Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

bài tập tình huống chương trình chuyên viên chính HVHC: tranh chấp Sử dụng đất của dân chưa cấp nhà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.81 KB, 18 trang )

I-PHẦN MỞ ĐẦU:

Ở nước ta, quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối
hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Quyền lập pháp là quyền ban hành và sửa đổi Hiến pháp và các
đạo luật, xây dựng các quy tắc pháp lý cơ bản để điều chỉnh các mối quan hệ
xã hội . Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất và là cơ quan duy
nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quyền tư pháp là quyền bảo vệ pháp luật
bằng hoạt động xét xử, công tố và các hoạt động khác liên quan trực tiếp đến
xét xử. Quyền hành pháp là quyền chấp hành luật và tổ chức đời sống xã hội
theo pháp luật. Quyền hành pháp bao gồm thẩm quyền lập quy và thẩm quyền
hành chính. Lập quy là quyền ban hành các văn bản pháp quy(văn bản dưới
luật) nhằm cụ thể hoá luật và hướng dẫn thực hiện luật. Hành chính là quyền
tổ chức, điều hành các hoạt động kinh tế -xã hội, đưa pháp luật vào đời sống,
nhằm giữ gìn trật tự an ninh xã hội, phục vụ lợi ích nhân dân,sử dụng có hiệu
quả nguồn tài chính để phát triển đất nước một cách có hiệu quả. Các thẩm
quyền do Chính phủ và hệ thống cơ quan hành chính Nhà nước từ Trung
ương đến địa phương thực hiện là biểu hiện cụ thể của hoạt động quản lý
hành chính Nhà nước.Do đó có thể hiểu rằng quản lý hành chính Nhà nước là
hoạt động thực thi quyền hành pháp nhằm tác động có tổ chức và điều chỉnh
bằng quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi của công
dân do các cơ quan trong hệ thống hành chính từ Trung ương đến cơ sở tiến
hành để thực hiện được chức năng nhiệm vụ của Nhà nước, phát triển kinh tế
xã hội, duy trì trật tự an ninh, thoả mãn nhu cầu hàng ngày của nhân dân.
Hoạt động của các cơ quan Nhà nước mang tính quyền lực-pháp lý, nhân
danh Nhà nước, đại diện cho quyền lực Nhà nước, thể hiện ý chí Nhà nước.
Quyết định quản lý hành chính Nhà nước của cơ quan hành chính là sản phẩm
chứa đựng yếu tố quyền lực, quyền uy, thể hiện ý chí của cơ quan ban hành.
Như vậy, quyết định quản lý hành chính Nhà nước cũng giống như mọi quyết

1




định pháp luật khác đều có tính ý chí, tính quyền lực, tính pháp lý, thể hiện ở
chỗ khi ra quyết định cơ quan, người có thẩm quyền nhân danh Nhà nước, đại
diện cho quyền lực Nhà nước. Mọi cơ quan Nhà nước, mọi tổ chức, cá nhân
thuộc đối tượng thi hành đều phải thực hiện quyết định đó, nếu không tự giác
sẽ bị cưỡng chế thi hành trong trường hợp pháp luật quy định.Như vậy, việc
ra quyết định quản lý hành chính thể hiện ý chí quyền lực Nhà nước của các
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, người có thẩm quyền, được ban hành trên
cơ sở và để thi hành luật theo thủ tục do pháp luật quy định, nhằm định ra ra
chủ trương, chính sách, nhiệm vụ lớn có tính định hướng trong quản lý Nhà
nước, hoặc đặt ra, sửa đổi, bãi bỏ quy phạm pháp luật hiện hành, làm thay đổi
hiệu lực của chúng, hoặc làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quan hệ pháp
luật hành chính cụ thể, để thực hiện các nhiệm vụ và chức năng quản lý Nhà
nước. Theo tính chất pháp lý, quyết định quản lý hành chính Nhà nước được
phân thành 3loại : Quyết định chính sách; Quyết định quy phạm; Quyết dịnh
hành chính cá biệt. Nguyên tắc quản lý Nhà nước bằng pháp luật đòi hỏi mọi
hoạt động của các cơ quan hành chính Nhà nước,trong đó có hoạt động ra
quyết định quản lý hành chính Nhà nước phải ban hành trên cơ sở Hiến pháp,
luật, văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, phải nhằm thực hiện Hiến pháp,
pháp luật và phải hợp lý, nghĩa là phải phù hợp với đườnglối chính trị, nhu
cầu, nguyện vọng của nhân dân và thực tiễn, khả năng quản lý Nhà nước
trong từng giai đoạn cụ thể. Các quyết định quản lý hành chính Nhà nướcphải
hợp pháp và hợp lý thì nó mới có khả năng thực thi, được xã hội chấp nhận có
nghĩa là các quyết định quản lý hành chính Nhà nước không được trái với
Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, và phải được ban
hành trong phạm vi thẩm quyền của cơ quan hoặc chức vụ, và phải được xuất
phát từ lý do xác thực, có nhĩa là chỉ khi nào trong đời sống quản lý Nhà nước
và đời sống nhân dân xuất hiện các nhu cầu, các sự kiện được pháp luật quy
định cần phải ban hành quyết định thì cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm

quyền mới ra các quyết định nhằm quy định chung hoặc áp dụng pháp luật
2


vào các trường hợp cụ thể. Quyết định quản lý hành chính Nhà nước phải bảo
đảm hài hoà lợi ích Nhà nước, tập thể và cá nhân. Khi ban hành quyết định
phải cân đối hợp lý lợi ích Nhà nước và xã hội, coi lợi ích của Nhà nước và
lợi ích chung của công dân làm tiêu chí để đánh giá tính hợp lý của quyết định
quản lý hành chính Nhà nước. Quyết định quản lý hành chính Nhà nước phải
có tính cụ thể và phù hợp với từng vấn đề, với các đối tượng thực hiện. Một
quyết định có hiệu lực và khả năng thực thi cao khi nó được ban hành đúng
lúc, trường hợp không cần thiết mà vẫn ban hành quyết định thì không những
không mang lại hiệu quả mà thậm chí còn gây ra thiệt hại về vật chất, tinh
thần, vì vậy có thể nói hiệu lực của pháp luật Nhà nước và hiệu quả quản lý
xã hội của Nhà nước phần nhiều tuỳ thuộc vào quyết định hành chính của Nhà
nước, do đó qquyết định hành chính phải phù hợp thì sẽ là động lực thúc đẩy
xã hội phát triển theo chiều hướng tích cực. Nếu quyết định sai thì xã hội sẽ
rối ren, lòng dân không yên, uy tín của Nhà nước bị suy giảm. Thực trạng nền
hành chínhe của nước ta hiện nay còn nhiều bất cập do cả một thời kỳ dài
chúng ta vận hành nền hành chính theo hưóng tập trung quan liêu bao cấp phù
hợp với thời kỳ đất nước có chiến tranh. Từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VI đến nay đất nước ta đã và đang từng bước xoá bỏ nền hành chính cũ tiến
dần đến nền hành chính hiệu lực, hiệu quả để thích ứng với công cuộc đổi
mới của đất nước, trong bước đi cụ thể không tránh khỏi có những sự tuỳ tiện,
không chấp hành kỷ luật, kỷ cương, quy tắc, quy chế làm việc của các cơ
quan quản lý hành chính Nhà nước đã làm cho nền hành chính không vận
hành thống nhất từ Trung ương đến cơ sở. Nhiều quyết định trái với quy định
của cấp trên đã làm cho nhân dân thiếu niềm tin chung vào cơ quan hành
chính Nhà nước do nhiều nhuyên nhân có thể do năng lực, trình độ hạn chế,
có thể do vụ lợi cá nhân như trường hợp xảy ra tại ấp Tân Thạnh, xã Tân Phú,

huyện Tân Phụng, tỉnh Cần Thơ.

3


II- TÌNH HUỐNG

Tại ấp Tân Thạnh, xã Tân Phú, huyện Tân Phụng, tỉnh Cần Thơ ( cũ)
toạ lạc một mảnh đất có diện tích 253,75m2,trong chế độ cũ đã có nhiều chủ
sử dụng khác nhau, nhưng đến khoảng năm 1965 thì trở thành đất thuộc diện
vắng chủ và được sử dụng làm hai phòng học. Sau ngày miền Nam hoàn toàn
giải phóng, phần đất này tiếp tục được sử dụng làm phòng học. Đến năm
1992, UBND xã Tân Phú đã bán hai phòng học này cho ông Nguyễn Thanh
Hồng ( 189m2 ) và ông Nguyễn Hữu Truật (64,75m2). Tiếp đó ông Hồng
được UBND huyện Tân Phụng cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối
với phần đất ông đã mua, còn ông Truật thì bán lại phần đất của mình cho ông
Nguyễn Duy Linh. Mọi chuyện trở nên rắc rối khi gia đình bà Nguyễn Thị
Đầm tự dưng phát đơn kiện đòi đất với lý do: trước đây họ là người sử dụng
toàn bộ diện tích đất này. Đòi hỏi vô lý này của bà Đầm lập tức bị UBND
huyện Tân Phụng bác bỏ vì phần đất nói trên là tài sản công, thuộc quyền
quản lý của Nhà nước và bà Đầm cũng không thuộc đối tượng có quyền đòi
đất theo quyết định 111/CP ngày 14/4/1977 của Chính Phủ. Không chịu bỏ
cuộc, bà Đầm tiếp tục khiếu kiện đòi đất nên tháng 3/1997, Chủ tịch UBND
tỉnh Cần Thơ ra quyết định đình chỉ việc xây dựng của gia đình ông Hồng
trên phần đất 189m2. Ngay sau đó, ngày 6/10/1997, Chủ tịch UBND tỉnh Cần
Thơ lại ra quyết định số 2539 với nội dung: huỷ Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất của ông Hồng, thu hồi toàn bộ 189m2 đất của ông Hồng vào
64,75m2 đất của ông Linh để giao cho UBND huyện Tân Phụng sử dụng vào
mục đích công cộng. Nếu quyết định này nhằm "sửa sai" cho việc bán đất trái
thẩm quyền của UBND xã Tân Phú thì chẳng có gì đáng bàn. Tuy nhiên,

