Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Tổ chức dạy học chương “Mắt Các dụng cụ quang” (Vật lý 11- nâng cao) theo định hướng phát huy tính tích cực, tự lực học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.9 MB, 129 trang )

BỘ GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
KHOA VẬT LÍ 

‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐ 

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP 
CHUYÊN NGÀNH: PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY 

 

Giáo viên hướng dẫn: Thầy Nguyễn Mạnh Hùng
Sinh viên thực hiện: Lê Bá Mạnh Hùng

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2008


LỜI CẢM ƠN
Để có thể được làm luận văn tốt nghiệp này, lời dầu tiên, tôi xin chân
thành cảm ơn toàn thể quí thầy cô giảng viên khoa Vật Lý, cảm ơn quý thầy cô
đã tận tình dạy dỗ tôi trong bốn năm học qua.
Để hoàn thành luận văn này, trước hết, tôi xin gửi cảm ơn chân thành,
sâu sắc nhất đến thầy Nguyễn Mạnh Hùng, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ
bảo, động viên tôi trong suốt quá trình làm luận văn.
Kế đến, tôi xin cảm ơn thầy Nguyễn Văn Vinh đã cho phép tôi giảng dạy
tại lớp, tận tình hướng dẫn, chỉ bảo các kinh nghiệm giảng dạy trong quá trình
tôi vận dụng thực giảng phương pháp mới.
Ngoài ra, tôi cũng xin cảm ơn ban giám hiệu trường THPT Bùi Thị
Xuân, Quận I đã tạo điều kiện cho phép tôi giảng dạy thử phương pháp mới tại
trường.
Lời cuối cùng, tôi xin kính chúc quí thầy cô trong ban giám hiệu nhà


trường cùng toàn thể quý thầy cô trong khoa Vật Lý sức khỏe, thành đạt, niềm
vui trong cuộc sống và công việc.

Sinh viên Lê Bá Mạnh Hùng
Niên khóa 2004-2008


PHẦN MỞ ĐẦU: 
1. Lý do chọn đề tài:
- Theo tôi, một người giáo viên khi đứng trên bục giảng không phải chỉ có vai trò,
nhiệm vụ như một người thông báo cho học sinh các kiến thức có sẵn trong sách giáo
khoa, không phải chỉ cần nắm vững kiến thức là có thể đứng trên bục giảng và nghiễm
nhiên trở thành một người thầy. Người thầy giáo khi đứng trên bục gảng để đảm đương
đầy đủ và đúng nghĩa vai trò của mình cần phải trang bị cho bản thân không chỉ vốn kiến
thức, hiểu biết khoa học rộng mà điều quan trọng hơn cả là phải có phương pháp giảng
dạy tốt, phải có cách thức giảng làm sao để học sinh- người học dễ hiểu, hiểu đúng và
vận dụng được các kiến thức đó vào cuộc sống, đồng thời qua đó, giáo dục người học khả
năng tự lực, tích cực chiếm lĩnh tri thức, hướng đến khả năng tự học ở bản thân mỗi
người học.
- Tuy nhiên, thực tế nền giáo dục truyền thống, vấn đề phương pháp giảng dạy chưa
được quan tâm đúng mức, người dạy chỉ truyền thụ các kiến thức có sẵn, mang tính chất
thông báo, người học chỉ tiếp nhận thông tin một chiều, kết quả là quá trình dạy học đào
tạo ra những con người chỉ là những thợ học, thụ động, thiếu khả năng xử lí linh hoạt với
các tình huống trong cuộc sống.
- Hiện nay, việc đổi mới phương pháp, phát huy tính tích cực, tự lực trong dạy học
được quan tâm, chú trọng nhiều hơn. Bản thân tôi là một sinh viên sư phạm, chuẩn bị ra
trường trở thành người giáo viên nên việc nghiên cứu, rèn luyện cho bản thân một
phương pháp dạy học phù hợp là rất cần thiết và có ích.
- Do đó, tôi đã chọn bộ môn phương pháp giảng dạy để làm luận văn tốt nghiệp. Được
sự hướng dẫn, giới thiệu của thầy Nguyễn Mạnh Hùng, tôi đã chọn và thực hiện đề tài:

“Tổ chức dạy học chương “Mắt. Các dụng cụ quang” (Vật lý 11- nâng cao) theo định
hướng phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh” làm luận văn tốt nghiệp. Hy vọng rằng


với đề tài này, tôi có thể chuẩn bị cho mình hành trang để trở thành người giáo viên tốt
trong tương lai.
2. Những nghiên cứu liên quan đến đề tài:
- Do thời gian làm luận văn có hạn, những tài liệu mà tôi tiếp cận cũng không nhiều
nên những nghiên cứu liên quan đến đề tài, tôi cũng không được trực tiếp đọc và nghiên
cứu. Đa số những tư liệu mà tôi sử dụng trong bài luận văn này đều được dịch lại và biên
soạn lại theo tư tưởng của các tác giả trong nước. Tuy nhiên, qua nghiên cứu những tài
liệu có được, tôi cũng có một số thông tin về các nghiên cứu liên quan đến phương pháp
dạy học tích cực.
- Trên thế giới, đặc biệt là các nước có nền giáo dục phát triển, phương pháp giáo dục
nhằm hướng đến phát huy tính tích cực, tự lực, năng lực tư duy sáng tạo đã được nghiên
cứu từ rất lâu. Cụ thể là nhà giáo dục Đức A. Đixtervec đã khởi xướng phương pháp giáo
dục tích cực từ năm 1956. Đến những năm 70 của thế kỉ XX, ông I.F. Kharlamop đã
nghiên cứu sâu sắc hơn và hệ thống lại trong các phương pháp giáo dục tích cực của nền
giáo dục Xô viết trong cuốn sách “Phát huy tính tích cực của học sinh như thế nào ?”
(Sơ thảo về lý luận dạy học) (NxbGD.1978. Người dịch: Đỗ Thị Trang, Nguyễn Ngọc
Quang). Ngoài ra còn rất nhiều tác giả khác như Polya, K.Đ. Usinxki, M.Vaxiliep, L.V.
Đancôp, A.Anhstanh(Mỹ)….
- Ở nước ta, ngày nay cũng có nhiều công trình nghiên cứu về phương pháp dạy học
tích cực của các tác giả Phạm Hữu Tòng, Nguyễn Ngọc Quang,… Từ những năm 90, giới
nghiên cứu LLDH Việt Nam tập trung nghiên cứu Phương pháp giáo dục tích cực LẤY
NGƯỜI HỌC LÀM TRUNG TÂM với định nghĩa và các đặc trưng cơ bản sau:
“ PPGD tích cực lấy người học làm trung tâm là sự tích hợp thường xuyên các mối
quan hệ giáo dục trò – lớp – thầy trong quá trình hoạt động giáo dục theo quan điểm
người học là trung tâm với những đặc trưng cơ bản sau đây:



