Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Nhận thức của sinh viên về rối loạn trầm cảm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.63 MB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
____________________________

NGUYỄN THỊ BÌNH

NHẬN THỨC CỦA SINH VIÊN
VỀ RỐI LOẠN TRẦM CẢM
Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60 31 04 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN THỊ MINH HẰNG

HÀ NỘI – 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan thực hiện đề tài này hoàn toàn độc lập, theo đúng hướng dẫn của Nhà
trường và Giảng viên hướng dẫn.
Tôi cam đoan số liệu trong kết quả nghiên cứu là trung thực, chính xác và được thực hiện
tại địa điểm nghiên cứu.

Học viên

Nguyễn Thị Bình

1



LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành nhờ sự động viên, giúp đỡ và hướng dẫn tận tình của quý
thầy cô giảng dạy lớp Cao học Tâm lý khóa 14, của quý thầy cô ở Phòng Sau Đại học; nhờ sự giúp
đỡ, ủng hộ của các bạn học viên lớp Cao học Tâm lý học K14 trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội, của các bạn đồng nghiệp và các bạn sinh viên khoa Kế toán
- Đại học Kinh tế Quốc dân; Khoa Cơ khí - Đại học Bách Khoa Hà Nội; Khoa Tâm lý giáo dục học
- Học viện Quản lý giáo dục; Khoa Y đa khoa - Đại học Y Hà Nội; Khoa Tâm lý học và Lịch sử Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến quý thầy cô và các bạn học
viên, sinh viên đã giúp đỡ, cộng tác để tôi hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt, tôi mong muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo PGS. TS Nguyễn Thị Minh
Hằng_người đã tận tâm chỉ bảo, giúp đỡ và hướng dẫn chu đáo để tôi hoàn thành luận văn này.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng chắc rằng bản luận văn này còn nhiều thiếu sót, tôi rất mong
nhận được sự góp ý, chỉ dẫn của quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn!

Nguyễn Thị Bình

2


MỤC LỤC
Lời cam đoan...................................................................................................................................... 1
Lời cảm ơn ......................................................................................................................................... 2
Danh mục chữ viết tắt ........................................................................................................................ 5
Danh mục các bảng ............................................................................................................................ 6
Danh mục biểu đồ .............................................................................................................................. 7
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................................... 8
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ................................................... 11
1.1. Tổng quan các nghiên cứu về trầm cảm và nhận thức về trầm cảm .................................... 11
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài....................................................................................... 11
1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam ......................................................................................... 14
1.2. Một số vấn đề lý luận nhận thức về trầm cảm ..................................................................... 15

1.2.1. Lý luận về nhận thức.................................................................................................... 15
1.2.2. Lý luận về trầm cảm .................................................................................................... 17
1.3. Một số đặc điểm tâm lý xã hội của sinh viên ....................................................................... 24
1.3.1. Khái niệm sinh viên ..................................................................................................... 24
1.3.2. Một số đặc điểm tâm - sinh lý của sinh viên ................................................................ 25
1.3.3. Các nguy cơ dễ dẫn đến trầm cảm ở sinh viên............................................................. 25
1.3.4. Đặc điểm nhận thức của sinh viên ............................................................................... 26
1.4. Các tiêu chí nghiên cứu nhận thức của sinh viên về rối loạn trầm cảm ............................... 27
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................................................ 28
Chƣơng 2. TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................ 29
2.1. Tổ chức nghiên cứu.............................................................................................................. 29
2.1.1. Nghiên cứu lý luận ....................................................................................................... 29
2.1.2. Nghiên cứu thực tiễn .................................................................................................... 30
2.1.3. Các giai đoạn nghiên cứu ............................................................................................. 31
2.2. Các phương pháp nghiên cứu............................................................................................... 31
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu.................................................................................. 31
2.2.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi............................................................................ 31
2.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu ....................................................................................... 32
2.2.4. Phương pháp thống kê toán học ................................................................................... 32
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................................................ 36
Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU NHẬN THỨC CỦA SINH VIÊN VỀ RỐI LOẠN
TRẦM CẢM ................................................................................................................................... 37
3.1. Thực trạng các nguồn thông tin của sinh viên về trầm cảm............................................ 37
3.2. Thực trạng nhận thức của sinh viên về bản chất của rối loạn trầm cảm ......................... 38
3.3. Thực trạng nhận thức của sinh viên về biểu hiện của rối loạn trầm cảm ........................ 41
3.4. Thực trạng nhận thức của sinh viên về nguyên nhân của rối loạn trầm cảm .......................... 46
3.5. Thực trạng nhận thức của sinh viên về hậu quả của rối loạn trầm cảm .......................... 50
3.6. Thực trạng nhận thức của sinh viên về các biện pháp chữa trị rối loạn trầm cảm .......... 52

3



3.7. Thực trạng nhận thức của sinh viên về các biện pháp phòng ngừa rối loạn trầm
cảm. ........................................................................................................................................ 58
Tiểu kết chương 3 ............................................................................................................................ 61
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ....................................................................................................... 62
1. Kết luận ................................................................................................................................... 62
2. Kiến nghị................................................................................................................................. 63
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................................. 65
PHỤ LỤC ........................................................................................................................................ 67

4


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Viết đầy đủ

Chữ viết tắt
DSM

Diagnostic and Statistical Manual for Mental Disorders
Sách chẩn đoán thống kê các rối loạn tâm thần của Hội tâm thần
học Hoa Kì

ĐH KHXH & NV

Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn

ĐH Y HN


Đại học Y Hà Nội

ĐLC

Độ lệch chuẩn

ĐTB

Điểm trung bình

TLGD

Tâm lý giáo dục

ICD

International statistical classification of diseases and related health
problems
Bảng phân loại quốc tế về bệnh và các vấn đề sức khỏe

WHO

Tổ chức Y tế thế giới

5


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1:


Đặc điểm của khách thể............................................................................................ 30

Bảng 3.1:

Các nguồn thông tin của sinh viên về rối loạn trầm cảm.......................................... 37

Bảng 3.2:

Nhận thức của sinh viên về bản chất của trầm cảm.................................................. 40

Bảng 3.3:

Nhận thức của sinh viên về biểu hiện của rối loạn trầm cảm ................................... 41

Bảng 3.4:

Nhận thức của sinh viên về biểu hiện của rối loạn trầm cảm (phân chia theo
nhóm biểu hiện đúng – sai) ...................................................................................... 45

Bảng 3.5:

Nhận thức của sinh viên về nguyên nhân dẫn đến trầm cảm.................................... 47

Bảng 3.6:

Nhận thức của sinh viên về các yếu tố ảnh hưởng đến rối loạn trầm cảm ............... 49

Bảng 3.7: Nhận thức của sinh viên về hậu quả của rối loạn trầm cảm (phân chia theo nhóm
hậu quả đúng – hậu quả sai) ..................................................................................... 51
Bảng 3.8:


Nhận thức của sinh viên về các biện pháp chữa trị rối loạn trầm cảm .................... 53

Bảng 3.9:

Ý kiến của sinh viên về các cơ sở hỗ trợ người trầm cảm ........................................ 56

Bảng 3.10:

Nhận thức của sinh viên về các biện pháp phòng ngừa nguy cơ mắc rối loạn
trầm cảm ................................................................................................................... 58

Bảng 3.11:

Cách xử lý của sinh viên khi bản thân xuất hiện cảm xúc tiêu cực .......................... 60

6


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Quan điểm của sinh viên về trầm cảm .......................................................................... 39
Biểu đồ 3.2: Nhận thức của sinh viên theo từng khoa về các nhóm biểu hiện của rối loạn trầm
cảm ........................................................................................................................... 44
Biểu đồ 3.3: Nhận thức của sinh viên về nguyên nhân của rối loạn trầm cảm ................................. 46
Biểu đồ 3.4: Nhận thức của sinh viên về các yếu tố ảnh hưởng đến trầm cảm (phân chia theo
nhóm những yếu số đúng và yếu tố sai) ................................................................... 49
Biểu đồ 3.5: Nhận thức của sinh viên về hậu quả của rối loạn trầm cảm ......................................... 51
Biểu đồ 3.6: Nhận thức của sinh viên về đối tượng trợ giúp người trầm cảm .................................. 54

