Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Phân tích rủi ro từ việc soạn thảo hợp đồng ngoại thương – thực tiễn việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.67 KB, 25 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
KHOA KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
---o0o--TP. Hồ Chí Minh, ngày 31 tháng 3 năm 2012

NHÓM 1
LỚP K09402A

PHÂN TÍCH RỦI RO TỪ VIỆC SOẠN
THẢO HỢP ĐỒNG NGOẠI THƯƠNG
THỰC TIỄN VIỆT NAM


Phân tích rủi ro từ việc soạn thảo hợp đồng ngoại thương - Thực tiễn Việt Nam

Nhóm 1 – Lớp K09402A

2


Phân tích rủi ro từ việc soạn thảo hợp đồng ngoại thương - Thực tiễn Việt Nam

MỤC LỤC

Nhóm 1 – Lớp K09402A

3


Phân tích rủi ro từ việc soạn thảo hợp đồng ngoại thương - Thực tiễn Việt Nam


PHẦN MỞ ĐẦU
Chúng ta đang ở trong kỷ nguyên của toàn cầu hóa, điều này đồng nghĩa với việc có rất
nhiều cơ hội và thách thức đối với mỗi quốc gia trên con đường hội nhập quốc tế và tìm cho
mình một vị trí xứng đáng trong bản đồ kinh tế thế giới. Vấn đề giao thương quốc tế đã
không còn là một khái niệm xa lạ và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung này. Hợp
tác với các đối tác nước ngoài thông qua kí kết các hợp đồng ngoại thương đang là một vấn
đề được rất nhiều doanh nghiệp quan tâm.
Tuy nhiên cần xác định rõ ràng là các hợp đồng ngoại thương phức tạp hơn rất nhiều so
với các hợp đồng trong nước do tính chất quốc tế của nó. Đâu là chuẩn mực cho một hợp
đồng ngoại thương? Đây dường như là một câu hỏi không có đáp án. Sẽ không có một hợp
đồng nào là hoàn hảo cho mọi giao dịch bởi mỗi giao dịch mang tính chất, đặc thù riêng. Do
đó việc soạn thảo hợp đồng đòi hỏi người soạn thảo phải thực sự có kĩ năng và nắm vững tất
cả những thứ liên quan đến hợp đồng. Hơn thế nữa việc lường trước các rủi ro trong lúc soạn
thảo hợp đồng sẽ là một chiếc chìa khóa đảm bảo sự thành công của giao dịch. Dự liệu càng
chính xác, hợp đồng càng rõ ràng, chặt chẽ và giảm thiểu được rủi ro.
Nhưng thực tế cho thấy, có rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam khi kinh doanh với các đối
tác nước ngoài gặp phải những lỗi không đáng có và đã có những cuộc tranh chấp xảy ra.
Hầu hết những lỗi đó thường do tầm hiểu biết về hợp đồng ngoại thương vẫn còn hạn chế đặc
biệt hơn là do việc soạn thảo hợp đồng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Chính vì vậy việc tìm hiểu về
hợp đồng ngoại thương nói chung và những rủi ro trong việc soạn thảo hợp đồng nói riêng sẽ
giúp cho các doanh nghiệp có được một văn bản hợp đồng rõ ràng, chặt chẽ, dễ đọc, dễ hiểu,
dễ thực hiện, đảm bảo được quyền lợi cho các bên, hạn chế tranh chấp và giảm thiểu rủi ro
trong thương mại. Đó là lý do nhóm chúng tôi thực hiện đề tài này với tên gọi “Phân tích rủi
ro từ việc soạn thảo hợp đồng ngoại thương – Thực tiễn Việt Nam”.

Nhóm 1 – Lớp K09402A

4



Phân tích rủi ro từ việc soạn thảo hợp đồng ngoại thương - Thực tiễn Việt Nam

PHẦN NỘI DUNG
Chương I: Rủi ro hiệu lực hợp đồng
Khi soạn thảo hợp đồng, ngoài việc thống nhất các điều khoản trong hợp đồng thì việc
xem xét các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực hợp đồng cần được cân nhắc kĩ trước khi
soạn thảo. Nguy cơ xảy ra việc hợp đồng vô hiệu cần phải được bảo đảm là không xảy ra thì
từ đó các điều khoản khác mới có thể áp dụng cũng như tránh những rủi ro thương mại khác.
Có một số nguyên nhân gây nên việc hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu thường mắc phải, bao
gồm:


Người ký kết hợp đồng không có đủ thẩm quyền ký kết theo pháp luật của nước mà
thương nhân đó có trụ sở.

Nếu việc kí kết hợp đồng diễn ra với một chủ thể không có năng lực pháp luật thì xem
như hợp đồng này không hợp pháp. Có nhiều trường hợp bên bán/mua là pháp nhân nhưng
bên đứng ra ký kết hợp đồng chỉ là đơn vị trực thuộc của pháp nhân như chi nhánh, văn
phòng đại diện, phòng kinh doanh. Dẫn đến việc khó khăn trong việc xác định tư cách đương
sự khi có tranh chấp xảy ra.
Ví dụ: Bên ký kết hợp đồng là một công ty nhưng bên thực hiện một phần hoặc toàn bộ
hợp đồng lại là một công ty liên kết của công ty ký kết hợp đồng.


Đối tượng của hợp đồng không hợp pháp.

Đối tượng hợp đồng phải là hàng hóa được phép xuất nhập khẩu theo các văn bản pháp
luật hiện hành. Nhiều trường hợp các bên tham gia ký kết lại không am hiểu mặt hàng, các
giao dịch bị pháp luật cấm hoặc hạn chế nhưng vẫn ký kết. Ngoài ra, nhiều trường hợp về nội
dung thì hợp pháp nhưng thực chất đối tượng hợp đồng (hàng hóa) lại không bảo đảm các

giấy tờ hợp pháp (như hàng buôn lậu), hoặc để che dấu một hoạt động bất hợp pháp (như khai
thấp giá mua bán để trốn thuế) cũng bị coi là vi phạm bất kể các bên có biết rõ thỏa thuận
ngầm với nhau hay không.
Ngoài ra còn có một số nguyên nhân khác như: nội dung của hợp đồng không hợp pháp,
hình thức của hợp đồng không hợp pháp…

Nhóm 1 – Lớp K09402A

5


Phân tích rủi ro từ việc soạn thảo hợp đồng ngoại thương - Thực tiễn Việt Nam

Chương II: Rủi ro từ việc soạn thảo các điều khoản hợp đồng
1. Tên hàng (Commodity)
Tên hàng là đối tượng mua bán của hợp đồng, có tác dụng hướng dẫn các bên dựa vào đó
để xác định các mặt hàng cần mua bán – trao đổi. Vì vậy đây là điều khoản quan trọng không
thể thiếu giúp cho các bên tránh được những hiểu lầm có thể dẫn đến tranh chấp sau này,
đồng thời dễ dàng phân biệt những sản phẩm khác cùng loại.


Rủi ro:

Nếu các bên không cụ thể hóa hàng hóa mình muốn mà chỉ đàm phán, quy định lỏng lẻo
tên hàng thì sẽ có thể gặp rủi ro như: đối tác sẽ không giao đúng hay cố tình tìm ra kẽ hở
trong tên hàng mà không giao đúng hàng hóa như mong đợi của người mua.
Trong nhiều hợp đồng xuất nhập khẩu do phía Việt nam lập điều khoản này thường ghi
rất sơ sài, đơn giản hoặc viết tiếng nước ngoài có sai sót khiến cho đối tác có những cách hiểu
khác nhau về hàng hoá, đó là những nguyên nhân của nhiều vụ tranh chấp hợp đồng ở Việt
nam.