những việc làm liền sau đó của UBND tỉnh Cần Thơ, UBND huyện Tân

4


Phụng lại buộc dư luận phải đặt câu hỏi: Việc thu hồi đất nói trên có đơn giản
chỉ là "sửa sai"?
Căn cứ quyết định số 2539, ngày 17/11/1997, UBND huyện Tân
Phụng có tờ trình số 111 gửi UBND tỉnh đề nghị được "hoá giá phần đất nói
trên theo khung giá quy định của Nhà nước, trong đó được ưu tiên các hộ
Nguyễn Thanh Hồng, Nguyễn Duy Linh đang sử dụng". Lý do được đưa ra
là"vị trí phần đất thu hồi(…) diện tích tương dối nhỏ, không thể xây dựng các
công trình phúc lợi phục vụ cho lợi ích công cộng". Mặc dù trong tờ trình này
không hề đả động gì đến hộ bà Đầm nhưng không hiểu vì lý do gì, trong công
văn số 2304 ngày 1/12/1997, UBND tỉnh Cầnt Thơ lập tức chỉ đạo UBND
huyện Tân Phụng "Giao quyền sử dụng đất thổ cư trước đây là nền trường học
tại xã Tân Phú, huyện Tân Phụng cho ba hộ là Nguyễn Thanh Hồng, Nguyễn
Duy Linh và bà Nguyễn Thị Đầm theo hướng giao cho ông Linh diện tích là
64,75m2, ông Hồng 94,5m2, và bà Đầm 94,5m2". Sau đó UBND tỉnh Cần
Thơ liên tiếp ra các công văn số 1990 ngày 8/9/1998 và số 401 ngày 6/2/1999
chỉ với nội dung yêu cầu UBND huyện Tân Phụng tổ chức giao 94,5m2 đất
trước đây là nền trường học tai xã Tân Phú cho hộ bà Nguyễn Thị Đầm (trong
khi bà Đầm đang ngụ tại địa phương khác, và đang quản lý, sử dụng 8.200m2
đất ruộng, 1.700m2 đất vườn và 300m2 đất thổ cư. Điều đó đồng nghiã với
việc bà Đầm không hề có nhu cầu sử dụng đất và cũng không phải là đối
tượng được giao đất theo quy định của pháp luật).
Như vậy, trải qua 7 năm, từ việc UBND xã Tân Phú bán đất trái thẩm
quyền đến hàng loạt các quyết định thu hồi đất, giao lại đất của UBND tỉnh
Cần thơ và UBND huyện Tân Phụng, cuối cùng mọi thứ chẳng có gì thay dổi
ngoài việc ông Hồng bỗng dưng bị mất đi một nửa diện tích đất mà ông đang

sử dụng ổn định."Nếu Nhà nước sử dụng phần diện tích đất trên vào mục đích
công cộng thì tôi đành chịu nhưng đem giao bán cho một cá nhân khác thì tôi
không đồng tình", nguyện vọng này của ông Hồng là chính đáng.
5


Sau sự việc trên dư luận đang dặt câu hỏi : động cơ nào dẫn đến những
quyết định tiền hậu bất nhất này của UBND tỉnh Cần Thơ? Phải chăng là có
tiêu cực trong các quyết định bất hợp lý trên?
III- PHÂN TÍCH VÀ XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
1- CƠ SỞ LÝ LUẬN
Qua xem xét tình huống trên, ta thấy vai trò quản lý của Nhà nước về
quyền sử dụng đất đai, chế độ quản lý của Nhà nước đối vơí đát đai, quyền
hành pháp của Nhà nước về việc ra các quyết định điều chỉnh các quan hệ
xã hội.
1.1- Vai trò quản lý của Nhà nước về quyền sử dụng đất đai.
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt
không thể thay thế được của một số sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, đối với
Việt nam, một nước có 90% số dân làm nghề nông đất đai lại càng có vai trò
quan trọng đặc biệt, đất đai còn là thành phần quan trọng hàng đầu của môi
trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế,
văn hoá, xã hội, an ninh và quốc phòng. Vai trò kinh tế của đất đai đã được
Mác khái quát"Đất là Mẹ, sức lao động là Cha, sinh sản ra mọi của cải vật
chất". Nhà nước xã hội chủ nghĩa ngay từ khi mới ra đời đã ưu tiên giải quyết
các vấn đề về đát đai. Ngay từ khi mới giành được chính quyền, Lê Nin đã ký
sắc lệnh về ruộng đất, xác định quyền sở hữu duy nhất của Nhà nước Xô viết
đối với đất đai. Ở nước ta sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, Nhà nước
đã ban hành các sắc lệnh, đạo luật để quản lý đất đai, ngay cả khi cuộc kháng
chiến chống Pháp chưa hoàn thành, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã
ban hành "Luật cải cách ruộng đất" ngày 4/12/1953 nhằm từng bước xoá bỏ