1) Trò là chủ thể của hoạt động giáo dục.
2) Lớp – Lớp học là cộng đồng các chủ thể, là thực tiễn xã hội ngày nay và cả ngày mai
của người học ở ngay trong nhà trường. Lớp học được tổ chức nhằm mục đích giáo dục,
làm môi trường xã hội trung gian giữa trò và thầy.
3) Thầy là người định hướng, đạo diễn cho học sinh tự mình khám phá ra kiến thức cùng
với cách tìm ra kiến thức. Là người tổ chức cho trò biết cách hành động và hợp tác với
các bạn và thầy để tự mình khám phá ra chân lí, cùng với cách tìm ra và ứng dụng chân lí
trong cuộc sống.
4) Tự đánh giá, sau khi trao đổi, hợp tác với bạn và dựa vào kết luận của thầy người học
tự đánh giá lại sản phẩm ban đầu của mình, tự sửa chữa lỗi lầm mắc phải trong sản phẩm
đó, tự rút ra kinh nghiệm về cách học, cách giải quyết vấn đề và tự điều chỉnh, tự hoàn
thiện một sản phẩm tiến bộ hơn sản phẩm ban đầu, một sản phẩm khoa học.”
- Ngoài ra, còn một số đề tài luận văn của các anh chị là sinh viên trường Đại Học Sư
Phạm cũng nghiên cứu về phương pháp định hướng, tổ chức hành động học tập tích cực
cho học sinh cũng là các tài liệu hay để tham khảo.
- Tuy nhiên, phần nhiều những nghiên cứu trên mang nặng tính lí thuyết, khả năng
ứng dụng vào thực tế giảng dạy, phù hợp với hoàn cảnh giáo dục cụ thể là không cao.
Chính vì vậy, để bản thân tôi có một phương pháp giáo dục tích cực thích hợp và có thể
sử dụng để giảng dạy trong tương lai, tôi đã tiến hành nghiên cứu, làm luận văn: “Tổ
chức dạy học chương “Mắt. Các dụng cụ quang” (Vật lý 11- nâng cao) theo định hướng
phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh”
3. Mục đích của việc nghiên cứu:
- Nghiên cứu phương pháp tổ chức hoạt động học tập vật lí tích cực, tự lực cho học
sinh trung học phổ thông, cụ phể là:


Phương pháp định hướng hành động học tập vật lí tự lực.
Phương pháp kích thích sự say mê, hứng thú, tích cực học tập vật lí .
Phương pháp kiểm tra đánh giá hành động học tập vật lí tích cực, tự lực cho học sinh

4. Nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể:
- Đọc tài liệu có liên quan
- Xây dựng phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh
- Soạn giáo án theo lí thuyết đã đề ra
- Vận dụng giảng một số tiết học
- Rút kinh nghiệm, hoàn thiện lí thuyết đã đề ra.
5. Sử dụng các phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu và tham khảo các tài liệu về tâm lí, giáo dục học đại cương, triết học,…
có liên quan đến phương pháp dạy học và các tài liệu về phương pháp dạy học tích cực.
- Phương pháp thực nghiệm: vận dụng lí thuyết đã nghiên cứu, rút kết được vào việc
soạn giáo án một số bài trong chương “Mắt. Các dụng cụ quang” (Vật lí 11- nâng cao)
sau đó vận dụng thực tế giảng dạy và rút ra các kết luận.
6. Phạm vi giới hạn của đề tài:
- Do thời gian và khả năng của em có hạn, việc nghiên cứu và ứng dụng đề tài chỉ áp
dụng cho một số bài trong chương “Mắt. Các dụng cụ quang” (Vật lí 11- nâng cao). Cụ
thể là bài:
 Thấu kính mỏng
 Mắt


 Kính lúp
 Thực hành: “Đo tiêu cự của thấu kính phân kì”
Đồng thời, để dễ dàng hơn cho việc soạn giáo án và tiến hành giảng dạy, luận văn này
chỉ tiến hành thực giảng trên đối tượng học sinh giỏi, khá, các em học sinh trong lớp học
khá đều nhau.


CHƯƠNG I:  

CƠ SỞ LÍ LUẬN 

A. CƠ SỞ CỦA PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC 
I. Tại sao phải dạy học theo hướng phát triển tính tích cực, tự lực 
cho học sinh? 


Xã hội hiện nay phát triển không ngừng, sự phát triển này làm thay đổi rất

nhiều vấn đề kinh tế xã hội, nó tác động đến nhiều mặt của cuộc sống. Những kiến thức
mới không ngừng được tạo ra và phát triển, dạy học không thể cung cấp cho học sinh
toàn bộ những kiến thức tự nhiên, xã hội,…mà dạy học chỉ có thể rèn luyện cho người
học khả năng tích cực, tự chủ, năng động, có khả năng thích nghi cao với hoàn cảnh
sống không ngừng thay đổi.