Giải pháp:

Trong hợp đồng ngoại thương điều khoản tên hàng thường được ghi như sau:
-

Tên hàng kèm theo tên thương mại. VD: Cooking oil Sailing Boat (do tập đoàn

-

Lamsoon sản xuất).
Tên hàng kèm tên khoa học. VD: Weave Fabrric (vải dệt thoi), Knitting fabrric (Vải

-

dệt kim).
Tên hàng kèm theo công dụng của nó. VD: Rice paste (base element for preparation

-

of spring roll) Bánh đa nem.
Ghi tên hàng kèm theo mô tả tổng hợp. VD: Honda super cub custom C70 CMR – IC

-

Colour: Candy rasberry red.
Tên hàng kèm theo chất lượng hàng hoá. VD: Skinless whole dried squid (Mực lột

-


da).
Tên hàng kèm theo tiêu chuẩn kỹ thuật định trước. VD: Tiger Brand Home appliances
made in Japan (220V - 50Hz) (Đồ gia dụng hiệu Tiger chế tạo tại Nhật bản nguồn

điện sử dụng là 220V - 50 Hz).
2. Số lượng/khối lượng hàng hóa (Quantity/Weight)
• Rủi ro:
Đây là một điều khoản không thể thiếu, do vậy trong hợp đồng cần phải thể hiện rõ số
lượng hàng hoá được mua bán. Nhưng vì trên thị trường thế giới người ta sử dụng các hệ đo
lường rất khác nhau cho nên trong hợp đồng cần thống nhất về đơn vị tính số lượng, cách ghi
số lượng/ khối lượng.
Nhóm 1 – Lớp K09402A

6


Phân tích rủi ro từ việc soạn thảo hợp đồng ngoại thương - Thực tiễn Việt Nam

Hàng xuất khẩu của Việt nam phần lớn là hàng nông sản, nguyên liệu thô, với khối lượng
tương đối lớn, như vậy sẽ có hao hụt trong quá trình vận chuyển, lưu kho. Nhưng trên hợp
đồng hay quên quy định mức dung sai cần thiết do vậy nhiều khi xảy tranh chấp trong quá
trình thực hiện.
Ví dụ: Một công ty xuất khẩu lương thực ở Sài gòn bán gạo cho một công ty ở IRAN.
Trên hợp đồng không quy định dung sai, nhưng trong L/C thanh toán ngân hàng lại quy định
dung sai của khối lượng hàng hoá. Kết quả là chi tiết trên các chứng từ thanh toán và L/C
không phù hợp với nhau cho nên ngân hàng mở L/C đã từ chối thanh toán. Người bán Việt
nam phải thương lượng lại với người mua IRAN và phải giảm giá bán để dược thanh toán.



Giải pháp:

Tuỳ theo từng thương vụ và đối tượng của hợp đồng mà chọn cách ghi khối lượng/trọng
lượng cho phù hợp. Trong buôn bán quốc tế người ta thường sử dụng 2 cách ghi khối
lượng/trọng lượng.
-

Cách 1: ghi phỏng chừng, tức là ghi có dung sai và kèm theo chi tiết cho biết dung sai
được người mua chọn hay người bán chọn (“at the seller’s option” hay là “at the
buyer’s option”).

Ví dụ: Trong hợp đồng xuất khẩu 10.000 tấn gạo có dung sai là 5% do người bán chọn
thì có thể chọn một trong các cách sau:
About 10,000MT ~ 5% at the seller’s option
Hoặc 10,000MT approximately 5% at the seller’s option
Hoặc 10,000 MT more or less 5% at the seller’s option
Hoặc from 9500 MT to 10500 MT at the seller’s option
Trường hợp chỉ ghi About 10,000 MT mà không ghi rõ dung sai thì áp dụng theo tập quán
hiện hành đối với các loại hàng hoá:
Ví dụ: 0.5% đối với ngũ cốc.
0.3% đối với cà phê.
10% với hàng hoá là gỗ xuất khẩu.
-

Cách thứ 2: ghi chính xác. Cách này áp dụng đối với những mặt hàng có sử dụng hệ
thống đo lường dân gian để tính toán như con, cái, chiếc, đôi, thùng, kiện, bao...

Ví dụ: Khi mua dầu thô và một số chế phẩm từ dầu, nếu đơn vị tính là thùng thì ghi:
15.000 Barrels only Hoặc 525.000 UK Galons only.
3. Chất lượng/phẩm chất hàng hóa (Quanlity/Specication)

Nhóm 1 – Lớp K09402A

7


Phân tích rủi ro từ việc soạn thảo hợp đồng ngoại thương - Thực tiễn Việt Nam



Rủi ro:

Điều khoản này cho biết chi tiết về chất lượng hàng hoá; nói một cách khác điều khoản
này mô tả về quy cách, kích thước, công suất và các thông số kỹ thuật…của hàng hoá được
mua bán. Mô tả chi tiết và đúng chất lượng hàng hoá là cơ sở xác định chính xác giá cả của
nó, đồng thời buộc người bán phải giao hàng theo yêu cầu của hợp đồng. Nếu mô tả không
kỹ, thiếu chi tiết có thể sẽ dẫn đến thiệt thòi cho một trong hai bên.
Ví dụ: Một công ty ở Sài gòn ký hợp đồng mua 30.000m vải của Hong Kong với điều kiện
trả chậm trong vòng 3 tháng. Bên Việt Nam hy vọng có hàng nhập khẩu để kinh doanh trong
nội địa luân chuyển vốn nhanh. Nhưng phía Hong Kong đã gửi sang loại vải không phù hợp
với thị hiếu người tiêu dùng Việt nam chất lượng kém, độ dày của vải, độ mịn, kỹ thuật in
hoa trên vải cũng vô cùng kém...hàng không bán được phải lưu kho và cũng không có chứng
cứ gì để khiếu nại người bán bởi vì trên hợp đồng không quy định rõ quy cách phẩm chất,
chủng loại hàng. Sau 3 tháng khách hàng đòi tiền, nhà nhập khẩu Việt Nam phải đi vay tiền
để thanh toán.


Giải pháp:

Thông thường trong buôn bán quốc tế người ta thường chọn một trong những cách sau
đây để thể hiện chất lượng của hàng hoá trong hợp đồng ngoại thương:

-

Chất lượng được giao như mẫu: Trong hợp đồng sử dụng cụm từ “as the sample”
hoặc “as agreed samples”.
Phương pháp này được dùng khi mua bán những hàng hoá mà phẩm chất, chất lượng
của nó khó mô tả thành lời, thậm chí qua hình ảnh cũng khó xác định chất lượng của nó;
chẳng hạn như sản phẩm thời trang, đồ trang sức bằng vàng bạc có những đường nét trang
trí cầu kỳ, đồ mỹ nghệ khảm xà cừ hoặc những nét chạm trổ tinh vi hoặc một số loại quần
áo may sẵn, hoặc một số thiết bị phức tạp.
Ví dụ: Nhập khẩu bột giấy theo tiêu chuẩn chất lượng như mẫu và tài liệu kỹ thuật:
Quality: As per samples & technical data.
-

Xác định theo hàm lượng chất chủ yếu trong hàng hoá:
Phương pháp này thường dùng với những hợp đồng mua bán nông sản, hàng rời như

xi măng, hoá chất. Khi xác định chất lượng hàng hoá theo phương pháp này cần chú ý
đến các yêu cầu của đối tác và xem xét khả năng có thể thoả mãn hay không để điều
chỉnh, nếu thấy cần thiết. Nếu không cẩn thận có thể sẽ bị tổn thất khi thực hiện hợp
đồng.
Ví dụ: Trong một hợp đồng xuất khẩu gạo 25% tấm (40% hạt nguyên) cho Ấn Độ
phần quy định chất lượng ghi như sau:
Nhóm 1 – Lớp K09402A

8


Phân tích rủi ro từ việc soạn thảo hợp đồng ngoại thương - Thực tiễn Việt Nam

Moisture


12.0% Max

Broken

25.0% Max

Foreign matter

0.5% Max

Red kernel

4.0% Max

Damage kernel

2.0% Max

Immature kernel

1.0% Max

Whole grain:

40% Min

Khi xác định chất lượng gạo doanh nghiệp đã không hiểu các tiêu chuẩn đánh giá
gạo, nếu gạo đạt chỉ tiêu là 40% hạt nguyên là loại gạo 15% tấm chứ không phải là loại
25% tấm. Khi giao hàng bạn hàng Ấn Độ căn cứ vào tiêu chí này mà từ chối nhận hàng

và buộc phía Việt Nam phải giao loại 40% hạt nguyên tối thiểu, tức là loại 15% tấm. Tất
nhiên phía Việt Nam không thể chở gạo quay lại Việt Nam để thay bằng loại khác, để bạn
hàng nhận gạo và thanh toán phía Việt Nam phải giảm giá, thương vụ này bị lỗ vốn.
-

Xác định chất lượng theo hiện trạng thực tế của hàng hoá: Có nghĩa là hàng hoá thế nào
thì bán thế. Theo phương pháp này người bán không chịu trách nhiệm về chất lượng hàng
đã giao. Trong hợp đồng thường dùng cụm từ: “as it is” hoặc “as it sale”.
Xác định chất lượng theo phương pháp này thường dược áp dụng cho các hợp đồng
mua bán đồ cũ, đồ phế thải, phế liệu, phế phẩm…Đối với những hợp đồng có những chi
tiết, linh kiện rời đi kèm phải quy định rõ trong hợp đồng hoặc phải đính kèm hợp đồng
các bản vẽ cataloge để tránh bất lợi cho người mua.
Các doanh nghiệp Việt Nam thường mua máy móc thiết bị hoặc một số hàng hoá đã
qua sử dụng, nếu không chú ý đến điều khoản này có thể sẽ nhận phải lô hàng quá kém về
chất lượng hoặc thiết bị không đồng bộ mà người bán sẽ phủ nhận trách nhiệm của mình
-

Xác định chất lượng hàng hoá dựa vào bảng thiết kế kỹ thuật hoặc cataloge.
Xác định chất lượng theo các tiêu chuẩn sẵn có trong thực tế.
Xác định chất lượng dựa vào sự xem trước và đồng ý.

