Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Giám sát tính tuân thủ thuế ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (827.72 KB, 110 trang )

CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU

GIÁM SÁT TÍNH TUÂN THỦ THUẾ
Ở VIỆT NAM

Chủ nhiệm:

TS. Nguyễn Thị Thanh Hoài

Thành viên: PGS.,TS. Nguyễn Thị Thƣơng Huyền
TS. Vƣơng Thị Thu Hiền
Ts. Nguyễn Đình Chiến
TS. Lý Phƣơng Duyên
TS. Nguyễn Thị Minh Hằng
TS. Tôn Thu Hiền

Hà Nội - 2011
1


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

3

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TUÂN THỦ THUẾ VÀ GIÁM SÁT

6

TUÂN THỦ THUẾ



1.1. Cơ sở lý luận về tuân thủ thuế

6

1.1.1. Quan niệm về tuân thủ thuế

6

1.1.2. Nhân tố ảnh hưởng đến tuân thủ thuế
1.1.3. Tiêu chí đo lường mức độ tuân thủ thuế
1.1.4. Phương pháp đánh giá, đo lường mức độ tuân thủ thuế
1.2. Giám sát tính tuân thủ thuế
1.2.1. Nội dung giám sát tính tuân thủ thuế
1.2.2. Các chủ thể tham gia giám sát tính tuân thủ thuế
1.2.3. Vai trò của giám sát tính tuân thủ thuế
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG TUÂN THỦ THUẾ VÀ GIÁM SÁT TÍNH
TUÂN THỦ THUẾ Ở VIỆT NAM

2.1. Thực trạng tuân thủ thuế ở Việt Nam
2.1.1. Tuân thủ trong việc đăng ký thuế
2.1.2. Tuân thủ trong việc kê khai, tính thuế
2.1.3. Tuân thủ trong việc nộp thuế
2.2. Tình hình giám sát tính tuân thủ thuế ở Việt nam
2.2.1. Hoạt động giám sát của cơ quan quản lý thuế
2.2.2. Hoạt động giám sát của cơ quan quản lý nhà nước khác
2.2.3. Hoạt động giám sát của các cơ quan độc lập
2.3. Đánh giá chung về tính tuân thủ và giám sát tính tuân thủ
thuế ở Việt Nam
2.3.1. Ưu điểm

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
2


CHƢƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG GIÁM SÁT TÍNH TUÂN
THỦ THUẾ Ở VIỆT NAM

3.1. Quan điểm, định hƣớng nâng cao tính tuân thủ thuế
3.1.1 Quan điểm nâng cao tính tuân thủ thuế
3.1.2. Định hướng nâng cao tính tuân thủ thuế
3.2. Yêu cầu đặt ra đối với việc giám sát tính tuân thủ thuế
3.2.1.Giám sát tính tuân thủ thuế phải đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế- xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế
3.2.2. Không ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của các chủ
thể bị giám sát
3.2.3. Cần có sự phối hợp giữa các cơ quan khác nhau nhằm nâng
cao hiệu quả giám sát tính tuân thủ
3.2.4. Chú trọng phát huy vai trò của các cơ quan dân cử trong
việc giám sát tính tuân thủ thuế
3.3. Các giải pháp tăng cƣờng giám sát tính tuân thủ thuế ở Việt
nam
3.3.1.Các giải pháp tăng cường giám sát tuân thủ của người nộp
thuế từ phía cơ quan quản lý thuế
3.3.2. Giải pháp tăng cường giám sát tính tuân thủ thuế của Quốc
Hội và HĐND các cấp.
3.3.3. Các giải pháp từ các cơ quan khác
3.3.4. Các giải pháp bổ trợ

3



LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong cơ chế người nộp thuế tự tính, tự khai, tự nộp thuế, hoạt động
giám sát để nâng cao tính tuân thủ là hết sức quan trọng. Do vậy, việc xây
dựng và thiết lập một cơ chế giám sát tính tuân thủ thuế có hiệu quả đang
được đặt ra như một tất yếu trong cơ chế quản lý thuế hiện đại. Vấn đề là ở
chỗ cần làm sáng tỏ về lý luận và thực tiễn giám sát tính tuân thủ thuế, đặc
biệt phải đánh giá được mức độ tuân thủ thuế của người nộp thuế và đánh giá
được hiệu quả của hoạt động giám sát tính tuân thủ thuế ở Việt Nam hiện nay
để cơ quan quản lý thuế có những cách ứng xử phù hợp, hiệu quả hơn trong
công tác quản lý thuế. Có thể nói, đây là một trong những vấn đề lớn đang thu
hút sự quan tâm sâu sắc của các cơ quan dân cử, của các cơ quan thừa hành
trong lĩnh vực thuế cũng như cộng đồng doanh nghiệp và mọi thành viên
trong xã hội. Tuy nhiên phải thấy rằng, “sự đồng thuận” của người nộp thuế
trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế cũng như hiệu quả của hoạt động giám sát
tính tuân thủ thuế phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như: hệ thống chính
sách, pháp luật thuế; các biện pháp quản lý thuế; ý thức tự giác tuân thủ thuế
của người nộp thuế; trình độ quản lý, điều hành của cán bộ công chức thuế
v.v...
Xoay quanh vấn đề tuân thủ thuế, trên thế giới có nhiều công trình
nghiên cứu, như:
1. Alms. J., Michael Mc.(2003): Tax compliance as coordination game,
Department of Economics, Georgea State University, Atlanta.
2. Andrreoni J., Erard B.,(1998): Tax compliance, Journal of Economic
Literature, Vol XXXVI, pp 818 – 860.
3. Braithwaite,V.,(2001): a new approach to Tax compliance, Working
paper, pp 2 -11, Centre for tax system integrity, the Australian National
University, Canberra.
4



4. Cash Economy Task Force (1998): Improving Tax compliance in the
cash economy, Australia Task office, Canberra
Ở Việt Nam cũng đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về tuân thủ thuế
nói chung và tuân thủ các sắc thuế cụ thể như: tuân thủ thuế thu nhập cá nhân,
tuân thủ thuế thu nhập doanh nghiệp... Nhìn chung, các công trình nghiên cứu
trong nước và nước ngoài chủ yếu tập trung ở khía cạnh tuân thủ của người
nộp thuế, nhất là thể hiện tháp tuân thủ và chiến lược quản lý người nộp thuế
theo mức độ tuân thủ. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam phần lớn đã chỉ
ra hạn chế lớn trong quản lý thuế, đó là sự phối kết hợp chưa đồng bộ giữa cơ
quan thuế và các cơ quan khác có liên quan, do vậy hiệu quả quản lý thuế
chưa cao. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu chưa đi sâu xem xét khía cạnh
giám sát tính tuân thủ của người nộp thuế, của cơ quan quản lý thuế và của
các tổ chức, cá nhân có liên quan. Vì vậy, chuyên đề nghiên cứu “Giám sát
tính tuân thủ thuế ở Việt Nam” thực sự thiết thực và có ý nghĩa trong giai
đoạn hiện nay ở Việt Nam.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ sau đây:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tuân thủ thuế như cơ sở lý luận
của tuân thủ thuế, nội dung tuân thủ thuế, nhân tố ảnh hưởng đến tính tuân thủ
thuế. Đề tài cũng đi sâu xem xét nội dung giám sát tính tuân thủ, chủ thể thực
hiện giám sát tính tuân thủ thuế, cách thức thực hiện giám sát tính tuân thủ.
- Nghiên cứu, đánh giá việc giám sát tính tuân thủ thuế của người nộp
thuế ở Việt Nam hiện nay;
- Nghiên cứu kinh nghiệm giám sát tính tuân thủ thuế của một số nước
và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam;
- Xây dựng các quan điểm, định hướng trong việc thiết lập cơ chế giám
sát tính tuân thủ thuế có hiệu quả ở Việt Nam và đề xuất một số giải pháp
thực hiện.