7



MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Xã hội ngày càng phát triển kéo theo rất nhiều sự thay đổi trong đời sống con người, cùng
với nó là phát sinh ra nhiều mối nguy hiểm tiềm năng cho sức khỏe tâm trí. Đó là một loạt các
trạng thái khác nhau, từ những rối nhiễu tâm trí như lo âu, trầm cảm, ám ảnh hay các chứng hoang
tưởng, tâm thần phân liệt, động kinh… Trong đó, trầm cảm là một hiện tượng bệnh lý xuất hiện
ngày càng nhiều trong cuộc sống hiện nay.
Trầm cảm ảnh hưởng sâu sắc đến chất lượng cuộc sống của tất cả mọi người: từ nam giới
đến phụ nữ, từ trẻ em đến người trưởng thành, người cao tuổi và đặc biệt là sinh viên thì khả năng
xuất hiện trầm cảm là tương đối cao vì đây là giai đoạn sinh viên phải thích nghi với môi trường
mới, bắt đầu cuộc sống tự lập với nhiều khó khăn và bỡ ngỡ. Theo tác giả Brice Pith, từ lứa tuổi
thanh thiếu niên trầm cảm là chứng bệnh tâm thần phổ biến nhất. Theo nhiều tác giả, trầm cảm
chiếm tỉ lệ 3 – 5% dân số [20]. Theo Trần Kim Trang (2012) khi nghiên cứu đề tài “Stress, lo âu và
trầm cảm ở sinh viên y khoa”, thiết kế cắt ngang mô tả có phân tích trên 483 sinh viên năm thứ 2
khoa y và răng hàm mặt Đại học y dược Thành phố Hồ Chí Minh trong tháng 6/2011. Sử dụng
thang đánh giá DASS -21 đã cho thấy kết quả rằng: tỉ lệ sinh viên bị stress, trầm cảm và lo âu lần lượt
là 71,4%; 28,8%; 22,4%, đa số ở mức độ nhẹ và vừa. 52,8% sinh viên có cùng 3 dạng rối loạn trên.
Không có sự khác biệt giữa các mức độ stress, lo âu, trầm cảm theo nguồn cư trú và giới tính, ngoại trừ
trầm cảm - nhất là ở mức độ nặng và rất nặng thì nam nhiều hơn nữ [21].
Rối loạn trầm cảm ảnh hưởng sâu sắc đến chất lượng cuộc sống của tất cả mọi người. Tuy
nhiên, không phải ai cũng có sự nhận thức đúng đắn về vấn đề này. Sự hiểu biết không đầy đủ hoặc
nhận thức sai lầm về vấn đề này có thể dẫn đến tình trạng xuất hiện những dấu hiệu trầm cảm hoặc
nguy cơ tăng nặng đối với những cá nhân đã có dấu hiệu hoặc nguy cơ trầm cảm từ trước. Việc
sinh viên có dấu hiệu trầm cảm nhưng không có hiểu biết về các biện pháp can thiệp mà e ngại, tự
mình giải quyết hay cố tình lảng tránh đều có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Chính vì
những lí do trên đã thôi thúc tôi tìm hiểu đề tài “Nhận thức của sinh viên về rối loạn trầm cảm”. Tôi
hi vọng rằng, qua nghiên cứu này có thể phát hiện được thực trạng mức độ nhận thức của sinh viên
về rối loạn trầm cảm, đồng thời, có thể đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao nhận thức của sinh

viên về rối loạn trầm cảm.
2. Đối tƣợng nghiên cứu
Nhận thức của sinh viên về rối loạn trầm cảm.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nhận thức của sinh viên về rối loạn trầm cảm, trên cơ sở đó đề xuất một số
kiến nghị nhằm nâng cao nhận thức của sinh viên về rối loạn trầm cảm, từ đó góp phần phòng ngừa
trầm cảm ở sinh viên nói riêng và cộng đồng nói chung.

8


4. Nhiệm vụ nghiên cứu


Nghiên cứu lý luận nhận thức của sinh viên về rối loạn trầm cảm



Nghiên cứu thực tiễn



-

Điều tra nhận thức của sinh viên về rối loạn trầm cảm.

-

So sánh nhận thức về rối loạn trầm cảm của sinh viên các khoa.


Đề xuất những kiến nghị về các biện pháp nhằm nâng cao nhận thức và phòng ngừa trầm
cảm cho sinh viên

5. Khách thể nghiên cứu
600 sinh viên năm thứ 4 đang học tại các trường đại học trên địa bàn thủ đô Hà Nội
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1. Giới hạn khách thể nghiên cứu


100 sinh viên khoa Kế toán – Đại học Kinh tế Quốc Dân



100 sinh viên khoa Cơ khí – Đại học Bách Khoa Hà Nội



100 sinh viên khoa Y Đa khoa – Đại học Y Hà Nội



100 sinh viên khoa Tâm lý – giáo dục học – Học viện Quản lý giáo dục



100 sinh viên khoa Tâm lý học và 100 sinh viên khoa Lịch sử – Đại học KHXH & NV –
Đại học QGHN

6.2. Giới hạn địa bàn nghiên cứu: Hà Nội
6.3. Giới hạn nội dung nghiên cứu



Nhận thức về biểu hiện của rối loạn trầm cảm



Nhận thức về hậu quả của rối loạn trầm cảm



Nhận thức về các yếu tố ảnh hưởng đến rối loạn trầm cảm



Nhận thức về điều trị bệnh trầm cảm



Nhận thức của sinh viên về cách phòng ngừa trầm cảm

7. Giả thuyết nghiên cứu
Nhận thức của của sinh viên về rối loạn trầm cảm còn hạn chế, cụ thể: sinh viên chưa có
hiểu biết đầy đủ về các nguy cơ, biểu hiện, hậu quả, các yếu tố ảnh hưởng, cách điều trị và cách
thức phòng ngừa rối loạn trầm cảm.
Sinh viên các khoa như tâm lý học, tâm lý giáo dục học có nhận thức đầy đủ hơn về rối
loạn trầm cảm so với những sinh viên các ngành khác.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
8.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
8.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
8.3. Phương pháp phỏng vấn sâu

8.4. Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học

9


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan các nghiên cứu về trầm cảm và nhận thức về trầm cảm
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
1.1.1.1. Các lý thuyết về trầm cảm
 Thuyết phân tâm học về trầm cảm
S.Freud cho rằng trầm cảm là một quá trình tương tự như đau buồn. Khi quá đau buồn, cá nhân
có thể thoái lui về giai đoạn môi miệng của sự phát triển, như là một cơ chế phòng vệ chống lại những
nỗi buồn quá lớn. Điều này dẫn cá nhân đến chỗ phụ thuộc hoàn toàn vào người mà họ yêu quý; hậu
quả là, họ đồng nhất mình với những người đó và qua đó, một cách tượng trưng, họ giành lại được mối
quan hệ đã mất. Tiếp theo, qua một quá trình gọi là tiếp nhận (introjectinon), cá nhân hướng những cảm
nhận về người họ yêu quý đến chính bản thân. Những cảm xúc này có thể bao gồm cả sự giận dữ, kết
quả của các xung đột không giải quyết được. Phản ứng như thế, nhìn chung, chỉ diễn ra trong thời gian
ngắn, nhưng có thể trở thành bệnh lí nếu cá nhân tiếp tục trong một thời gian dài, dẫn đến tự căm ghét
bản thân và trầm cảm.
Freud cho rằng trầm cảm “bình thường” là kết quả của những mất mát có tính tượng trưng
hay tưởng tượng. Theo cách nào đó, sự việc nghiêm trọng khi nó lấy mất của cá nhân tình yêu hoặc
sự đánh giá của những người quan trọng, và lẽ ra phải hướng cảm xúc tiêu cực về người từ chối
mình thì cá nhân lại hướng những cảm xúc đó về mình và tiếp nhận chúng. Những người dễ bị trầm
cảm nhất, là những người không thể thỏa mãn quá nhiều, mà cũng không thể thỏa mãn ít được.
Những người như thế trong suốt cuộc đời mình, sẽ còn phụ thuộc vào tình yêu thương và sự chấp
nhận của người khác, họ còn rất nhạy cảm với những sự kiện gây ra lo lắng hoặc những trải nghiệm
mất mát [10, tr.245-246].
 Thuyết hành vi về trầm cảm
Các lí thuyết hành vi về trầm cảm tập trung chủ yếu vào các quá trình điều kiện hóa quan

sát được. Ví dụ như Lewinsohn và cộng sự (1979), đã chỉ ra rằng trầm cảm là kết quả của tỉ lệ thấp
các củng cố xã hội tích cực. Điều này dẫn đến khí sắc chán nản và thu hẹp những hành vi mang xu
hướng được xã hội tán thưởng. Cá nhân tự tách mình ra khỏi các liên hệ xã hội, một hành động mà
trên thực tế, có thể làm tăng tạm thời các liên hệ xã hội bởi họ có thể có được sự cảm tình chú ý
nhờ hành vi của mình. Điều này có thể tạo ra củng cố khác, được biết đến như là lợi ích thứ cấp,
mà trong đó cá nhân được tán hưởng nhờ những hành vi có trầm cảm của mình. Tuy nhiên, giai
đoạn này lại thường đi cùng với sự thu hẹp về chú ý (tần suất tán thưởng có giá trị từ phía môi
trường giảm đi) và khí sắc [10, tr.246].
 Lí thuyết về sự tuyệt vọng tập nhiễm

