Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Tiểu luận MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG: chứng minh những khó khăn và thách thức khi thực thi vấn đề “phát triển bền vững trong nông nghiệp” Việt Nam và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.65 KB, 11 trang )

1. Mở đầu
Sản xuất nông nghiệp luôn được coi là ngành sản xuất quan trọng, có tiềm
năng lớn của nước ta. Trong bối cảnh nền kinh tế phải đối mặt với rất nhiều khó
khăn, sản xuất nơng nghiệp càng tỏ rõ vai trị rất quan trọng, góp phần bảo đảm an
sinh xã hội và an ninh lương thực, tăng kim ngạch xuất khẩu.
Vượt qua khó khăn, năm 2014, ngành nơng nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng
3,3%, cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch theo hướng phù hợp hơn với nhu
cầu thị trường, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 30,8 tỷ USD. Tuy nhiên, nông
nghiệp vẫn chưa thật sự phát triển bền vững: khả năng cạnh tranh của một số sản
phẩm nông sản chưa cao, thị trường tiêu thụ thiếu ổn định, chưa hình thành có hiệu
quả chuỗi giá trị nông sản, thu nhập của cư dân nông thôn thấp. Hướng tới sự phát
triển bền vững, giải pháp nào cho phát triển nông nghiệp nước ta đang là câu hỏi
lớn đặt ra cho các nhà nghiên cứu lý luận, hoạch định chính sách và chỉ đạo thực
tiễn.
Bài tiểu luận này sẽ chứng minh những khó khăn và thách thức khi thực thi
vấn đề “phát triển bền vững trong nông nghiệp” ở nước ta hiện nay và đưa ra một
số giải pháp để hướng đến việc phát triển một nền nông nghiệp bền vững.
2. Nội dung
2.1. Khái niệm về phát triển nông nghiệp bền vững
Khái niệm về phát triển nông nghiệp bền vững trong sự phát triển của toàn xã
hội lồi người mới chỉ hình thành rõ nét trong những năm 1990 qua các hội thảo và
xuất bản. Điều quan trọng nhất của phát triển nông nghiệp bền vững là cải thiện
chất lượng cuộc sống trong sự tiếp cận đúng đắn về mơi trường, để giữ gìn tài
ngun cơ bản nhất cho thế hệ mai sau.
Theo FAO: Nông nghiệp bền vững bao gồm quản lý có hiệu quả tài nguyên
cho nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu cuộc sống của con người, đồng thời giữ gìn
và cải tạo tài nguyên thiên nhiên môi trường và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên
(FAO, 1989).
Nội dung về phát triển nông nghiệp bền vững thường bao gồm 3 thành phần
cơ bản:
1




1. Bền vững về an ninh lương thực trong thời gian dài trên cơ sở hệ thống
nông nghiệp phù hợp với điều kiện sinh thái và không tổn hại đến môi trường.
2. Bền vững về tổ chức quản lý, hệ thống nông nghiệp phù hợp trong mối
quan hệ con người cả cho đời sau.
3. Bền vững thể hiện ở tính cộng đồng trong hệ thống nông nghiệp hợp lý.
Trong lịch sử canh tác nông nghiệp của nước ta, hệ thống sử dụng đất trồng
lúa là hệ thống bền vững còn hệ thống canh tác sử dụng đất dốc còn nhiều vấn đề
cần giải quyết.
2.2. Những khó khăn và thách thức khi phát triển bền vững trong nông
nghiệp ở nước ta hiện nay
Phát triển nơng nghiệp bền vững là mơ hình phát triển mà trong đó có sự ràng
buộc giữa tăng trưởng của nông nghiệp và tăng trưởng chung của nền kinh tế, với
mơi trường tự nhiên, sự nghèo đói và mơi trường con người ở nơng thơn.
Trong q trình phát triển của mình bên cạnh những thuận lợi thì nơng nghiệp
nước ta vẫn ln tồn tại các khó khăn riêng. Những khó khăn đó bao gồm:
* Điều kiện tự nhiên và con người
Thiên tai thường xuyên xảy ra hàng năm gây thiệt hại nặng nề: bảo, lũ lụt, hạn
hán, biến đổi khí hậu tồn cầu với hiệu ứng nhà kính, sự ấm dần lên của trái đất
làm băng tan ở hai cực sẽ tạo nguy cơ ngập lụt ở những vùng thấp (như đồng bằng
Sông Cửu Long). Cơ sở vật chất phục vụ cơng tác dự báo, phịng chống và khắc
phục thiên tai cịn nghèo nàn. Vì vậy, thường dễ bị mất mùa khi thiên tai xảy ra.
Cùng với quá trình biến đổi khí hậu, tình trạng thiên tai trong tương lai sẽ
diễn ra ngày càng tăng với nhiều diễn biến phức tạp hơn. Tình trạng sạt lở, lũ lụt,
ngập mặn, hạn hán tại một số vùng sẽ xảy ra với mức độ nghiêm trọng hơn ảnh
hưởng không nhỏ tới đời sống sinh hoạt và sản xuất của người dân. Các biểu hiện
thời tiết cực đoan có nhiều khả năng gây ảnh hưởng tiêu cực cho sản xuất nông
nghiệp. Thứ ba, ơ nhiễm và nguy cơ gây suy thối mơi trường. Tăng trưởng nông
nghiệp của Việt Nam thời gian qua lạm dụng phân bón, hóa chất bảo vệ, thuốc thú