3. Phạm vi nghiên cứu
5


Giám sát tính tuân thủ thuế là nội dung có phạm vi rộng, tuy nhiên đề tài
chủ yếu tập trung nghiên cứu các nội dung giám sát tuân thủ thuế của người
nộp thuế từ phía của cơ quan quản lý thuế và từ các tổ chức, cá nhân có liên
quan từ năm 2007 (kể từ khi Luật quản lý thuế có hiệu lực) đến nay và đề
xuất các giải pháp đến năm 2020.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu, kỹ thuật sử dụng
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, trên cơ sở phương pháp tiếp cận nêu
trên, đề tài sử dụng các phương pháp sau trong nghiên cứu:
- Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử;
- Phương pháp phân tích, tổng hợp;
- Phương pháp thống kê;
- Phương pháp đối chiếu, so sánh.

6


CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TUÂN THỦ THUẾ VÀ GIÁM SÁT
TUÂN THỦ THUẾ
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TUÂN THỦ THUẾ

1.1.1. Quan niệm về tuân thủ thuế
Tuân thủ là việc chấp hành nghĩa vụ của người nộp thuế theo đúng luật
định, bao gồm các hoạt động đăng ký, kê khai, báo cáo, nộp thuế. Bất kỳ sự vi
phạm nào xuất hiện ở một trong các khâu trên đều dẫn đến sự không tuân thủ

ở các mức độ khác nhau.
Tuân thủ pháp luật thuế của người nộp thuế thể hiện ở việc chấp hành
đầy đủ, kịp thời và đúng đắn các quy định của pháp luật thuế, cụ thể là việc
chấp hành các tiêu chí thời gian, mức độ chính xác trung thực và đầy đủ của
các hoạt động đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế và các nghĩa vụ khác về thuế
của người nộp thuế. Khi

tuân thủ pháp luật thuế của người nộp thuế được

nâng cao, rõ ràng, chính sách pháp luật thuế đã được ban hành và thực thi có
hiệu quả, đạt được các mục tiêu mong muốn. Suy cho cùng, tính đúng đắn
hay tiên tiến của chính sách thuế, tính hiệu quả của công tác quản lý thuế thể
hiện rất rõ ở thực trạng chấp hành pháp luật thuế và của người nộp thuế.
Để đo lường và đánh giá mức độ tuân thủ của người nộp thuế, mỗi quốc
gia sử dụng các phương pháp, cách thức tiếp cận khác nhau, cụ thể:
- Theo quan điểm của Trung tâm nghiên cứu chính sách và quản lý thuế
của OECD, thì tính tuân thủ của người nộp thuế được chia thành 2 nhóm
chính sau đây:
+ Tuân thủ quy định hành chính (Administrative compliance): là việc
người nộp thuế tuân thủ các quy định hành chính về việc kê khai, nộp thuế
đúng hạn. Thông thường, các quy định liên quan đến xác định hành vi tuân
thủ quy định hành chính thường được thể hiện khá rõ ràng trong các văn bản
luật. Tuy nhiên việc xác định tuân thủ kỹ thuật lại khá phức tạp vì khi các luật
7


thuế quy định không rõ ràng và dễ hiểu thì việc xác định chính xác số thuế
phải nộp sẽ gặp nhiều khó khăn.
+ Tuân thủ kỹ thuật (Technical compliance): là việc người nộp thuế thực
hiện tính toán và nộp thuế đúng theo quy định tại các điều của Luật thuế.

- Tại một số nước, quan niệm về tuân thủ của NNT căn cứ theo nghĩa vụ
của NNT: tuân thủ trong việc đăng ký thuế; tuân thủ trong việc nộp hồ sơ khai
thuế; tuân thủ trong việc báo cáo các thông tin đầy đủ và chính xác; tuân thủ
trong việc nộp thuế. Nếu NNT không thực hiện bất kỳ một trong các nghĩa vụ
này thì có thể coi là không tuân thủ và mức độ tuân thủ là không giống nhau.
- Mô hình quản lý thuế hiện đại gắn liền với nguyên tắc quản lý tuân thủ.
Quản lý tuân thủ là sự quản lý dựa trên ý thức tuân thủ (chấp hành) pháp luật
của người nộp thuế. Về cơ bản nguyên tắc quản lý tuân thủ được thể hiện trên
hai phương diện chủ yếu:
+ Nếu người nộp thuế sẵn sàng tuân thủ thì cơ quan thuế tạo điều kiện
thuận lợi tối đa để người nộp thuế tuân thủ thông qua các cơ chế hỗ trợ và ưu
đãi khác nhau;
+ Nếu người nộp thuế không muốn tuân thủ thì cơ quan thuế sẽ áp dụng
các cơ chế và các chế tài khác nhau để buộc người nộp thuế tuân thủ.
Trong quản lý thuế, để nâng cao hiệu quả quản lý và mức độ tuân thủ
pháp luật thuế của người nộp thuế, cơ quan quản lý thuế cần xem xét, đánh
giá mức độ và hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý thuế, mức độ thường
xuyên hay không của tình trạng không tuân thủ để xác định các nhóm người
nộp thuế khác nhau tương ứng với các mức độ tuân thủ thuế khác nhau và có
các biện pháp quản lý thuế phù hợp với từng nhóm người nộp thuế này. Theo
mô hình quản lý thuế xác lập trên cơ sở đánh giá tính tuân thủ của người nộp
thuế của Grabosky và Braithwaite năm 1986, toàn bộ người nộp thuế được
chia thành 4 nhóm tương ứng với mức độ tuân thủ pháp luật của họ và cơ
quan quản lý thuế có các biện pháp tương ứng đối với từng nhóm người nộp

8


thuế này để đảm bảo sự tuân thủ thuế tốt nhất. Mô hình này thể hiện qua sơ
đồ sau:

Đặc điểm của NNT

Phƣơng pháp xử lý của cơ
quan thuế

Hành vi của NNT
Cố tình không tuân thủ

Áp dụng toàn bộ quyền
lực theo luật pháp

10

9

Chiến lƣợc KD Ngành nghề

Không muốn tuân thủ
nhưng sẽ tuân thủ nếu cơ
quan thuế quan tâm

Ngăn chặn thông
qua các biện pháp
phát hiện vi phạm

8

7

6


NNT

Yếu tố xã hội Yếu tố kinh tế
Yếu tố tâm lý

5

Cố gắng tuân thủ
nhưng không phải lúc
nào cũng thành công

Sẵn sàng tuân thủ

Chiến lược của
CQT là tạo áp lực
để giảm số NNT
không tuân thủ

Hỗ trợ để tuân
thủ

4

3

2

Tạo điều kiện
thuận lợi


1
0

Hình kim tự tháp nêu trên thể hiện chiến lược xử lý tuân thủ của cơ quan
thuế. Trong đó, cạnh bên trái của kim tự tháp thể hiện hành vi tuân thủ của
người nộp thuế; cạnh đối xứng bên phải thể hiện nguyên tắc xử lý của cơ
quan thuế đối với hành vi tuân thủ. Mũi tên nằm trên đường trung tuyến thể
hiện chiến lược xử lý của cơ quan thuế nhằm nâng cao tính tuân thủ tự
nguyện của người nộp thuế. Theo đó, toàn bộ người nộp thuế được chia thành
4 nhóm tương ứng với mức độ tuân thủ pháp luật của họ. Bốn nhóm này
tương ứng với 4 mức độ thể hiện hành vi tuân thủ bên trái kim tự tháp. Tương
ứng với 4 nhóm người nộp thuế này là 4 nguyên tắc xử lý khác nhau của cơ
quan thuế. Cụ thể là:
+ Nếu hành vi của người nộp thuế là “sẵn sàng tuân thủ” thì nguyên tắc
xử lý của cơ quan thuế là “tạo điều kiện thuận lợi nhất” để người nộp thuế
tuân thủ.

9


+ Nếu hành vi của người nộp thuế là “cố gắng tuân thủ nhưng không
phải lúc nào cũng thành công” thì nguyên tắc xử lý của cơ quan thuế là “hỗ
trợ” để người nộp thuế tuân thủ.
+ Nếu hành vi của người nộp thuế là “không muốn tuân thủ nhưng sẽ
tuân thủ nếu cơ quan thuế quan tâm” thì nguyên tắc xử lý của cơ quan thuế là
“Ngăn chặn thông qua các biện pháp phát hiện vi phạm” để người nộp thuế
tuân thủ.
+ Nếu hành vi của người nộp thuế là “quyết tâm không tuân thủ” thì
nguyên tắc xử lý của cơ quan thuế là “áp dụng toàn bộ quyền lực theo pháp

luật” để buộc người nộp thuế tuân thủ.
1.1.2. Nhân tố ảnh hƣởng đến tuân thủ thuế
Tuân thủ thuế là một khái niệm phức tạp, diễn ra ở các cấp độ khác nhau.
Cấp độ tích cực nhất là cam kết tuân thủ, tiếp theo là chấp nhận tuân thủ, tiêu
cực hơn là miễn cưỡng tuân thủ và trốn tránh thực hiện nghĩa vụ thuế. Vấn đề
đặt ra là tại sao NNT tuân thủ hoặc không tuân thủ và tại sao NNT lại tuân thủ
ở một cấp độ nào đó. Muốn nâng cao tính tuân thủ của NNT thì cần phải hiểu
tính tuân thủ bị tác động bởi những yếu tố nào và mức độ tác động của những
yếu tố này ra sao để từ đó có biện pháp nâng cao tính tuân thủ thuế. Hành vi
tuân thủ của người nộp thuế không phải là một yếu tố độc lập, bất biến, nó
chịu tác động của các yếu tố trong môi trường hoạt động và các yếu tố trong
bản thân người nộp thuế.
Thứ nhất, nhóm yếu tố về tình hình kinh tế, xã hội: Nhóm yếu tố này bao
gồm các yếu tố như tốc độ tăng trưởng kinh tế, lãi suất, lạm phát, tình hình
chính trị, ngoại giao… Đây là các yếu tố vĩ mô nên ảnh hưởng đến tính tuân
thủ của tất cả các nhóm người nộp thuế. Một khi nền kinh tế phát triển ổn
định, tỷ lệ lạm phát được kiềm chế, tình hình chính trị ổn đinh sẽ có tác động
tích cực đến tính tuân thủ thuế. Ngược lại, sẽ có tác động bất lợi đến tính tuân
thủ thuế. Lạm phát cao ảnh hưởng đến thái độ tuân thủ thuế khi nó tác động
đến mức sinh lợi của các hoạt động sản xuất kinh doanh. Lạm phát ổn định ở
10


mức hợp lý kích thích sản xuất kinh doanh và tác động đến sự tuân thủ thuế
thông qua hiệu ứng thu nhập. Một vấn đề nổi cộm khác đối với các nước đang
phát triển như Việt nam đó là các giao dịch tiền mặt vẫn là chủ yếu, thanh
toán qua các thể chế như ngân hàng, kho bạc vẫn còn hạn chế, điều này cũng
có ảnh hưởng đến mức độ tuân thủ thuế.
Thứ hai, nhóm yếu tố về chính sách pháp luật nói chung và chính sách
thuế nói riêng. Đây là một trong các yếu tố cực kỳ quan trọng tác động đến

tính tuân thủ, bởi lẽ nhóm nhân tố này có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hệ thống chính sách pháp luật là nhân
tố tạo lập môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hệ
thống chính sách pháp luật nói chung và các chính sách thuế nói riêng được
xây dựng đồng bộ, rõ ràng, đơn giản, minh bạch và càng ít ngoại lệ sẽ tạo môi
trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh phát triển, giảm chi phí tuân thủ,
giảm rủi ro do tham nhũng và phiền hà cho người nộp thuế qua đó cũng giúp
cho việc thực hiện tuân thủ thuế tốt hơn. Ngược lại, nếu hệ thống pháp luật
thuế phức tạp, không đồng bộ, thiếu tính chặt chẽ và chồng chéo sẽ làm tăng
cơ hội cho NNT có những hành vi lợi dụng kẽ hở của luật để trục lợi, làm
giảm tác dụng quản lý và răn đe của luật pháp.
Thứ ba, nhóm yếu tố thuộc về quản lý của cơ quan thuế: Đây là nhóm
nhân tố phản ánh khả năng, trình độ tổ chức quản lý của cơ quan thuế. Nhóm
nhân tố này được xác định gồm các nội dung:
- Tổ chức bộ máy hệ thống quản lý thu thuế. Một cơ quan thuế có tổ
chức hợp lý, có trình độ, khả năng quản lý tốt sẽ đảm bảo duy trì tính thực thi
của luật pháp, đảm bảo tính công bằng trong giải quyết các vấn đề tranh chấp
về thuế, qua đó góp phần nâng cao tính tuân thủ thuế.
- Các quy trình nghiệp vụ quản lý thuế, các thủ tục về thuế (thủ tục đăng
ký thuế, kê khai, nộp thuế, hoàn thuế,…) có tính ổn định, minh bạch rõ ràng
sẽ tạo điều kiện thuận lợi tối đa và giảm chi phí tuân thủ cho NNT, giảm rủi
ro do tham nhũng và phiền hà. Nếu thủ tục hành chính thuế quá rườm rà, phức
11


tạp, khó thực hiện sẽ không khuyến khích NNT tuân thủ tự giác, chi phí tuân
thủ vì thế sẽ tăng lên.
- Tính sẵn có, phù hợp và dễ tiếp cận của các dịch vụ hỗ trợ và tư vấn
thuế do cơ quan thuế cung cấp sẽ giúp người nộp thuế giảm gánh nặng tìm
kiếm thông tin về quy định của luật thuế cũng như quy trình tuân thủ. Những