Trong Nghị quyết TW lần 4 về “Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào

tạo” (tháng 1-1993) đã nhấn mạnh việc đào tạo những con người tự chủ, năng động và
sáng tạo, có đủ năng lực giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra, tự do được việc
làm, lập nghiệp, thăng tiến trong cuộc sống và qua đó góp phần xây dựng đất nước giàu
mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Mục tiêu giáo dục trong giai đoạn hiện nay đã được xác định rõ tại hội nghị ban
chấp hành TW Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 2 (khóa VIII). Đó là đào tạo thế hệ trẻ có
những phẩm chất năng lực sau:
- Có lí tưởng độc lập và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, ý chí kiên cường,
xây dựng đất nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa và bảo vệ Tổ quốc.


- Giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa
văn hóa của nhân loại. Phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam.
- Có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa

học hiện đại. Có tư duy sáng tạo, kĩ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có
tính tổ chức kỉ luật.
- Có sức khỏe.


Muốn đào tạo được con người khi vào đời là con người tự chủ, năng động,

sáng tạo thì phương pháp giáo dục cũng phải hướng vào việc khơi dậy, rèn luyện và
phát triển khả năng nghĩ và làm một cách tự chủ, năng động và sáng tạo ngay trong học
tập và lao động ở trường và ở nhà.


Các phương pháp dạy học đã có hiện nay chủ yếu chỉ dựa trên những yêu

cầu của xã hội cũ, chủ yếu là việc cung cấp và truyền thụ các kiến thức và kĩ năng tương
ứng theo một chiều: “Thầy truyền thụ, trò tiếp nhận”. Có hai hình thức chủ yếu:
+ Kiểu dạy thứ nhất là người giáo viên truyền đạt (thông báo) cho học sinh các tri
thức về thế giới tự nhiên và phương thức hoạt động của con người, còn học sinh thì tiếp
thu các thông tin ấy một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, thông qua các phương tiện khác
nhau như lời nói, đồ vật, với các hình thức tổ chức dạy học khác nhau. Học sinh cố gắng
hiểu, ghi nhận và ghi nhớ các thông tin ấy. Dù giáo viên hoạt động giảng bài hay cho học
sinh nghiên cứu sách giáo khoa, hay dùng các phương tiện hiện đại như phim, ảnh, máy
chiếu hình, các thí nghiệm… thì bản chất của nó vẫn là thầy cung cấp thông tin còn học
sinh thì tiếp thu thông tin với tất cả các phương tiện mình có. Kiểu dạy học này còn được
gọi là giải thích- minh họa hoặc thông tin- tiếp thu.
+ Kiểu dạy thứ hai là giáo viên tạo ra những điều kiện để học sinh nhớ lại, củng cố,
vận dụng theo mẫu những tri thức và phương thức hoạt động mà học sinh đã tiếp thu
được từ giáo viên. Nó thể hiện ở việc giáo viên cho luyện tập, làm bài tập, làm các thí



nghiệm theo mẫu hoặc có cải biên… Kiểu dạy học này dùng củng cố kiến thức, rèn luyện
kĩ năng, kĩ xảo cho học sinh và được gọi là dạy học tái hiện.
Với nhịp độ phát triển của khoa học, kĩ thuật, công nghệ, của mọi mặt đời sống xã hội
nhanh chóng đến mức trong một đời người đã diễn ra nhiều thay đổi, con người có thể
tiếp nhận thông tin tri thức từ nhiều nguồn khác nhau, người thầy không thể nắm vững và
truyền thụ hết tất cả các thông tin cho học trò, con người cần phải tự lực tiếp thu thêm các
tri thức, kĩ năng mới, biết phát hiện và giải quyết những vấn đề mới nảy sinh một cách tự
lực, sáng tạo. Chính những đòi hỏi này đặt ra yêu cầu đối với dạy học nói chung và với
dạy học vật lý nói riêng là cần phải có một phương pháp mới nâng cao tính tích cực, tự
lực của người học.
Phương pháp nói trên trong khoa học giáo dục thuộc về hệ thống các “phương pháp
giáo dục tích cực”, lấy người học làm trung tâm, người học giữ vai trò chủ động, tích cực
trong quá trình học tập và không còn ở thụ động như khi dùng phương pháp cổ truyền.

II. Cần thiết và có thể dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, 
tự lực của học sinh (Cơ sở của phương pháp dạy học theo hướng 
phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh) 
1. Cơ sở sinh học 
 Học thuyết Pavlôp về phản xạ có điều kiện với lí luận dạy học: 
Cũng như các động vật khác, con người sinh ra đã có sẵn một số kiến thức làm cơ sở
cho hành động, do những phản xạ không điều kiện.
Tuy nhiên các “kinh nghiệm di truyền” là không nhiều và chỉ thích hợp với một số
hoàn cảnh xác định, bất biến trong khi môi trường sống là đa dạng và luôn biến động. Do
đó, động vật và người sống được là phản ứng có hiệu quả với các tác nhân mới lạ của môi


trường, nhờ cơ chế thành lập các phản xạ có điều kiện trong thực tiễn cuộc sống hằng
ngày.
Nhờ dạy học các phản xạ có điều kiện mà ta điều chỉnh được các hành động một cách
tích cực, chủ động và ăn khớp với môi trường sống. Pavlop tiến hành thí nghiệm cho chó

ăn cơm sau khi bật đèn sáng hoặc bấm chuông. Lặp đi lặp lại nhiều lần, tạo thành phản xạ
có điều kiện.
Theo Pavlôp, dạy là thành lập những phản xạ có diều kiện hình thành kinh nghiệm
hành động, học là hình thành những phản xạ trả lời mới chưa có trong vốn phản xạ không
điều kiện được di truyền.
Cơ chế hình thành một phản xạ có điều kiện là phối hợp một kích thích có điều kiện
với một kích thích không điều kiện để tạo ra một trả lời không điều kiện. Theo đó, quá
trình dạy học gồm các khâu chủ yếu sau:
+ Xác định yêu cầu dạy học
+ Tăng hiệu quả dạy học
Theo học thuyết này, bài học là do người thầy đưa ra, áp đặt cho đối tượng học, mục
đích và nội dung đều do người thầy định đoạt. Đó là dạy học thụ động, lấy việc dạy
(người thầy) làm trung tâm, người học thụ động tiếp thu những gì thầy truyền đạt.
 Học thuyết B.F. Skinner 
Theo Skinner, học là tự điều hòa hành vi dẫn đến một hành vi mong muốn bằng cách
thử sai.
Thí nghiệm nổi tiếng theo trường phái Skinner là dạy bồ câu cách chọn đúng thức ăn
trong đời sống thiên nhiên, dạy chuột đạp cần câu cơm…
Trong các thí nghiệm trên, mục tiêu, động cơ hành động của người học (chim bồ câu,
chuột) là không do chủ quan người dạy áp đặt mà xuất phát từ động cơ bình thường trong