y, chất kích thích tăng trưởng… gây tác động xấu đến môi trường, làm tăng mức
độ ô nhiễm và suy yếu nguồn tài ngun thiên nhiên. Tính trạng ơ nhiễm mơi
trường nếu khơng có biện pháp ngăn chặn kịp thời sẽ mang lại những hậu quả hết
2


sức nghiêm trọng, đe dọa sản xuất trong nước và khả năng cạnh tranh của nông sản
Việt Nam trên thị trường.
Nhiều loại dịch bệnh như dịch rầy nâu, đạo ôn trên lúa đang gây nhiều khó
khăn cho việc sản xuất lúa ở nước ta vì hậu quả mà nó mang lại là rất nặng nề.
Hiện nay theo khuyến cáo của các chun gia nơng nghiệp, nếu 10% diện tích sản
xuất lúa chính bị nhiễm bệnh thì Việt Nam sẽ phải ngưng xuất khẩu gạo để đảm
bảo an ninh lương thực và nếu tỷ lệ đó vượt q 30% thì chúng ta sẽ phải nhập
khẩu gạo. Không chỉ ngành trồng trọt mà ngành chăn ni cũng gặp khơng ít các
khó khăn như bệnh lở mồm long móng, heo tai xanh, cúm gia cầm liên tục bùng
phát gây thiệt hại cho người chăn ni, chính vì vậy mà nơng nghiệp Việt Nam
ln đứng trước những thách thức vơ cùng lớn.
Khí hậu nhiệt đới gió mùa của nước ta làm tăng thêm tính chất bấp bênh vốn
có của nơng nghiệp. Trong thời gian qua trên khắp các vùng sản xuất nơng nghiệp
phía Bắc của nước ta đã trải qua những đợt rét gây ảnh hưởng không nhỏ cho
ngành nông nghiệp. Các đợt rét đã gây ảnh hưởng không chỉ đến tiến độ gieo trồng
mà còn gây ra các bệnh như táp lá, vàng lá, rễ kém phát triển và làm cho mạ chết
tập trung.
Tình trạng sử dụng hóa chất tràn lan trong nơng nghiệp hiện nay cũng rất
đáng báo động đẫn đến nguy cơ đất nơng nghiệp bị thối hóa, bạc màu. Trong khi
đó, các cơng ty trong lĩnh vực chế phẩm sinh học của ta lại rất yếu, nhiều sản phẩm
nhập từ nước ngoài về đã quá hạn sử dụng hoặc đã bị cấm sử dụng trên thế giới,
chính vì vậy mà gây khó khăn thêm cho phát triển nơng nghiệp. Sử dụng q mức
các đầu vào hóa học Nơng nghiệp càng phát triển thì các đầu vào có nguồn gốc hóa
học như phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, các vật tư thiết bị như nilon, chất dẻo