Ngoài các phương pháp nêu trên người ta còn sử dụng một phương pháp khác như: dựa
vào chỉ tiêu đại khái quen dùng, dựa vào phẩm chất tiêu thụ tốt trên thị trường lúc ký hợp
đồng… Những phương pháp này không phổ biến do vậy chúng ta không đề cập ở đây.
4. Giá cả (Price)
Đây có thể nói là điều khoản quan trọng nhất của hợp đồng ngoại thương. Mọi điều khoản
khác có thể dễ dàng nhượng bộ hoặc bị thuyết phục nhưng với điều khoản này hầu hết các
bên đối tác đều không muốn nhượng bộ. Chính vì vậy khi thương thảo hợp đồng các bên
thường rất thận trọng đối với điều khoản này.
Nhóm 1 – Lớp K09402A


9


Phân tích rủi ro từ việc soạn thảo hợp đồng ngoại thương - Thực tiễn Việt Nam


-

Rủi ro:

Nhà xuất khẩu có thể phải nhận một số tiền nhỏ hơn nhiều so với khi họ bán hàng hóa với
giá thị trường tại thời điểm thanh toán được quy định trong hợp đồng. Hay nhà nhập khẩu
phải trả giá cao hơn nhiều so với giá thị trường tại thời điểm họ thanh toán cho nhà xuất
khẩu.
Ví dụ: Suốt năm 1993, giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam chỉ đứng ở mức
800USD/MT hoặc 900USD/MT. Cho nên cuối năm khi bạn hàng nước ngoài vào mua cà
phê với mức 1000USSD/MT, nhiều doanh nghiệp đã ký hợp đồng xuất cho hết cả năm
1994. Tuy nhiên, đến giữa năm 1994, giá cà phê trên thị trường thế giới lên tới
1500USD/MT rồi 1800USD/MT tới 2000USD/MT và 2500USSD/MT kéo theo giá thu
mua cà phê trong nước có lúc lên tới 32.000đ/kg, gây thiệt hại rất lớn cho các doanh
nghiệp đã ký kết hợp đồng xuất cà phê với giá cố định là 1000USD/MT.

-

Khai giá trong ký kết hợp đồng là một số cố định trong khi đó các yếu tố cấu thành giá lại
dao động sẽ làm khoản lãi dự tính có thể giảm hoặc không còn nữa. Đây là rủi ro thường
gặp đối các nhà xuất khẩu phải chịu những tác động của những văn bản pháp luật, nhất là
văn bản về thuế.


-

Rủi ro về biến động giá đồng tiền khi có sự biến động của đồng tiền tính giá và đồng tiền
thanh toán. Việc các doanh nghiệp thường quy định việc quy đổi giữa đồng tiền thanh
toán và đồng tiền tính toán có thể gây khó khăn nghiêm trọng cho người bán lẫn người
mua. Đối với người bán, khi tiền tệ trên thế giới giảm giá, dù chỉ chút ít cũng làm thay đổi
nhiều tổng số tiền người bán thu được từ người mua, vì giá trị hàng hoá trong thương vụ
XK thường rất lớn.


Giải pháp:

Có thể bổ sung vào hợp đồng những điều khoản về giá như sau:
-

Điều khoản điều chỉnh giá:
Cho phép nhà XK điều chỉnh giá theo một chỉ tiêu mà doanh nghiệp đã chọn. Các chỉ tiêu

này có thể là giá cả thị trường của hàng hoá lúc giao hàng, mức thuế tăng, sự biến động của
giá cả nguyên vật liệu…
Điều khoản này có thể được quy định như sau: Giá ghi trong hợp đồng này là giá cố định.
Nếu tỷ giá giữa đồng tiền thanh toán và đồng tiền tính giá biến động quá 5% giữa ngày ký
hợp đồng và ngày hoàn thành thủ tục hải quan giá có thể điều chỉnh lại theo công thức. Trong
trường hợp phải vận dụng điều khoản này, hai bên phải thoả thuận trước với nhau nguồn tài

Nhóm 1 – Lớp K09402A

10



Phân tích rủi ro từ việc soạn thảo hợp đồng ngoại thương - Thực tiễn Việt Nam

liệu để phán đoán sự biến động của giá cả và thoả thuận mức chênh lệch tối đa giữa giá thị
trường với giá hợp đồng. Khi quá mức này, có thể điều chỉnh lại giá.
-

Điều khoản đàm phán lại giá:
Đưa vào HĐ một giá buộc hai bên phải tham gia thảo luận lại khi có sự tăng giá đáng kể.
Chẳng hạn: "Giá bán của hàng hóa này là cố định, nếu giá thị trường trong nước chúng tôi
(hay nước bạn) về mặt hàng này tăng quá 10%, hai bên sẽ gặp nhau cùng thảo luận để đạt
một thảo thuận mới về giá".
Khi sử dụng điều khoản này, các bên nên tính các giải pháp thay thế để tránh bế tắc khi
hai bên không đạt được thoả thuận trong lúc tái đàm phán. Nên quy định thời hạn tái đàm
phán, nếu quá thời hạn đó mà không đạt được thoả thuận thì hai bên sẽ vận dụng điều khoản
dự phòng như điều khoản huỷ hợp đồng chẳng hạn...
5. Giao hàng (Shipment)
Điều khoản về giao hàng trong hợp đồng ngoại thương là một điều khoản khá quan trọng
vì nó liên đến việc xác định thời gian, địa điểm hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc chuyển
giao rủi ro cho người mua hay người vận chuyển. Khi phân tích rủi ro về điều khoản này, yếu
tố liên quan nhiều nhất là Incoterms về điều kiện giao hàng giữa người bán và người mua, tuy
nhiên, trên thực tế việc hiệu lực các điều kiện giao hàng ấy có phần rộng hơn và sâu hơn.
Cụ thể trong điều kiện giao hàng các bên phải thống nhất với nhau những nội dung cơ bản
sau:



Thời hạn giao hàng: có thể có nhiều cách xác định, tuy nhiên người ta thường quy định thời
hạn giao hàng theo những cách sau:
- Giao hàng trong một khoảng thời gian nào đó
Thời hạn giao hàng được qui định theo những cách: From (June 16th, 1999) To (July

16th, 1999) hoặc in July 1999.
-

Giao hàng theo một mốc quy định nào đó
Trên hợp đồng ghi theo một trong những cách sau: Not later than July 31st 2006, To be

effected latest to July 31st 2006.
-

Thời hạn giao hàng được quy định theo một điều kiện nào đó: While 30 days after
L/C issued date, Within 30 days after effective date of this agreement, Giao hàng ngay lập
tức (Prompt/ immediately), Giao hàng càng sớm càng tốt (as soon as possible).
Những ví dụ trên trong thực tiễn khá phổ biến, việc lựa chọn khoảng thời gian giao hàng

như vậy sẽ giúp doanh nghiệp chủ động nguồn hàng và làm hàng được tốt hơn, tránh những
biến cố bất lợi cho việc sản xuất kinh doanh, tránh được những chi phí phát sinh không đáng
có nếu làm hàng sớm hoặc trễ hơn khoảng thời gian hợp lý cho việc làm hàng. Tuy nhiên trên
Nhóm 1 – Lớp K09402A