đời sống, người dạy dạy cái mà người học cần chứ không chỉ áp đặt theo ý đồ riêng của
mình.
Từ thực nghiệm, Skinner rút ra được ba quan niệm lí thuyết:
- Chỉ học cái đang làm, làm là để học. Hiểu biết tức là hành động có hiệu quả.
- Học bằng kinh nghiệm: trẻ phải được tiếp xúc với môi trường nó đang sống. Giáo
viên phải cung cấp cho học sinh cơ hôi tích lũy kinh nghiệm bản thân.
- Học bằng cách thử sai.
Theo Skiner, ông có khuynh hướng lập lại hành vi nào đem lại hiệu quả và có lợi,

động cơ học là ích lợi, vì vậy trong dạy học cần phải luôn có thưởng tức thì. Học thuyết
Skinner còn gọi là học thuyết về phản xạ có điều kiện chủ động, bài học là vì lợi ích của
chính người học, mục đích học, nội dung học là do chính nhu cầu của người học quyết
định. Đó là dạy học tích cực, lấy người học làm trung tâm. Trong quá trình này, người
học tích cực, tự lực, chủ động tìm ra kiến thức bằng hành động của chính mình.
(Tài liệu tham khảo 4)

2. Triết học 
Theo quan điểm nhận thức luận duy vật biện chứng thì quá trình nhận thức diễn ra
theo con đường: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng rồi từ tư duy trừu tượng
đến thực tiễn”. Cơ sở trực tiếp và chủ yếu nhất của nhận thức là thực tiễn. Thực tiễn là
động lực, mục đích và tiêu chuẩn kiểm tra tính đúng đắn của nhận thức. Thực tiễn là
những hoạt động vật chất mang tính lịch sử xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên
và xã hội. Thực tiễn bao gồm những yếu tố như nhu cầu, lợi ích, mục đích, phương tiện
và kết quả... và nhiều dạng hoạt động. Chính từ trong hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới
mà nhận thức con người được hình thành và phát triển. Quá trình học tập của học sinh về
bản chất là quá trình nhận thức những kinh nghiệm của nhân loại đã tích lũy được. Do đó


quá trình này cũng phải được tổ chức theo các qui luật nhận thức của chủ nghĩa duy vật,
tức là phải thông qua hoạt động thực tiễn của chính học sinh.
Theo qui luật phát triển của sự vật, ngoại lực dù quan trọng đến đâu cũng chỉ là nhân
tố hỗ trợ, thúc đẩy, tạo điều kiện, nội lực mới là nhân tố quyết định sự phát triển của bản
thân sự vật. Sự phát triển đạt được cao hay thấp tùy thuộc vào sự kết hợp giữa ngoại lực
và nội lực. Khi ngoại lực và nội lực cộng hưởng với nhau thì sự phát triển đạt trình độ
cao nhất. Áp dụng quy luật trên vào quá trình dạy học: Thầy- dạy, tác động dạy của thầy
là ngoại lực, môi trường giáo dục (lớp học, nhà trường, xã hội…) cũng là ngoại lực. Tròhọc mà học là quá trình hoạt động nhận thức của chủ thể trò thì bản thân sức tự học, tự
phát triển của trò là nội lực. Tác động của thầy dù quan trong đến đâu cũng chỉ là ngoại
lực, là yếu tố thúc đẩy, xúc tác, tạo điều kiện cho trò phát triển và trưởng thành. Tác động
của môi trường xã hội cũng chỉ là ngoại lực tạo điều kiện thuận lợi cho người học. Sự tự

học hay năng lực tự học của trò dù là non nớt đến đâu vẫn là nội lực quyết định sự phát
triển của bản thân người học. Chất lượng giáo dục đạt đỉnh cao khi tác động của ngoại
lực (thầy, môi trường học tập) cộng hưởng được với nội lực- năng lực tự học của trò.
Chính vì vậy, hoạt động dạy học cần được tổ chức sao cho người học phát huy được
tối đa tinh thần tích cực, tự lực, hoàn thành các nhiệm vụ học tập nhằm phát triển, hoàn
thiện nhân cách bản thân.

3. Giáo dục học 
Theo quan điểm của giáo dục học, học là hành động của người học thích ứng với tình
huống, qua đó, người học chiếm lĩnh được kinh nghiệm xã hội, lịch sử biến thành năng
lực thể chất tinh thần của cá nhân, hình thành và phát triển nhân cách của cá nhân.
Mục đích của giáo dục là phát triển nhân cách của người học một cách toàn diện và
hài hòa. Trong cấu trúc của cá nhân thì phát triển trí tuệ giữ vai trò quyết định, chính vì
vậy, việc tổ chức hoạt động dạy học sao cho người học hình thành được nhân cách tự


chủ, tích cực, sáng tạo, có khả năng giải quyết các vấn đề do thực tiễn đặt ra là rất cần
thiết.