dịch vụ nghèo nàn, khó tiếp cận thường là lý do giải thích cho chi phí tuân thủ
thuế cao, nhất là đối với các doanh nghiệp quy mô nhỏ và đây là một trong
những nguyên nhân cơ bản của trốn thuế.
- Tính cưỡng chế hợp lý của cơ quan thuế thể hiện ở các biến số như: tần
suất thanh tra thuế, khả năng phát hiện trốn thuế và rủi ro về thuế, các biện
pháp cưỡng chế thuế, mức độ nghiêm khắc của hình phạt do trốn thuế. Việc
kiểm soát và cưỡng chế hợp lý của cơ quan thuế sẽ đảm bảo tính răn đe đối
với các trường hợp cố tình vi phạm pháp luật.Ngoài yếu tố thanh tra, kiểm tra
của cơ quan thuế thì việc giám sát tuân thủ thuế nói chung cũng rất quan
trọng, giám sát của xã hội, giám sát của các cơ quan dân cử đối với các hành
vi không tuân thủ, qua đó phát hiện các trường hợp không tuân thủ và có các
biện pháp xử lý phù hợp.
- Trình độ chuyên môn, tính trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp của các
cán bộ, công chức quản lý thuế sẽ góp phần đảm bảo tính nghiêm minh của
pháp luật. Việc kiện toàn tổ chức, bồi dưỡng đào tạo cán bộ thuế là những yếu
tố mang tính chất quyết định cho sự thành công của một hệ thống quản lý
thuế. Đội ngũ cán bộ, công chức thuế giỏi về chuyên môn nghiệp vụ thuế, giỏi
kế toán, thành thạo kỹ năng làm việc, kỹ năng quản lý, có trình độ tin học và
ngoại ngữ, với phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần phục vụ nhân dân, đất
nước sẽ góp phần nâng cao hiệu lực quản lý thuế, nâng cao tính tuân thủ thuế.
Khi cơ quan thuế được xã hội nhận thức là người hoạt động vì lợi ích Nhà
nước và cộng đồng, coi NNT là khách hàng thì sự tuân thủ thuế sẽ đạt ở mức
cao. Ngược lại một chính quyền không đại diện cho quyền lợi chung sẽ giảm
sự hợp tác và tăng sự chống đối.
12


- Trang thiết bị phục vụ công tác quản lý thuế của cơ quan thuế, trình độ
ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động của cơ quan thuế. Theo sự
phát triển của nền kinh tế, số lượng NNT ngày càng nhiều, đòi hỏi phải chú

trọng đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao trình độ ứng dụng công nghệ thông tin
vào quản lý thuế, điều này giúp tiết kiệm không chỉ về nhân lực quản lý của
cơ quan thuế mà còn kéo theo nhiều lợi ích khác như giúp cho NNT được
hưởng các dịch vụ do cơ quan thuế cung cấp ngày một tốt hơn, mức độ hài
lòng của NNT vì thế có thể tăng lên, điều này có tác động tích cực đến mức
độ tuân thủ thuế.
- Các quan hệ cộng tác, phối hợp của cơ quan thuế với các đơn vị có liên
quan trong việc quản lý thuế. Để có thể nắm bắt chính xác về tình trạng tuân
thủ của NTT, cơ quan thuế phải có đầy đủ thông tin. Ngoài những thông tin
do NNT cung cấp thông tin do bản thân ngành thuế thu thập trong quá trình
quản lý còn phải truy cập, tham chiếu với các thông tin khác liên quan đến
NNT do các cơ quan, tổ chức chuyên ngành nắm giữ. Vì vậy, việc thiết lập hệ
thống mạng trao đổi thông tin giữa cơ quan thuế và các cơ quan khác như cơ
quan kho bạc, cơ quan tài chính, cơ quan hải quan, cơ quan quản lý doanh
nghiệp, các ngân hàng thương mại, cơ quan thống kê… là vô cùng quan
trọng.
- Tính động viên, thúc đẩy, mà đặc trưng là các hình thức khuyến khích,
tuyên dương NNT thực hiện tốt nghĩa vụ thuế, công nhận bằng các phần
thưởng vật chất, tinh thần. Nếu cơ quan quản lý có các hình thức động viên
phù hợp sẽ có tác dụng góp phần nâng cao tính tuân thủ của NNT.
Thứ tư, nhóm nhân tố xuất phát từ bản thân NNT: bao gồm các nhân tố
thuộc về đặc thù hoạt động của doanh nghiệp, nhân tố kinh tế, nhân tố hành
vi.
- Đặc thù hoạt động của doanh nghiệp: Mức độ đa dạng và phức tạp
trong cơ cấu hoạt động của người nộp thuế, chất lượng của hệ thống kiểm soát
nội bộ (bao gồm chất lượng các quy trình kiểm soát, sự hợp lý và chặt chẽ của
13


hệ thống kế toán, mức độ tuân thủ các quy trình và hệ thống kế toán, trình độ

của nhân viên), hành vi của các cá nhân tham gia vào hoạt động kinh doanh
và hành vi của người lãnh đạo hoạt động kinh doanh… cũng có tác động
không nhỏ đến mức độ tuân thủ thuế.
- Nhân tố kinh tế
+ Gánh nặng về tài chính: số thuế phải nộp và hành vi tuân thủ thuế luôn
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu phải nộp một khoản thuế quá lớn thì
NNT có thể tránh phải nộp toàn bộ hoặc tìm cách điều chỉnh số liệu báo cáo
nhằm làm giảm số thuế phải nộp.
+ Chi phí tuân thủ: bao gồm thời gian phải bỏ ra để hoàn tất thủ tục thuế,
chi phí về kế toán thuế… và có thể bao gồm cả chi phí về mặt tâm lý như
căng thẳng thần kinh do NNT không nắm chắc họ có đáp ứng được các quy
định của các luật thuế hay không. NNT phải bỏ ra các chi phí trên để tuân thủ
nghĩa vụ thuế, do đó tổng số tiền mà NNT phải chi ra lớn hơn số thuế thực
nộp vào NSNN. Nếu chi phí tuân thủ thấp sẽ dẫn đến mức độ tuân thủ tự
nguyện tăng lên và ngược lại.
- Nhân tố hành vi: là yếu tố chi phối khá quan trọng đến thái độ tuân thủ
thuế. Thuộc nhóm này có thể kể đến như: cảm nhận về sự công bằng trong
tuân thủ thuế; Sợ hãi, lo sợ về khả năng vi phạm pháp luật thuế; Thái độ của
người nộp thuế đối với rủi ro khi trốn thuế... Cụ thể:
+ Sự khác biệt của từng cá nhân: giới tính, tuổi tác, trình độ học vấn,
đạo đức, ngành nghề, tính cách, hoàn cảnh... luôn chứa đựng những rủi ro
nhất định trong việc tuân thủ pháp luật thuế vì nó tác động đến hành vi của
NNT. Nếu NNT hiểu rõ pháp luật thuế, họ có thể tự giác chấp hành pháp luật
thuế tốt hơn và ngược lại sẽ dẫn đến tình trạng tránh thuế, trốn thuế.
+ Cảm nhận về rủi ro tối thiểu cũng có tác động nhất định đến tuân thủ
thuế. Nếu NNT có cơ hội không tuân thủ và họ có ý nghĩ rằng rủi ro không
đáng kể nếu không tuân thủ thì NNT đó dễ dàng chấp nhận rủi ro này để đổi

