56

2.2.3 Không gian ............................................................................ 59
2.2.3.1

Những chiều kích không gian trong thơ V.Huygô ........ 60

2.2.3.2

Tạo dựng không gian trong thơ V.Huygô ..................... 63

2.2.3.3

Ý nghĩa thể hiện của không gian .................................. 64


2.2.4 Đường nét .............................................................................. 66

2.3

2.2.4.1

Những đường nét trong thơ V.Huygô ........................... 67

2.2.4.2

Ý nghĩa thể hiện của đường nét .................................... 74

Sự cân đối hòa hợp của các yếu tố hội họa tạo nên những bức
tranh sống động .......................................................................... 76
2.3.1 Những bức tranh về thiên nhiên, con người............................ 76
2.3.2 Những bức tranh về cuộc sống, xã hội.................................... 83

2.4 Dấu ấn riêng của yếu tố hội họa trong thơ V.Huygô ...................... 90
KẾT LUẬN…………………………………………………………99
Tài liệu tham khảo………………………………………………………..101

Trường ĐHSP Hà Nội 2

4


Khóa luận tốt nghiệp

Bùi Vũ Ngọc Dung – k33A Ngữ Văn


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Khi Huygô sinh ra thế kỉ này mới lên hai, khi ông mất đi thế kỉ này
chỉ còn lại 15năm” là lời nhận định tôn vinh một con người vĩ đại Victo
Huygô vì sự gắn bó và những đóng góp lớn của ông cho nền nghệ thuật thế
giới thế kỷ XIX.
Sự nghiệp sáng tác của Huygô thành công rực rỡ trên nhiều lĩnh vực.
Trong 60 năm lao động nghệ thuật ông đã để lại hơn 10 vở kịch, 10 tiểu
thuyết lớn, truyện vừa, 15 tập thơ, hàng trăm bài chính luận, hàng ngàn bức
thư tình và hơn 2000 bức tranh.
Thơ ca là lĩnh vực mở đầu cho tên tuổi của Huygô được cả thế giới biết
đến. Thơ của Huygô là tiếng nói bênh vực quần chúng lao khổ, cảm thương
với số phận con người đồng thời cổ vũ tinh thần họ mạnh mẽ đứng lên đấu
tranh cho quyền sống của mình. Thơ của ông còn công kích chế độ cầm
quyền một cách sâu cay, không khoan nhượng.
Nhà văn học sử Tibôđê viết:“ Thật trẻ con, cái việc hỏi Huygô có phải
hay không là nhà thơ lớn nhất của ngôn ngữ Pháp. Nhưng người ta rất có thể
gọi Huygô là hiện tượng lớn nhất của văn học Pháp, hiểu theo tất cả các
nghĩa của chữ này”[14, 21].
Một trong những điều làm nên sự đặc sắc của thơ Huygô đó là người
đọc không chỉ được cảm hồn thơ mà còn như nhìn thấy được hình ảnh thơ rất
sống động. Xuất phát từ một người có tài năng hội hoạ, Huygô đã mang
những yếu tố màu sắc, đường nét, ánh sáng vào trong thơ để tạo nên những
bức tranh về thiên nhiên, con người, cuộc sống, xã hội đẹp và chân thực. Đọc
thơ Huygô người ta được trải nghiệm nghệ thuật ở nhiều chiều hướng khác

Trường ĐHSP Hà Nội 2

5



Khóa luận tốt nghiệp

Bùi Vũ Ngọc Dung – k33A Ngữ Văn

nhau: thấy cái hay bay bổng của tứ thơ, thấy cái đẹp muôn vẻ của hình tượng
thơ, dường như còn nghe được âm thanh của cuộc sống mà Huygô thể hiện
trong thơ, …
Có rất nhiều công trình nghiên cứu về Huygô, nhưng có lẽ còn ít người
quan tâm đến yếu tố hội hoạ góp phần lớn vào sự hấp dẫn làm nên sự lôi cuốn
trong thơ Huygô. Để góp một cái nhìn đa dạng hơn về sự đặc sắc trong thơ
Huygô, do dó chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Yếu tố hội hoạ trong thơ Victo
Huygô” làm đối tượng nghiên cứu. Qua đây chúng tôi muốn mang tới cho
người đọc cảm nhận khái quát về tác phẩm cũng như bước vào thế giới nghệ
thuật tuyệt diệu trong thơ ca Huygô.
Bên cạnh những kiến thức liên quan trực tiếp đến chương trình học tập
hiện tại, việc tìm hiểu thêm về Huygô sẽ giúp chúng ta cảm nhận rộng hơn về
phong cách sáng tác của ông. Điều này góp phần cho việc học tập, giảng dạy
về văn học của Victo Huygô trong nhà trường mang lại hiệu quả tốt hơn.

2. Lịch sử vấn đề
Huygô có thể coi là hiện thân của văn học Pháp thế kỉ XIX, là cánh
chim đầu đàn của chủ nghĩa lãng mạn, của khát vọng hoà bình, lý tưởng tự do
bác ái của nhân loại.
Sự nghiệp sáng tác và bản thân con người Huygô luôn là đối tượng vô
tận cho sự tìm hiểu khám phá của giới nghiên cứu, phê bình nghệ thuật.
Đánh giá về Huygô giới nghiên cứu Pháp khẳng định và gọi“Huygô đại
dương”, “Huygô ánh sáng”, “Huygô khổng lồ”. Ông xuất hiện như một
“ngôi sao mọc sớm và lặn muộn ở chân trời thế kỉ”. Mãnh liệt, giàu sức sáng

tạo, Huygô ngay từ đầu đã giữ vững vị trí chủ soái của trường phái lãng mạn.
Đi vào tìm hiểu thơ Huygô, ngoài những giá trị về mặt nội dung, tư
tưởng thì người ta cũng quan tâm nhiều tới những yếu tố được Huygô sử dụng