11


Lí thuyết về sự tuyệt vọng tập nhiễm Seligman (1975) cho rằng trầm cảm bắt nguồn từ việc
người ta được học rằng môi trường sinh lí và xã hội nằm ngoài khả năng kiểm soát của cá nhân.
Thuật ngữ “learned helplessess” bắt nguồn từ những thực nghiệm trên động vật. Trong những thực
nghiệm này, các con vật được đặt ở trong một khu vực mà chúng có thể chạy trốn, chẳng hạn như
bằng cách nhảy qua một cái hàng rào thấp. Sau khi trải qua một lần sốc điện nhe, các con thú nhanh
chóng học được cách nhảy qua hàng rào để tránh bị sốc. Tuy nhiên, khi người ta ngăn chúng làm
điều đó bằng cách nhốt chúng trong một cái cũi, cuối cùng thì chúng không cố tránh sốc điện nữa,
ngay cả khi cơ hội trốn thoát luôn rộng mở đối với chúng. Chúng đã học được rằng, chúng không
thể tránh được sốc điện, và thể hiện nỗi tuyệt vọng của mình bằng sự trì trệ, không cố gắng thay đổi
hoàn cảnh. Nhiều nghiên cứu đã sử dụng những quy trình khác để tìm ra sự tuyệt vọng do học
tập/tập nhiễm ở cả người và động vật. Những người trải qua các thực nghiệm này đều biểu hiện
những “triệu chứng” tương tự như các cá nhân bị trầm cảm bệnh lí, bao gồm việc thiếu động cơ
hoạt động, bi quan và quá trình tiếp thu bị phá vỡ [10, tr.247].
 Thuyết nhận thức của A. Beck về trầm cảm
Kết hợp với những khác biệt của mô hình lí thuyết về sự tuyệt vọng tập nhiễm những
người theo trường phái nhận thức đã thay đổi giải thích về trầm cảm của trường phái hành vi, tiêu
biểu nhất trong số đó là Beck (1997). Ông đưa ra ý kiến rằng trầm cảm bắt nguồn từ nhận thức sai

lệch trước những sự kiện ảnh hưởng đến chúng ta. Trong trầm cảm, Beck gọi đáp ứng tức thời với
những sự kiện này là ý nghĩ tiêu cực tự động. Những ý nghĩ này có vẻ tức thời, hợp lý và trên thực
tế thường được chấp nhận. Tuy nhiên, một cách có hệ thống, chúng lại giải thích sai các sự kiện và
vì thế dẫn đến trầm cảm. Đặc trưng cho kiểu suy nghĩ này là sự khái quát hóa thái quá, sự trừu
tượng hóa có chọn lọc và những suy nghĩ không dứt khoát. Những điều này ảnh hưởng đến cái mà
Beck gọi là bộ ba nhận thức: niềm tin về bản thân chúng ta, sự kiện hoặc cá nhân khác có ảnh
hưởng đến chúng ta và tương lai của chúng ta.
Theo Beck, những suy nghĩ có ý thức của chúng ta bị méo mó bởi các sơ đồ trầm cảm tiềm
ẩn. Đó là những niềm tin vô thức về bản thân và thế giới, chúng tác động đến suy nghĩ ý thức và
được hình thành trong suốt tuổi thơ mỗi người. Các sự kiện tiêu cực trong tuổi thơ, chẳng hạn như
việc bị bố mẹ từ chối, sẽ hình thành nên một sơ đồ nhận thức về bản thân và thế giới xung quanh.
Hầu như trong toàn bộ khoảng thời gian này, nếu chúng rõ rệt thì cá nhân bị trầm cảm mạn tính.
Tuy nhiên, đến tuổi trưởng thành, khi chúng ta đối mặt với những tình huống gây stress, đặc biệt là
những tình huống gợi lại những kỉ niệm không vui trong quá khứ (li dị, chia ly, bị bố mẹ từ chối),
thì những sơ đồ tiêu cực tiềm ẩn sẽ được hoạt hóa, tác động đến nhận thức về bề mặt của chúng ta
và dẫn đến trầm cảm.
Một số ví dụ của Beck về các lỗi trong nhận thức là nguyên nhân trầm cảm [10, tr.248-251]:
Suy nghĩ tuyệt đối

Kiểu suy nghĩ “tất cả hoặc là không ai cả”: “Nếu tôi không

12


thành công trong công việc này, tôi là một kẻ hoàn toàn thất bại.
Hoặc là tôi trở thành người thầy giáo giỏi nhất, nếu không tôi
chẳng là cái gì hết”.
Xây dựng kết luận chung tiêu cực về bản chất của một sự kiện
Khái quát hóa thái quá


ngẫu nhiên đơn lẻ: “Chính thế đấy – Tôi luôn thất bại ở điểm
này. Tôi không thể làm được việc đó”
Giải thích các sự kiện như là tội lỗi hoặc sự chống đối của cá

Cá nhân hóa

nhân: “Tại sao họ luôn nhắm và tôi? Mọi chuyện luôn có vẻ như
thế, ngay cả khi tôi chẳng có tội gì”
Tự đưa ra một kết luận trong khi không có chứng cứ đầy đủ cho

Kết luận tùy tiện

nó: “Họ không thích tôi. Tôi có thể nói điều đó ngay từ lúc mà
chúng tôi mới gặp nhau”.
Tập trung vào một chi tiết không nổi trội, tách nó ra khỏi bối
cảnh: “Tôi nghĩ rằng bài diễn thuyết của tôi rất hay. Nhưng anh

Trừu tượng hóa có chọn lọc

sinh viên đó lại bỏ đi từ rất sớm, có thể anh ta không thích nó.
Có lẽ những người khác cũng thế nhưng họ đã không thể hiện
điều đó ra mà thôi”

 Thuyết liên cá nhân về trầm cảm
Thuyết liên cá nhân đề cập đến những khía cạnh hành vi của người bị trầm cảm, bao gồm
trong đó tổng thể mối quan hệ giữa người trầm cảm với người khác. Những người trầm cảm có
mạng lưới giao tiếp xã hội thưa thớt và coi chúng như là nguồn nâng đỡ. Sự nâng đỡ xã hội giảm
sút có thể làm yếu đi năng lực của cá nhân trong việc phản ứng với những sự kiện tiêu cực trong
cuộc sống, và làm cho cá nhân dễ cảm ứng với trầm cảm (Billings, Cronkite và Moos 1983).
Người trầm cảm cũng có thể nhận được những phản ứng tiêu cực từ phía người khác

(Coyne, 1976), khả năng này đã được nghiên cứu theo nhiều cách khác nhau, từ các cuộc nói
chuyện hướng dẫn qua điện thoại với bệnh nhân trầm cảm, đến việc nghe băng ghi âm của họ, và
thậm chí cả việc tiếp xúc trực tiếp. Dữ kiện thu được đã chỉ ra rằng, hành vi của người trầm cảm
nhận được sự hắt hủi từ phía những người xung quanh.
Thuyết liên cá nhân đã không vạch ra nguyên nhân sâu xa dẫn đến trầm cảm, nhưng một
đóng góp rất to lớn của học thuyết này đã chỉ ra những hành vi kém thích nghi của người bệnh
đóng vai trò duy trì bệnh và mối quan hệ của người bệnh với những người xung quanh. Điều này sẽ
định hướng cho các nhà trị liệu tập trung vào xây dựng những mẫu hành vi mới cho người bệnh và
xây dựng một mạng lưới giúp đỡ người bệnh từ những người thân xung quanh.
1.1.1.2. Các nghiên cứu cụ thể về trầm cảm và nhận thức về trầm cảm

13


Trầm cảm là một rối loạn thường gặp trên thế giới bất kể sự khác biệt về nhóm tuổi, văn
hóa, tầng lớp xã hội ở cả nam và nữ, trẻ và già, song tùy từng độ tuổi, từng giới mà tỉ lệ mắc khác
nhau.
Theo tác giả Brice Pith từ lứa tuổi thanh thiếu niên trầm cảm là chứng bệnh tâm thần phổ
biến nhất. Theo nhiều tác giả, trầm cảm chiếm tỉ lệ 3 – 5% dân số [20]. N.A.Satorious và
A.S.Jablenski 1984 đã công bố có khoảng 3 – 5% dân số trên hành tinh chúng ta tức là gần 200
triệu người, đã lâm vào trạng thái trầm cảm rõ rệt. Nhiều nghiên cứu mới ở Anh, Pháp, Mỹ và khu
vực Châu Âu đã nêu tỉ lệ mắc mới trầm cảm từ 15 – 24% [14, tr.63 – 70].
Có khoảng 18.800.000 người Mỹ trưởng thành, chiếm khoảng 9,5% độ tuổi dân số Hoa
Kỳ từ 18 tuổi trở lên, bị rối loạn trầm cảm trong một năm, trong đó tỉ lệ gặp ở phụ nữ cao gấp gần 2
lần nam giới (12% so với 6,6%). Năm 1997 có 30.535 người chết vì tự tử tại Hoa Kỳ. Tỉ lệ tự tử ở
người trẻ gia tăng đáng kể trong vài thập kỉ qua. Trong năm 1997, tự tử là nguyên nhân thứ 3 trong
số những nguyên nhân tử vong hàng đầu ở lứa tuổi từ 15 đến 24, khoảng 19.100.000 người Mỹ
trưởng thành tuổi từ 18 đến 54, chiếm 13,3% người dân trong nhóm tuổi này có một hội chứng rối
loạn lo âu. Rối loạn lo âu thường xuyên xảy ra cùng với các rối loạn trầm cảm, rối loạn ăn uống
hoặc lạm dụng thuốc [20].