14



lấy sự không tuân thủ, và do vậy có thể xuất hiện tình trạng không kê khai
hoặc kê khai số liệu tính thuế thấp hơn số liệu thực tế.
+ Cảm nhận về sự không công bằng là nhân tố có ảnh hưởng đến mức độ
tuân thủ thuế. Nếu NNT cho rằng hệ thống pháp luật thuế không đảm bảo sự
công bằng hoặc NNT bị đối xử không công bằng thì họ có thể ít tuân thủ hơn.
Một khi NNT cảm thấy bị đối xử không công bằng, thiếu sự tin tưởng thì
nguy cơ hoạt động của nền kinh tế ngầm có thể gia tăng, NNT cố tình trốn
tránh thực hiện nghĩa vụ thuế. Bên cạnh đó, nhận thức về tính không công
bằng trong tiếp cận thông tin và thủ tục hành chính thuế có tác động không
nhỏ đến tâm lý tuân thủ thuế, đặc biệt khi hệ thống thủ tục tuân thủ thuế phức
tạp, rườm rà.
Thứ năm, các nhân tố khác:
- Các yếu tố xã hội cũng có ảnh hưởng đến tính tính tuân thủ thuế.
Thuộc nhóm này có thể kể đến như: Chuẩn mực xã hội, ảnh hưởng xã hội và
trách nhiệm của từng chủ thể trong một cộng đồng xã hội; Dư luận xã hội,
danh tiếng, vị thế và vai trò của từng chủ thể trong một cộng đồng xã hội
Chuẩn mực xã hội là những tiêu chuẩn hành vi trong tuân thủ thuế do xã
hội mong muốn và được chấp nhận chung của đại đa số người trong xã hội.
Khi NNT xác định được nhóm xã hội tác động lên hành vi tuân thủ thuế của
họ thì chuẩn mực xã hội sẽ tác động lên đạo đức thuế của NNT thông qua ảnh
hưởng của xã hội và sự hỗ trợ của xã hội. Mọi người có thể thấy rằng tư lợi cá
nhân có thể thúc đẩy hành vi khi con người cảm thấy họ là một cá nhân độc
lập với các cá nhân khác, trong khi trách nhiệm công dân có thể thúc đẩy hành
vi khi con người cảm thấy họ là một cá nhân độc lập với các cá nhân khác,
trong khi trách nhiệm công dân có thể thúc đẩy hành vi khi con người cảm
thấy họ là thành viên của một nhóm, một cộng đồng xã hội. Trong cộng đồng
đó, sự tuân thủ thuế sẽ phụ thuộc vào ảnh hưởng của xã hội lên nhận thức
NNT rằng, hầu hết mọi người đều tuân thủ, chỉ một số người không tuân thủ
và hầu hết mọi người là những công dân tốt. Sự tuân thủ sẽ hạn chế khi NNT

15


nhận thức rằng ít người có trách nhiệm công dân. Sự đồng thuận về thuế của
một đối tượng sẽ tác động lên chuẩn mực xã hội về sự tuân thủ thuế và tác
động đến NNT khác.
Theo quan điểm thông thường về hành vi ứng xử của NNT thì NNT còn
tuân thủ luật thuế nếu họ thấy rằng sự không tuân thủ có chi phí cao hơn, có
nghĩa là những khoản tiền phạt mà người trả thuế phải gánh chịu trong trường
hợp trốn thuế bị phát hiện vượt quá số thuế họ phải nộp. Nhưng trong thực tế
có những trường hợp quản lý thuế yếu hoặc rất tốt nhưng NNT vẫn sẵn sàng
nộp thuế hoặc trốn thuế. Điều này có thể không phụ thuộc hoàn toàn vào quản
lý thuế mà còn phụ thuộc vào những giá trị xã hội, đạo đức, nhận thức của
người dân về tính công bằng và mức độ phức tạp của luật thuế. Vai trò của
các nhân tố văn hóa và xã hội là không thể phủ nhận, nhưng tính tuân thủ thuế
sẽ không cao nếu như những hoạt động trốn thuế không bị trừng phạt. Tuy
nhiên, nguồn lực luôn có giới hạn, quản lý thuế không thể đóng vai trò theo
dõi hết mọi NNT tiềm tàng. Vì vậy, phần lớn các nước chuyển sang áp dụng
cơ chế NNT tự tính, tự khai, tự nộp thuế. Trong cơ chế này sự tuân thủ cao
của NNT sẽ cao hơn khi có những quy định và thực thi những sự trừng phạt
nghiêm khắc đối với các trường hợp không tuân thủ.
- Sự phát triển của các dịch vụ như dịch vụ làm thủ tục về thuế, dịch vụ
kế toán, kiểm toán cũng có ảnh hưởng nhất định đến tính tuân thủ thuế. Đặc
trưng của các dịch vụ này là có tính chuyên nghiệp, chuyên môn hóa. Khi các
dịch vụ này phát triển, người nộp thuế có nhiều cơ hội sử dụng chúng, có thể
tạo điều kiện tiết kiệm chi phí, ngoài ra còn góp phần nâng cao tính tuân thủ
pháp luật thuế, giảm thiểu các hành vi vi phạm trong quá trình thực hiện nghĩa
vụ thuế.
1.1.3. Tiêu chí đo lƣờng mức độ tuân thủ thuế
Để đo lường, đánh giá mức độ tuân thủ thuế, mỗi quốc gia sử dụng các

phương pháp, các cách tiếp cận khác nhau.

16


Tại một số nước thuộc khu vực Bắc Mỹ, quan niệm về tính tuân thủ của
người nộp thuế được phân loại theo nghĩa vụ của người nộp thuế, cụ thể:
- Tuân thủ trong việc kê khai thuế (Filling compliance): được đo lường
bằng tỷ lệ phần trăm tờ khai được kê khai đúng hạn;
- Tuân thủ trong việc nộp thuế (Payment compliance): được đo lường
bằng tỷ lệ phần trăm số tiền thuế đã kê khai được nộp đúng hạn;
- Tuân thủ trong việc khai báo thuế chính xác (Reporting compliance):
được đo lường bằng tỷ lệ phần trăm số tiền nộp thuế được kê khai so với số
tiền thuế phải nộp theo quy đinh của luật thuế.
Hiện nay, trong điều kiện áp dụng cơ chế tự tính, tự khai, tự nộp thuế,
thực hiện tổ chức quản lý thuế theo chức năng, đề cao vai trò tự giác của NNT
do vậy hiện nay ở nhiều nước chủ yếu sử dụng các tiêu thức đánh giá mức độ
tuân thủ pháp luật thuế của người nộp thuế dựa trên cơ sở mức độ tuân thủ
thực hiện các nghĩa vụ thuế của NNT theo quy định của pháp luật thuế như
mức độ tuân thủ về đăng ký thuế, nộp hồ sơ khai thuế, mức độ tuân thủ về
khai thuế và mức độ tuân thủ trong nộp thuế, cụ thể:
- Tuân thủ trong việc đăng ký thuế: để đánh giá mức độ tuân thủ trong
việc đăng ký thuế, các chỉ số sau đây thường được sử dụng:
Chỉ tiêu 1: số NNT vi phạm về thời gian đăng ký thuế. Trên thực tế có
thể có một số đối tượng chậm đăng ký thuế để trì hoãn, để tránh nghĩa vụ
thuế. Nếu chỉ tiêu này cao chứng tỏ mức độ tuân thủ trong việc đăng ký thuế
chưa tốt.
Chỉ tiêu 2: tỷ lệ NNT vi phạm về thời gian đăng ký thuế so với tổng số
đối tượng phải đăng ký thuế. Được đo bằng tỷ lệ % giữa số NNT vi phạm về
thời gian đăng ký thuế so với tổng số đối tượng phải đăng ký thuế. Nếu chỉ

tiêu này cao chứng tỏ mức độ tuân thủ trong việc đăng ký thuế chưa tốt.
- Tuân thủ về kê khai thuế, gồm tuân thủ về nộp tờ khai và tuân thủ trong
kê khai thuế.
+ Tuân thủ về nộp tờ khai có thể được chia thành ba chỉ số khác nhau.
17