Trường ĐHSP Hà Nội 2

6


Khóa luận tốt nghiệp

Bùi Vũ Ngọc Dung – k33A Ngữ Văn

trong sáng tạo ngôn từ. Huygô được biết tới là một người có am hiểu sâu rộng
ở nhiều ngành nghệ thuật và là một họa sĩ có tài nên trong các tác phẩm của
mình những hiểu biết đó được ông khai thác triệt để.
Tố chất hội họa được Huygô bộc lộ trong thơ khiến giới nghiên cứu
phải ngạc nhiên và trong tạp chí Văn học nước ngoài [số 2- 2002] bài viết
“Victor Hugo-nhà thơ”của nhà nghiên cứu Đào Duy Hiệp có tìm hiểu những
biểu hiện về không gian, màu sắc, ánh sáng trong thơ Huygô. Đào Duy Hiệp
đã khẳng định số lượng từ ngữ chỉ màu sắc trong thơ Huygô rất phong phú
với hàng loạt danh từ - động từ- tính từ hóa tham gia vào chỉ màu sắc, ông có
trích dẫn lời nhận xét của H. Meschonnic : “Màu sắc trong thơ Huygô khiến
hội họa ấn tượng phải kinh ngạc”. Và Đào Duy Hiệp cũng chỉ ra những chiều
kích không gian đa dạng đã được sử dụng qua việc khảo sát 82 bài thơ thuộc
14 tập thơ của Huygô, nhận thấy rằng bất kỳ một chiều không gian nào có tồn
tại trong hội họa thì ta đều thấy xuất hiện trong thơ Huygô từ bầu trời- mặt
trăng- ngôi sao- thung lũng- mặt đất…Nhưng nhìn chung thơ Huygô có
khuynh hướng vươn tới cái cao rộng khoáng đạt của bầu trời và ánh sáng ban
ngày nhiều hơn cả, Huygô được coi là nhà thơ của bầu trời.

Bên cạnh tìm hiểu sự đặc sắc của các yếu tố màu sắc, ánh sáng, không
gian trong thơ Huygô, thì từ rất lâu giới nghiên cứu đã nhận thấy khả năng tạo
hình của ngôn ngữ thơ Huygô có thể tạo ra những bức tranh sống động về
thiên nhiên, cuộc sống, con người và xã hội. Saclơ Nôđiê có nhận xét ngay
trong mở đầu bài thơ “Mặt trời lặn” của Huygô “những bức tranh tuyệt vời
nhìn thấy được làm ta suy nghĩ”- tám khổ thơ là tám bức tranh khác nhau
cùng về một khoảnh khắc của thiên nhiên khi ngày sắp qua đi [14, 41]. Có thể
người ta không tìm trong thơ Huygô có bao nhiêu màu sắc, hình thái không
gian, đường nét,… Nhưng một điều dễ thấy là Huygô đã sáng tạo ra những
bức tranh ngôn từ rất gần với những bức tranh của nghệ thuật hội họa ở sự

Trường ĐHSP Hà Nội 2

7


Khóa luận tốt nghiệp

Bùi Vũ Ngọc Dung – k33A Ngữ Văn

sống động, dường như còn có thể thỏa mãn được nhu cầu thị giác của người
đọc.
Nhà thơ Xuân Diệu đánh giá: “Huygô có đôi mắt nhìn đặc biệt, độc
đáo, là thấy nổi bật các hình khối, thấy đối lập tối và sáng, nhìn bằng tương
quan mâu thuẫn, mà cũng suy nghĩ với tương quan mâu thuẫn, thấy bóng tối
ở dưới và hào quang bên trên, thấy sự đi từ bóng tối lên ánh sáng”[14, 23].
Như vậy có thể thấy rằng, ngoài năng khiếu thiên bẩm của một nhà thơ thì tư
duy của một người họa sĩ trong Huygô đã giúp ông lý giải một cách rõ ràng,
tạo hình hơn những điều huyền bí của cuộc sống này. Những điều trừu tượng
“mơ hồ bàng bạc” được Huygô cụ thể hóa nó thành phương diện dễ thấy

thông qua những nét vẽ sống động bằng ngôn từ.
Qua những tài liệu mà chúng tôi đã tìm hiểu nhận thấy yếu tố hội họa
trong thơ của Huygô ít nhiều đã được giới nghiên cứu quan tâm. Đây là
những nền tảng quan trọng giúp chúng tôi định hướng được cách tiếp cận, mở
rộng vấn đề yếu tố hội họa ở thơ Huygô trong khóa luận này.
Khi đi vào khóa luận chúng tôi sẽ giới thiệu chi tiết hơn về những yếu
tố hội họa được Huygô sử dụng trong thơ vô cùng phong phú và đặc sắc.

3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu về các yếu tố hội hoạ trong thơ của Victo
Huygô được thể hiện như thế nào, khoá luận đi vào nghiên cứu những biểu
hiện của một số yếu tố hội hoạ và hiệu quả những yếu tố đó làm nên phong
cách riêng trong thơ Huygô. Chúng tôi hy vọng qua khoá luận này sẽ góp
thêm phần nhỏ vào quá trình nghiên cứu và phục vụ cho việc giảng dạy trong
nhà trường về Victo Huygô.

Trường ĐHSP Hà Nội 2

8


Khóa luận tốt nghiệp

Bùi Vũ Ngọc Dung – k33A Ngữ Văn

4. Giới hạn đề tài
Yếu tố hội hoạ trong thơ thì được thể hiện ở nhiều phương diện khác
nhau. Nhưng trong giới hạn của khoá luận chúng tôi chỉ đi vào tìm hiểu ở
những yếu tố cơ bản nhất là : Màu sắc, ánh sáng, đường nét, không gian và
hiệu ứng của chúng tạo nên những bức tranh sống động trong thơ của Huygô

trong khoảng 30 bài thơ thuộc 12 tập thơ.
Những bài thơ chúng tôi lựa chọn nghiên cứu được lấy từ cuốn “Tuyển
thơ Victo Huygô” do Tế Hanh tuyển chọn, Xuân Diệu giới thiệu của NXB
Văn học 1986.
Do khả năng có hạn nên trong quá trình nghiên cứu chúng tôi chỉ có thể
tìm hiểu những văn bản thơ của Huygô đã được dịch nghĩa sang tiếng Việt
nên phần nào có những hạn chế nhất định. Mong nhận được sự giúp đỡ của
thày cô và các bạn để khóa luận của chúng tôi hoàn thiện hơn.

5. Phương pháp nghiên cứu
Để phục vụ cho quá trình làm khoá luận, chúng tôi có sử dụng một số
phương pháp sau:
Khảo sát, thống kê
Phân tích, tổng hợp
So sánh, hệ thống

6. Bố cục khoá luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Nội dung của khoá luận gồm 2 chương
- Chương 1: Tìm hiểu chung
- Chương 2: Yếu tố hội hoạ trong thơ Victo Huygô.