Trong những năm gần đây rối nhiễu lo âu - trầm cảm tăng lên một cách nhanh chóng đồng
thời lứa tuổi khởi phát lại giảm xuống (Klerman, 1998). Cũng đã có nghiên cứu chỉ ra rằng rối loạn
trầm cảm thường bắt đầu ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Theo kết quả nghiên cứu của Uỷ ban y tế và
sức khỏe quốc gia của Úc thì có từ 1 - 3 % thanh thiếu niên rối loạn trầm cảm cho đến 18 tuổi. Hơn
nữa có khoảng 15 - 40% thanh thiếu niên có dấu hiệu trầm cảm và trầm cảm nhẹ. Ở các em nữ tỉ lệ
trầm cảm đặc biệt cao từ 7 - 13% (Angold & Rutter, 1992; Kaskani, 1987).
Trong đề tài khoa học Thiết lập mạng lưới phòng ngừa chứng trầm cảm và tự sát ở các
thanh thiếu niên thuộc tỉnh Gers - Cộng hòa Pháp của tác giả Dejean - Dupebe Chantal, thì các cứ
liệu thống kê về sức khỏe tâm trí ở Pháp ghi nhận rằng từ nhiều năm nay, có sự gia tăng của các
mưu toan tự sát và tự sát là nguyên nhân thứ 2 của tử vong ở thanh thiếu niên 15 - 25 tuổi, sau các
tai nạn giao thông.
1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam
Theo những tài liệu mà chúng tôi đã tìm hiểu thì cho đến nay chưa có nhiều công trình
nghiên cứu vấn đề nhận thức của sinh viên về trầm cảm mà chỉ có những công trình đi sâu vào
nghiên cứu mức độ rối loạn trầm cảm ở các lứa tuổi khác nhau. Nghiên cứu “Kết quả chẩn đoán
trầm cảm ở học sinh trung học phổ thông Hà Nội” của Nguyễn Bá Đạt (2003) thì trong số những
học sinh trung học phổ thông gặp khó khăn học đường có một số bộ phận học sinh rơi vào trạng
thái trầm cảm - rối loạn cảm xúc. Kết quả đánh giá tâm lý của học sinh thông qua trắc nghiệm
RADS và trắc nghiệm BDI - II cho thấy 6,7% học sinh tham gia có dấu hiệu trầm cảm ở mức độ

14


nhẹ; 1,6% có dấu hiệu trầm cảm ở mức độ vừa và 0,5% có dấu hiệu trầm cảm ở mức độ nặng.
Trung bình chung có 8,8% học sinh có dấu hiệu trầm cảm [4].
Theo tác giả Hồ Ngọc Quỳnh (2009) nghiên cứu trầm cảm ở sinh viên điều dưỡng và y tế
công cộng tại TP Hồ Chí Minh cho thấy tỉ lệ mắc trầm cảm ở sinh viên y tế công cộng lên tới
17,6%; ở sinh viên điều dưỡng là 16,5% và liên quan tới một số yếu tố như sự quan tâm của cha
mẹ, gắn kết nhà trường, thành tích học tập, quan hệ xã hội, tự nhận thức bản thân [12, tr.95-100].
Một kết quả nghiên cứu của Lê Minh Thuận (2011) đã cho thấy trong 252 sinh viên, tỉ lệ

mức độ rất nặng - lo âu khoảng 7% là nữ và 4% là nam (chung là 11%), trầm cảm là 5% (nữ). Mức
độ nặng - lo âu là 12%, stress là 2% và trầm cảm 2%. Có sự tương quan cao giữa các yếu tố stress,
trầm cảm và lo âu của sinh viên, giữa lo âu và stress là r = 0,7, giữa lo âu và trầm cảm là r = 0,73,
giữa stress và trầm cảm là r = 0,65. Yếu tố rối nhiễu tâm lý: lo âu, trầm cảm, stress có mối liện hệ
đáng tin cậy với Hy vọng (r = -0,83, -0,85, -0,82), cho thấy yếu tố hy vọng là yếu tố tăng cường
bảo vệ. Đây là mối liên hệ nghịch (r<0), tính hy vọng ở sinh viên cao thì giảm đi các rối nhiễu tâm
lý và ngược lại rối nhiễu tâm lý tăng thì làm giảm hy vọng. Phương trình hồi quy đa biến được xác
định là Hy vọng = 47,81 – 0,37 (lo âu) – 0,51 (stress) – 0,33 (trầm cảm), giải thích được 88,2%
(R2=88,2). Không có liên hệ chặt chẽ nào giữa các yếu tố khác với rối nhiễu tâm lý. [15]
1.2. Một số vấn đề lý luận nhận thức về trầm cảm
1.2.1. Lý luận về nhận thức
1.2.1.1. Khái niệm về nhận thức
Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về nhận thức:
Nhận thức là một hoạt động đặc trưng của con người. Trong quá trình sống và hoạt động
con người nhận thức được hiện thực xung quanh, hiện thực của bản thân mình, trên cơ sở đó con
người tỏ thái độ và hành động đối với thế giới xung quanh và đối với chính bản thân mình.
Vì vậy có thể nói, hoạt động nhận thức có vai trò đặc biệt quan trọng, nhờ có nhận thức mà
con người làm chủ được tự nhiên, làm chủ được xã hội và làm chủ được chính bản thân mình.
Quan niệm này đã khẳng định, nhận thức của con người là một hoạt động và hoạt động này diễn ra
thường xuyên liên tục trong đời sống, giúp con người có thể tồn tại và phát triển.
Theo quan điểm của K.K.Platônôp - nhà Tâm lý học Liên Xô: “Nhận thức là quá trình thu
nhận những tri thức chân thực trong thế giới khách quan trong quá trình hoạt động xã hội”. Nói đến
nhận thức tức là nói đến tính tích cực của con người, nói đến khả năng phản ánh những thuộc tính
của sự vật, hiện tượng, mối quan hệ của chúng trong hiện thực khách quan thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. Con người sống trong những điều kiện tự nhiên và môi trường xã hội nhất
định, đòi hỏi phải nhận thức được các quy luật của tự nhiên, cải tạo xã hội phục vụ cho mục đích
của con người.
Theo từ điển Tiếng Việt của tác giả Hoàng Phê: “Nhận thức là một quá trình hoặc kết quả
của sự phản ánh và tái hiện hiện thực và trong tư duy, là quá trình con người nhận biết, hiểu biết về


15


thế giới quan hoặc kết quả của quá trình đó” [11]. Trong định nghĩa này, tác giả đã nhấn mạnh,
nhận thức là một quá trình phản ánh hiện thực khách quan.
Trong từ điển Tâm lý học, tác giả Nguyễn Khắc Viện định nghĩa: “Nhận thức là một quá
trình tiếp cận, tiếp gần đến chân lý nhưng không bao giờ ngừng ở trình độ nào vì không bao giờ
nắm bắt hết được toàn bộ hiện thực, phải thấy dần những cái sai, tức không ăn khớp với hiện thực
để đi hết bước này đến bước khác”. Trong định nghĩa này Nguyễn Khắc Viện khẳng định nhận
thức là một quá trình liên tục không có điểm dừng lại, không có hồi kết mà chỉ có những kết quả
tạm chấp nhận ở thời điểm hiện tại.
1.2.1.2. Các quá trình của nhận thức
Trong việc nhận thức thế giới, con người có thể đạt tới những mức độ nhận thức khác
nhau, từ đơn giản đến phức tạp, từ trừu tượng đến cụ thể. Hoạt động nhận thức gồm quá trình khác
nhau, ở những mức độ phản ánh khác nhau như: cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng… Những
quá trình này sẽ cho chúng ta những sản phẩm khác nhau như: hình ảnh, biểu tượng, khái niệm. Có
thể chia hoạt động nhận thức thành hai mức độ, nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
 Nhận thức cảm tính
Qúa trình nhận thức cảm tính (cảm giác, tri giác) là mức độ nhận thức đầu tiên, sơ đẳng của
con người, sản phẩm của nhận thức cảm tính là những hình ảnh trực quan, cụ thể về thế giới. Cảm
giác là cơ sở của hoạt động tâm lý. Sự nhận thức hiện thực xung quanh bắt đầu từ cảm giác.
“Tri giác là một quá trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính của sự vật, hiện
tượng khi chúng trực tiếp tác động vào các giác quan của con người” [16, tr.105]
 Nhận thức lý tính
Nhận thức lý tính phản ánh những thuộc tính bên trong những mối liên hệ bản chất của sự
vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan mà con người chưa biết. Do đó, nhận thức lý tính có vai
trò quan trọng trong việc hiểu biết bản chất những mối liên hệ có tính quy luật của sự vật, hiện
tượng tạo điều kiện để con người là chủ tự nhiên, xã hội và bản thân mình. Phương thức phản ánh
của nhận thức lý tính là phản ánh một cách gián tiếp. Đó không chỉ là sự phản ánh hiện tại mà còn
cả quá khứ và tương lai.

 Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
Hai giai đoạn nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính có tính quan hệ chặt chẽ và tác động
lẫn nhau. V.I. Lênin đã từng kết luận rằng: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư
duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận
thức hiện thực khách quan” [1, tr.114].
1.2.1.3. Mối quan hệ giữa nhận thức và các hiện tượng tâm lý khác có liên quan
 Mối quan hệ giữa nhận thức và xúc cảm, tình cảm
Giữa phản ánh nhận thức và phản ánh xúc cảm, tình cảm có mối quan hệ qua lại chặt chẽ
với nhau. Phản ánh nhận thức là tiền đề cho phản ánh xúc cảm, tình cảm. Ngược lại thì xúc cảm,

16


tình cảm cũng có vai trò tác động, củng cố nhận thức để nhận thức hoàn thiện và sâu sắc hơn. Xúc
cảm, tình cảm là động lực kích thích con người nhận thức, thúc đẩy mạnh mẽ con người tìm tòi
chân lý. Có thể nói, xúc cảm, tình cảm nảy sinh trên cơ sở nhận thức, nhưng khi đã nảy sinh, hình
thành xúc cảm, tình cảm thì nó lại tác động trở lại nhận thức, thậm chí có thể làm biến đổi nhận
thức.
 Mối quan hệ giữa nhận thức và hành vi
Trong mối quan hệ giữa nhận thức và hành vi, có thể nói rằng nhận thức có vai trò quan
trọng trong việc hình thành nên thái độ và thực hiện hành vi của con người. Nhận thức là tiền đề, là
sự định hướng và sự điều chỉnh hành vi của cá nhân, trong hoạt động thực tiễn. Giữa nhận thức và
hành vi luôn luôn tồn tại một mối quan hệ qua lại hai chiều. Thông thường, khi con người nhận
thức đúng về một vấn đề, một sự vật, hiện tượng nào đó thì nó sẽ định hướng điều chỉnh, thúc đẩy
hành động của con người theo hướng tích cực phù hợp với chuẩn mực của xã hội.
1.2.2. Lý luận về trầm cảm
1.2.2.1. Khái niệm trầm cảm
Theo Tiến Sĩ, bác sĩ Hoàng Cẩm Tú: “Trầm cảm là một trạng thái rối loạn cảm xúc biểu
hiện sự buồn rầu chán nản, thất vọng quá mức bình thường làm ức chế toàn bộ các quá trình hoạt
động tâm thần. Rối loạn đặc trưng bởi khí sắc trầm, giảm hoặc mất mọi quan tâm thích thú, mất

năng lượng, dễ mệt mỏi, hoạt động giảm, khó tập trung chú ý, tư duy chậm, kèm theo mặc cảm tội
lỗi, giảm giá trị hoặc hoang tưởng bị tội lỗi, chán đời…và đi kèm theo các triệu chứng cơ thể khác
như rối loạn giấc ngủ, ăn…”
GS.TS Nguyễn Đăng Dung và bác sĩ Nguyễn Văn Siêm đã định nghĩa về trầm cảm như
sau: “Trầm cảm là trạng thái giảm khí sắc, giảm năng lượng và giảm hoạt động. Trong các cơn điển
hình, có biểu hiện ức chế toàn bộ hoạt động tâm thần. Bệnh nhân có khí sắc buồn rầu, ủ rũ, giảm
hứng thú và quan tâm, cảm thấy tương lai ảm đạm, tư duy chậm chạp, liên tưởng khó khăn, tự cho
mình là hèn kém, giảm sút lòng tự tin, thường hoang tưởng bị tội, dẫn đến tự sát, giảm vận động, ít
nói, thường nằm hoặc ngồi lâu ở một tư thế, kèm theo sự rối loạn các chức năng sinh học (mất ngủ,
chán ăn, mệt mỏi…)”.
Theo từ điển Tâm lý học của Vũ Dũng định nghĩa: “Trầm cảm là trạng thái xúc cảm mạnh
đặc trưng bởi bối cảnh cảm xúc âm tính, bởi những thay đổi của môi trường về những quan điểm
của động cơ nhận thức và bởi tính thụ động của hành vi nói chung” [3, tr.901].
Theo Bảng phân loại bệnh quốc tế (ICD - 10) và Bảng phân loại tâm thần lần thứ 4 của
hiệp hội tâm thần học Mỹ (DSM - IV) thì: “Trầm cảm là trạng thái rối loạn cảm xúc, biểu hiện
bằng giảm khí sắc, mất mọi quan tâm thích thú, giảm năng lượng dẫn đến tăng sự mệt mỏi và giảm
hoạt động, phổ biến là tăng sự mệt mỏi sau một số cố gắng nhỏ, tồn tại trong một khoảng thời gian
kéo dài, ít nhất là hai tuần”.

17


Tóm lại, Trầm cảm là một trạng thái rối loạn cảm xúc được biểu hiện một cách rõ rệt bởi
khí sắc, hành vi, ứng xử thể hiện sự buổn rầu, kèm theo cảm giác chán chường, bi quan thậm chí
có ý nghĩ tự sát, ức chế gần như toàn bộ các mặt hoạt động thể chất và tâm lý.
Như vậy, trầm cảm là trạng thái giảm khí sắc, giảm năng lượng hoạt động hay nói cách
khác đó chính là những biểu hiện đặc trưng là sự thay đổi, rối loạn về khí sắc. Vì vậy trầm cảm
chính là trạng thái rối loạn cảm xúc kéo dài ít nhất là 2 tuần. Gọi “trầm cảm” là “rối loạn trầm cảm”
để thể hiện rõ tính chất bệnh lí của trạng thái cảm xúc này. Chính vì vậy khái niệm “Trầm cảm” và
“Rối loạn trầm cảm” được chúng tôi đồng nhất trong luận văn này.

1.2.2.2. Biểu hiện lâm sàng của rối loạn trầm cảm
Biểu hiện lâm sàng của bệnh trầm cảm rất đa dạng, phong phú, các triệu chứng của bệnh
trầm cảm bao gồm:
Khí sắc trầm cảm. Khí sắc trầm cảm (khí sắc giảm) là nét mặt của bệnh nhân rất đơn điệu,
luôn buồn bã, các nếp nhăn giảm nhiều thậm chí mất hết nếp nhăn. Tình trạng khí sắc giảm rất bền
vững do bệnh nhân buồn, bi quan, mất hi vọng. Trong một số trường hợp giai đoạn đầu buồn có thể
bị phủ nhận, nhưng có thể biểu hiện khi khỏi bệnh (ví dụ giảm chú ý, bắt đầu than phiền). Ở một số
người họ than phiền rằng không còn nhiệt tình, không còn cảm giác gì, họ luôn ở trong trạng thái lo
âu.
Mất hứng thú hoặc sở thích ở hầu hết các hoạt động. Mất hứng thú hoặc sở thích gần như
biểu hiện trong mọi mức độ. Các bệnh nhân cho rằng họ đã mất hết các sở thích vốn có (tôi không
thích gì bây giờ cả). Tất cả các sở thích trước đây của bệnh nhân đều bị ảnh hưởng nặng nề, kể cả
ham muốn trầm cảm.
Mất cảm giác ngon miệng, ăn ít hoặc sút cân. Sự ngon miệng thường bị giảm sút, nhiều
bệnh nhân họ có cảm giác bị ép phải ăn. Họ ăn rất ít, thậm trí trong các trường hợp bệnh nặng bệnh
nhân nhịn ăn hoàn toàn. Vì vậy bệnh nhân thường sút cân nhanh chóng (có thể sút vài cân trong
vòng 1 tháng).
Mất ngủ nhưng có thể bệnh nhân ngủ quá nhiều. Rối loạn giấc ngủ hay gặp nhất trong giai
đoạn trầm cảm chủ yếu là mất ngủ. Các bệnh nhân thường mất ngủ giữa giấc (nghĩa là tỉnh ngủ vào
lúc ban đêm và khó có thể ngủ tiếp). Mất ngủ đầu giấc (nghĩa là khó bắt đầu giấc ngủ) cũng có thể
xuất hiện. Mất ngủ là triệu chứng gây khó chịu rất nhiều ở bệnh nhân.
Rối loạn hoạt động tâm thần vận động. Thay đổi tâm thần vận động bao gồm kích động
(nghĩa là bệnh nhân luôn đi đi lại lại, không thể ngồi yên), vận động chậm chạp (như nói chậm, vận
động cơ thể chậm), tăng khoảng nghỉ trước khi trả lời, giọng nói nhỏ, số lượng ít, nội dung nghèo
nàn, thậm chí câm. Vận động tâm thần chậm cần đủ rõ để những người xung quanh có thể nhận
thấy chứ không phải chỉ là cảm giác cơ thể của bệnh nhân.