Chỉ tiêu 3: tuân thủ trong nộp tờ khai của người nộp thuế. Chỉ số này đo
lường tỉ lệ giữa số tờ khai được nộp và số người nộp thuế thực tế được đăng
ký tại cơ quan thuế. Các tờ khai được nộp có thể bao gồm cả tờ khai nộp đúng
hạn và tờ khai chậm nộp. Nếu chỉ tiêu này cao chứng tỏ mức độ tuân thủ thuế
tốt hơn.
Chỉ tiêu 4: tuân thủ trong việc nộp tờ khai đúng hạn, được đo bằng tỉ lệ
giữa số tờ khai nộp đúng hạn trên tổng số tờ khai đã được nộp. Nếu chỉ tiêu
này cao chứng tỏ mức độ tuân thủ thuế tốt hơn.
Chỉ tiêu 5: mức độ tuân thủ trong nộp tờ khai nói chung, là tỉ lệ giữa số
tờ khai đã nộp đúng hạn chia cho tổng số người nộp thuế đã đăng ký. Mức độ
tuân thủ kê khai nói chung này được ước tính là kết quả của hai chỉ số 4 và 5.
Nếu chỉ tiêu này cao chứng tỏ mức độ tuân thủ thuế tốt hơn.
+ Tuân thủ trong kê khai thuế được hiểu là tỉ lệ giữa số thu nhập hay
doanh thu kê khai với số thu nhập/doanh số được chờ đợi sẽ kê khai. Nói đến
mức độ tuân thủ về kê khai thuế là nói đến việc kê khai trung thực các khoản
thu nhập, doanh thu, và sản lượng liên quan đến thuế trực thu hay thuế gián
thu.Tuân thủ trong kê khai có thể được phát hiện, đánh giá trong quá trình
tính và kế toán thuế. Tuân thủ trong kế toán thuế, quyết toán thuế:Tuân thủ
trong kế toán thuế thể hiện ở việc phản ánh, ghi chép trung thực các nghiệp vụ
liên quan đến việc tính toán, xác định số thuế phải nộp.Tuân thủ trong quyết
toán thuế là việc NNT thực hiện tổng hợp kê khai, tính toán xác định việc
thực hiện nghĩa vụ thuế trong kỳ kê khai quyết toán theo quy định của pháp
luật thuế: về tính trung thực, tính đầy đủ, về thời hạn.

- Tuân thủ trong nộp thuế: Nói đến mức độ tuân thủ trong nộp thuế là
nói đến việc nộp thuế đúng hạn, nộp đủ số thuế phải nộp.
Chỉ tiêu 6: Tỷ lệ số người nộp thuế đúng hạn trên tổng số NNT. Chỉ tiêu
này cho biết tỷ lệ NNT tuân thủ tự giác trong việc đảm bảo thời hạn nộp thuế
theo quy định của pháp luật. Nếu chỉ tiêu này cao chứng tỏ mức độ tuân thủ
thuế tốt hơn.
18


Chỉ tiêu 7: tỉ lệ giữa số thuế được nộp đúng hạn trên tổng số thuế phải
nộp theo nghĩa vụ thuế của người nộp thuế. Chỉ tiêu này cho biết tỷ lệ số thuế
đã được NNT đảm bảo thời hạn thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Nếu chỉ tiêu này
cao chứng tỏ mức độ tuân thủ thuế tốt hơn.
Chỉ tiêu 8: tình hình nợ đọng: được xác định là tỷ lệ giữa số thuế nợ
đọng so với tổng số thuế phải nộp. Nếu chỉ tiêu này thấp chứng tỏ mức độ
tuân thủ thuế tốt hơn.
Việc tính toán và phân tích các chỉ tiêu về tuân thủ thuế để đánh giá
mức độ tuân thủ thuế, tìm ra các nguyên nhân và có kế hoạch, biện pháp quản
lý phù hợp nhằm đảm bảo công bằng, góp phần nâng cao mức độ tuân thủ
pháp luật thuế của NNT.
1.1.4. Phƣơng pháp đánh giá, đo lƣờng mức độ tuân thủ thuế
Cơ quan thuế sử dụng các phương pháp khác nhau để đánh giá và đo
lường mức độ tuân thủ thuế. Một số phương pháp phổ biến hiện đang áp dụng
ở các nước trên thế giới có thể kể đến như:
- Phương pháp thống kê: Cơ quan thuế xây dựng các chỉ tiêu đánh giá và
thống kê, phân tích số liệu trên cơ sở số liệu sẵn có tại cơ quan thuế. Phương
pháp này chủ yếu được áp dụng để đo lường các chỉ tiêu như: tỷ lệ số tờ khai
đã nộp được kê khai đúng hạn, tỷ lệ các khoản nợ thuế được thanh toán đúng
hạn, tỷ lệ số tiền người nộp thuế bị truy thu so với số khai báo với cơ quan
thuế… Phương pháp này có ưu điểm là dễ thực hiện vì dựa trên cơ sở dữ liệu

sẵn có của cơ quan thuế và dễ dàng cho việc triển khai xây dựng các ứng
dụng phục vụ cho hoạt động của cơ quan thuế.Tuy nhiên, hạn chế cơ bản của
phương pháp này vì chỉ dựa trên dữ liệu sẵn có nên chưa phản ánh một cách
tổng thể và chính xác tình hình tuân thủ của người nộp thuế.
- Phương pháp điều tra chọn mẫu: cơ quan thuế lựa chọn ngẫu nhiên các
tờ khai trong hệ thống cơ sở dữ liệu sẵn có, sau đó tiến hành đánh giá về tờ
khai có được nộp đúng hạn không? Có được kê khai đầy đủ, trung thực
không? Tờ khai có bị mắc lỗi kê khai không? Lỗi nào thường mắc phải…
19


Muốn áp dụng phương pháp này đem lại kết quả tốt cần phải đảm bảo 2 yêu
cầu: (i) việc lựa chọn tờ khai là hoàn toàn ngẫu nhiên, và (ii) việc phân tích
mẫu phải thật kỹ lưỡng. Phương pháp này rất khoa học và có độ chính xác
cao, nhưng có hạn chế là tốn kém chi phí khi tiến hành.
- Phương pháp phân tích báo cáo tài chính: Phương pháp này được sử
dụng để dự báo khả năng xảy ra trường hợp một người nộp thuế hoặc nhóm
người nộp thuế không tuân thủ pháp luật thuế thông qua việc so sánh, phân
tích một số nội dung trên báo cáo tài chính của người nộp thuế, để từ đó tìm
ra những vấn đề rủi ro trong việc xác định số thuế phải nộp. Việc phân tích
báo cáo tài chính có thể được tiến hành phân tích theo chiều ngang và phân
tích theo chiều dọc.
+ Phân tích theo chiều ngang: so sánh các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính
qua các năm, qua đó xác định được xu hướng thay đổi ổn định và tìm ra
những vấn đề rủi ro trong việc xác định số thuế phải nộp.
+ Phân tích theo chiều dọc: xác định các chỉ tiêu trên báo cáo so với tổng
số, sau đó so sánh với mức bình quân chung của ngành để đánh giá rủi ro có
thể có đối với từng chỉ tiêu trên báo cáo tài chính của NNT.
Thực hiện phương pháp phân tích báo cáo tài chính sẽ giúp cho việc
đánh giá mức độ trung thực của người nộp thuế trong việc kê khai thuế.