Trường ĐHSP Hà Nội 2

9


Khóa luận tốt nghiệp

Bùi Vũ Ngọc Dung – k33A Ngữ Văn


NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: TÌM HIỂU CHUNG
1.1. Hội hoạ trong thơ.
1.1.1 Hội hoạ.
1.1.1.1.Khái niệm.
Hội hoạ là một trong số nhiều nghệ thuật thưởng thức. “ Từ điển thuật
ngữ mĩ thuật phổ thông” - NXBGiáo dục, 2002 - thì hội hoạ (A.painting,
P.peinture) “ Nghệ thuật vẽ dùng mầu sắc, hình mảng đường nét để diễn đạt
cảm xúc của người vẽ trước vẻ đẹp của con người, thiên nhiên, xã hội. Hội
hoạ là một ngành nghệ thuật tạo hình […]. Đồng với sự phát triển của xã hội
loài người, nghệ thuật hội hoạ cũng phát triển dần lên […]. Ngày nay cùng
với sự phát triển của khoa học kĩ thuật hội hoạ cũng phát triển lên đa dạng
phong phú”.
Nguồn Wikipedia.com [15] có định nghĩa về hội hoạ như sau: “Hội hoạ
là một ngành nghệ thuật trong đó con người sử dụng mầu vẽ để tô lên một bề
mặt như là giấy hoặc vải để thể hiện các ý tưởng nghệ thuật. Thông thường
công việc này do hoạ sĩ thể hiện (hoạ sĩ là những người coi hội hoạ là nghề
nghiệp của mình). Kết quả của công việc đó là các tác phẩm hội hoạ hay còn
gọi là tranh vẽ. Hội hoạ là một trong những loại hình nghệ thuật quan trọng
và phổ biến nhất. Nói cách khác hội hoạ là một ngôn ngữ để truyền đạt ý
tưởng của người nghệ sĩ bằng các tác phẩm hội hoạ sử dụng kỹ thuật(nghệ)
và phương pháp(thuật)”.

Trường ĐHSP Hà Nội 2

10


Khóa luận tốt nghiệp


Bùi Vũ Ngọc Dung – k33A Ngữ Văn

1.1.1.2. Các yếu tố của hội hoạ.
“Từ điển thuật ngữ mĩ thuật phổ thông” -[9, 185] NXBGiáo dục, 2002
thì yếu tố: “ Một tác phẩm nghệ thuật được hợp thành bởi nhiều yếu tố, những
yếu tố cơ bản là: chất liệu tạo ra bức tranh, tâm trạng người sáng tác, hình
dáng đường nét, màu sắc đậm nhạt, kĩ thuật thể hiện tác phẩm… việc sử dụng
và phối hợp hài hoà các yếu tố trong tranh sẽ tạo nên chất lượng của tác
phẩm”.
Các yếu tố của hội hoạ thông thường khi nói tới là: màu sắc, đường nét,
ánh sáng, không gian và kết hợp với các yếu tố kỹ thuật hội hoạ.

1.1.2. Yếu tố hội hoạ trong thơ.
1.1.2.1. Một số quan niệm về hội hoạ trong thơ
Ngay từ thời xa xưa từ Đông sang Tây, từ văn học Châu Âu sang văn
học Châu Á, hội hoạ cứ đi vào thơ ca nhẹ nhàng tự nhiên nhiều lúc chúng như
hoà làm một. Trong thơ người ta thấy được các yếu tố hoạ, trong nhiều tranh
vẽ người ta tìm được sự lãng mạn, bay bổng của cảnh vật, con người, trong
đó. Có thể chưa có một quan niệm một định nghĩa nào khẳng định trong thơ
nhất định phải có yếu tố hoạ. Nhưng không ai là không thấy được vai trò quan
trọng của những yếu tố màu sắc, đường nét, ánh sáng, không gian trong thơ
ca. Chính vậy mà trong tâm niệm của người phương Đông điển hình là người
Trung Quốc có câu nói nổi tiếng của Tô Đông Pha “Thi trung hữu hoạ, hoạ
trung hữu thi”(trong thơ có hoạ, trong hoạ có thơ)
Quay ngược dòng lịch sử, khởi nguyên thuỷ các loại hình nghệ thuật
như thơ ca, âm nhạc, hội hoạ và vũ đạo có quan hệ mật thiết với nhau. Nhưng
thực ra ở các nước phương Tây cũng như ở phương Đông điển hình là ở Trung
Quốc ban đầu địa vị của thơ ca được đánh giá cao hơn của hội hoạ. Song dần
dần hội hoạ cũng thể hiện được vai trò to lớn của mình trong đời sống của con


Trường ĐHSP Hà Nội 2

11


Khóa luận tốt nghiệp

Bùi Vũ Ngọc Dung – k33A Ngữ Văn

người và trở thành một loại hình nghệ thuật bình đẳng với thơ ca. Ở phương
Tây hội hoạ chính thức xác lập được vị trí của mình ở Italia vào thời Phục
Hưng, cũng từ thời kì này người ta bắt đầu chú ý tới mối quan hệ tương đồng
khác biệt giữa thơ ca và các loại hình nghệ thuật khác như hội hoạ, âm nhạc…
Một số quan niệm cho ta thấy mối quan hệ biện chứng giữa thơ ca và
các yếu tố hội hoạ:
Quan niệm “Thi hoạ đồng chất” ở Trung Quốc xác lập đời nhà Tống.
Tuy nhiên trước đó ý tưởng so sánh giữa thơ và hoạ cũng xuất hiện, Lục Cơ
(261 – 303) thời Tấn từng nói: “Truyền bá sự vật không gì bằng lời, lưu giữ
hình ảnh không gì bằng tranh” (tuyên vật mạc đại ư ngôn, tôn hình mạc thiên
ư hoạ) quan niệm này cho thấy có sự phân biệt giữa thi (lời) và hoạ. Trong
quyển “Lịch sử mĩ học Trung Quốc” hai học giả hiện đại là Lý Trạch Hầu và
Lưu Cương Kỷ nói thêm: “Quan niệm cho rằng lưu giữ hình ảnh là đặc trưng
của nghệ thuật hội hoạ, lời là chất liệu đặc trưng của văn học là quan niệm
phân biệt giữa thơ ca và hội hoạ sớm nhất”.
Lưu Hiệp ( TK V – VI ) thời Đường cũng từng viết trong “Văn Tâm
Điêu Long” rằng: “Hội sự đồ sắc, văn từ tận tình”( hội hoạ phải chú ý tới
mầu sắc, văn chương phải chú ý tới lời để diễn đạt cho hết điều muốn nói).
Như vậy về cơ bản người Trung Quốc đã xem hội hoạ là nghệ thuật miêu tả tái
hiện hình ảnh của sự vật, còn văn học là loại nghệ thuật biểu hiện cái “chí”

cái “tình” tức là thế giới tinh thần, thế giới nội tâm của con người.
Cũng có quan niệm cho rằng :“Thơ là hoạ vô hình, hoạ là thơ vô hình”
hay thơ “là hoạ hữu thanh, hoạ là thơ vô thanh” được nhiều nhà phê bình văn
học Trung Quốc nhấn mạnh chẳng hạn Trương Thuấn Dân thời Bắc Tống nói :
“ Thi thị vô hình hoạ, hoạ thị hữu hình thi”(thơ là hoạ vô hình, hoạ là thơ hữu
hình”. Tôn Vũ Trọng thời Tống cho rằng: “Văn giả vô hình chi hoạ, hoạ giả
hữu hình chi văn nhị giả dị tích nhi đồng thú”(văn là hoạ vô hình, hoạ là văn