18



Giảm sút năng lượng. Năng lượng giảm sút, kiệt sức và mệt mỏi là rất hay gặp. Một người
có thể than phiền mệt mỏi mà không có một nguyên nhân cơ thể nào. Thậm chí chỉ với một công
việc rất nhẹ nhàng họ cũng cần sự cố gắng lớn, hiệu quả công việc có thể giảm sút. Ví dụ một
người có thể than phiền rằng rửa mặt và mặc quần áo buổi sáng cũng làm họ kiệt sức và họ cần thời
gian nhiều hơn người bình thường gấp 2 lần. Cảm giác mệt mỏi thường tăng lên vào buổi sáng và
giảm sút một chút vào buổi chiều.
Cảm giác vô dụng hoặc tội lỗi. Cảm giác vô dụng hoặc tội lỗi là rất hay gặp trong giai đoạn
trầm cảm chủ yếu. Bệnh nhân cho rằng mình là kẻ vô dụng không làm nên trò trống gì. Họ luôn
nghĩ rằng mình là kẻ làm hỏng mọi việc, trở thành gánh nặng cho gia đình, cơ quan và xã hội.
Thậm chí bệnh nhân có mặc cảm tội lỗi liên quan đến các sai lầm nhỏ trước đây. Nhiều bệnh nhân
giải thích một cách sai lầm các hiện tượng thông thường hằng ngày như là khiếm khuyết của họ.
Bệnh nhân tự trách mình và không thể thành công, không đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp hoặc quan
hệ với mọi người, không hoàn thành nghĩa vụ với gia đình.
Khó suy nghĩ tập trung hoặc ra quyết định. Đây là triệu chứng rất hay gặp khiến bệnh nhân
khó chịu và phải đi khám bệnh. Nhiều bệnh nhân than phiền khó suy nghĩ, khó tập trung chú ý vào
một việc gì đó bệnh nhân cũng rất khó khăn khi cần đưa ra quyết định, họ cần phải cân nhắc nhiều
thời gian với những việc thông thường. Khó tập trung chú ý ở bệnh nhân thể hiện ở những việc đơn
giản nhất, không thể đọc được một bài báo ngắn, không nghe hết một bài hát mà bệnh nhân vốn rất
yêu thích, không thể xem hết một chương trình ti vi mà trước đây bệnh nhân rất quan tâm. Rối loạn
trí nhớ ở bệnh nhân thường là giảm trí nhớ gần. Bệnh nhân có thể quên mình vừa làm gì, trong khi
đó, trí nhớ xa (ngày sinh, quê quán, các sự việc xảy ra lâu trong quá khứ…) thì vẫn được duy trì
tương đối tốt trong một thời gian dài.
Ý nghĩ muốn chết hoặc hành vi tự sát. Hầu hết bệnh nhân trầm cảm đều có ý nghĩ về cái
chết, nặng hơn là họ có ý định tự sát hoặc hành vi tự sát. Lúc đầu họ nghĩ bệnh nặng thế này (mất
ngủ, chán ăn, sút cân, mệt mỏi…) thì chết mất. Dần bệnh nhân nghĩ rằng chết đi thì sẽ hết đau khổ.
Ý nghĩ này biến thành niềm tin rằng những người thân trong gia đình, cơ quan sẽ khá hơn nếu bệnh
nhân chết đi. Từ ý nghĩ tự sát bệnh nhân sẽ có hành vi tự sát. Tự sát có thể gặp ở người bị trầm cảm
nhẹ, vừa và nặng. Vì thế không thể chủ quan cho rằng trầm cảm nhẹ thì không cần quan tâm đến ý
định tự sát. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng không thể chỉ ra chính xác được bệnh nhân trầm cảm
có cố gắng tự sát hay không và khi nào tự sát. Động cơ tự sát của bệnh nhân là mong muốn cao độ

chấm dứt một trạng thái cảm xúc đau khổ, sự tra tấn đang hành hạ bệnh nhân trầm cảm.
Các triệu chứng cơ thể. Nhiều bệnh nhân luôn than phiền đau đầu, đau khớp, đau bụng,
đau ngực trái…có khi chính các triệu chứng đau này là nguyên nhân khiến bệnh nhân đi khám
bệnh. Họ thường đến khám ở bác sĩ chuyên khoa không tâm thần (thần kinh, khớp, tiêu hóa, tim
mạch…). Khi không phát hiện được tổn thương thực tổn và điều trị không kết quả, họ lại tìm đến

19


bác sỹ khác. Qúa trình này có thể diễn ra trong nhiều năm khiến bệnh nhân tốn kém nhiều tiền bạc,
thời gian và có thể ảnh hưởng rất lớn tới sức khỏe tinh thần.
1.2.2.3. Nguyên nhân dẫn đến trầm cảm
 Yếu tố di truyền
Mặc dù đã có một số bằng chứng phủ định, nhưng người ta vẫn luôn cho rằng yếu tố di
truyền có ảnh hưởng đến nguy cơ bị trầm cảm. Chẳng hạn, McGuffin và cs. (1996) đã tìm ra rằng
46% các cặp sinh đôi cùng trứng cùng bị trầm cảm, trong khi ở các cặp sinh đôi khác trứng, tỉ lệ
này là 20%. Tương tự, Wender và cs. (1986) đã tiến hành một nghiên cứu trên 2 nhóm khách thể:
Nhóm thứ nhất là họ hàng của những người con nuôi đã trưởng thành và từng bị trầm cảm. Thứ hai
là nhóm con nuôi. Nghiên cứu được tiến hành trên cơ sở tìm hiểu các thông số về tuổi tác, tình
trạng kinh tế - xã hội và khoảng thời gian những người con nuôi sống với mẹ ruột không bị trầm
cảm. So sánh tỉ lệ trầm cảm giữa hai nhóm, thấy rằng ở nhóm khách thể thứ nhất, tỉ lệ bị trầm cảm
nhiều gấp 8 lần và đã từng có ý định tự sát nhiều gấp 15 lần, so với họ hàng ruột của chính những
người con nuôi này. Không thấy có sự khác biệt giữa các nhóm khi xét đến những mức độ trầm
cảm nhẹ.
 Cơ chế sinh học
Cả chất norepinephrine và serotonin đều được coi là nguyên nhân gây nên trầm cảm. Ban
đầu, người ta đã nghĩ rằng sự giảm nồng độ của một trong 2 chất dẫn truyền thần kinh này có ảnh
hưởng đến khí sắc. Ngày nay, quan niệm đơn giản này đã bị những dữ liệu gần đây phủ định. Có vẻ
như khí sắc là kết quả của sự tương tác giữa serotonin và norepinephrine. Thậm chí nó có thể là kết
quả của sự tương tác giữa hai chất này với các cơ quan khác của não. Ví dụ, Rampello và cs.

(2000) đã giải thích rằng khí sắc là kết quả của sự không cân bằng giữa một số chất dẫn truyền thần
kinh, bao gồm serotonin và norepinephrine, dopamine và acetylcholine. Có thể là serotonin đóng
vai trò quá lớn trong việc kiểm soát các cơ quan khác nhau của não, và sự giảm chất này đã phá vỡ
hoạt động trong các cơ quan này, dẫn đến trầm cảm. Khu vực não có liên quan chủ yếu đến trầm
cảm là hệ viền. Theo mô hình tâm sinh học (psychobiological), các quá trình này xảy ra do tác
động của cả các yếu tố tâm lý – xã hội lẫn yếu tố di truyền; do đó, nó đòi hỏi mức độ quan tâm
thích đáng của mỗi lĩnh vực, trước khi một giai đoạn trầm cảm diễn ra.
 Yếu tố tâm lý – xã hội
Những sang chấn tâm lí – xã hội đã góp phần làm tăng nguy cơ trầm cảm. Tỉ lệ trầm cảm
thường thấy tương đối cao ở người nghèo, dân tộc thiểu số và những người có nguồn trợ cấp xã hội
ít ỏi (Jenkins et al. 1998). Ở rất nhiều người, một số yếu tố kết hợp với nhau, khiến cho trầm cảm
đặc biệt dễ xảy ra. Năm 1978, Brown và Harris đã tiến hành nghiên cứu trên những phụ nữ thuộc
tầng lớp lao động. Một nhóm người bao gồm những người có tới 3 con nhỏ hoặc nhiều hơn, thiếu
một người bạn gái thân thiết để tâm tình, không có nghề nghiệp bên ngoài và mồ côi cha từ khi còn

20


rất nhỏ. Nhóm còn lại cũng là những phụ nữ thuộc tầng lớp lao động nhưng có hoàn cảnh ngược
lại. Kết quả cho thấy những phụ nữ ở nhóm thứ nhất có khả năng bị trầm cảm cao hơn so với nhóm
thứ hai. Những cá nhân túng thiếu về mặt kinh tế có xu hướng trải qua nhiều sự kiện tiêu cực trong
cuộc sống hơn là những người có điều kiện kinh tế được cải thiện, và có lẽ nguồn tài chính xã hội
dùng để giải quyết những khó khăn của họ cũng ít hơn (House et at. 1991). Nhiều cá nhân thuộc
các dân tộc ít người gặp phải tình trạng kinh tế bất lợi. Thêm nữa, họ phải đấu tranh với định kiến
và sự hòa nhập với dân tộc chiếm số đông, điều này có thể gây nên stress (Clarke 2000). Những
stress cuộc sống mạnh, như ly hôn hay ly thân, có thể gây ra các đợt trầm cảm. Ngược lại, một hệ
thống nâng đỡ xã hội tốt có thể bảo vệ cá nhân khỏi căn bệnh này.
Có rất nhiều lời giải đáp khác nhau cho câu hỏi tại sao phụ nữ lại thường bị trầm cảm nhiều
hơn nam giới. Thoạt đầu thì điều này bị bỏ qua vì người ta cho rằng đó chỉ là biểu hiện của định
kiến, giờ đây đã có chứng cứ thuyết phục hơn, chứng minh rằng, thật sự có sự khác biệt về giới