4. Tâm lý học 
Tâm lí học hoạt động là một trong những cơ sở quan trọng khẳng định yêu cầu của
việc tổ chức hoạt động học tập tích cực, tự lực cho học sinh.
Hoạt động là quá trình con người thực hiện các quan hệ của mình với thế giới bên
ngoài (tự nhiên và xã hội), giữa mình với người khác, giữa mình với bản thân. Trong quá
trình đó, con người bộc lộ tâm lí (năng lực, ý chí, mong muốn…) ra bên ngoài. Diễn ra
song song với quá trình này là quá trình con người chuyển đối tượng hoạt động của mình
vào thế giới nội tâm tạo nên tâm lí, nhân cách bản thân. Tóm lại, trong quan hệ giữa mình
với bên ngoài, con người vừa thay đổi thế giới bên ngoài, vừa thay đổi bản thân, vừa tạo
ra sản phẩm lao động đồng thời hình thành nên nhân cách bản thân.
Cấu trúc hoạt động (theo A.N Lêonchive) bao gồm: động cơ, mục đích, các hành

động, các thao tác.
Dạy học là một chức năng xã hội nhằm truyền thụ, giúp đỡ cho người học lĩnh hội
được kiến thức, kinh nghiệm mà xã hội tích lũy được, nhằm biến kinh nghiệm xã hội
thành phẩm chất, năng lực cá nhân.
Hoạt động dạy học bao gồm hai hoạt động liên quan mật thiết với nhau, đó là hoạt
động dạy và hoạt động học. Theo D.B Enconin, có 3 thành phần cơ bản của cấu trúc dạy
học:
- Thứ nhất là các động cơ, hoạt động nhận thức: phải được kích thích từ những động
cơ phù hợp.
- Thứ hai là các nhiệm vụ học tập, là hình thức học sinh đề ra cho mình dưới hình
thức bài toán có vấn đề, chính điều này tạo ra tình huống có vấn đề hay tình huống học


tập mà nếu giải quyết được vấn đề này thì học sinh thực hiện được mục tiêu mà bản thân
đã đề ra.
- Thứ ba là các hành động học tập: Học sinh giải quyết được các nhiệm vụ học tập
của mình nhờ các hành động học tập, hành động tách các vấn đề từ nhiệm vụ học tập
được đề ra, hành động vạch ra phương thức chung để giải quyết các vấn đề trên cơ sở
phân tích các quan hệ chung trong tài liệu học tập, hành động mô hình hóa các quan hệ
chung của tài liệu học tập, các phương thức chung để giải quyết vấn đề học tập, hành
động cụ thể hóa, phong phú hóa các thể hiện cục bộ, riêng lẻ của các quan hệ chung và
các phương thức hành động chung, hành động kiểm tra tiến trình và kết quả hành động,
hành động đánh giá kết quả hành động học tập và tự điều chỉnh.
Dưới góc độ tâm lí hoạt động, giống như người lớn, trẻ là một thực thể hoạt động mà
hành động bị chi phối bởi qui luật hứng thú và nhu cầu, sẽ không đem lại hiệu suất đầy
đủ nếu người ta không động viên tới những động cơ tự do của hoạt động ấy.
Trong phương pháp giáo dục truyền thống, người thầy giáo ngấm ngầm hay công khai
coi đứa trẻ như người lớn thu nhỏ cần dạy dỗ và làm cho nó giống với mẫu người lớn
nhanh chừng nào hay từng ấy, hoặc phải uốn nắn đối với những hành vi sai khác truyền
thống hơn là tạo dựng. Quan điểm này chi phối phần lớn phương pháp sư phạm của

chúng ta, ngay cả hiện nay, tư tưởng này vẫn rất phổ biến, nhà giáo ngăn cấm hoặc hầu
như rất ít khi tạo điều kiện cho người học hoạt động một cách tích cực, tự lực. Tiếp nhận
quan điểm giáo dục này, người học chỉ có nhiệm vụ tiếp thu từ bên ngoài những sản
phẩm chế biến sẵn của tri thức và đạo đức của ngời lớn, mối quan hệ giáo dục được tiến
hành bằng áp lực của một phía và sự tiếp nhận của phía bên kia. Từ quan điểm đó, những
công việc của học sinh, ngay những việc làm cá nhân nhất (làm một bài văn, bài toán,
viết một bài luận…) rất ít khi là sự tìm tòi, nghiên cứu của cá nhân, chỉ là sự luyện tập bị
áp đặt hoặc sự sao chép theo mẫu bên ngoài.
Chính vì vậy, việc đổi mới phương pháp là cần thiết để xây dựng được con người có
nhân cách tích cực mà mục tiêu dạy học đã đề ra.


III. Đặc điểm bộ môn vật lý: 
Vật lí học là môn khoa học tự nhiên, các kiến thức vật lí được hình thành chủ yếu dựa
vào các thao tác tư duy, suy diễn, tiên đoán, mang rất nhiều dấu ấn của sự sáng tạo. Vì
vậy, trong quá trình người học tiếp thu các kiến thức vật lí, có nhiều điều kiện thuận lợi
để tổ chức hoạt động nhận thức tích cực, tự lực.

B. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC 
I. Phương pháp dạy học tích cực: 
Hệ phương pháp dạy học tích cực, lấy người học làm trung tâm gọi tắt là phương
pháp dạy học tích cực được xem như một hệ thống phương pháp tích cực có thể đáp
ứng được các yêu cầu cơ bản của mục tiêu giáo dục thế kỉ XXI, có khả năng định
hướng cho việc tổ chức quá trình dạy học thành quá trình tự học, quá trình cá nhân
hóa và xã hội hóa việc học. Hệ thống phương pháp đó cũng là sự kết hợp, tích hợp
nhiều phương pháp gần gũi nhau như phương pháp tích cực, phương pháp hợp tác,
phương pháp giải quyết vấn đề, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học…. Hệ
thống đó cũng là sự kết hợp tư tưởng và thành tựu giáo dục hiện đại của thế giới với
truyền thống tôn sư trọng đạo, hiếu học và tư tưởng giáo dục tiến bộ của dân tộc.
Trong phương pháp này, người học không thụ động, chỉ nghe thầy giảng và thu

nhận tri thức mà thông qua sự tổ chức, hướng dẫn của thầy, người học tích cực, tự lực
thu nhận được các kiến thức, phương pháp học tập cho bản thân.