Trường ĐHSP Hà Nội 2

12


Khóa luận tốt nghiệp

Bùi Vũ Ngọc Dung – k33A Ngữ Văn

hữu hình, hai loại này tuy khác nhau về hình thức nhưng chúng lý thú). Phùng
Ứng Lưu thời nhà Thanh nói: “Thiếu lăng hàn mặc vô hình hoạ, hàn cán đan
thanh bất ngữ thi” (thơ của Đỗ Phủ là hoạ vô hình, tranh của Hàn Cán là thơ
không lời).
Sang thời hiện đại có nhiều ý kiến khác nhau bàn về mối quan hệ tương
đồng dị biệt giữa thơ và hoạ trong bài “Thơ Trung Quốc và hoạ Trung Quốc”
học giả hiện đại Tiến Trung Thư viết: “Thơ và hoạ cùng là nghệ thuật nên có
tính tương đồng, nhưng vì chúng là hai loại hình nghệ thuật khác nhau cho
nên mỗi cái có tính đặc thù riêng sự tương đồng và dị biệt về tính năng và lĩnh
vực của chúng là một vấn đề quan trọng của mỹ học”[16]. Nghệ thuật hội hoạ
của bất kì một dân tộc nào ban đầu cũng đi từ sự mô phỏng tự nhiên tả thực
rồi dần dần mới phát triển nâng cao, cách điệu lên. Hình tượng mà các hoạ sĩ
ngày nay thể hiện trong tranh là hình tượng nghệ thuật chứ không phải là hình

tượng vật lí như trước đây. Hình tượng được tạo lập trên cơ sở hiện thực có sự
tham gia tích cực của trí tưởng tượng từ người sáng tạo. Điều này đã đặt nền
tảng cho phương pháp sáng tác kết hợp giữa chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa
lãng mạn trong hội hoạ truyền thống Trung Quốc. Đặc trưng phương pháp
sáng tác này là “tả ý” mà “ý” là thứ trừu tượng mơ hồ, chỉ có thể hiểu, cảm
chứ khó nói hết bằng lời. Việc lập “ý”, tả “ý” có quan hệ mật thiết với thơ ca
và thơ Vương Duy được xem là đại diện tiêu biểu trong thơ ca phương Đông
mang được vào trong thơ những yếu tố của hội hoạ tạo dấu ấn rõ nét.
Xem xét quan hệ giữa thơ ca và hội hoạ là một vấn đề được giới nghiên
cứu quan tâm ở bất kì thời nào. Người phương Tây thì có quan niệm về sự gắn
bó của hoạ và thơ người ta thường nói bài thơ này giống một bức tranh hoặc
cũng có khi nói bức tranh nọ giống một bài thơ. Quan niệm thi hoạ đồng chất
có từ rất sớm ở phương Tây. Simonnides (556 – 468 TCN) đã nói “Hoạ là thơ
không lời thơ là hoạ có lời”. Horace (65 – 8 TCN) cũng từng nói “Thơ như

Trường ĐHSP Hà Nội 2

13


Khóa luận tốt nghiệp

Bùi Vũ Ngọc Dung – k33A Ngữ Văn

hoạ”, người ta hoặc quy cả hai về hoạ(đồng hình) thơ là “vô hình hoạ” hoạ là
“hữu hình thi” hoặc quy cả hai về thi(đồng thanh) thơ là “hữu thanh hoạ”
hoạ là “vô thanh thi”.
Nhà thơ tượng trưng nổi tiếng của Pháp là Bôđơle không chỉ khẳng
định mối quan hệ biện chứng của thơ ca với hội họa, mà chỉ ra thơ ca có quan
hệ mật thiết với nhiều ngành nghệ thuật khác. Theo Bôđơle thì thơ, từ nay

không chỉ diễn tả những tình cảm đẹp, những hình ảnh đẹp, một cách hời hợt
bên ngoài, mà nhà thơ còn phải đánh động toàn bộ giác quan của mình để
rung cảm sâu sắc với thiên nhiên, vũ trụ, trong một quan hệ nội tại. Bài
“Tương ứng”(Vũ Đình Liên dịch) của Bôđơle diễn tả cái quan hệ bên trong
ấy trong câu thơ.
“Hương thơm, màu sắc, âm thanh tương ứng”
Câu thơ ngắn gọn nhưng ý nghĩa của nó lại rất rộng lớn, nó chỉ ra mối
quan hệ với hội họa, âm nhạc có tầm quan trọng làm nên chất trữ tình, bay
bổng cho thơ ca.
Như vậy ở phương Đông cũng như phương Tây con người đã phát hiện
ra tính hoạ trong thơ, tính thơ trong hoạ và xem thơ ca – hội hoạ là hai loại
hình nghệ thuật gần gũi có quan hệ mật thiết với nhau. Không ít nhà thơ đã lấy
cảm hứng sáng tác từ các tác phẩm hội hoạ, âm nhạc, điêu khắc…( Huygô,
Gautier…) từng có nhiều tác phẩm lấy chủ đề từ các bức tranh. Ngược lại văn
học cũng ảnh hưởng đến khuynh hướng thời gian của hội hoạ như chủ nghĩa
vị lai, phái ấn tượng…
Khi tìm hiểu về yếu tố hội hoạ thể hiện thế nào trong thơ, người ta còn
đi sâu vào khai thác mối quan hệ chi tiết hơn như: quan hệ giữa yếu tố mầu
sắc trong thơ ca có những sắc thái biểu hiện gì? Cách tạo lập không gian hình
khối trong thơ ca.