càng được dùng ở mức độ cao. Sự lạm dụng các loại đầu vào này đã làm giảm khả
năng vốn có của hệ sinh thái nông nghiệp, diệt trừ hết các vi sinh vật có lợi và làm
tăng nguy cơ phá hại của dịch hại nông nghiệp, ô nhiễm đất đai, nguồn nước,
không khí, tạo nên dư lượng cao về các sản phẩm hóa học tồn động trong sản phẩm
khơng có lợi cho sức khỏe con người. Những tiến bộ về thâm canh tăng năng suất
cây trồng đã dẫn tới tình trạng lạm dụng phân hóa học và các chất độc trừ sâu
bệnh, trừ cỏ đã làm hỏng cấu tượng và nhiễm độc chất, làm ô nhiễm môi trường và
ô nhiễm nguồn nước. Việc cơng nghiệp hố nơng nghiệp theo mục đích thu lợi
nhuận tối đa của các tập đoàn tư bản siêu quốc gia đã làm phá sản hàng triệu nông
3


dân nghèo. Theo kết quả đánh giá của Chương Trình Môi Trường của Liên hợp
quốc: 1,2 tỷ ha (gần 11% diện tích dất trồng trọt của Thế Giới đang bị thối hóa ở
mức trung bình hoặc trầm trọng), khoảng 950 triệu đất bị nhiễm mặn. Cuối thập kỉ
80, hàng năm có từ 17 đến 20 triệu ha rừng bị tàn phá (Brundland Report ,1987).
Cần nhận thức đúng đắn về vai trị và cách sử dụng các đầu vào có nguồn gốc hóa
học trong khi xây dựng chiến lược cho phát triển nơng nghiệp bền vững.
Khơng những vậy diện tích đất canh tác nơng nghiệp mỗi năm mỗi giảm,
trong khi đó năng suất lao động nông nghiệp rất thấp, cơ cấu kinh tế nơng thơn tuy
có thay đổi nhưng chưa đáng kể. Diện tích đất nơng nghiệp bình qn trên đầu
người của nước ta khá thấp chỉ có 0,1 ha/người, chỉ bằng 1/3 mức bình qn của
thế giới. Bên cạnh đó thì các nguồn lực về sinh học đa dạng, phong phú chưa được
khai thác. Tăng sản lượng do mở rộng diện tích (chủ yếu mở rộng diện tích đất từ
phá rừng hay tăng vụ đối với diện tích đất được tưới tiêu chủ động). Hệ quả làm
phá hỏng hệ sinh thái như hủy diệt nhiều sinh vật, suy thoái hệ thống đất – nước,
thay đổi về khí hậu.
Một khó khăn nữa đó là nhận thức của nhiều người về vai trị của nơng nghiệp
hiện nay vẫn chưa tương xứng với sự đóng góp quan trọng của lĩnh vực này đối
với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Dường như công nghiệp và

dịch vụ chưa coi trọng thị trường nơng nghiệp nói chung.
Đời sống của người nơng dân tuy được cải thiện nhưng vẫn cịn nghèo. Dù
chúng ta đã đạt được nhiều thành quả về xuất khẩu lúa gạo và các nông sản phẩm
khác nhưng nông dân trồng lúa chúng ta thì vẫn là những người nghèo về vật chất
và tinh thần. Mặc dù sản lượng lương thực mỗi năm lại tăng hơn 1 triệu tấn nhưng
thu nhập của nơng dân thì vẫn chưa được cải thiện bao nhiêu. Cả nước còn 2,25
triệu hộ nghèo, chiếm 14,5% số hộ cả nước, trong đó 90% thuộc khu vực nơng
thơn. Có 300.000 hộ cịn thiếu đói thường xun và 400.000 hộ sống du canh, du
cư. Chênh lệch mức sống dân cư giữa thành thị và nông thôn ngày càng dãn rộng.
Hiện nay, độ dãn này cách nhau khoảng 5 lần.
Điều đáng lo ngại nhất là nguồn lao động nông nghiệp tuy dồi dào nhưng lao
động qua đào tạo chỉ chiếm 24%, ở nông thôn nơi trực tiếp sản xuất chỉ có 13%.
Trình độ canh tác của đại bộ phận người dân tham gia sản xuất nơng nghiệp cịn
thấp và chưa đáp ứng được với tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng
nghiệp nơng thơn. Ngồi ra, đặc điểm chung trong sản xuất nông nghiệp ở các
4