trong tỉ lệ thường thấy của trầm cảm (Weich et al. 1998). Ở khía cạnh xã hội, người ta giải thích
rằng phụ nữ ngày nay phải gánh vác nhiều trách nhiệm hơn nhưng lại có chất lượng cuộc sống thấp
hơn nam giới. Phụ nữ có xu hướng làm những việc có vị thế thấp; công việc ở công sở và trong gia
đình khiến họ bị quá tải (Bird và Rieker, 1999). Điều đó có nghĩa là, khác với nam giới, khi phụ nữ
làm xong việc ở cơ quan, vai trò nội trợ đang chờ đợi họ ở nhà, và họ phải tiếp tục làm việc. Phụ
nữ cũng dễ phải chịu những áp lực về mặt văn hóa hơn so với đàn ông, bao gồm cả việc phải tuân
theo các tư tưởng phương Tây về sự quyến rũ, điều này càng làm tăng thêm khả năng bị stress của
họ. Lời giải thích từ khía cạnh tâm lí học, đó là, so với đàn ông, phụ nữ dễ bị quy lỗi lầm cho bản
tính cá nhân của họ hơn, do đó, họ càng dễ tự buộc tội và đánh giá thấp bản thân. Thêm vào đó,
Holen – Hoeksema (1990) đã lí luận rằng khi đàn ông trải qua những hoàn cảnh có thể dẫn đến
trầm cảm, khả năng quên đi những ý nghĩ tiêu cực của họ tốt hơn. Trong khi đó, phụ nữ lại hay để
tâm đến hậu quả và nguyên nhân; suy nghĩ này thúc đẩy sự xuất hiện của những ý nghĩ bi quan vốn
đã tiềm tàng trong đầu óc họ [10, tr.225-243].
1.2.2.4. Hậu quả của trầm cảm
Trầ m cảm nă ̣ng (Major Depressive Disorder= MDD) đã trở thành nguyên nhân quan tro ̣ng dẫn
đến gánh nặng ngân sáchsau tự tử và bê ̣nh tim ma ̣ch
.
Năm 1990, Tổ chức Ngân sách bê ̣nh tâ ̣t toàn cầ u (Global Burden of Diseasee = GBD) xế p
các rối loạn trầ m cảm hạng nguyên nhân thứ 4 dẫn đế n mấ t ngày công lao đô ̣ng sau các bê ̣nh nhiễm
trùng hô hấp , tiêu chảy và các bê ̣nh của thai nhi và trẻ sơ sinh . Đế n năm 2000, các rối loạn trầm
cảm lên hạng nguyên nhân thứ 3 của gánh nă ̣ng ngân sách toàn cầu [19].
Năm 2010, theo kế t quả nghiên cứu của GBD các rố i loa ̣n trầ m cảm xế p ha ̣ng 2 gánh nặng
ngân sách. Nghiên cứu đánh giá dựa trên tỷ lê ̣ tử vong và ngày công lao đô ̣ng bi ̣mấ t có nguyên
nhân từ các rối loạn trầ m cảm.

21


Đối tượng nghiên cứu là bệnh nhân rối loạn lưỡng cực


(Mood Depressive

Disorder=MDD), trầ m cảm mức đô ̣ nhẹ, kéo dài, rố i loa ̣n khí sắ c. Các tác giả sử du ̣ng bản DALYs
xác định chi phí ngân sách do các rối loạn trầm cảm, cùng với số thời gian (tính bằng năm) không
lao đô ̣ng (YLDs) vì bệnh và số năm không làm việc trước đó khi mới mắc bệnh (YLLs) của bệnh
nhân. So sánh với chi phí ngân sách do các bê ̣nh khác và do chấ n thương

, trầ m cảm nă ṇ g chiế m

8,2% thời gian không lao đô ̣ng (YLDs), xế p thứ 2 nguyên nhân mấ t khả năng lao đô ̣ng , và xếp thứ
11 trong nguyên nhân dẫn đế n gánh nă ̣ng ngân sách toàn cầ u (DALYs). Các rối loạn khí sắ c chiế m
1,4 % YDLs. Theo cách tin
́ h của các nhà nghiên cứu , trầ m cảm nă ̣ng gây mấ t 16 triê ̣u ngày làm
viê ̣c, tự tử và bê ̣nh thiế u máu cơ tim chỉ mấ t 4 triê ̣u ngày. Tính chung, tỷ lệ mất ngày công lao động
3,8 % toàn cầu (DALYs) do các rố i loa ̣n trầ m cảm [19].
Theo Bs Pha ̣m Văn Tru ̣ - Bệnh viện Tâm Thần Thành phố Hồ Chí Minh, tại Thành phố Hồ
Chí Minh, số lần khám của bê ̣nh nhân mắ c các rố i loa ̣n trầ m cảm chi ếm 23,1 % số lần bê ̣nh nhân
đến khám và điều trị ngoạt trú, trong đó nữ chiế m 68,2 % số liê ̣u 6 tháng đầu năm 2013). Các nhóm
thuố c chố ng trầ m cảm hiê ̣n nay gầ n như có đầ y đủ như các nước Tây Âu nhưng giá cả không phải
là thấp. Cùng với chi phí đi lại và số ngày không thể làm việc được cũng như chi phí chăm sóc hâ ̣u
quả của bệnh chắc chắn ảnh hưởng nặng nề tới ngân sách và điều kiện sống gia điǹ h.
1.2.2.5. Biện pháp điều trị trầm cảm
Trị liệu trầm cảm được dựa trên cơ sở tâm lý và sinh học. Trị liệu trên cơ sở tâm lý là tiến
trình trong đó bệnh nhân và cố vấn chuyên môn làm giảm bớt rối loạn tâm lý nhấn mạnh vào sự
thay đổi là kết quả của sự tương tác giữa bác sĩ trị liệu và bệnh nhân. Trái lại liệu pháp dựa trên cơ
sở sinh học là dựa vào thuốc và các tiến trình y khoa khác để cải thiện chức năng hoạt động tâm lý.
 Tâm lý liệu pháp
Điều trị tâm lý động học xuyên vào vô thức: Dựa vào giả thuyết đầu tiên của S. Freud cho
rằng nguồn gốc hành vi bất thường là những xung đột trong quá khứ chưa giải quyết và sự lo âu
trước khả năng các xung tiềm thức không thể chấp nhận sẽ đi vào phần nhận thức trong suy nghĩ

của con người. Để bảo vệ chống lại khả năng không mong muốn này cá nhân sử dụng cơ chế phòng
thủ. Tiếp cận này giúp bệnh nhân đương đầu với những xung đột bằng cách mang chúng ra khỏi vô
thức trong suy nghĩ đưa vào nhận thức tham gia vào cuộc sống hàng ngày hiệu quả hơn.
Phân tâm học điều trị đựợc sử dụng kỹ thuật liên tưởng tự do yêu cầu bệnh nhân giải tỏa
những gì đang hiện ra trong tâm trí, không chú ý đến sự vô nghĩa hay không liên quan gì đến cụ
thể. Liên tưởng tự do thực sự trình bày những manh mối quan trọng về tiềm thức giúp nhà tâm lý
phân tích tiềm thức của bệnh nhân. Một công cụ quan trọng khác là giải thích giấc mơ của bệnh
nhân để tìm ra manh mối rối loạn hiện có.

22


Tiếp cận điều trị qua hành vi: Không nhất thiết phải đào sâu vào quá khứ hay tâm thần của
con người. Họ xem rối loạn bất thường là hành vi cần sửa đổi. Thay đổi hành vi con người để cho
phép họ hoạt động.
Tiếp cận nhận thức: Nếu cho rằng nhận thức thích nghi không tốt là tâm điểm của hành vi
bất thường thì cách điều trị trực tiếp dạy cho con người cách suy nghĩ và thích nghi mới. Với mục
đích thay đổi nhận thức không đúng của con người về thế giới và chính mình xây dựng lại hệ thống
niềm tin của con người thành một tập hợp quan điểm thực tế và hợp lý.
Liệu pháp nhân văn: Trong đó giả định là con người kiểm soát hành vi của mình có thể lựa
chọn về đời sống và cơ bản chịu trách nhiệm giải quyết vấn đề riêng của mình. Xem bản thân họ là
người hướng dẫn hay người tạo điều kiện dẫn dắt con người đi đến việc thừa nhận chính mình và
thay đổi dần đến quan điểm họ nghĩ về bản thân nhiều hơn.
 Điều trị bằng hóa dược
 Các thuốc chống trầm cảm truyền thống (chống trầm cảm ba vòng). Chống trầm cảm an
dịu (amitriptylin) đối với các triệu chứng kích động, lo âu, mất ngủ (trung bình 100mg/ngày).
Chống trầm cảm kích thích (imipramin) đối với các triệu chứng ức chế vận động và tâm
duy (trung bình 100mg/ngày).
Có thể dùng đường uống, trường hợp nặng có thể dùng đường tiêm bắp, trong 1 - 2 tuần
đầu, sau đó tiếp tục bằng đường uống.