Trường ĐHSP Hà Nội 2

14


Khóa luận tốt nghiệp

Bùi Vũ Ngọc Dung – k33A Ngữ Văn


Trong triết học và lí luận văn học Trung Quốc cổ đại có quan niệm về
màu sắc như sau: triết học Trung Quốc nêu thuyết âm dương ngũ hành là
thuyết thể hiện quan niệm duy vật chất phác về tự nhiên cũng thể hiện tư
tưởng biện chứng sơ khai về tự nhiên của con người xã hội Trung Quốc cổ
đại. Dùng tính năng của năm thứ vật chất Kim - Mộc - Thuỷ - Hoả - Thổ để
giải thích nguồn gốc và chủng loại của các hình tượng tự nhiên trong đó ngũ
sắc( vàng, trắng, đen, xanh, đỏ) người Phương Đông quan niệm phải có sự hài
hoà và bao gồm năm gam màu trên.
Còn “Văn Tâm Điêu Long” của Lưu Hiệp nêu lên thanh sắc của sự vật
như sau: mùa xuân, mùa thu thay thế nhau: khí âm khí dương đắp đổi. Thanh
sắc của của sự vật xúc động thì tinh thần cũng bị cảm xúc chi phối.
Heghen trong cuốn “Mĩ học” tập 2 có quan niệm về màu sắc: “Ngay
các chất liệu mà hội hoạ sử dụng đã đòi hỏi phương thức tinh thần hoá có
tính chủ thể hơn. Yếu tố cảm quan đấy hội hoạ hoạt động đó là diện tích trên
đầy những đặc điểm đặc thù của các gương mặt đều được thể hiện bằng
những mầu sắc đặc biệt nhờ đó hình dáng của các sự vật xuất hiện trước sự
chiêm ngưỡng đã bị tinh thần biến đổi thành những biểu hiện bên trong có
tính nghệ thuật thay thế”. Quan niệm về màu sắc trong mĩ học của Heghen đã
chỉ ra mối quan hệ giữa chất liệu của hội hoạ là màu sắc với cảm xúc của con
người, nó là phương tiện để bộc lộ cảm xúc. Nhưng khi tìm hiểu yếu tố hội
họa trong thơ, ta thấy rằng những cung bậc tâm tư tình cảm còn biểu hiện ở
những yếu tố khác như: ánh sáng, đường nét, không gian mà tác giả sử dụng
trong thi phẩm.
Càng ngày người ta càng chỉ ra thơ ca là môn nghệ thuật có khả năng
bao quát lớn so với các nghệ thuật thưởng thức khác, những mối quan hệ của
thơ với hội họa, thơ với âm nhạc, thơ và kiến trúc,…

Trường ĐHSP Hà Nội 2

15



Khóa luận tốt nghiệp

Bùi Vũ Ngọc Dung – k33A Ngữ Văn

Xét về việc kết hợp của thơ ca và hội họa thì ở phương Tây được đánh
giá cao về khả năng kết hợp “Thi trung hữu hoạ” phải kể tới Huygô. Không
một bài thơ nào, một sáng tác nghệ thuật nào của ông lại thiếu màu sắc, ánh
sáng…Ông đã rất thành công trong việc tạo lập những bức tranh đa dạng bằng
ngôn từ, không chỉ làm rung động tâm hồn độc giả mà còn phục vụ cho nhu
cầu thưởng lãm nghệ thuật qua thị giác của người đọc.

1.1.2.2. Vị trí của yếu tố hội hoạ trong thơ ca.
Nói tới vị trí của hội hoạ trong thơ ca thì ai cũng nhận thấy nó đóng vai
trò vị trí quan trọng. Có thể khẳng định như vậy vì không ai có thể phủ nhận
rằng nhờ có những yếu tố của hội hoạ như màu sắc, đường nét, ánh sáng…mà
bài thơ hấp dẫn lôi cuốn hơn.
Đọc thơ người ta có thể thưởng lãm được hình ảnh cảnh sắc của đối
tượng trong tác phẩm ở nhiều phương diện, khía cạnh khác nhau, người ta đọc
thơ thấy được màu sắc trong từng câu thơ, thấy được hình ảnh qua từng đường
nét có khi rõ ràng mà cũng có khi mơ hồ huyền ảo; đi sâu vào tìm hiểu khai
thác ý thơ, ta còn được sống trong nhiều chiều kích không gian mà thi nhân
tạo dựng cho ý thơ bay bổng. Sự hoà trộn của các yếu tố hoạ kết hợp với tư
tưởng tình cảm của nhà thơ, những rung động trước thiên nhiên, đất nước, con
người đã tạo ra những câu thơ hay đặc sắc, giàu yếu tố tạo hình mà vẫn lay
động lòng người.
Nếu thơ là một môn nghệ thuật đòi hỏi phải có một cảm nhận suy tưởng
bay bổng trừu tượng thì sự kết hợp của nó với yếu tố như màu sắc, ánh sáng,
không gian, đường nét làm cho đối tượng trừu tượng đó ít nhiều trở nên dễ

tiếp nhận, dễ hình dung hơn.
Sự kết hợp của hội hoạ và thơ ca thực sự mang lại nhiều hiệu quả thẩm
mĩ cao trong việc xây dựng hình tượng thơ. Không gian phạm vi thể hiện của

Trường ĐHSP Hà Nội 2

16


Khóa luận tốt nghiệp

Bùi Vũ Ngọc Dung – k33A Ngữ Văn

bài thơ là không lớn nó bị chi phối bởi đặc điểm của thơ là phải cô đọng hàm
xúc. Chính bởi thế mà người làm thơ đòi hỏi phải có sự xem xét chắt lọc ngôn
từ trong việc thể hiện hình tượng thơ. Dù có nhiều bài thơ không làm theo
khuôn khổ, không gò bó trong số lượng câu chữ, nhưng ở khía cạnh nào đó nó
vẫn không có tầm bao quát lớn như văn xuôi. Có lẽ vì khả năng bao quát như
vậy mà phần nào trong tìm hiểu hình tượng thơ thường khá trừu tượng, nhưng
trong thơ luôn có sự kết hợp của nhiều yếu tố tạo hình, nhạc điệu, khiến thơ dễ
đi vào lòng người.
Không thể phủ nhận được vị trí quan trọng của yếu tố hội hoạ trong thơ
ca. Nếu không nhờ những nhân tố đó người đọc vẫn đang mông lung trong
những ý thơ, tứ thơ để theo đuổi hình tượng trừu tượng trong thơ ca. Tuy các
yếu tố hội hoạ giữ vị trí quan trọng nhưng không thể độc tôn nó trong thi
phẩm, hình tượng có trừu tượng có cụ thể đối với người tiếp nhận hay không
còn phụ thuộc vào các yếu tố khác quan trọng nhất đó là dụng ý nghệ thuật
của người nghệ sĩ. Đôi khi có những hình tượng thơ người nghệ sĩ muốn
người đọc phải có một trình độ nhất định, một tư duy nhất định để thấu hiểu
được, phải trải qua một quá trình khám phá để thấy cái hay cái đặc sắc mà nhà

thơ gửi gắm thông qua hình tượng đó. Cũng có khi nhà thơ cho người đọc dễ
dàng nắm bắt được hình tượng để người đọc có thể tự đưa ra những cảm nhận
về nó. Từ dụng ý của tác giả sẽ quyết định lựa chọn sử dụng các yếu tố nào để
tạo lập hình tượng thơ cho phù hợp. Trong trường hợp này yếu tố hội hoạ trở
thành một trong nhiều phương tiện để nhà thơ sử dụng làm nên một bài thơ.
Thông thường trong mỗi thi phẩm ta luôn thấy không ít trong nhiều các dấu
hiệu của hội hoạ trong thơ. Hình tượng thơ không thể chỉ là một khối trừu
tượng, nó ít nhiều có những phương diện ta có thể thấy được, nó giống như
con đường để ta đi vào khám phá. Để có thể tạo lập nên phương diện nhìn
thấy được của hình tượng, nhà thơ chắc chắn sẽ sử dụng ngôn ngữ thơ giầu