tàn dư của chế độ phong kiến và đế quốc do sự chiếm hữu đất đai mang lại.
Từ sáu hình thức sở hữu chủ yếu về đất đai : sở hữu của thực dân Pháp, sở

6


hữu của địa chủ, sở hữu của nhà chung, sở hữu của tầng lớp phú ông, sở hữu
của tầng lớp tư sản và sở hữu nhỏ của người nông dân, Nhà nước chỉ còn thừa
nhận hai hình thức sở hữu chủ yếu về đất đai là: Sở hữu Nhà nước và sở hữu
ruộng đất của người nông dân, chính vì vậy việc quản lý và sử dụng đất đai là
nhiệm vụ của toàn xã hội, mà trước hết là nhiệm vụ của Nhà nước, chỉ có Nhà
nước mới có đủ các điều kiện và khả năng để quản lý thống nhất đất
đai.Nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu đặc biệt của Nhà nước đã được quy định
taị điều 19 Hiến pháp 1980 và điều 17 Hiến pháp 1992: Đất đai thuộc sở hữu
toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý, đó chính là cơ sở pháp lý cao nhất
xác định Nhà nước là chủ sở hữu duy nhất và tuyệt đối toàn bộ vốn đất quốc
gia. Quyền sở hữu đất đai thuộc Nhà nước tức là đất đai khong còn thuộc
quyền sở hữu của một tổ chức hay một cá nhân công dân nào. Các tổ chức, hộ
gia đình và cá nhân công dân chỉ là chủ thể của quyền sử dụng đât đai mà
thôi. Nhà nước có quyền nhưng đồng thời cũng có nghĩa vụ khi tham gia vào
quan hệ pháp luật đất đai. Điều 13 Luật Đất đai 1992 xác định hàng loạt nội
dung trong quản lý đất đai của Nhà nước và cũng là nghĩa vụ mà Nhà nước
cần phải thực hiện, cụ thể là Nhà nước thực hiện việc kiểm tra giám sát quá
trình quản lý và sử dụng đất, bảo hộ quyền lợi chính đáng của người sử dụng
đất, giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn trong quan hệ đất đai.
Nhà nước giao đất cho người sử dụng đất, người sử dụng đất là người trực
tiếp thực hiện ý đồ của Nhà nước, nhằm khai thác thuộc tính có ích của đất
phục vụ cho việc phát triển kinh tế, xã hội, Nhà nước có chính sách bảo đảm
cho người làm nông nghiệp có đất để sản xuất, bảo đảm việc thực hiện các
quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp và thừa kế trong thời

hạn giao đất. Điều 73 điểm 6,8 Luật Đất đai còn quy định:"Người sử dụng đất
được Nhà nước bảo vệ khi bị người khác xâm phạm đến quyền sử dụng đất
đai hợp pháp của mình, được bồi thường thiệt hại về đất khi bị thu hồi, được

7


quyền khiếu nại, tố cáo về những hành vi vi phạm quyền sử dụnh đất hợp
pháp của mình và những hành vi khác vi phạm pháp luật về đất đai".

1.2- Chế độ quản lý Nhà nước đối với đất đai.
Các quan hệ đất đai là các quan hệ xã hội trong lĩnh vực kinh tế, bao
gồm:quan hệ sở hữu đất đai, quan hệ sử dụng đất đai. Quản lý Nhà nước đối
với đât đai là tổng hợp các hoạt động của các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền để thực hiện và bảo vệ quyền sở hữu Nhà nước về đất đai, đó là các
hoạt động trong việc nắm chắc tình hình sử dụng đất, trong việc phân phối và
phân phối lại đất đai theo quy hoạch trước mắt cũng như lâu dài, trong việc
thanh tra, kiểm tra giám sát quá trình sử dụng đất.
Hoạt động quản lý đất đai của mỗi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền làm
phát sinh các quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước với nhau và giữa các cơ
quan Nhà nước với người sử dụng đất. Nhà nước ban hành pháp luật để
hướng dẫn các quan hệ đó được phát triển thống nhất và phù hợp với yêu cầu,
lợi ích của Nhà nước và của nhân dân. Vì vậy chế độ quản lý Nhà nước đối
với đất đai là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình quản lý Nhà nước đối với đất đai. Những quy định
này được ghi nhận trong Hiến pháp 1992, trong Luật Đất đai 1993 và một số
văn bản pháp luật về quản lý đất đai như quy định về thẩm quyền giao đất,
quy định về chuyển quyền sử dụng đất.
+ Thẩm quyền giao đất để sử dụng vào mục đích không phải là sản xuất
nông nghiệp theo quy định tại điều 23 khoản 3 điểm d Luật Đất đai