huyện miền núi nước ta hiện nay có trình độ, tập quán canh tác của người dân còn
thấp, hầu hết chưa theo đúng khung thời vụ nên ảnh hưởng rất nhiều đến năng suất,
chất lượng của các mặt hàng nông sản.
Sản xuất nông nghiệp ở một số vùng của nước ta cịn mang nặng tính tự phát
của người dân, trong khi sự định hướng, hỗ trợ, tư vấn rõ ràng của nhà nước, chính
quyền địa phương cịn thiếu. Thói quen “ phường hội”, nặng về lợi trước mắt dẫn
đến chỗ người dân phá lúa chuyển sang nuôi trồng thủy sản tràn lan. Sản xuất nơng
nghiệp ln xảy ra tình trạng tự phát, làm theo phong trào như cá ba sa; chưa giải
quyết xong hậu quả dư thừa do phát triển quá mức lại lo thiếu nguyên liệu vào vụ
tới; phá cây ăn quả đồng bằng sông Cửu Long để trồng lúa, cà phê, hồ tiêu... nơng
dân phải tự mầy mị, lựa chọn loại cây trồng, vật nuôi, giải pháp kỹ thuật, thị
trường bán sản phẩm. Nguyên nhân chính là do nông dân thiếu thông tin. Hiện nay,

cách tiếp cận thông tin chính của nơng dân là qua đài, báo, truyền hình, mạng lưới
khuyến nơng. Tuy nhiên, các thơng tin này thường chỉ tập trung vào kỹ thuật sản
xuất, trong khi đó câu hỏi đầu tiên đặt ra cho các nhà sản xuất phải là sản xuất cho
ai, bao nhiêu? Sau đó mới là sản xuất như thế nào? Các thơng tin bà con nông dân
tiếp cận được rất chung chung về nhu cầu và giá các sản phẩm cho tiêu dùng nội
địa và xuất khẩu, đại loại như “tới đây sẽ thiếu nguyên liệu cá ba sa”, “nhu cầu của
thị trường rất lớn”, “sẽ xuất khẩu sang thị trường EU”... Nhận được thông tin kiểu
này, người nông dân sẽ ào ạt phát triển tự phát trong khi chưa tìm được nguồn đầu
ra và tình trạng “được mùa, mất giá” đã diễn ra thường xuyên trong thời gian qua.
Nông nghiệp Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn của sự phát triển
kinh tế như: quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, công nghệ lạc hậu, năng suất, độ
đồng đều, chất lượng sản phẩm còn thấp, khả năng hợp tác liên kết của nơng dân
Việt Nam nói chung cịn yếu. Đây là yếu tố khiến ngành nông nghiệp Việt Nam
không thể đáp ứng được những đơn đặt hàng với số lượng lớn.
* Các yếu tố bên ngoài tác động đến nông nghiệp
Công tác bảo vệ thực vật và thú y, công tác khuyến nông, đặc biệt đối với
khuyến nông cơ sở chưa được đầu tư đúng mức.
Việc phòng chống thiên tai, dịch bệnh đối với cây trồng vật nuôi luôn luôn là
nhiệm vụ quan trọng tuy nhiên lại chưa được thực hiện tốt.
5


Đã có các chính sách cắt giảm thuế cho nơng nghiệp nhưng khi thực hiện lại
thiếu những biện pháp rào cản kỹ thuật gây ảnh hưởng không nhỏ tới ngành chăn
ni nước nhà. Một ví dụ là vào năm 2009, chính sách cắt giảm thuế của nhà nước
ta đã tạo khe hở cho các loại thịt và nội tạng gia súc, gia cầm nhập khẩu ồ ạt vào
Việt Nam.
Việc đầu tư nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ chưa tương xứng với
yêu cầu phát triển nông nghiệp, sự hạn chế trong nghiên cứu giống cây trồng dẫn
đến khả năng cạnh tranh về phẩm chất nông sản của một số cây giống cịn kém,