1. Các đặc trưng cơ bản của hệ phương pháp dạy học tích cực: 
  Người  học, chủ thể  của hoạt  động  học, tự  học, tự nghiên  cứu,  tự  mình 
tìm  ra  kiến  thức  bằng  hành  động  của  chính  mình,  tức  là  cá  nhân  hóa 
việc học 


Người học không phải được đặt trước những kiến thức có sẵn trong sách giáo
khoa mà tự đặt mình vào các tình huống, vấn đề thực tế, cụ thể và sinh động của
cuộc sống, từ đó thấy có nhu cầu, hứng thú giải quyết những vật cản, mâu thuẫn
trong nhận thức của mình để tự tìm ra cái mình chưa biết, cái cần khám phá. Tự
đặt mình vào các tình huống của cuộc sống, người học quan sát, tự nghiên cứu,
làm thí nghiệm, đặt giả thuyết, đặt vấn đề. Quá trình lĩnh hội chân lí của người học
cũng là quá trình hành động làm theo một phần nào đó (của học trò) con đường
của các bậc tiền bối đã phát minh ra những chân lí đó. Tri thức và phương pháp
người học đã tự lực khám phá ra không dập theo một khuôn mẫu có sẵn, đều là tri
thức và phương pháp mới do hoạt động tự lực đi tìm cái chưa biết mang tính chất
sáng tạo đối với người học. Khó khăn, vật cản, sai sót mắc phải trong quá trình tự
mình đi tìm cái chưa biết chỉ là những sự cố giúp người học hiểu đầy đủ chân lí
hơn và tìm ra chân lí.

Khách thể

Tự tìm

Thầy
Tác nhân


Trò

Chủ thể

Học một biết mười chính là học cách học, học cách làm, cách giải quyết vấn
đề, cách xử lí các tình huống, cách tìm ra chân lí, phát huy tìm năng tự học, sáng
tạo trong mỗi con người. Lấy bất biến ứng vạn biến chính là nắm cho được
nguyên lí côt lõi, cách tiếp cận, cách sống… để vận dụng thiên biến vạn hóa.


Học để hành, hành để học, tức là tự tìm ra kiến thức bằng hành động của chính
mình nhằm mục tiêu con người hành động, con người thực tiễn. Học và hành phải
đi đôi. Học mà không có hành thì học vô ích. Hành mà không có học thì hành
không trôi chảy ( Hồ Chí Minh). Cách tốt nhất để hiểu là làm (Emanuel Kant, triết
gia Đức). Suy nghĩ tức là hành động (Jean Piaget, nhà tâm lí Thụy Sĩ). Chính vì
vậy, quá trình học kiến thức cần phải kết hợp chặt chẽ, đi đôi với việc rèn luyện
các kĩ năng tương ứng.
“Tôi nghe tôi quên
Tôi nhìn tôi nhớ
Tôi làm tôi hiểu”
Quá trình người học tự nghiên cứu, tự tìm ra kiến thức cũng là quá trình người
học tự tìm ra ý nghĩa của việc học, chiếm lĩnh kĩ xảo của nhận thức và tạo ra các
cầu nối của nhận thức. Đó là quá trình cá nhân hóa việc học.
Tât nhiên tri thức người học tự tìm ra dễ mang tính chủ quan, phiến diện, thiếu
khoa học. Bằng con đường nào có thể làm cho tính chất cá nhân đó trở thành
khách quan, khoa học thật sự? Đó là con đường người học tự thể hiện mình để hợp
tác với các bạn trong cộng đồng lớp học.
 Người học tự thể hiện mình, hợp tác với các bạn trong cộng đồng lớp học, 
làm  cho  kiến  thức  cá  nhân  tự  tìm  ra  mang  tính  chất  xã  hội,  khách  quan 
hơn, tức là xã hội hóa việc học. 

Học cá nhân đi đôi với học bạn, nơi học bạn thường ngày là lớp học. Lớp học
là cộng đồng các chủ thể, là thực tiễn xã hội ngày nay và cả ngày mai của người
học ngay trong nhà trường.


Được tổ chức nhằm mục đích giáo dục, lớp học là môi trường xã hội trung gian
giữa thầy và trò.
Trong thời đại ngày nay, hoạt động lao động xản xuất, nghiên cứu khoa học
hay quản lí xã hội. Hành động giáo dục diễn ra trong môi trường xã hội – lớp học
không thể nào là hành động cá nhân thuần túy mà cũng phải là hoạt động hợp tác.

Khách thể
Lớp

Thầy
Tác nhân

Trò
Chủ thể

Tri thức vừa là sản phẩm của cá nhân người học vừa là sản phẩm của xã hội
lớp học trước khi trở thành sự thật khoa học.
Mặt khác, học giao tiếp xã hội, học cách sống không thể học riêng lẻ một mình
được mà phải học giao tiếp ngay trong cuộc sống xã hội. Lớp học là nơi giao tiếp
thường xuyên, nơi mặt đối mặt, giữa trò và trò, giữa trò và thầy, có thể bố trí lại
theo không gian hình tròn hay không gian hình chữ U thuận lợi cho việc đối thoại
trò- trò đối mặt với nhau.
Trong quá trình tự lực khám phá ra tri thức, người học có thể tạo ra sản phẩm
ban đầu có tính chất cá nhân gồm tri thức mới, phương pháp hành động mới, song
sản phẩm có thể chưa mang tính khách quan khoa học đầy đủ. Thông qua việc

trình bày, bảo vệ sản phẩm của mình ở tập thể lớp học, trao đổi, tranh luận với các