1993…"Kế hoạch giao đất khu đân cư nông thôn để UBND huyện, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh giao đất cho hộ gia đình, cá nhân làm nhà ở".
8


+ Việc chuyển quyền sử dụng đất là thiết lập cho người sử dụng đất
được sử dụng hợp pháp. Nhà nước bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của
người sử dụng đất, quy định này rất chặt chẽ, nhằm mở rộng tối đa quyền của
người sử dụng và việc chuyển quyền sử dụng đất. Mặc dù vậy Nhà nước cũng
quy định các trường hợp không được phép chuyển quyền sử dụng đất tại điều
30 Luật Đất đai 1993 như sau:
Không được chuyển quyền sử dụng đất trong những trường hợp sau
đây:
1-Đất sử dụng không có giấy tờ hợp pháp.
2-Đất giao cho các tổ chức mà pháp luật quy định không được chuyển
quyền sử dung.
3-Đất đang có tranh chấp.
1.3- Tính hợp pháp và hợp lý của một quyết định hành chính.
Tính hợp pháp và hợp lý của một quyết định hành chính có mối liên hệ
chặt chẽ với nhau. Khi ban hành các quyết định hành chính, các cơ quan hành
chính Nhà nước phải bảo đảm tính hợp pháp và tính hợp lý, có như vậy quyết
định đưa ra mới có tính khả thi, được xã hôị đồng tình và chấp hành nghiêm
chỉnh.
+ Tính hợp pháp của một quyết định hành chính được thể hiện như sau:
- Các quyết định quản lý hành chính nhà nước phải phù hợp với nội dung
và mục đích của luật. Có nghĩa là các quyết định quản lý hành chính Nhà
nước không được trái với Hién pháp , luật và văn bản của cơ quan Nhà
nước cấp trên. Nghĩa là các quyết định hành chính Nhà nước không được
vi phạm luật.


9


- Các quyết định quản lý hành chính Nhà nước được ban hành trong phạm
vi thẩm quyềncủa cơ quan hoạc chức vụ. điều này đòi hỏi mỗi cơ quan chỉ
có quyền hạn ban hành quyết định các vấn đề nhất định do pháp luật giao
cho, không lạm quyền,không lẩn tránh trách nhiệm, việc phân định này
nhừm đảm bảo cho cơ quan thực hiện trách nhiệm được chủ động, chống
sự can thiệp trái thẳm quyền của cơ quan khác tránh được tình trạng mất
trật tự trong quản lý hành chính Nhà nước.
- Quyết định quản lý hành chính Nhà nứơc phải được ban hành từ lý do xác
thực. Có nghĩa là chỉ khi trong đời sống quản lý Nhà nước và đời sống
nhân dân có sự xuất hiện các nhu cầu, các sự kiện được pháp luật quy
định phải ban hành quyết định thì cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm
quyền mới ra các quyết định nhằm áp dụng trong các trường hợp cụ thể
hoặc quy định chung.

- Quyết định quản lý hành chính phải được ban hành đúng thể thức. Nếu vi
phạm các điều bắt buộc trên thì quyết định hành chính sẽ trở thành bất
hợp pháp.
+ Yêu cầu hợp lý của một quyết định quản lý hành chính khi nó đáp ứng các
yêu cầu sau:
- Quyết định quản lý hành chính Nhà nước phải bảo đảm hài hoà lợi ích của
Nhà nước, tập thể và lợi ích cá nhân, phải cân đối hợp lý lợi ích Nhà nước
và xã hội, coi lợi ích chung của công dân làn tiêu chí để đánh giá tính hợp
lýcủa quyết định.