- Phương pháp điều tra, khảo sát: Cơ quan thuế có thể phối hợp với các
đơn vị, tổ chức khác thực hiện điều tra, khảo sát người nộp thuế về các vấn đề
liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ thuế với nhà nước. Phương pháp này có
ưu điểm là tiếp cận được một số lượng lớn người nộp thuế và cho thấy được
trình độ hiểu biết, thái độ tuân thủ cũng như những vấn đề khó khăn của
người nộp thuế để thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế. Tuy nhiên, số liệu thu thập
được cũng như độ tin cậy của các số liệu thu được qua điều tra, khảo sát phụ
thuộc rất nhiều vào cách thức xây dựng các bảng câu hỏi và cách thức tổ chức
điều tra, khảo sát.

20


- Phương pháp quan sát trực tiếp: Khi cơ quan thuế có thể thu thập được
các số liệu tin cậy và xác định được khá chính xác số thuế phải nộp của một
NNT, cơ quan thuế sẽ so sánh số dự tính với số kê khai của NNT đó để đánh
giá mức độ trung thực trong việc khai thuế của NNT. Phương pháp này có
tính chính xác cao nhưng khó có thể áp dụng rộng rãi do những khó khăn
trong việc khai thác và kiểm soát các nguồn cung cấp thông tin.
- Phương pháp xây dựng mô hình phân tích: Thông qua việc tổng hợp
các số liệu, chỉ tiêu liên quan đến tính tuân thủ của NNT qua nhiều năm, cơ
quan thuế có thể xây dựng các ngưỡng giới hạn đối với các số liệu, chỉ tiêu
này. Các trường hợp số liệu kê khai, tính toán vượt các ngưỡng giới hạn này
được coi là có nhiều nguy cơ không tuân thủ pháp luật thuế.
Trên đây là các phương pháp thông dụng để đo lường, đánh giá mức độ
tuân thủ thuế. Tuy nhiên, khó có câu trả lời chính xác là nên sử dụng phương
pháp nào vì không có một phương pháp nào có thể đo lường một cách tuyệt
đối đúng và toàn diện mức độ tuân thủ của NNT. Với mỗi quốc gia, căn cứ
vào điều kiện cụ thể để sử dụng các phương pháp cho phù hợp.
1.2. GIÁM SÁT TÍNH TUÂN THỦ THUẾ


1.2.1. Nội dung giám sát tính tuân thủ thuế
Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam đưa ra khái niệm: “Giám sát là
một hình thức hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội nhằm bảo
đảm pháp chế hoặc sự chấp hành những quy tắc chung nào đó được thực hiện
đúng trình tự, thủ tục, hợp pháp và hợp thức”.
Theo khái niệm trên, giám sát là một hình thức hoạt động của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền hoặc của các tổ chức cấp trên với cấp dưới
nhằm mục đích đảm bảo những quy định, quyết định, quy tắc đã ban hành
được thực thi theo đúng pháp luật. Nói cách khác giám sát đảm bảo tính thực
thi pháp luật. Chẳng hạn, trong hoạt động của Quốc hội, giám sát là một chức
năng của Quốc hội nhằm đảm bảo các quy định của Hiến pháp, luật pháp
được thực hiện. Giám sát của Viện kiểm sát nhằm đảm bảo hoạt động của tất
21


cả các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và của công dân tuân thủ các quy
định của pháp luật.
Giám sát tính tuân thủ thuế là một tập hợp các tác nghiệp (các nghiệp vụ)
theo một hệ thống đa tầng do cơ quan quản lý thuế và các cơ quan khác thực
hiện nhằm đảm bảo tính tự nguyện trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế. Hay
nói cách khác, giám sát tính tuân thủ thuế là các biện pháp mang tính chất
nghiệp vụ gồm: Giám sát đăng ký, kê khai thuế, giám sát nộp thuế và giám sát
báo cáo thuế, kế toán, quyết toán thuế.
- Giám sát đăng ký thuế là việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sử
dụng các biện pháp nghiệp vụ để đánh giá mức độ tuân thủ trong việc đăng ký
thuế của các chủ thể có nghĩa vụ thuế.
Giám sát đăng ký thuế bao gồm hai nội dung: 1. Giám sát số lượng đối
tượng phải đăng ký thuế; 2. Giám sát thời gian đăng ký thuế của các chủ thể
phải đăng ký thuế.

Giám sát đăng ký thuế hay còn gọi giám sát ban đầu, tức giám sát hành
vi pháp lý đầu tiên của chủ thể có nghĩa vụ thuế trong quá trình thực hiện
nghĩa vụ thuế. Mục tiêu của giám sát ban đầu là nhằm đảm bảo tính pháp lý,
cập nhật và cung cấp đầy đủ các yếu tố pháp lý làm tiền đề cho các hoạt động
giám sát tiếp theo và đặc biệt là làm tiền đề cho hoạt động giám sát nộp tờ
khai thuế; thứ nữa nhằm giải quyết một số vấn đề trọng yếu như, trong một
thời điểm xác định, có bao nhiêu tờ khai phải nộp cho từng loại thuế.
- Giám sát kê khai thuế: Trên thực tế công tác giám sát kê khai thuế thực
chất là việc theo dõi, so sánh, đối chiếu nhằm tìm kiếm, phát hiện sự khác biệt
giữa các văn tự thuế (hồ sơ khai thuế) được xác lập bởi người nộp thuế và các
tiêu thức, chuẩn mực (như thủ tục, hình thức, thời gian, nội dung, quy định…)
mang tính hành chính thuế hoặc pháp lý thuế.
Giám sát kê khai thuế được thể hiện trên các phương diện cơ bản sau:
Thứ nhất, giám sát nộp hồ sơ khai thuế, cụ thể là giám sát số lượng hồ sơ
khai thuế được nộp. Đây là một nghiệp vụ giám sát rất quan trọng, thể hiện sự
22


tuân thủ pháp luật thuế của doanh nghiệp, tuy nhiên trên thực tế nghiệp vụ
giám sát này thường bị xem nhẹ. Hầu như các báo cáo của ngành thuế từ
trước đến nay chưa có đánh giá đúng và thoả đáng về vấn đề này.
Thứ hai, giám sát hình thức, thủ tục khi hồ sơ khai thuế được nộp. Mục
tiêu của giám sát này là đảm bảo các yếu tố pháp lý như hình thức, thủ tục…
của các hồ sơ khai thuế làm cơ sở cho việc lưu trữ hồ sơ hoặc cơ sở pháp lý
cho việc giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện (nếu có). Việc giám sát này sẽ
phục vụ cho các bộ phận khác khai thác đặc biệt là bộ phận xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực thuế.
Thứ ba, giám sát kê khai tức là giám sát, kiểm tra tính trung thực, chính
xác, đầy đủ các yếu tố liên quan đến việc hình thành kết quả thuế trên từng hồ
sơ khai thuế. Thường việc giám sát kê khai được áp dụng dưới hai hình thức