bạn cùng lớp, kiến thức chủ quan của người học mới giảm bớt phần chủ quan,
phiến diện, tăng thêm tính khách quan khoa học. Học bạn, hợp tác với bạn, người
học mới có thể tự nâng mình lên trình độ mới.
Trong quá trình lao động tập thể, tranh luận ở lớp học, thường diễn ra các tình
huống đấu tranh giữa chủ quan và khách quan, đúng và sai, khẳng định và phủ
định, cá nhân và tập thể…Các tình huống đó lập đi lập lại làm cho người học phát
hiện ra các mối quan hệ cần duy trì với các sự vật và người khác, dần dần tìm ra
được cách ứng xử với sự vật và con người, từ đó, quá trình khám phá tri thức mới
cũng là quá trình hình thành nhân cách thông qua vai trò của lớp học được tiến
hành.
Như vậy, tác động xã hội hóa của sự hợp tác trò- trò, của cộng đồng lớp học là
vô cùng quan trọng, không thể thiếu được, song vẫn là ngoại lực, có thể trở nên
hình thức nếu không dựa trên cơ sở phát huy khả năng tự lực, năng lực tự học, tính
tích cực, chủ động của người học, thông qua các hoạt động hợp tác, người học
phải chủ động thể hiện mình, tức là tự đặt mình vào tình huống nhiệm vụ học, đưa
ra cách xử lí tình huống, tự trình bày và bảo vệ đến cùng sản phẩm nghiên cứu của
bản thân mình, tỏ rõ thái độ của mình trước ý kiến của bạn, tranh luận đúng sai,
tập giao tiếp, hợp tác với các bạn trong quá trình tự tìm ra kiến thức, tự rút ra kết
luận, bài học cho bản thân qua các hành động tập thể…
Tuy nhiên, cả cá nhân và cộng đồng các chủ thể có thể gặp phải những vấn đề
nan giải, những tình huống không xử lí được, những vật cản khó vượt qua, những
cuộc tranh luận không kết thúc được, những tri thức mới cả lớp chưa ai biết
đến…Và cuối cùng phải nhờ đến thầy.
 Nhà giáo‐ người tổ chức quá trình học tập tích cực cho người học
Thầy chủ động điều hành tam giác sư phạm, lấy cực trò (việc học) làm trung
tâm quá trình giảng dạy của mình.



Trước hết, thầy là người hướng dẫn, đạo diễn cho người học tự tìm ra kiến thức
cùng với cách tìm ra kiến thức bằng hành động của chính mình. Thầy trở thành
người hướng dẫn, giúp đỡ người học tìm ra chân lí, khác hẳn người thầy truyền
thụ kiến thức một cách cơ học.

Khách thể
Lớp
Tự tìm

Thầy
Tác nhân

Trò
Chủ thể

Quan hệ thầy trò cũ diễn ra chủ yếu theo chiều dọc, từ quyền lực và năng lực
của thầy đến sự phục tùng của trò. Với phương pháp dạy học tích cực, quan hệ của
thầy và trò vẫn tồn tại, song dựa trên cơ sở thông cảm, tin cậy và hợp tác lẫn nhau,
và quan hệ theo chiều dọc trở thành không thường xuyên bằng quan hệ ngang giữa
trò – trò. Quan hệ ngang trở thành yếu tố chi phối tính năng động của lớp. Giao
tiếp giữa trò- trò, nhóm, lớp và học sinh thường xuyên hơn là giao tiếp giữa thầy
và trò.
Từ chỗ định hướng cho từng cá nhân người học tự nghiện cứu, giờ đây thầy lại
là người khởi xướng và tổ chức các mối quan hệ ngang trò- trò: tổ chức cho người
học hợp tác, học hỏi lẫn nhau trên cơ sở phát huy tính tự lực, chủ động tham gia
hoạt động tập thể của người học, thầy là người đạo diễn và dẫn chương trình hoạt


động học tập, trò là diễn viên tích cực tập sự sắm vai các nhân vật trong tình

huống học. Thầy kích thích trò hoạt động và can thiệp đúng lúc cần thiết để cho
các cuộc tranh luận và hoạt động đi đúng hướng hoặc để đặt lại vấn đề, nêu thêm
các tình huống mới nảy sinh trong tiến trình hoạt động tập thể, tạo điều kiện thuận
lợi cho tất cả người học đều thể hiện được mình và rút ra những kinh nghiệm, bài
học cụ thể qua hoạt động nhóm, tổ, lớp… để tự điều chỉnh làm cho kiến thức cá
nhân tự tìm ra mang tính xã hội, khách quan, khoa học hơn.
Cuối cùng, khi cá nhân và xã hội đứng trước cuộc tranh luận chưa ngã ngũ,
một tình huống không xử lí được…lúc đó vai trò không thể thay thế được của nhà
giáo là vai trò người trọng tài khoa học kết luận có tính chất khẳng định về mặt
khoa học các cuộc tranh luận ở tập thể lớp và xử lí đúng đắn các tình huống phức
tạp nổi lên trong quá trình hoạt động học. Kết luận của thầy là bài học cho người
học song không phải là bài học có sẵn trong sách giáo khoa mà là bài học tổng kết
từ những gì mà người học đã tự lực tìm ra với sự hợp tác của các bạn. Kết luận của
thầy là sản phẩm khoa học của cả trò, lớp và thầy: mô hình dạy học tích cực lấy
người học làm trung tâm, theo logic từ việc học đến việc dạy, nhưng vẫn thiết kế
theo hướng phát huy sự tương tác giữa các cực trò- lớp- thầy- khách thể, trong đó,
sáng kiến điều hành chung cả tam giác sư phạm bao giờ cũng thuộc về thầy: bao
giờ thầy cũng là người khởi xướng, tổ chức, hướng dẫn chương trình tự học, tự
nghiên cứu của trò. (Trong sơ đồ tam giác sư phạm, tác động lẫn nhau giữa các
cực bao giờ cũng xuất phát từ cực thầy, theo chiều mũi tên)
Tất nhiên thầy còn có chức năng kiểm tra, đánh giá việc học của trò.
 Người học tự kiểm tra, đánh giá, tự điều chỉnh 
Trong quá trình tự mình tìm ra kiến thức, người học tạo ra một sản phẩm giáo
dục ban đầu có thể là chưa chính xác, chưa khoa học, sau khi hợp tác, trao đổi với
các bạn, người học đã tự điều chỉnh sản phẩm ban đầu của mình cho khách quan
hơn. Với kết luận cuối cùng của thầy, sản phẩm đó mới được diễn đạt một cách