10



- Quyết định ban hành phải có tính cụ thể, phù hợp với từng vấn đề, với các
đối tượng thực hiện, do vậy phải phân biệt được nhu cầu, đặc điểm của
đối tượng mà ra quyết định cho phù hợp, trong việc bảo đảm tính cụ thể
và phù hợp cũng cần chú ý tới tính cần thiết. Có như vậy thì quyết định
mới có tính khả thi cao vì nó được ban hành đúng lúc, đáp ứng đúng nhu
cầu. Nếu quyết định ban hành trong trường hợp không cần thiết thì nó
không mang lại hiệu quả và có thể gây thiệt hại vật chất, tinh thần.
2- PHÂN TÍCH XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
2.1- Quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Thanh Hồng.
Trở lại lịch sử mảnh đất 253,75m2 tại ấp Tân Thạnh, xã Tân Phú, huyện
Tân Phụng, tỉnh Cần Thơ (cũ) trước năm 1965 do nhiều chủ sử dụng, nhưng
đến năm 1965 thì mảnh đất thuộc diện vắng chủ nên đã được sử dụng vào
mục đích công cộng là làm hai phòng học, cho tới sau ngày miền Nam hoàn
toàn giải phóng thì mảnh đất đó vẫn được tiếp tục sử dụng làm phòng học.
Đến năm 1992 UBND xã Tân Phú đã bán mảnh đất đó cho hai ông Nguyễn
Thanh Hồng và Nguyễn Hữu Truật, sau đó ông Hồng đã được UBND huyện
cấp giây chứng nhận quyền sử dụng đất ở đây ta phân tích về phía ông Hồng
do nhu cầu chính đáng về chỗ ở ông Hồng đã mua mảnh đất trên do UBND
xã đứng ra bán dù với động cơ gì thì việc bán đất của UBND xã cũng là
không đúng thẩm quyền vì đất đai thuộc quyền sở hữu Nhà nước, Nhà nước
giao đất cho các tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan Nhà nước,
tổ chức chính trị xã hội, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài, trở lại
trường hợp của ông Hồng căn cứ nhu cầu thực tế hiện gia đình ông chưa có
đất ở , UBND xã căn cứ kế hoạch sử dụng đất thực tế tại địa phuơng mảnh
đất trên nếu sử dụng vào mục đích công cộng thì không còn phù hợp vì diện
tích tương đối nhỏ nên có thể hoá giá mảnh đất trên theo khung giá quy định
của Nhà nước cho hộ gia đình ông Hồng sử dụng là phù hợp với quy định của

11



Luật Đất đai. Tuy nhiên do việc làm không đúng thẩm quyền của UBND xã
Tân Phú nên hợp đồng mua bán giữa ông với UBND xã là hợp đồng vô hiệu,
vì vậy ông Hồng không có quyền sử dụng hợp pháp đối với mảnh đất nói trên.
2.2- Phân tích quyết định của UBND huyện Tân Phụng
UBND huyện là cơ quan quản lý hành chính trực thuộc tỉnh được UBND
tỉnh giao đất theo kế hoạch giao đất khu dân cư nông thôn để giao cho hộ gia
đình, cá nhân làm nhà ở theo quy định tại điều 23 khoản 3 điểm d Luật Đất
đai 1993, xét về mặt hình thức thì việc UBND huyện ra quyết định cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đối với ông Nguyễn Thanh Hồng là đúng
thẩm quyền tuy nhiên do hành vi bán đất của UBND xã Tân Phú đối với ông
Hồng là trái với quy định của pháp luật nhưng do UBND huyện Tân Phụng đã
không có sự thẩm tra xem xét trước khi ra quyết định cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất nên không phát hiện được việc làm trái pháp luật của
UBND xã Tân Phú, như vậy xét về chức năng quản lý thì UBND huyện Tân
Phụng chưa làm tròn vai trò, chức năng, nhiệm vụ. Xét về góc độ pháp luật thì
từ việc làm không đúng quy định của UBND xã nên việc ra quyết định cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vô hình chung là dung túng cho việc làm
trái thẩm quyền của UBND xã do đó quyết định cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất của UBND huyện đối với ông Hồng là không hợp lệ dẫn tới việc
khi có khiêú kiện của bà Nguyễn thị Đầm, Chủ tịch UBND tỉnh Cần Thơ đã
ra quyết định đình chỉ việc xây dựng của gia đình ông Hồng và quyết định
huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Hồng.
2.3- Phân tích quyết định hành chính của UBND tỉnh Cần Thơ.
Việc mua đất như đã nêu trên của ông Hồng với UBND xã Tân Phú là trái
quy định của pháp luật nên việc ra quyết định huỷ Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất của Chủ tịch UBND tỉnh Cần thơ đối với ông Hồng là phù hợp với
quy định tại điều 23, 25 Luật Đất đai 1993. Vì hợp đồng mua bán giữa ông
12