11


Phân tích rủi ro từ việc soạn thảo hợp đồng ngoại thương - Thực tiễn Việt Nam

thực tế, rủi ro có thể xuất phát từ điểm này trong điều khoản giao hàng cũng rất phổ biến, ví


dụ: tàu chở hàng gặp sự cố, bị vướng mắc ở một số thủ tục hải quan và thông quan…
Xác định địa điểm giao hàng: thông thường các bên phải thống nhất địa điểm giao hàng theo
các điều kiện giao hàng của Incoterms và nên thống nhất cụ thể cảng Loading port và cảng

Destination port. Việc quy định như vậy sẽ giúp doanh nghiệp tránh được chi phí phát sinh



trong quá trình vận chuyển, cũng như hợp đồng ngoại thương được mạch lạc hơn.
Về phương thức giao hàng: gồm một số nội dung chủ yếu sau: Có cho phép chuyển tải hay
không (Transhipment), giao hàng toàn bộ hay từng phần (Partial shipment), giao một lần hay
giao nhiều lần (Shipment by instalment).
Việc xác định phương thức giao hàng nào thích hợp phụ thuộc vào nhiều yếu tố trên cơ sở
thỏa thuận của hai bên, do vậy khi đàm phán ký kết hợp đồng cần chú ý cân nhắc phù hợp với
khả năng cân nhắc của người bán hàng; nhưng đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc
nhận hàng của người mua nhưng vẫn đảm bảo lợi ích. Ngoài ra, 2 yếu tố là: điều kiện cảng
biến và chi phí cho việc giao nhận hàng hóa cực kỳ cần thiết trong việc xem xét và tránh rủi



ro phát sinh trong điều kiện giao hàng.
Thông báo giao hàng: Các điều kiện về cơ sở giao hàng đã bao hàm nghĩa vụ về thông báo
giao hàng. Tuy nhiên, trong thực tế, tùy theo yêu cầu mà các bên có thể thỏa thuận thêm về
nghĩa vụ thông báo giao hàng. Căn cứ vào các mốc thời gian hành trình của hàng hóa mà
người ta thỏa thuận về số lần cần thông báo về tình hình giao hàng và những nội dung liên

-

quan đến giao hàng. Căn cứ vào mốc thời gian, các lần giao hàng thường là:
Thông báo trước khi giao hàng: Người bán thông báo việc hàng đã tập kết sẵn sàng để giao
hoặc ngày dự kiến đem hàng ra cảng, còn người mua thông báo về những chỉ dẫn người bán

-


trong việc gửi hàng về chi tiết lên tàu đến nhận hàng (nếu như người mua thuê tàu).
Thông báo sau khi giao hàng: Người bán thông báo ngày đã giao hàng, số vận đơn, tình hình
hàng đã giao và thời gian dự kiến tàu cập cảng (nếu tàu do bên bán thuê).
Như vậy việc hiểu rõ về việc thông báo giao hàng trong hợp đồng sẽ giúp cho bên bán và
bên mua tránh được rủi ro từ những chi phí phát sinh trong giao hàng, và giúp cho cả hai bên
chủ động điều phối phù hợp nguồn lực để giao cũng như nhận hàng.
6. Thanh toán (Payment)
Incoterms quy định nghĩa vụ người bán phải giao hàng đúng như hợp đồng và được thanh
toán, trong khi đó nghĩa vụ của người mua là phải nhận hàng và thanh toán cho người bán. Vì
vậy cũng như điều khoản giao hàng, điều khoản thanh toán giữ vị trí rất quan trọng trong hợp
đồng ngoại thương, vì nó liên quan trực tiếp đến quyền lợi của cả hai bên. Trong nội dung của
điều khoản thanh toán thì phương thức thanh toán là nội dung quan trọng nhất và tiềm ẩn
nhiều rủi ro nhất. Do đó khi soạn thảo hợp đồng ngoại thương cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng
Nhóm 1 – Lớp K09402A

12


Phân tích rủi ro từ việc soạn thảo hợp đồng ngoại thương - Thực tiễn Việt Nam

đặc điểm riêng của hợp đồng, mối quan hệ của các bên cũng như các điều khoản khác để lựa
chọn phương thức thanh toán phù hợp nhằm hạn chế tối đa rủi ro đến từ điều khoản thanh
toán trong hợp đồng.
Phương thức thanh toán được hiểu là cách thức mà các bên thực hiện nghĩa vụ giao, nhận
tiền khi mua bán hàng hoá. Có rất nhiều phương thức thanh toán khác nhau được áp dụng
trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Mỗi phương thức thanh toán lại tiềm ẩn những
rủi ro khác nhau về phía người mua hoặc người bán do đó nhóm chúng tôi sẽ đi phân tích rủi
ro của từng phương thức để trong quá trình soạn thảo hợp đồng các bên có cơ sở lựa chọn
phương thức thanh toán phù hợp nhất.
Phương thức chuyển tiền (Remittance): Trong giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế, theo

phương thức này, người mua yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho
người bán (người hưởng lợi) ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do
người mua quy định.
Trên thực tế, nhiều trường hợp, người mua sẽ không chuyển tiền hàng cho người bán cho
đến khi nhận đầy đủ hàng. Đây là một lợi thế của người mua nhưng lại là rủi ro của người
bán khi hàng hóa đã được chuyển giao nhưng tiền hàng không được thanh toán, bị chậm trễ
thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ. Tuy vậy, bên mua cũng có thể gánh chịu rủi ro, đặc
biệt trong trường hợp được yêu cầu chuyển tiền trước khi giao hàng như: nhận toàn bộ tiền
hàng trước khi giao hàng, đặt cọc, tạm ứng…
Để phòng ngừa rủi ro do phương thức chuyển tiền đem lại các bên nên qui định rõ ràng
trong hợp đồng về lộ trình chuyển tiền (ví dụ chuyển trước bao nhiêu % tại thời điểm nào?;
thanh toán phần còn lại tại thời điểm nào?…); thỏa thuận thời điểm chuyển tiền trùng với thời
điểm giao hàng; quy định rõ về phương tiện chuyển tiền, chi phí chuyển tiền do bên nào
chịu...
Phương thức tín dụng chứng từ (L/C): Thực chất trong hoạt động mua bán hàng hóa
quốc tế, phương thức thanh toán thư tín dụng đã chuyển trách nhiệm thanh toán từ nhà nhập
khẩu sang ngân hàng, bảo đảm nhà xuất khẩu giao hàng và nhận tiền hàng an toàn, nhanh
chóng, nhà nhập khẩu nhận được hóa đơn vận chuyển hàng đúng hạn. Vì vậy, ở một mức độ
nhất định, L/C là phương thức thanh toán cân bằng được lợi ích của cả hai bên xuất khẩu và
nhập khẩu và giải quyết được mâu thuẫn không tín nhiệm nhau của cả hai bên.
Tuy nhiên, khi trong hợp đồng qui định phương thức thanh toán L/C thì các bên cần lưu ý
các đặc điểm sau đây nhằm tránh rủi ro của phương thức thanh toán này:

Nhóm 1 – Lớp K09402A

13


Phân tích rủi ro từ việc soạn thảo hợp đồng ngoại thương - Thực tiễn Việt Nam




Ngay sau khi nhận được thư tín dụng, người xuất khẩu nên kiểm tra cẩn thận các điều
khoản trong thư tín dụng với những nội dung được đề cập trong hóa đơn đối chiếu.
Điều này cực kỳ quan trọng vì các điều khoản cần phải phù hợp với nhau, nếu không
thư tín dụng sẽ không có hiệu lực và người xuất khẩu sẽ không được thanh toán. Nếu
các điều khoản không phù hợp hoặc có bất kì thông tin gì sai lệch, người xuất khẩu



phải liên lạc ngay với khách hàng và yêu cầu họ điều chỉnh thư tín dụng cho phù hợp.
Người xuất khẩu cũng phải xuất trình bộ chứng từ chứng minh đã giao hàng đúng thời
hạn qui định trong thư tín dụng vì nếu không sẽ không được thanh toán tiền hàng.
Người xuất khẩu nên kiểm tra, liên lạc với công ty vận tải để đảm bảo không có sự cố
bất ngờ làm trì hoãn việc chuyển hàng. Ngoài ra, người xuất khẩu cũng phải xuất trình
bộ chứng từ đúng thời hạn ghi trong L/C để làm thủ tục thanh toán.