thực sự khách quan, khoa học. Căn cứ vào kết luận của thầy, người học tự kiểm
tra, đánh giá lại sản phẩm ban đầu của mình và tự điều chỉnh, tự hoàn thiện thành

một sản phẩm tiến bộ hơn sản phẩm ban đầu, sản phẩm khoa học.
Người học có sai sót, đó là điều tất nhiên nhưng biết nhận ra sai sót của mình
và tự biết cách sửa sai, đó là người biết cách học, cần được thầy đánh giá là tốt.
Thầy kiểm tra, đánh giá người học căn cứ vào kết quả tự đánh giá và sửa sai
của học trò. Căn cứ vào kết quả ban đầu, thầy có thể sơ bộ cho một điểm, căn cứ
vào sản phẩm đã được sửa lại của trò, thầy chấm lại và cho điểm chính thức, có
tính đến hiệu quả tự đánh giá và sửa sai của người học nếu sản phẩm được sửa
chữa, bổ sung tốt. Đó là cách cho điểm cơ động, có tác dụng rất lớn trong việc
kích thích người học tự đánh giá, tự sửa sai, cải tiến phương pháp học.
Phương pháp dạy học tích cực đòi hỏi việc đánh giá của thầy phải có tác dụng
giáo dục, đào tạo thực sự tức là đánh giá trên cơ sở tự đánh giá, tự kiểm tra, tự
điều chỉnh của người học, bởi vì người học tự đánh giá được thì bao giờ cũng có
tác dụng đào tạo tốt hơn là chấp nhận một chiều sự đánh giá của người khác. Thầy
cần tạo điều kiện cho người học tham gia đánh giá việc học của mình như là:
 Xác định chính xác các tiêu chí đánh giá và phổ biến cho người học nắm được
thật cụ thể .
 Tạo điều kiện cho người học đánh giá lẫn nhau.
 Cho người học tự đánh giá một phần công việc mà mình đã thực hiện trên cơ
sở đối chiếu một cách khách quan với bạn.
 Tóm lại, có thể tổng hợp những đặc trưng của phương pháp giáo dục tích cực,
lấy người học làm trung tâm qua sự so sánh tóm tắt với những đặc trưng của
phương pháp giáo dục cổ truyền sau đây:


Phương pháp cổ truyền

Phương pháp tích cực

Lấy thầy làm trung tâm


Lấy trò làm trung tâm

- Thầy truyền đạt kiến thức.

- Trò tự mình tìm ra kiến thức bằng hành
động của chính mình.

- Thầy độc thoại, phát vấn.

- Đối thoại thầy- trò, trò- trò, hợp tác với
bạn, học bạn.

- Thầy áp đặt kiến thức có sẵn.

- Hợp tác với bạn, với thầy, khẳng định
kiến thức do trò tìm ra.
- Học cách học, cách giải quyết vấn đề,

- Trò học thuộc lòng.
- Thầy độc quyền, đánh giá, cho
điểm cố định.

cách sống và trưởng thành.
- Tự đánh giá, tự sửa sai, điều chỉnh làm cơ
sở cho thầy cho điểm cơ động.

2. Các pha của quá trình dạy học theo hướng tích cực: 
Có thể mô tả mối quan hệ trò - lớp - thầy đặc trưng cho phương pháp giáo dục tích
cực lấy người học làm trung tâm qua hoạt động dạy học cụ thể gồm 3 giai đoạn như sau:
+  Giai  đoạn  1: người học làm việc cá nhân trước tình huống khó khăn do thầy tổ

chức, tạo ra, người học tự đặt mình vào tư thế quan sát, tự nghiên cứu, tìm tòi, phát hiện
ra các tính chất của đối tượng, nêu nhận xét, đề ra giả thuyết, suy luận… nhằm tìm ra
cách xử lí các tình huống, giải quyết các vấn đề để tự mình tìm ra kiến thức, chân lí, tạo
ra sản phẩm nhận thức ban đầu (mang tính chất cá nhân).
+ Giai đoạn 2: Sau khi từng cá nhân đã hành động, đưa ra những nhận xét riêng của
bản thân, thầy tổ chức cho trò tự thể hiện mình và làm việc theo nhóm, hợp tác làm việc
tập thể, qua đó hoàn thiện dần kiến thức mà bản thân thu nhặt được.


Các nhóm thống nhất ý kiến, bổ sung, sửa đổi, làm phong phú thêm nhận thức cá
nhân, nhóm. Tranh luận được mở rộng cho đến khi hết ý kiến và tạm đạt được sự nhất trí
chung trong tập thể học sinh.
Khi đó, thầy có thể can thiệp để chuyển sự quan sát, tư duy của trò sang một hướng
nào đó nhằm làm cho sự phân tích, diễn đạt của trò được sâu hơn, kiến thức được hoàn
thiện dần.
+ Giai đoạn 3: Thầy hỗ trợ, sắp xếp các kiến thức mà trò đã thu được thành một hệ
thống tri thức sao cho trò dễ dàng tiếp nhận nhất. Tác động của thầy không phải là hành
động sao chép lại kiến thức có sẵn trong sách giáo khoa mà là giúp người học tập hợp lại
những gì bản thân trò đã tiến hành tìm ra thành một kiến thức chung của cả lớp. Nhờ vậy,
người học thấy được trong bài những gì họ muốn làm và đã làm một cách tích cực, tự lực
ngay từ đầu.
Cuối cùng, thầy là người kiểm tra, đánh giá kết quả tự học của học sinh trên cơ sở trò
tự đánh giá, tự điều chỉnh.
Chu trình trên có thể được biểu diễn qua sơ đồ:

Thầy- tác nhân

Trò- chủ thể

(1) Hướng dẫn


Tự nghiên cứu

(2) Tổ chức

Tự thể hiện

(3) Trong tài, cố vấn

Tự kiểm tra

Kết luận, kiểm tra

Tự điều chỉnh


×