Hồng với UBND xã là hợp đồng không đúng quy định của pháp luật do đó
việc sử dụng mảnh đất trên của ông Hồng không được Nhà nước công nhận
và bảo vệ.
Ngày 17/11/1997, UBND huyện Tân Phụng có tờ trình số 111 gửi
UBND tỉnh đề nghị được hoá giá mảnh đất trên theo khung giá quy định của
Nhà nước, trong tờ trình cũng nêu nội dung ưu tiên các hộ Nguyễn Thanh
Hồng, Nguyễn Duy Linh đang sử dụng, về mặt pháp lý thì tờ trình trên vừa
thấu tình vừa đạt lý các hộ có nhu cầu và thực tế đang sử dụng mảnh đất trên
vừa có nơi ở ổn định để an cư yên tâm lao động sản xuất tạo ra của cải vật
chất cho xã hội, vừa tạo cho người dân tin tưởng vào chế độ XHCN của Nhà
nước ta dân chủ, công bằng sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Tuy nhiên không hiểu lý do gì mà UBND tỉnh Cần Thơ lại chỉ đạo UBND
huyện Tân Phụng "giao quyền sử dụng đất thổ cư trước đây là nền trường học
tại xã Tân Phú cho ba hộ là Nguyễn Thanh Hồng, Ngưyễn Duy Linh và
Nguyễn Thị Đầm…", liên tiép các công văn tiếp theo của UBND tỉnh cũng
chỉ một nội dung yêu cầu UBND huyện Tân Phụng tổ chức giao 94,5m2 đất
trước đây là nền trường học tại xã Tân Phú cho bà Nguyễn Thị Đầm.
Theo điều 2,khoản 2 Luật Đất đai thì " Nhà nước không thừa nhận việc
đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính
sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ cách mạng
lâm thời Cộng hoà mièn Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt
Nam", theo tinh thần của điều luật nêu trên thì giả thiết trước đây bà Đầm có
sử dụng mảnh đất trên chăng nữa thì sau ngót 30 năm không sử dụng Nhà
nước sẽ thu hồi theo quy định tại điều 26 khoản 3 Luật Đất đai 1993, theo nội
dung tài liệu có trong hồ sơ thì hộ bà Đầm lại đang sinh sống tại một địa
phương khác và bà Đầm hiện đang quản lý, sử dụng 8.200m2 đất ruộng,
1.700m2 đất vườn và 300m2 đất thổ cư , xét về tình và lý thì bà Đầm không

13



có nhu cầu sử dụng đất và cũng không phải là đối tượng được giao đất theo
quy định của pháp luật. Như vậy thì công văn của UBND tỉnh Cần Thơ yêu
cầu UBND huyện Tân Phụng giao đất cho bà Đầm là bất hợp lý không phù
hợp pháp luật, gây cho nhân dân tâm lý không yên tâm, tin tưởng làm mất
lòng tin của nhân dân, ảnh hưởng không tốt tới tình làng nghĩa xóm. Sự việc
sẽ tốt đẹp hơn nếu UBND tỉnh Cần Thơ dừng lại ở việc ra quyết định huỷ
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Hồng, một quyết định sửa sai
việc bán đất trái thẩm quyền của UBND xã Tân Phú, đưa việc làm của xã đi
đúng quỹ đạo của pháp luật, một quyết định được nhân dân đồng tình và ủng
hộ. Bản thân ông Hồng và những người dân trong xã không sao hiểu nổi vì lẽ
gì mà trong vòng chưa đầy hai tháng từ 6/10/1997 đến 1/12/1997 mà UBND
tỉnh Cần Thơ lại ra hai quyết định tiền hậu bất nhất đến như vậy? Xét về góc
độ pháp lý thì quyết định số 2539 ngày 6/10/1997 của UBND tỉnh Cần Thơ là
đúng căn cứ, nhưng Công văn số 2304 ngày 1/12/1997 của UBND tỉnh Cần
Thơ lại không có căn cứ, thiếu tính thuyết phục vậy thì những người thừa
hành bên dưới là UBND huyện Tân Phú đã khó đồng tình thử hỏi những
ngươì dân ở thôn quê biết trông cậy vào ai để tin tưởng mà yên tâm làm ăn
sinh sống.

14


IV- KIẾN NGHỊ
Đất đai là một vấn đề nhạy cảm và phức tạp, đối với người dân ở nông
thôn đất đai lại càng gắn bó máu thịt, giải quyết các quan hệ về đất đai là
trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trên cơ sở pháp luật
nhằm đem lại sự công bằng, hợp pháp cho quyền lợi chính đáng của nhân
dân. Do vậy khi giải quyết các vấn đề về đất đai đòi hỏi những cơ quan và