Phương thức nhờ thu (Collection of payment): một phương thức thanh toán trong đó
người xuất khẩu uỷ thác cho ngân hàng của mình thu hộ tiền hàng của người nhập khẩu trên
cơ sở xuất trình chứng từ. Ngân hàng người bán (người xuất khẩu) xuất trình bộ chứng từ cho
người mua (người nhập khẩu) thông qua ngân hàng của người mua để được thanh toán số tiền
hàng còn lại hoặc nhận được chấp nhận thanh toán hối phiếu trả chậm vào một thời gian xác
định trong tương lai.
Không giống như phương thức thư tín dụng, với phương thức nhờ thu, ngân hàng sẽ
không phải chịu trách nhiệm ràng buộc nếu người mua không thanh toán hoặc không có khả
năng thanh toán tiền hàng.
Có hai phương thức nhờ thu là nhờ thu trơn và nhờ thu kèm chứng từ.


Phương thức nhờ thu trơn (clean collection)


Trong quy trình nghiệp vụ của phương thức thanh toán này có một đặc điểm liên quan
đến lợi ích của nhà xuất khẩu, cần đặc biệt lưu ý:
Nhà xuất khẩu giao hàng và gửi trực tiếp chứng từ cho nhà nhập khẩu. Như vậy thông
thường hoạt động này diễn ra trước thời điểm thanh toán. Đây có thể là một bất lợi cho nhà
xuất khẩu, nhà nhập khẩu chưa phải thanh toán tiền hàng nhưng đã nắm giữ được chứng từ để
nhận hàng từ nhà chuyên chở nhưng sau đó cố ý chiếm dụng vốn, thanh toán chậm, thiếu
hoặc từ chối thanh toán. Ngân hàng chỉ là một tổ chức trung gian thu hộ và có thể bị nhà nhập
khẩu từ chối.
Vì vậy, trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế cần hạn chế áp dụng phương thức này.
Nếu áp dụng phương thức thanh toán này, thì chỉ nên áp dụng khi cả hai bên là đối tác tin cậy

Nhóm 1 – Lớp K09402A

14


Phân tích rủi ro từ việc soạn thảo hợp đồng ngoại thương - Thực tiễn Việt Nam

của nhau, đồng thời trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cần có các chế tài nghiêm ngặt
để bảo đảm nhà nhập khẩu thanh toán.


Phương thức nhờ thu kèm chứng từ (documentary collection)

Trong quy trình nghiệp vụ của phương thức thanh toán này có một điểm cần lưu ý đó là:
nhà xuất khẩu không giao trực tiếp chứng từ cho nhà nhập khẩu. Nhà nhập khẩu phải thanh
toán thì lúc đó Ngân hàng mới giao chứng từ để mang chứng từ đi nhận hàng. Như vậy,
phương thức này bảo vệ được lợi ích của nhà xuất khẩu, tránh được tình trạng bị nhà nhập
khẩu chiếm dụng vốn, chậm thanh toán, thanh toán không đầy đủ hoặc từ chối thanh toán.

Phương thức ghi sổ (Open Account): người xuất khẩu mở một tài khoản để ghi nợ người
nhập khẩu, yêu cầu người nhập khẩu trả tiền cho người xuất khẩu vào thời điểm xác định
trong tương lai.
Sử dụng phương thức ghi sổ có rất nhiều rủi ro. Người xuất khẩu sẽ rất khó khiếu nại do
không có sự tham gia của Ngân hàng và các chứng từ của ngân hàng. Là người xuất khẩu,
bạn có thể phải thu tiền hàng ở nước ngoài, mà việc này rất khó và tốn nhiều chi phí. Ngoài
ra, việc theo dõi và xử lí các khoản phải thu gặp rất nhiều khó khăn do không sử dụng hối
phiếu hay bất kì chứng từ ghi nợ nào.
Phương thức này hoàn toàn có lợi cho nhà nhập khẩu (người được ghi sổ). Nhà xuất khẩu
sẽ phải gánh chịu rủi ro khi bên nhập khẩu không thanh toán hoặc chậm trễ thanh toán hoặc
thanh toán không đầy đủ. Để hạn chế rủi ro, chỉ áp dụng phương thức này khi cả hai bên là
các bạn hàng có mối quan hệ làm ăn lâu dài, thực sự tin cậy lẫn nhau. Để bảo đảm an toàn
cho nhà xuất khẩu, các bên có thể áp dụng biện pháp bảo đảm như thư bảo lãnh ngân hàng,
thư tín dụng dự phòng, đặt cọc…
Nhìn chung, khi soạn thảo điều khoản thanh toán trong hợp đồng ngoại thương cần xem
xét sự hiểu biết đối với đối tác, mối quan hệ giữa các bên trong hợp đồng. Phương thức nhờ
thu và ghi sổ thường được dùng khi: (1) hai bên thực sự tin cậy lẫn nhau, (2) người mua sẵn
sàng thanh toán và có khả năng thanh toán, (3) điều kiện kinh tế và chính trị của nước người
mua ổn định và (4) chính phủ nước người mua không có những biện pháp kiểm soát ngoại
hối. Khi làm ăn với khách hàng mới, bạn nên đề nghị sử dụng phương thức trả trước bằng
tiền mặt hoặc phương thức thư tín dụng (thường là thư tín dụng không huỷ ngang trả tiền
ngay có xác nhận) mặc dù dùng L/C có thể phí ngân hàng cao hơn rất nhiều.

Ví dụ thực tiễn về rủi ro của điều khoản thanh toán trong hợp đồng ngoại thương:
Nhóm 1 – Lớp K09402A

15


Phân tích rủi ro từ việc soạn thảo hợp đồng ngoại thương - Thực tiễn Việt Nam


Trong thực tiễn hoạt động thương mại quốc tế tại Việt Nam có không ít trường hợp các
doanh nghiệp gặp rủi ro từ điều khoản thanh toán trong hợp đồng do trong quá trình soạn
thảo và ký kết hợp đồng đã chọn phương thức thanh toán không phù hợp.
Cụ thể là một số công ty thủy sản Việt Nam ký hợp đồng xuất khẩu cá ba sa và thủy sản
khác với Công ty Hoogland Foods BV và Công ty Star Procurement Inc (viết tắt là Starcom
Co. Inc) đến từ Hà Lan trong đó ở điều khoản thanh toán qui định phương thức thanh toán là
D/A. Sau khi hợp đồng được thực hiện, phía các doanh nghiệp Việt Nam đã gặp rất nhiều
khó khăn trong việc được thanh toán tiền hàng, thậm chí có doanh nghiệp Việt Nam đã giao
hàng mấy năm nhưng vẫn chưa nhận được tiền thanh toán. Phía đối tác nước ngoài liên tục
trì hoãn việc thanh toán mặc dù doanh nghiệp Việt Nam đã liên hệ nhiều lần, thậm chí có
doanh nghiệp sang tận Hà Lan để tìm gặp nhưng cũng không thu được kết quả.
Qua thông tin tại cơ sở dữ liệu của Phòng Thương mại Hà Lan cho thấy, công ty
Hoogland Foods BV là công ty của ông Gert.J Hoodlands, trụ sở công ty cũng là nhà riêng
của ông tại Hà Lan. Còn công ty Star Procurement Inc có nguồn gốc là công ty của một nước
châu Phi, đăng ký kinh doanh tại Hà Lan, điện thoại của công ty này luôn để ở chế độ voice
box và không có nhân viên để liên hệ. Người giao dịch với phía Việt Nam là ông Gert.J
Hoodlands, giám đốc công ty Hoogland Foods BV, nhưng khi ký kết hợp đồng thì lấy tư cách
pháp nhân là công ty Star Procurement Inc.
Rủi ro này xuất phát từ việc trong hợp đồng đã qui định phương thức thanh toán không
chặt chẽ và an toàn, không đảm bảo khả năng thu hồi được tiền hàng. Khi đối tác từ chối
hoặc trì hoãn thanh toán thì ngân hàng nhờ thu cũng không bị ràng buộc phải thanh toán
như trong phương thức L/C. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam lúc này chỉ biết chấp nhận
thiệt hại.
7. Bao bì, ký mã hiệu hàng hóa (Packing and marking)
a. Bao bì


Rủi ro:


Việc cung cấp bao bì là yêu cầu không thể thiếu đối với doanh nghiệp nói chung và đối
với thương nhân XNK nói riêng, do đó khi thương thảo hợp đồng ngoại thương các bên cần
tránh những rủi ro sau: bao bì không đủ tiêu chuẩn, gây tổn hại đến hàng hóa bên trong, bao
bì không thẩm mĩ hoặc không ghi đầy đủ thông tin cần thiết hoặc là bao bì tương tự với bao
bì của một hàng hóa khác trên thị trường khiến khách hàng hiểu lầm.