đó là: Giám sát kê khai theo chiều ngang tức giám sát theo từng loại thuế và
giám sát kê khai theo từng đối tượng, đặc biệt là các đối tượng quan trọng như
các doanh nghiệp lớn chẳng hạn. Việc giám sát kê khai theo chiều ngang
thường chỉ sử dụng cho các loại thuế GTGT, thuế TTĐB với số lượng hồ sơ
khai thuế nhiều, kỳ kê khai ngắn. Mặt khác, việc giám sát theo chiều ngang
cũng có thể áp dụng với việc thanh toán thuế cho từng loại thuế và cho từng
NNT một với điều kiện bộ máy kế toán thuế cho kết quả chính xác.
Thứ tư, giám sát thanh toán thuế trên cơ sở thuế phát sinh theo hồ sơ
khai thuế, bao gồm giám sát thuế đã phát sinh và thanh toán thuế theo phát
sinh. Giám sát này thuộc lĩnh vực thanh toán, được thực hiện bởi đơn vị (bộ
phận) có chức năng kế toán thuế.
- Giám sát nộp thuế: là theo dõi việc chuyển số tiền thuế vào ngân sách
nhà nước của các chủ thể có nghĩa vụ thuế.
Giám sát nộp thuế bao gồm giám sát thời hạn nộp thuế và giám sát số
thuế phải nộp (gồm giám sát số thuế đã nộp và giám sát số thuế còn nợ đọng).
- Giám sát báo cáo thuế, kế toán, quyết toán thuế: là giám sát việc phản
ánh, ghi chép các nghiệp vụ liên quan đến việc tính toán, xác định số thuế
23


phải nộp và giám sát việc rà soát, tổng kết, đánh giá lại quá trình thực hiện
nghĩa vụ nộp thuế trong một khoảng thời gian nhất định theo quy định của
pháp luật thuế.
Các nghiệp vụ (nội dung) giám sát thuế được tổ chức và thực hiện theo
một hệ thống thống nhất, đi từ thấp đến cao và bao gồm hai phương thức
chính: (1). Giám sát đa tầng theo diện rộng; và (2). Giám sát trọng điểm.
Việc giám sát đa tầng theo diện rộng được triển khai trên cơ sở các tác
nghiệp (các nghiệp vụ) giám sát đăng ký thuế, giám sát kê khai thuế, giám sát
nộp thuế và giám sát báo cáo, kế toán, quyết toán thuế (đã được trình bày cụ
thể ở trên).

Giám sát trọng điểm là giám sát trên cơ sở áp dụng nguyên tắc quản lý
rủi ro. Với mô hình quản lý theo chức năng hiện nay, do quá trình quản lý
được phân đoạn và được vận hành theo trình tự nhất định nên việc đánh giá
rủi ro cho các đối tượng là ngang nhau. Do vậy, để hạn chế rủi ro, việc tổ
chức giám sát chặt chẽ, thường xuyên các doanh nghiệp có hoạt động phức
tạp, số thuế lớn, nguy cơ rủi ro cao… tức là giám sát có trọng điểm (hay còn
gọi là giám sát chiều dọc) là hết sức quan trọng và cần thiết. Và đây cũng là
vấn đề mang tính nguyên tắc trong quản lý thuế hiện đại. Như vậy giám sát
trọng điểm hay giám sát các DN lớn thực chất là “giám sát theo chiều dọc”
trong mô hình tổ chức quản lý thuế theo chức năng hiện nay. Mặt khác, giám
sát trọng điểm thể hiện rõ việc áp dụng nguyên tắc quản lý rủi ro trong quản
lý thuế nhằm nâng cao tính tuân thủ thuế của doanh nghiệp trong mô hình
quản lý thuế hiện đại.
Giám sát theo chiều rộng và giám sát trọng điểm các đối tượng quan
trọng kết hợp với nhau trở thành một hệ thống không thể thiếu được trong
toàn bộ mô hình quản lý theo chức năng. Giám sát thường xuyên và giám sát
trọng điểm luôn là hai mặt của một vấn đề thống nhất. Thực hiện tốt hai hình
thức giám sát này sẽ có thể kiểm soát được phần lớn công việc của ngành thuế
và cũng sẽ giúp giảm “gánh nặng” cho công tác thanh tra, kiểm tra thuế.
24


1.2.2. Các chủ thể tham gia giám sát tính tuân thủ thuế
1.2.2.1. Cơ quan quản lý thuế
Cơ quan quản lý thuế là các cơ quan do nhà nước thành lập, có cơ cấu tổ
chức độc lập, hoạt động dựa trên những nguyên tắc chung thống nhất, thực
hiện các hoạt động chấp hành và điều hành trong lĩnh vực thuế.
Cơ quan quản lý thuế bao gồm: Bộ Tài chính, cơ quan thuế và cơ quan
hải quan, trong đó: Bộ Tài chính thống nhất quản lý, chỉ đạo, kiểm tra việc tổ
chức thực hiện công tác thu thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác của ngân

sách nhà nước theo đúng quy định của pháp luật đối với cơ quan thuế, hải
quan và cơ quan khác được nhà nước giao nhiệm vụ thu phí, lệ phí hoặc thu
khác của ngân sách nhà nước; Cơ quan thuế thực hiện quản lý thuế nội địa;
Cơ quan hải quan thực hiện quản lý thuế xuất khẩu,thuế nhập khẩu; thuế giá
trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc của hàng hóa nhập khẩu.
Bộ Tài chính là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về tài chính, bao gồm: ngân sách nhà nước, thuế, phí, lệ phí và thu khác
của ngân sách nhà nước, dự trữ nhà nước, tài sản nhà nước, các quỹ tài chính
nhà nước, đầu tư tài chính, tài chính doanh nghiệp, tài chính hợp tác xã và
kinh tế tập thể. Trong lĩnh vực quản lý thuế và giám sát tính tuân thủ thuế, Bộ
tài chính có trách nhiệm:
- Ban hành quy định về thủ tục, quy trình nghiệp vụ thu, nộp thuế, phí, lệ
phí và các khoản thu khác của ngân sách nhà nước theo quy định của pháp
luật; hướng dẫn các nghiệp vụ: khai thuế, tính thuế, nộp thuế, phát hành lệnh
thu thuế và các nghiệp vụ khác có liên quan;
- Kiểm tra, kiểm soát các nguồn thu của ngân sách nhà nước, việc chấp
hành các quy định của pháp luật về thu, nộp ngân sách nhà nước và xử lý theo
thẩm quyền các hành vi vi phạm pháp luật về thuế, phí, lệ phí và các khoản
thu khác của ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật.
- Đánh giá sự phù hợp của chính sách thuế, phí, lệ phí và các khoản thu
khác của ngân sách nhà nước với các cơ chế, chính sách khác hiện hành và
25


×