Trường ĐHSP Hà Nội 2

17


Khóa luận tốt nghiệp

Bùi Vũ Ngọc Dung – k33A Ngữ Văn

hình ảnh chi tiết và đó cũng là lúc hội hoạ phát huy được vai trò của một môn
tạo hình giúp định hướng cho sự tiếp nhận của người đọc.
Vị trí của yếu tố hội hoạ trong thơ ca ta có thể tìm trong nhiều sáng tác,
nhưng dễ thấy nhất như trong các thi phẩm của thơ ca Trung Quốc cổ, gần
như đã thực hiện triệt để quan niệm thi trung hữu hoạ. Người ta biết đến
Vương Duy một thi nhân nổi tiếng nhất thuộc trường phái Điền Viên Sơn
Thuỷ - các bài thơ của ông đều mang lại cho người đọc những xúc cảm giống
như đang thưởng lãm những bức tranh.
“Vân âm nguyệt hắc phong sa ác
Kinh tàng thanh trũng hàn thảo sơ

(Mây u ám, trăng xám xịt, gió cát ghê người
Sợ hãi nép vào nấm mồ xanh, cỏ thưa thớt)
(Phọc nhung nhân)
“Tịch dương hồng vu thiếu”
(Nắng chiều đỏ rực hơn lửa nung)
(Thu tứ)
Nhiều nhà thơ khác thì yếu tố hoạ trong thơ cũng có nhưng nó không
được sử dụng tần số cao như trong thơ của Vương Duy.
Yếu tố hội họa được sử dụng rộng rãi trong nhiều thi phẩm của văn học
thế giới, không riêng trong thơ mà truyện ngắn và tiểu thuyết ta cũng thấy có
rất nhiều.
Chúng ta dời không gian thơ Đường đến với những áng thơ tượng trưng
trong văn học Pháp để cảm nhận chất họa, nhạc điệu của Bôđơle đã mang tới
trong thơ ca. Ta hãy nhìn ngắm và lắng nghe những thanh âm và hương sắc
của cuộc sống:
“Mênh mông như ánh sáng, mênh mông như bóng đêm
Hương sắc và thanh âm trong không gian tương ứng…

Trường ĐHSP Hà Nội 2

18


Khóa luận tốt nghiệp

Bùi Vũ Ngọc Dung – k33A Ngữ Văn

Có những mùi hương mát như da thịt trẻ em
Êm nhẹ như tiếng sáo, xanh mướt như cỏ non…”
(Tương ứng- Vũ Đình Liên dịch)

Ngay trong thơ ca Việt Nam các yếu tố của hội họa cũng xuất hiện
nhiều và rất đặc sắc. Những câu thơ của Hàn Mạc Tử không chỉ rực rỡ sắc
màu, còn ngập tràn ánh sáng và những đường nét sinh động gợi hình.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền…”
(Đây thôn Vĩ Dạ- Hàn Mạc Tử)
“Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi”
(Bẽn lẽn)
Thơ Xuân Diệu là cảm thức về một cuộc sống vội vàng, giàu đam mê,
hương sắc cuộc đời với Xuân Diệu đẹp đẽ quá làm ông luôn phải sống vội,
sống gấp “Tôi muốn tắt nắng đi cho màu đừng nhạt mất” và “…muốn buộc
gió lại cho hương đừng bay đi” để tận hưởng cảm giác “ánh sáng chớp hàng
mi” khi mỗi “sớm thần vui hằng gõ cửa” vì “tháng giêng ngon như một cặp
môi gần”. Trong bài thơ “Đây mùa thu tới” thiên nhiên được Xuân Diệu miêu
tả như bóng hình một cô gái đẹp với hình ảnh, đường nét sống động.
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới! mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”
Ở phương Tây người được nhắc tới nhiều nhất khi trong thơ có các yếu
tố hội hoạ được sử dụng với tần số lớn là V.Huygô. Vốn là một người có tài vẽ

Trường ĐHSP Hà Nội 2

19



Khóa luận tốt nghiệp

Bùi Vũ Ngọc Dung – k33A Ngữ Văn

tranh nên ở những sáng tác của mình, Huygô luôn có sự kết hợp rất tài tình
các yếu tố của nghệ thuật hội hoạ trong xây dựng hình ảnh, hình tượng thơ.
Vị trí trong thơ ca của các yếu tố hội hoạ là thiết yếu, quan trọng nó đi
vào thơ ca tự nhiên như vốn dĩ nó là một phương tiện để cấu thành nên thơ và
điều đó được khẳng định qua câu nói của người Trung Quốc cổ “Thi trung
hữu hoạ”.

1.2.

Yếu tố hội hoạ tương quan với các yếu tố khác trong thơ.
Bất kì một tác phẩm nghệ thuật nào luôn được lập thành bởi nhiều yếu

tố. Thơ ca cũng như vậy, một tác phẩm thơ đòi hòi có sự kết hợp của nhiều
yếu tố như hội hoạ, nhạc điệu, kỹ thuật thể hiện và cảm xúc của thi nhân,…
Trong Mĩ học của Heghen có nói tới mối quan hệ giữa ba nghệ thuật:
nghệ thuật tạo hình và nghệ thuật âm nhạc, thơ làm thành nghệ thuật lãng mạn
thứ ba.
Ở đây ta không xem xét những yếu tố chi tiết tạo nên một tác phẩm thơ
mà tìm hiểu sự tương quan của những yếu tố lớn dễ định hình trong bài thơ đó
là yếu tố hội hoạ, yếu tố âm nhạc.
Trước hết là mối quan hệ biện chứng giữa thơ và hoạ. Theo Heghen ở
thơ các chi tiết được nêu lên lần lượt từng cái một, cho nên thơ chỉ có thể lần
lượt hiện lên các yếu tố nằm ở trong tổng thể […]. Các nét khác nhau tuy
được giới thiệu lần lượt, cuối cùng chúng vẫn hợp nhất lại ở trong tinh thần.
Tinh thần là cái bao giờ cũng đồng nhất với mình, đã làm cho khoảng cách
của sự tiếp tục mất đi, tinh thần còn hợp nhất loạt các chi tiết kế tục nhau có

màu sắc sặc sỡ thành một bức tranh duy nhất rồi nó giữ các bức tranh ấy lại
trong biểu tượng để thưởng ngoạn. Sự thể hiện yếu tố hội hoạ trong thơ làm
người tiếp nhận có được cái cảm về hiện thực tri giác trong thơ, đồng thời làm
thơ phóng khoáng vô tận. Cũng có mầu sắc, không gian nhưng thơ không bị