 Thuốc chống trầm cảm thế hệ mới (không 3 vòng, không IMAO)
Stablon, Athymil, Prozac…liều lượng trung bình khác nhau tùy loại thuốc và tùy từng bệnh
nhân
Các thuốc này tác dụng phụ ít và nhẹ, dùng cho những bệnh nhân nạp kém các thuốc chống
trầm cảm 3 vòng.
Nói chung các thuốc chống trầm cảm đều phát huy tác dụng chậm từ (4-6 tuần). Trong thời
gian này cần theo dõi chặt chẽ đề phòng tự sát hay chuyển pha sang hưng cảm.
 Các thuốc hướng thần kết hợp
Nếu các triệu chứng lo âu kích động vẫn kéo dài, có thể cho thêm các thuốc giải lo âu
(benzodiazespin) hay thần kinh an dịu (levomespromazin).
 Điều trị dự phòng trầm cảm tái phát
Để tránh tái phát, trầm cảm cần được điều trị trong nhiều tháng. Riêng đối với bệnh hung
trầm cảm cần điều trị dự phòng bằng các thuốc Lithium, hoặc Depamide, hoặc Tegretol.
 Điều trị đặc hiệu: Sốc điện
Các chỉ định chính:
- Trầm cảm có ý muốn và hành vi tự sát
- Trầm cảm cần điều trị nhanh (không chờ được tác dụng các thuốc chống trầm cảm)
- Trầm cảm chống chỉ định hay kháng lại các thuốc chống trầm cảm [18, tr.87-89].
1.2.2.6. Phòng, chống trầm cảm ở cộng đồng

23


Theo hướng dẫn của Tổ chức y tế thế giới về phòng chống các bệnh tâm thần nói chung,
Việt Nam đã xây dựng mô hình phòng chống bệnh tâm thần dựa vào cộng đồng, trong đó có bệnh
trầm cảm. Trọng tâm của dự án này là lồng ghép công tác phát thuốc, theo dõi chăm sóc bệnh bệnh
tâm thần vào hoạt động y tế cơ sở. Mô hình này đã được đánh giá lại cả về hiệu quả và cách đề cập.
Mô hình chăm sóc sức khỏe tâm thần nói chung và đối với bệnh trầm cảm nói riêng tại cộng đồng:
Hóa dƣợc trị liệu


Tâm lý trị liệu

Can thiệp môi trƣờng xã hội
Điều kiện thực hiện quản lý và điều trị trầm cảm tại cộng đồng
Bệnh nhân được chẩn đoán sớm và gửi đi khám chuyên khoa xác định bệnh sớm. Phòng
khám chuyên khoa có đủ khả năng thực hiện chẩn đoán xác định và đưa ra khuyến cáo cho hai hình
thái trị liệu: tâm lý trị liệu, hóa trị liệu, đồng thời đưa ra khuyến nghị cho hệ thống chăm sóc sức
khỏe ban đầu thực hiện chăm sóc bệnh nhân tại cộng đồng và tìm hiểu can thiệp cải thiện thực hiện
chăm sóc bệnh nhân tại cộng đồng và tìm hiểu can thiệp cải thiện môi trường xã hội của bệnh nhân.
Hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu được trang bị kiến thức phát hiện sớm và được hướng dẫn
thực hành trị liệu theo tài liệu của WHO (1998), “Chăm sóc sức khỏe tâm thần ở tuyến cơ sở”; kết
hợp với gia đình theo dõi bệnh nhân, đồng thời, có kiến thức và kỹ năng xã hội tiến hành tìm hiểu
về yếu tố môi trường xã hội để đưa ra biện pháp thực hiện cải thiện môi trường xã hội thuận lợi cho
cải thiện sức khỏe tâm trí của bệnh nhân. Hệ thống thông tin hai chiều được thực hiện giữa tuyến
chăm sóc sức khỏe ban đầu và cơ sở chuyên khoa. Cộng đồng hiểu được lợi ích của mối quan hệ xã
hội và sức khỏe tâm trí [16, tr.15-40]; [18, tr.1-6].
Nội dung công tác chăm sóc và phục hồi chức năng bệnh nhân trầm cảm tại cộng đồng: (1)
Chấp nhận trầm cảm là một căn bệnh thực sự; (2) Nhận biết và công nhận các triệu chứng của trầm
cảm; (3) Cần hiểu về tiến triển của bệnh trầm cảm và các giai đoạn điều trị; (4) Dẹp bỏ các ý nghĩ
ưu phiền của gia đình, bệnh nhân và xã hội về trầm cảm; (5) Cần hiểu về nguyên nhân của trầm
cảm; (6) Chấp nhận ý tưởng điều trị; (7) Tìm hiểu về thuốc chống trầm cảm; (8) Hiểu biết về tâm lý
liệu pháp; (9) Biết cách làm giảm nguy cơ tái phát; (10) Biết cách đối mặt với ý tưởng tự sát; (11)
Người bị trầm cảm tự rèn luyện hàng ngày, ghi chép các hoạt động vào một bảng theo dõi để xác
định khả năng phục hồi các hoạt động [2, tr.3-14]; [5, tr.98-113].
1.3. Một số đặc điểm tâm lý xã hội của sinh viên
1.3.1. Khái niệm sinh viên

24



Theo từ điển Giáo dục học định nghĩa: “Sinh viên là người học của một cơ sở giáo dục đại
học, cao đẳng, trung cấp” [7, tr.343]. Theo Nguyễn Thạc và Phạm Thành Nghị: “Sinh viên đại học
là những thanh niên thuộc thời kì tiếp sau” [13, tr.37-44]. Việc cho rằng thanh niên nằm trong thời
kì chuyển tiếp và sinh viên đại học thuộc thời kì chuyển tiếp sau cũng phù hợp với quan niệm của
nhà tâm lý học người Mĩ Niky Hayes khi cho rằng “thời thanh niên như một thời kì chuyển tiếp vai
trò càng tăng, đến lượt dẫn đến sự thay đổi nhân cách” [6, tr.803].
1.3.2. Một số đặc điểm tâm - sinh lý của sinh viên
Tuổi sinh viên là thời kỳ đạt được sự trưởng thành về mặt thể chất. Thông thường đây là
giai đoạn hoàn tất quá trình thay da đổi thịt của tuổi thiếu niên đạt tới sự chín muồi về mặt sinh lý.
Có thể nói đây là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất về các chỉ số của cơ thể. Sự phát triển của hệ thống
thần kinh, cấu trúc các tế bào của đại não cũng có đặc điểm như cấu trúc tế bào não của người lớn.
Số lượng dây thần kinh liên hợp tăng lên, liên kết các phần khác nhau của vỏ não hoàn thiện. Đó
chính là tiền đề cần thiết cho sự phức tạp hóa quá trình nhận thức.
Sự tự ý thức của sinh viên cũng ở mức độ cao giúp người sinh viên có thể điều chỉnh hành
vi và hoàn thiện nhân cách của mình. Sự tự ý thức của sinh viên xuất phát từ sự đánh giá và khả
năng đánh giá về các mặt của đời sống xã hội.
1.3.3. Các nguy cơ dễ dẫn đến trầm cảm ở sinh viên
Quá trình học tập ở trường là giai đoạn quan trọng trong quá trình xã hội hóa nhân cách.
Giai đoạn học đại học là giai đoạn sinh viên có cuộc sống lao động trí óc căng thẳng để tiếp nhận
tri thức và phát triển các chức năng tâm lý như tư duy, chú ý, trí nhớ… Đây cũng là giai đoạn sinh
viên tham gia nhiều hoạt động và các mối quan hệ xã hội. Do vậy, học tập, nghiên cứu khoa học,
giao tiếp và tham gia các hoạt động xã hội là những hoạt động chính của sinh viên.
Tuy nhiên, sinh viên lại là đối tượng có nguy cơ trầm cảm cao hơn khi gặp khó khăn: trong
việc tìm bạn mới, khi mâu thuẫn với bạn cùng phòng, tham gia các hoạt động xã hội, hay khi gặp
rắc rối trong gia đình.
Khi mâu thuẫn với bạn cùng phòng, sinh viên trở nên mệt mỏi, khó chịu, căng thẳng, nếu
mâu thuẫn kéo dài không được giải quyết dễ dẫn đến trầm cảm.
Khi tham gia các hoạt động xã hội sinh viên cần phải năng động, hòa đồng và cần có cách
giải quyết công việc thích hợp, nếu không dễ rơi vào trạng thái cô lập thất vọng và có suy nghĩ tiêu
cực về xã hội, điều này làm tăng nguy cơ trầm cảm.

Áp lực học tập và những thói quen sinh hoạt không hợp lý khiến cơ thể lâm vào trạng thái
thường xuyên mệt mỏi, buồn chán và cáu gắt. Điều này cũng làm tăng nguy cơ dẫn đến trầm cảm.
Những sinh viên có vấn đề về sức khỏe cũng có nguy cơ bị trầm cảm hơn so với những
sinh viên có sức khỏe tốt. Vì khi không đảm bảo sức khỏe, sinh viên mất sự tập trung trong việc

25


×