Giải pháp:

Về điều khoản này, hợp đồng ngoại thương thường quy định theo hai cách:
Nhóm 1 – Lớp K09402A

16


Phân tích rủi ro từ việc soạn thảo hợp đồng ngoại thương - Thực tiễn Việt Nam

-

Cách 1: Quy định chung chung, chẳng hạn: Bao bì phải phù hợp với tính chất hàng hoá,
phương tiện vận chuyển và theo tiêu chuẩn xuất khẩu, do ai cung cấp (người bán hay

-

người mua) phải quy định cụ thể trong hợp đồng.
Cách thứ 2: Quy định cụ thể: Trong hợp đồng phải nêu rõ các yêu cầu về bao bì như: yêu
cầu kỹ thuật của bao bì, nghĩa vụ cung cấp bao bì, loại bao bì, chất liệu sản xuất bao bì,
tiêu chuẩn bao bì, chi tiết hướng dẫn sử dụng bao bì, phải ghi rõ trọng lượng, khối lượng
tịnh và khối lượng cả bao bì.
b. Ký mã hiệu hàng hóa

• Rủi ro:
Mã kí hiệu không rõ ràng, nhầm lẫn khi sử dụng màu mực đối với các loại hàng hóa và

mã kí hiệu bị mờ, không đọc được gây sai sót trong công tác giao nhận, vận chuyển và bảo
quản hàng hóa.


Giải pháp:

Mã kí hiệu phải được viết bằng sơn hoặc mực không phai, không nhòe.
Phải dễ đọc, dễ thấy.
Kích thước mã kí hiệu thường >= 2cm
Không gây ảnh hưởng đến chất lượng hàng hóa.
Phải dùng mực màu đen hoặc màu tím với hàng hóa thông thường, màu đỏ với hàng hóa
nguy hiểm, màu da cam với hàng hóa độc hại.
Phải được viết theo thứ tự nhất định.
Phải được kẻ ít nhất trên 2 mặt giáp nhau, thông thường người ta kẻ trên 3 mặt phẳng theo
phương thẳng đứng của bao bì.
8. Bảo hành (Warranty)


Rủi ro:

Ở Việt Nam thường nhập khẩu các máy móc, trang thiết bị hiện đại cao và thường là đã
qua sử dụng. Trong quá trình sử dụng, mới phát hiện được máy móc bị lỗi, có nhiều bộ phận
hỏng hóc. Việc thay thế các bộ phận khác thường phải nhập khẩu từ chính công ty đã bán với
giá rất đắt.


Giải pháp:


Khi cần có sự bảo đảm của một bên về một yêu cầu nào đó trong thương vụ, hai bên cần
ghi chép điều này thành văn bản; chẳng hạn Bảo đảm của NM cung cấp bao bì đúng tiêu
chuẩn kỹ thuật, đúng mẫu mã theo tiêu chuẩn XK; bảo đảm cung cấp những dịch vụ cần thiết

Nhóm 1 – Lớp K09402A

17


Phân tích rủi ro từ việc soạn thảo hợp đồng ngoại thương - Thực tiễn Việt Nam

sau khi giao hàng của NB…hoặc trong trường hợp mua bán thiết bị thì lời cam kết bảo hành
định kỳ cho thiết bị của NB cũng phải được ghi chép vào đây:
-

Thời hạn hay tiêu chuẩn bảo hành.
Chi phí bảo hành.
Chi phí dịch vụ khác phục vụ cho việc bảo hành…

9. Phạt hợp đồng (Penalty)
Nói đến hợp đồng kinh doanh thương mại, không thể không nói đến điều khoản cơ bản về
phạt hợp đồng. Đây là sự thỏa thuận của các bên trong giao dịch dân sự, kinh doanh thương
mại, đồng thời, cũng là các chế định của pháp luật, nó tồn tại đã lâu nhưng cũng còn nhiều
bất cập mà các doanh nghiệp cần quan tâm trong việc soạn thảo và kí kết hợp đồng ngoại
thương để đảm bảo được lợi ích của mình cũng như giảm thiểu được rủi ro, những rủi ro liên
quan đến điều khoản phạt vi phạm.

-


Một số nguyên nhân gây nên rủi ro trong việc soạn thảo điều khoản này:
Không am hiểu rõ về phạt hợp đồng dẫn đến hợp đồng không có điều khoản này.
Ngày nay, phạt hợp đồng thực sự trở thành một chế định quan trọng và ngày càng

được các bên sử dụng nhiều hơn như một biện pháp hữu hiệu để bảo vệ quyền lợi của
mình trong các quan hệ hợp đồng hợp tác kinh tế. Tuy nhiên, phạt hợp đồng chỉ có thể
xảy ra trong trường hợp các bên đã có thỏa thuận cụ thể trong hợp đồng. Điều này có
nghĩa phạt hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên nên một bên không thể yêu cầu bên kia
phải chịu phạt nếu các bên không có thỏa thuận. Do không am hiểu về pháp luật dẫn đến
việc hợp đồng thương mại không soạn thảo điều khoản phạt hợp đồng và rủi ro gặp phải
là không bảo vệ được quyền lợi chính đáng của mình một cách chính xác và triệt để nhất.
-

Có điều khoản phạt hợp đồng nhưng các điều khoản được quy định không rõ ràng, cụ
thể và chi tiết.
Trong thực tế, đã có nhiều trường hợp các doanh nghiệp lúng túng trong việc xác định
tính đúng sai của sự việc, cũng như xảy ra các tranh chấp không đáng có trong quan hệ
hợp tác, dẫn đến những hậu quả không mong muốn trong quan hệ làm ăn hiện tại cũng
như trong tương lai. Vì vậy, để chế định phạt hợp đồng có thể phát huy hết khả năng trong
việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp trong hợp đồng thì khi soạn thảo các thỏa thuận trong hợp
đồng, các bên cần có quy định về các trường hợp phạt hợp đồng cũng như điều kiện để
tiến hành phạt hợp đồng một cách chi tiết và cụ thể nhất.
-

Rủi ro trong việc lựa chọn luật áp dụng.
Trong mua bán quốc tế các bên hoàn toàn có quyền tự do thoả thuận nguồn luật áp

dụng cho quan hệ hợp đồng của mình. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là các bên nên chọn
Nhóm 1 – Lớp K09402A


18


Phân tích rủi ro từ việc soạn thảo hợp đồng ngoại thương - Thực tiễn Việt Nam

nguồn luật nào sao cho phù hợp mà vẫn đảm bảo được quyền lợi của mình. Đối với các
doanh nghiệp Việt Nam, nếu lựa chọn luật nước ngoài thì có thể sẽ không am hiểu về luật
nước đó. Còn nếu lựa chọn luật Việt Nam để áp dụng thì có sự không thống nhất giữa các
bộ luật hiện hành bởi các luật khác nhau quy định khác nhau về điều khoản phạt hợp
đồng, gây khó khăn trong việc giải quyết tranh chấp.
-

• Những giải pháp nhằm giảm rủi ro liên qua đến phạt hợp đồng:
Các bên có thể thỏa thuận cả điều khoản về phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại trong

-

hợp đồng.
Các điều khoản về phạt hợp đồng nên được quy định rõ ràng và nằm trong giới hạn pháp
luật quy định, để khi có tranh chấp xảy ra thì Tòa án có thể chấp nhận thỏa thuận trên một

-

cách dễ dàng với tư cách là sự thỏa thuận của các bên theo quy định của pháp luật.
Quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các bên, càng chi tiết, càng cụ thể để hạn chế
việc vi phạm hợp đồng.
10. Bảo hiểm (Insurance)
Bảo hiểm (kinh tế) là một hoạt động kinh tế nhằm mục đích phân chia tổn thất và bảo

đảm vốn kinh doanh cho chủ đối tượng được bảo hiểm. Trong kinh doanh hàng hoá ngoại

thương hầu hết hàng hoá được chuyên chở bằng đường biển, nên càng cần phải có biện pháp
hữu hiệu nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ hàng.