Trường ĐHSP Hà Nội 2

20


Khóa luận tốt nghiệp

Bùi Vũ Ngọc Dung – k33A Ngữ Văn

bó buộc vào một không gian chiều kích nhất định, không bị thu gọn vào một
giây phút nhất định của một tình huống hay một hành động cá biệt, cho nên
thơ có khả năng diễn đạt được hết cái bề sâu bên trong của một đối tượng,
cũng như diễn đạt được hết tầm rộng lớn của cách biểu hiện đối tượng ở trong
thời gian.
Nói riêng về vai trò của hội hoạ với thơ ca ai cũng thấy là nó rất gắn bó,
thiết yếu. Nhưng để làm nên một bài thơ hay ý thơ hình tượng thơ đi sâu vào
lòng độc giả thì trong thơ người ta con thấy có sự kết hợp với âm nhạc tạo nên
tính nhạc trong thơ. Như chúng ta đã biết cái cốt lõi của thơ là chất trữ tình, để
làm nên cái hạt nhân trữ tình ấy đòi hỏi nhà thơ phải kết hợp sáng tạo nhiều
yếu tố: đó là ngôn ngữ thơ giàu chất tạo hình, hình ảnh thơ đặc sắc, nhịp điệu
của câu thơ…
Một tác phẩm thơ ca ra đời nó không phải chỉ sử dụng độc tôn một yếu
tố cấu thành mà nó hoà trộn nhiều yếu tố, kĩ thuật của người làm thơ, của
nhiều loại hình nghệ thuật đặc biệt là của hội hoạ và nghệ thuật.
“Thi trung hữu hoạ” đã khái quát được vị trí đặc biệt của hội hoạ trong

thơ ca và người ta cũng thường đề cập tới tính nhạc trong thơ: cách ngắt nhịp,
cách gieo vần…được tác giả sử dụng khéo léo tạo nên nhạc điệu cho bài thơ.
Có thể nhận thấy rằng trong thơ ca, âm nhạc đóng vai trò cũng rất quan trọng.
Nó có thể được xem là một yếu tố tương cân với hội hoạ trong góp phần thể
hiện hình tượng thơ. Nhờ những yếu tố đó thơ ca vừa bay bổng lãng mạn mà
cũng không gây khó khăn với người tiếp nhận. Nói cách khác hội hoạ và thơ
và âm nhạc có mối quan hệ chặt chẽ bền vững.
Mối quan hệ thơ ca và âm nhạc thì chất liệu bên ngoài mà hai ngành
nghệ thuật này sử dụng đều là âm thanh (thơ sử dụng âm thanh để làm thanh
từ). Nhưng nhạc chỉ diễn tả được tính đa dạng của biểu tượng và các trực giác
của tinh thần cũng như diễn tả tính vẹn thuần của ý thức một cách thuần tuý

Trường ĐHSP Hà Nội 2

21


Khóa luận tốt nghiệp

Bùi Vũ Ngọc Dung – k33A Ngữ Văn

tương đối […]. Nhạc không cung cấp cho tinh thần một hình tượng thấy được,
cảm giác được và luôn luôn có mặt và xuất hiện cùng một sự biểu hiện bằng
âm thanh có thể nói là phi vật chất “hình tượng không thể thấy được” trong
âm nhạc có thể khắc phục được qua thơ, ít nhiều hình tượng tạo lập từ ngôn từ
cũng giúp đông đảo độc giả dễ tiếp nhận hơn hình tượng được xây dựng từ âm
thanh. Có thể nói rằng thơ - nghệ thuật của ngôn từ - làm thành nghệ thuật thứ
ba, một tổng thể nối liền được hai thái cực do các nghệ thuật tạo hình và âm
nhạc tạo thành, đang thực hiện cả sự tổng hợp của hai cái đó. Rồi sau khi kết
hợp của hai thái cực này thơ lại nâng cả hai lên một cấp độ cao hơn : đó là

cấp độ nội cảm có tính tinh thần. Về mặt lí luận mỹ học của Heghen đã chỉ ra
mối quan hệ của ba ngành nghệ thuật: thơ - nhạc - hoạ.
Nhưng đối chiếu vào trong một tác phẩm thơ ca, yếu tố hội hoạ và yếu
tố âm nhạc nằm trong tương quan cân xứng với nhau trong việc góp phần tạo
tính hoạ, tính nhạc để làm nên cái cốt lõi trữ tình và xây dựng hình tượng thơ.
Nói cách khác trong thơ thì hai yếu tố này giữ vị trí quan trọng khi kết hợp với
tâm trạng người nghệ sĩ, kỹ thuật làm thơ trong quá trình tạo dựng hình tượng
thơ.
Để làm thành một bài thơ hay, có giá trị thì người thi sĩ luôn có sự lựa
chọn đăng đối các yếu tố cấu thành để làm sao cho những yếu tố được chọn
mang lại hiệu quả cao nhất trong thể hiện hình tượng, chuyển tải được tốt nhất
những thông điệp nghệ thuật mà người viết gửi vào thi phẩm của mình. Cho
nên trong tác phẩm thơ nói riêng, tác phẩm văn xuôi nói chung tuỳ thuộc vào
nội dung diễn đạt, vào đối tượng cần thể hiện mà nghệ sĩ lựa chọn cách thể
hiện nặng về tính hoạ, tính nhạc hay chỉ là những từ ngữ giàu giá trị biểu
cảm…để xây dựng tác phẩm.