người có trách nhiệm phải công tâm, phải có năng lực vận dụng đúng pháp
luật, hợp lý, hợp tình, phải trên cơ sở pháp luật và các văn bản dưới luật để
giải quyết.
Cán bộ chính quyền các cấp từ xã tới huyện, tỉnh là những người được
nhân dân tín nhiệm bầu ra phần lớn là những người có phẩm chất và năng lực
quản lý hành chính, song bên cạnh đó cũng còn không ít các cán bộ còn nhiều
điểm yếu về phẩm chất, tinh thần trách nhiệm, năng lực chuyên môn, kỹ năng
hành chính, bên cạnh đó phong cách làm việc lại chậm đổi mới, tệ quan liêu,
tham nhũng, sách nhiễu nhân dân tiếp tục diễn ra, bộ máy hành chính ở các
địa phương và cơ sở chưa thực sự gắn bó với dân, không nắm chắc được
những vấn đề nổi cộm trên dịa bàn, lúng túng, bị động khi xử lý các tình
huống phức tạp bên cạnh đó họ cũng chưa được trang bị đầy đủ trình độ pháp
luật cũng như khoa học quản lý hành chính Nhà nước. Vì vậy trong kế hoạch
bồi dưỡng cán bộ cho phù hợp với chương trình tổng thể cải cách hành chính
Nhà nước tức là phải xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có số lượng cơ cấu
hợp lý, chuyên nghiệp, hiện đại có phẩm chất tốt, có đủ năng lực thi hành
công vụ, tận tuỵ phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước và phục vụ nhân dân.
Trong quá trình giải quyết các quan hệ về đất đai cần phải quán triệt các quan
điểm sau:
• Trong giải quyết các quan hệ tranh chấp đất đai phải bảo đảm nguyên tắc
xuyên suốt là đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất
15


quản lý, những cơ quan đơn vị những người được giao trách nhiệm quản
lý hành chính trong những lĩnh vực có liên quan đến đất đai không được
coi đó là một đặc quyền để có thể ban phát tuỳ tiện theo ý chủ quan mà
không tuân theo nguyên tắc, không dựa trên cơ sở pháp luật, phải kiên
quyết xử lý những trường hợp sai phạm lập lại trật tự kỷ cương, đem lại
niềm tin cho nhân dân.

• Quán triệt quan điểm lấy dân làm gốc, dựa vào dân, bàn bạc dân chủ,
công khai quỹ đất cho dân biết từ đó phát huy tinh thần đoàn kết tương
trợ trong nội bộ nhân dân, đề cao vai trò của các tổ chức đoàn thể để họ
cùng có đóng góp tham gia giúp các cơ quan chức năng giải quyết có hiệu
quả các quan hệ tranh chấp về đất đai.
• Trong việc giải quyết các quan hệ tranh chấp về đất đai phải nhằm mục
đích phát triển kinh tế, xã hội, ổn định chính trị trên cơ sở Nhà nước "của
dân, do dân và vì dân".
Tuy nhiên để thực hiện được những yêu cầu trên thì Nhà nước cũng cần
ban hành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành
Luật Đất đai được đầy đủ, cụ thể là cơ sở cho các cơ quan và người có
chức năng quản lý thi hành được đồng bộ, thống nhất, tránh sự chồng
chéo giữa các cấp, các ngành trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ
của từng ngành, từng cấp, hạn chế được tệ quan liêu, cửa quyền trong lĩnh
vực quản lý hành chính về đất đai.

16


V - KẾT LUẬN
Con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội, mọi sự phát triển xã hội
đều thông qua hoạt động của con người, quan điểm của Đảng cộng sản Việt
Nam cũngđã chỉ rõ:"Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đặt con người vào
vị trí trung tâm". Xuất phát từ quan điểm đó mọi hoạt động của các cơ quan,
tổ chức trong bộ máy Nhà nước đều quán triệt phương châm:"giải quyết một
cách đúng đắn, có cơ sở khoa học và dựa trên thực tế" các mối quan hệ xã
hội giữa người với người trong mọi lĩnh vực hoạt dộng quản lý Nhà nước,
dựa trên quan điểm biện chứng và lịch sử thì quá trình giải quyết mới hài
hoà, cân đối và hiệu quả. Phải quý trọng, thương yêu con người "thương
người như thể thương thân", đánh giá đúng, hiểu được tâm tư, nguyện vọng,

tình cảm của con người thì mới giải quyết các mối quan hệ xã hội giữa người
với người một cách hiệu quả có như vậy hoạt động quản lý mới đạt mục
tiêu"Vì con người, do con người".
Trong bối cảnh xã hội nước ta hiện nay đang chuyển từ nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN
vấn đề đất đai đang là vấn đề thời sự, nhạy cảm. Người ngày càng nhiều
nhưng đất đai chỉ có giới hạn nên trong lúc này chúng ta phải giải quyết tốt
mối quan hệ đất đai, phục hồi các quyền lợi chính đáng cho những người chủ
thực sự, đem lại niềm tin trong nhân dân về chế độ XHCN tốt đẹp mà thành
quả Cách mạng đã đem lại cho họ là"người cày có ruộng", để cho Nhà nước
thực sự là "của dân, do dân và vì dân" nhằm mục tiêu"Dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ và văn minh", để đạt được mục tiêu tốt đẹp trên
thì Nhà nước với tư cách chủ quản lý thống nhất phải giải quyết tốt và điều
hoà các mối quan hệ về đất đai để cho đất đai thực sự thuộc "sở hữu toàn
dân" với đầy đủ ý nghĩa thực sự./.

17


MỤC LỤC

18



×