Rủi ro:

Nếu người bán và người mua đã thống nhất về điều khoản cụ thể trong Incoterms áp dụng
cho việc giao hàng thì điều khoản Incoterms đó cũng đã quy định ai phải chịu rủi ro đối với
một phần nào đó của cả chuyến đi. Theo những điều khoản này, người bán có nghĩa vụ mua
bảo hiểm vì quyền lợi của người mua, còn trong các điều khoản khác thì hai bên tự quyết
định có mua bảo hiểm hàng hóa hay không và phạm vi bảo hiểm là như thế nào. Do người
bán mua bảo hiểm vì quyền lợi của người mua nên anh ta có thể không biết rõ yêu cầu chính
xác của người mua.
Người mua không có thông tin rõ ràng về việc lưa chọn điều kiện bảo hiểm, có nghĩa là
điều kiện bảo hiểm nào sẽ bồi thường những loại tổn thất hư hỏng nào và loại trừ những
trường hợp nào.


Giải pháp:

Trong hợp đồng cần ghi rõ ai là người mua bảo hiểm và điều kiện bảo hiểm cần mua.
Khi tổn thất xảy ra, người chịu rủi ro cần thông báo ngay cho công ty bảo hiểm và chuẩn
bị đầy đủ hồ sơ và các chứng từ bảo hiểm.
Nhóm 1 – Lớp K09402A

19


Phân tích rủi ro từ việc soạn thảo hợp đồng ngoại thương - Thực tiễn Việt Nam


11. Bất khả kháng (Force majeur)
Thực hiện nghiêm chỉnh hợp đồng là nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng và cũng là một
nguyên tắc luật định. Tuy nhiên, vẫn có những biến cố xảy ra làm ảnh hưởng đến quá trình
thực hiện hợp đồng của các bên. Trong đó có những sự cố nằm ngoài khả năng dự đoán và
kiểm soát của các bên, và xảy ra không phải do lỗi của các bên.
Những tình huống bất khả kháng này mang tính khách quan rất cao nên khi soạn thảo hợp
đồng khó có thể định nghĩa và mô tả một cách chính xác được. Do đó, dễ dẫn đến những
tranh chấp ngoài ý muốn. Mặt khác, mỗi quốc gia lại có những quy định, có cách hiểu và
thừa nhận các hiện tượng xã hội là sự kiện bất khả kháng là không giống nhau nên khi áp
dụng cho các hợp đồng ngoại thương có thể gặp rủi ro dẫn đến những bất đồng sau này.
Chính vì thế giải pháp đối với trường hợp trên là: càng cụ thể hóa, chi tiết hóa các tình huống
thì sẽ càng giảm rủi ro sau này nếu gặp phải. Thực tiễn Việt Nam hiện nay có ba phương pháp
xây dựng điều khoản bất khả kháng:


Phương pháp trừu tượng hóa

Các bên sẽ đưa ra một định nghĩa khái quát về sự kiện bất khả kháng.
Ví dụ: Trong một bản hợp đồng có điều khoản bất khả kháng như sau: “Một bên không
thể thực hiện được nghĩa vụ trong Hợp đồng này do sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra
sau thời điểm ký kết hợp đồng này, mà các bên không có khả năng dự đoán, kiểm soát và
ngăn chặn, sẽ được miễn trách nhiệm do không thực hiện nghĩa vụ…”
Quy định này rất chung chung, mơ hồ và gây khó khăn cho việc diễn giải. Tranh chấp dễ
xảy ra mà không có cơ sở để giải quyết thỏa đáng, cơ quan tài phán cũng sẽ chỉ giải thích
theo tinh thần của luật và ý kiến của các bên, nhiều khi sự giải thích không đạt được sự chính
xác.


Phương pháp liệt kê


Các bên sẽ liệt kê trong điều khoản bất khả kháng một loạt các sự kiện cho phép bên bị
ảnh hưởng bởi sự kiện bất khả kháng sẽ được miễn trách nhiệm hoặc kéo dài thời gian thực
hiện hợp đồng.
Ví dụ: Một điều khoản như vậy sẽ được xây dựng theo hướng sau: “Một bên bị ảnh
hưởng bởi một trong những sự kiện được liệt kê dưới đây mà không thể thực hiện được nghĩa
vụ hợp đồng thì sẽ được miễn trách nhiệm: hỏa hoạn, lũ lụt, động đất, sóng thần, chiến
tranh, bạo loạn, cấm vận, bao vây hoặc các hạn chế khác của chính phủ về xuất khẩu hay
nhập khẩu…”

Nhóm 1 – Lớp K09402A

20


Phân tích rủi ro từ việc soạn thảo hợp đồng ngoại thương - Thực tiễn Việt Nam

Cách tiếp cận này là rõ ràng, cụ thể, các bên sẽ không phải mất thời gian tranh cãi, giải
thích, chỉ cần thuộc đúng trường hợp được liệt kê trong điều khoản này là bên bị ảnh hưởng
sẽ được miễn trách nhiệm. Tuy nhiên, nó rủi ro ở điểm: Dù có kinh nghiệm phong phú đến
đâu, các bên cũng không thể lường trước được các tình huống xảy ra trong thực tế. Và, dù
rằng tình huống đó có đầy đủ đặc điểm của một sự kiện bất khả kháng nhưng bên bị ảnh
hưởng không được miễn trách nhiệm. Ví dụ, nếu áp dụng điều khoản trên, một trận “bão” xảy
ra đã làm tốc mái và hư hỏng nặng nhà máy của bên bán làm cho bên bán không thể tập kết
và giao hàng đúng hạn hợp đồng. Trong trường hợp này “bão” đã bị bỏ sót khỏi điều khoản
bất khả kháng nên bên bán có thể không được miễn trách nhiệm, gây mất quyền lợi cho
người bán.


Phương pháp tổng hợp


Đây là phương pháp kết hợp cả hai phương pháp trên. Phương pháp này phần nào khắc
phục được nhược điểm của hai phương pháp trên và được sử dụng rộng rãi trong thực tiễn
hợp đồng.
Ví dụ: “Không bên nào sẽ chịu trách nhiệm cho bất cứ sự chậm trễ hay vi phạm nào
trong việc thực hiện bất cứ phần nào của bản hợp đồng này trong trường hợp những chậm
trễ hay vi phạm đó bị gây ra bởi cháy nổ, lũ lụt, chiến tranh, cấm vận, yêu cầu của chính
phủ, quân đội, thiên tai, hay các nguyên nhân khác tương tự vượt khỏi tầm kiểm soát của mỗi
bên và không có lỗi hay cẩu thả của bên chậm trễ hay vi phạm.” Quy định như trên sẽ giúp
các bên có được những tình huống cụ thể được coi là sự kiện bất khả kháng, đồng thời dự
tính được những sự kiện khác có thể xảy ra làm ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng.
Nói tóm lại, sự kiện bất khả kháng là một thuật ngữ rất quen thuộc. Tuy nhiên để bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của mình các thương gia cần chú trọng đến kỹ thuật soạn thảo
cũng như cách thức vận dụng chúng trong thực tế. Việc soạn thảo điều khoản bất khả kháng,
cần có sự tham gia của các chuyên gia giỏi về lĩnh vực liên quan của hợp đồng để có thể phán
đoán được tối đa các sự kiện có thể xảy ra ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng, để tránh
việc phải sử dụng đến sự giải thích mà nhiều khi khó có thể được sự chính xác tuyệt đối.
12. Khiếu nại (Claim)
Khiếu nại là phương pháp giải quyết các tranh chấp bằng thương lượng trực tiếp giữa các
bên có liên quan với nhau nhằm thoả mãn (hoặc không thoả mãn) yêu cầu của bên khiếu nại.
Vì vậy trong HĐNT người ta thường ghi thêm điều khoản này để quyền lợi các bên được bảo
đảm một cách an toàn hơn; đồng thời giữ được mối quan hệ tốt đẹp giữa các bên có liên
quan.

Nhóm 1 – Lớp K09402A

21


Phân tích rủi ro từ việc soạn thảo hợp đồng ngoại thương - Thực tiễn Việt Nam


Về điều khoản này, cũng có những rủi ro đáng tiếc xảy ra cho quyền lợi của các bên đặc
biệt khi không quy định rõ ràng các vấn đề sau:
-

Điều kiện khiếu nại đối với từng đối tượng là người bán, người vận chuyển, hay công ty
bảo hiểm. Nếu không thỏa thuận rõ có thể gây nhầm lẫn cho bên khiếu nại, làm bỏ lỡ thời

-

gian khiếu nại.
Quy định cơ quan giám định tổn thất, thời gian và địa điểm và số lần giám định. Các bên
cần xem xét mức độ tin cậy, uy tín của các cơ quan giám định, đặc biệt nếu không tìm
hiểu trước khi ký kết, có thể người bán với cơ quan giám định có mối quen thân từ trước

-

sẽ gây trở ngại, tổn thất cho người mua sau này.
Thời hạn, thủ tục khiếu nại, thời gian giải quyết khiếu nại. Trường hợp nguyên đơn khiếu
nại nhưng trong hợp đồng không quy định rõ những mục này sẽ gây khó khăn, thậm chí
làm mất quyền lợi khiếu nại của nguyên đơn.