Trường ĐHSP Hà Nội 2

22


Khóa luận tốt nghiệp

Bùi Vũ Ngọc Dung – k33A Ngữ Văn

CHƯƠNG 2: YẾU TỐ HỘI HOẠ TRONG THƠ
VICTO HUYGÔ

2.1. Dấu hiệu hội hoạ trong thơ V.Huygô

2.1.1. Vị trí vai trò
Hội hoạ luôn giữ vai trò quan trọng trong thơ ca nói chung và thơ của
Huygô cũng không phải là ngoại lệ. Ông là một thiên tài về nhiều mặt, bên
cạnh sự thành công ở các lĩnh vực thơ ca, tiểu thuyết, kịch,…Huygô được biết
tới là một hoạ sĩ tài năng, trong cuộc đời mình ông đã vẽ hàng ngàn bức tranh.
Sở hữu khả năng ưu việt ở nhiều lĩnh vực nên người ta nhắc tới Huygô là ngợi
ca ngay đó là con người khổng lồ.
Nói tới yếu tố hội hoạ trong thơ Huygô thì có thể nhận thấy nó chi phối
nhiều đến các sáng tác của Huygô nói chung và đặc biệt là thơ ca, màu sắc,
ánh sáng, đường nét luôn ngập tràn mỗi trang văn, trang thơ của ông. Bằng tài
năng, con mắt thẩm mĩ của người hoạ sĩ lồng ghép với tâm hồn thi nhân, ông
đã sáng tạo ra hàng loạt thi phẩm đặc sắc, đa dạng sắc màu.
Có nhà nghiên cứu đã phải thốt lên về sự phong phú sắc màu, sự hài
hoà trộn màu sắc khéo léo mà Huygô sử dụng trong thơ là không hề thua kém,
thậm chí còn đa dạng hơn so với người hoạ sĩ sử dụng tạo nên bức tranh của
anh ta. Trong thơ Huygô những yếu tố của hội hoạ là thường thấy, đọc bất cứ
bài thơ nào người ta cũng nhận diện được những sắc màu của thiên nhiên, con
người và cuộc sống, cảm nhận được những chiều kích không gian khác nhau
trong hiện thực khách quan và mở ra trước mắt người đọc sự rực rỡ của nhiều
thứ ánh sáng…

Trường ĐHSP Hà Nội 2

23


Khóa luận tốt nghiệp

Bùi Vũ Ngọc Dung – k33A Ngữ Văn


Có lẽ với riêng bản thân nhà thơ V.Huygô các yếu tố hội hoạ đi vào
trang thơ của ông nhẹ nhàng như một điều tất yếu. Và không chỉ thơ mà nhìn
chung các sáng tác nghệ thuật của Huygô luôn là sự đan cài của nhiều ngành
nghệ thuật, người ta có thể thấy những bài thơ giàu nhạc điệu nhiều màu sắc,
ánh sáng. Những cuốn tiểu thuyết lớn như: “Thằng gù nhà thờ đức bà Pari”,
“Những người khốn khổ”…mang tới cho ta hình ảnh những bức tranh ban
mai, những bức tranh đêm, những bức tranh cuộc sống luôn có sức ám ảnh
lớn tới người đọc. Người tiếp nhận không chỉ bay bổng trong những ý thơ, tứ
thơ hay của Huygô mà người ta còn nhớ mãi những chi tiết hình ảnh mà
Huygô đã vẽ lên qua các thi phẩm của mình:
Trong bài thơ “Em bé” (trích trong “Những khúc hát phương Đông”)
làm không ai có thể quên hình ảnh
“Tất cả hoang vắng. Không bên bức tường đen sạm.
Một thiếu nhi mắt biếc, một thiếu nhi Hy lạp ngồi cô đơn.
Mái đầu em cúi nặng tủi hờn
Người nương tựa chốn che thân chỉ có.
Một đoá sơn trà trắng tinh, bông hoa bé nhỏ
Cũng như em quên lãng giữa tan hoang”
Hay những câu thơ như tiếng hát bi ai cho những cuộc đời nghiệt ngã bị
thiên tai vùi dập, bị người đời quên lãng.
“Ôi! Đâu hết những người thuỷ thủ
Chìm trong đêm bi thảm đời người
Kinh hoàng bao lòng mẹ biển ơi!
Phải chăng lúc chiều lên sóng vỗ
Những tiếng người tuyệt vọng kêu la
Mỗi chiều về lại đến cùng ta.”
(Biển đêm)

Trường ĐHSP Hà Nội 2


24


Khóa luận tốt nghiệp

Bùi Vũ Ngọc Dung – k33A Ngữ Văn

Hình ảnh “em bé” trong bài trong bài thơ cùng tên được vẽ lên thông
qua hệ thống những gam màu lạnh “biếc, trắng” gợi lên sự cô đơn lạnh lẽo và
đáng thương. Còn những câu thơ cuối trong “Biển đêm” thì được nhà thơ
biểu hiện thông qua những hình ảnh thơ chìm trong gam màu tối, ta cảm nhận
được nỗi xót thương với những cuộc đời chìm dưới đáy biển, sự ghê rợn của
biển đêm.
Có thể thấy rằng những yếu tố hội hoạ trải rộng trên các trang thơ của
Huygô. Ông đã sử dụng các yếu tố của hội để sáng tạo ra một thứ thơ mang
bản sắc của riêng mình. Có rất nhiều nhà thơ nhà văn đem vào thơ mình mầu
sắc, đường nét, ánh sáng, không gian. Nhưng cũng với các yếu tố ấy, Huygô
đã sáng sáng tạo những tác phẩm thơ mang đậm dấu ấn cá nhân, chính sự
khác biệt đó đã minh chứng cho nhận định Huygô là một tài năng lớn.
Trước khi đi vào tìm hiểu cụ thể yếu tố hội hoạ trong thơ Huygô có
biểu hiện như thế nào, thì cần khẳng định lại một lần nữa tầm quan trọng, sự
thiết yếu của hội hoạ trong thơ ca của Huygô nói riêng và hội hoạ đóng vai trò
to lớn trong các sáng tác của Huygô nói chung từ tiểu thuyết, truyện, kịch.

2.1.2. Các sắc thái hội hoạ trong thơ V.Huygô
Chúng ta vừa cùng nhau tìm hiểu và đã sơ lược nhận định được về vị trí
vai trò quan trọng của yếu tố hội hoạ trong việc làm nên hình tượng của thơ
Huygô. Bên cạnh đóng góp “hiện thực tri giác” trong thơ, thì yếu tố hội hoạ
được Huygô sử dụng khéo léo trong việc tạo ấn tượng riêng khi sáng tạo thơ
ca.

Khẳng định được vai trò của các yếu tố đó như thế nào ta sẽ thấy các
sắc thái hội hoạ trong thơ Huygô được biểu hiện rất đặc sắc và phong phú.
Trước hết chúng ta cần biết các yếu tố cơ bản làm nên một tác phẩm hội hoạ
gồm: chất liệu, tâm trạng người nghệ sĩ, hình dáng, đường nét, màu sắc, kỹ

Trường ĐHSP Hà Nội 2

25


×