Ví dụ: Tranh chấp trong hợp đồng mua bán thiết bị
-

Nguyên đơn : Người bán Nhật Bản
Bị đơn : Người mua Việt Nam

Ngày 05/6/2002, Nguyên đơn ký Hợp đồng với Bị đơn, theo đó, Nguyên đơn bán cho Bị
đơn một lô hàng thiết bị có tổng trị giá 5.107.193 Yên Nhật theo điều kiện CIF Cảng Sài Gòn
(Incoterms 2000). Bị đơn đã nhận được hàng nhưng không thanh toán cho Nguyên đơn.

Nguyên đơn khởi kiện Bị đơn ra Trọng tài. Tuy nhiên, trong hợp đồng không quy định thời
hạn khiếu nại rõ ràng, dẫn đến Nguyên đơn đã khiếu nại muộn quá 11 ngày so với quy định
của Luật Thương mại trước khi khởi kiện (“Đối với khiếu nại về vi phạm các nghĩa vụ khác
trong việc thực hiện các hành vi thương mại khác thì thời hạn khiếu nại là ba tháng kể từ khi
bên vi phạm phải hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại khoản 4
Điều 170 của Luật Thương mại”).
Như vậy, theo khoản 1 Điều 241 Luật Thương mại năm 1997 “Thời hạn khiếu nại là thời
hạn mà bên có quyền khiếu nại đối với bên vi phạm. Quá thời hạn khiếu nại, bên có quyền lợi
bị vi phạm mất quyền khởi kiện tại Trọng tài, Tòa án có thẩm quyền”. Do Nguyên đơn không
chứng minh được là Nguyên đơn đã khiếu nại đòi thanh toán trong thời hạn quy định (được
tính từ ngày 06/10/2002 đến ngày 06/01/2003) nên Nguyên đơn mất quyền khởi kiện trước
Trọng tài. Hội đồng Trọng tài quyết định bác đơn kiện của Nguyên đơn.

13. Trọng tài (Arbitration)
Thoả thuận trọng tài là nền móng của tố tụng trọng tài, đây chính là yếu tố quan trọng
không thể thiếu nếu muốn giải quyết trang chấp bằng trọng tài hay nói một cách dễ hiểu
Nhóm 1 – Lớp K09402A

22


Phân tích rủi ro từ việc soạn thảo hợp đồng ngoại thương - Thực tiễn Việt Nam

Trọng tài chỉ có thẩm quyền xét xử nếu giữa các bên tồn tại một thỏa thuận chọn trọng tài để
giải quyết tranh chấp. Nếu có thỏa thuận trọng tài nhưng thỏa thuận trọng tài không có giá trị
pháp lý thì Trọng tài cũng không có thẩm quyền và quyết định trọng tài sẽ bị hủy. Do đó,
chúng ta cần xem xét khi nào thỏa thuận trọng tài tồn tại và khi nào thỏa thuận này có hiệu lực.


Tồn tại một thỏa thuận trọng tài


Thực tế cho thấy rằng, trong quá trình đàm phán kí kết hợp đồng điều khoản trọng tài là
điều khoản luôn bị các bên tham gia hợp đồng coi nhẹ, không để ý hoặc thậm chí bỏ qua
không đưa vào hợp đồng trong quá trình soạn thảo. Điều này dẫn tới hệ quả xấu là khi có
tranh chấp, bên bị vi phạm sẽ “tiền mất, tật mang” bởi không biết phải đi kiện ở đâu hoặc có
đi kiện thì sẽ bị trả lại đơn kiện do không đủ điều kiện thụ lý. Chính vì thế, thoả thuận về
trọng tài được xem là “điều khoản lúc nửa đêm”.
-

 Giải pháp:
Người soạn thảo hợp đồng cần tuân thủ hai nguyên tắc cơ bản là tính đơn giản và tính

-

chính xác khi tập hợp các nội dung để đưa vào điều khoản.
Các bên cần cân nhắc các điều kiện về tài chính, sự thuận tiện hay bản chất của tranh

-

chấp sẽ phát sinh để lựa chọn một hình thức trọng tài phù hợp.
- Thống nhất số lượng trọng tài viên trong hội đồng trọng tài
Thống nhất địa điểm tiến hành trọng tài, tốt nhất nên chọn địa điểm tiến hành trọng tài tại
quốc gia đã thông qua Luật Trọng tài Thương mại Quốc tế Mẫu UNCITRAL.
- Lựa chọn luật áp dụng cho nội dung vụ tranh chấp
- Lựa chọn ngôn ngữ trọng tài cho phù hợp
• Các trường hợp thoả thuận trọng tài bị tuyên bố vô hiệu
Theo pháp lệnh Việt Nam những trường hợp sau đây sẽ bị tuyên bố thoả thuận trọng tài

vô hiệu:
-


Điều khoản trọng tài chỉ giải quyết các vụ tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương
mại theo sự thỏa thuận của các bên. Mọi tranh chấp không liên quan đến hoạt động

-

thương mại không được giải quyết bằng trọng tài.
Thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi một bên ký kết thỏa thuận trọng tài không có năng lực

-

hành vi dân sự đầy đủ.
Thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi người ký thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền ký

-

kết theo quy định của pháp luật.
Thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi thỏa thuận trọng tài không quy định hoặc quy định
không rõ đối tượng tranh chấp, tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp

-

mà sau đó các bên không có thỏa thuận bổ sung.
Thoả thuận trọng tài không được lập bằng văn bản sẽ bị tuyên bố vô hiệu.
Bên ký thoả thuận trọng tài bị lừa dối, bị đe doạ và có yêu cầu tuyến bố thoả thuận trọng
tài vô hiệu.

Nhóm 1 – Lớp K09402A

23



Phân tích rủi ro từ việc soạn thảo hợp đồng ngoại thương - Thực tiễn Việt Nam

PHẦN KẾT LUẬN
Một hợp đồng hoàn hảo không phải là dài hay ngắn, đơn giản hay phức tạp, mà là hợp
đồng có mức độ rủi ro trong việc soạn thảo và thực hiện là thấp nhất. Với toàn bộ phần nội
dung vừa trình bày ở trên, chúng ta đã có một cái nhìn sâu sắc hơn trong việc soạn thảo một
hợp đồng ngoại thương, đặc biệt là những rủi ro liên quan đến các điều khoản trong hợp
đồng. Mỗi điều khoản được soạn thảo trong hợp đồng đều hàm chứa những rủi ro nhất định.
Nếu không có kiến thức tốt về hợp đồng thì việc vấp phải những rủi ro này là điều hoàn toàn
có thể xảy ra trong thực tiễn.
Do đó với kiến thức, sự am hiểu, kỹ năng, kinh nghiệm, sự tinh thông trong chuyên môn
nghiệp vụ sẽ là những yếu tố đảm bảo cho những nhà soạn thảo có thể đưa ra một bản hợp
đồng “hoàn hảo”. Và đương nhiên với một bản hợp đồng “hoàn hảo” sẽ là mấu chốt cho một
giao dịch đàm phán kinh doanh thành công. Hy vọng rằng với sự hiểu biết của mình trong
lĩnh vực ngoại thương, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ ngày càng tự tin trong việc làm ăn với
các đối tác nước ngoài và nâng cao vị thế kinh tế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Nhóm 1 – Lớp K09402A

24


Phân tích rủi ro từ việc soạn thảo hợp đồng ngoại thương - Thực tiễn Việt Nam

Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình “Kỹ thuật kinh doanh thương mại quốc tế” – Hà Thị Ngọc Oanh, NXB
Thống Kê.
2. />3. />4. />5. />6. />7. />8. />9. "Phương thức thanh toán quốc tế - Lợi ích và rủi ro"

(Nguồn: />10. "Thanh toán trả chậm, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu bị xù tiền" - Phương Anh
( />11. "Cảnh báo rủi ro xuất khẩu thủy sản sang Hà Lan" - Mạnh Chung
( />
Nhóm 1 – Lớp K09402A

25


×