cơng nghệ hạt giống chưa tiếp cận đầy đủ với trình độ cao của thế giới. Một số
chương trình lai tạo giống thiếu các bước nghiên cứu cơ bản, thiếu định hướng và
chưa tiếp cận với trình độ của thế giới.
Sản xuất nơng nghiệp là ngành cần sử dụng nhiều các chế phẩm sinh học, tuy
nhiên các công ty hoạt động trong lĩnh vực này của nước ta lại rất yếu, không đáp
ứng đủ nhu cầu cho sản xuất do đó đã phải nhập nhiều sản phẩm từ nước ngồi về,
những sản phẩm này có thể đã hết hạn sử dụng hoạt đã bị cấm sử dụng trên thế
giới, chính vì vậy mà đã gây thêm khó khăn cho phát triển nơng nghiệp.
* Thị trường
Các ngành dịch vụ phục vụ nông nghiệp vẫn chưa phát triển, tỷ lệ thất thốt
sau thu hoạch cịn cao. Nơng nghiệp thiếu máy móc thiết bị, phân bón, thuốc bảo
vệ thực vật, thuốc thú y…dịch vụ hỗ trợ như tín dụng, vận tải, kho bãi, viễn thông
tăng trưởng chậm, giao thông nông thôn tuy đã được đầu tư nhưng chưa thật nhiều.
Tổng công ty máy động lực và máy nông nghiệp chỉ đáp ứng được 25% nhu cầu
thị trường trong nước. Công nghệ và dịch vụ sau thu hoạch chưa phát triển, tỷ lệ
thất thoát sau thu hoạch của lúa từ 12% đến 14%, rau quả 30% ,tỷ lệ này là rất lớn.
Dịch vụ và cơ sở hạ tầng hỗ trợ cho phát triển nông nghiệp nông thôn không
theo kịp đà tăng trưởng kinh tế toàn xã hội. Hệ thống cơ sở hạ tầng, thủy lợi phục
vụ tưới tiêu hoặc còn thiếu hoặc chưa được sử dụng hợp lý, bị hư hỏng do mưa lũ
nên chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất.
Một khó khăn nữa của ngành nơng nghiệp là giá cả vật tư nông nghiệp ngày
càng gia tăng trong khi giá thành sản phẩm tăng rất ít hoặc khơng tăng khiến người
sản xuất có thu nhập rất thấp làm cho người nơng dân có xu hướng chuyển đổi
6


sang các loại giống cây trồng, vật nuôi cho thu nhập cao hơn gây ảnh hưởng đến cơ
cấu sản xuất của nơng nghiệp.
Chất lượng nơng sản cũng là một khó khăn của nông nghiệp Việt Nam. Mặc
dù nông nghiệp là ngành xuất khẩu chủ lực của nước ta và là ngành duy nhất có

thặng dư xuất khẩu nhưng giá trị xuất khẩu nông sản của nước ta lại không cao vì
các sản phẩm nơng sản của ta xuất khẩu ra thị trường thế giới chủ yếu là các nông
sản thô, hàm lượng chất xám trong sản phẩm là rất ít nên giá cả khơng cao. Một ví
dụ là sau 3 năm gia nhập WTO ngành thủy sản nước ta đã phải đối đầu với các vụ
kiện liên quan đến vệ sinh an tồn thực phẩm gây ảnh hưởng khơng.
Khó khăn nữa là khi gia nhập WTO thì nơng nghiệp của chúng ta lại thiếu
thông tin về thị trường, thiếu các hiểu biết về pháp luật thương mại quốc tế nên khi
gặp các vấn đề thì phải dựa vào hiêp hội giúp đỡ nhưng trên thực tế thì hiệp hơi lại
chưa đủ mạnh để bảo vệ.
Nền kinh tế thế giới đang khủng hoảng và chưa thể phục hồi. Các ngân hàng
khó khăn vì nợ xấu, doanh nghiệp chậm tiếp cận nguồn vốn khiến lợi nhuận giảm
phải cắt giảm sản xuất. Kinh tế tăng trưởng chậm, nhu cầu tiêu dùng trên thị trường
giảm làm giá nông sản giảm trong khi giá vật tư, nhiên liệu vẫn tăng. Rủi ro trong
sản xuất nông nghiệp tăng. An ninh sinh học đang trở thành vấn đề quan trọng.
Mặc dù, nhu cầu tiêu dùng chung trên thế giới đang chững lại trong điều kiện
khủng hoảng kinh tế thế giới trước mắt, nhưng nhìn lâu dài, nơng sản với chất
lượng cao đảm bảo vệ sinh an toàn ln ln có thị trường và giá tốt. Trong vài
chục năm tới, cả thị trường trong nước và xuất khẩu đều có triển vọng tốt cho sản
xuất nơng nghiệp. Trong bối cảnh hội nhập ngày càng đẩy mạnh, một khi sản xuất
nơng nghiệp chuyển sang hướng có giá trị gia tăng cao và chất lượng tốt thì cơ hội
để Việt Nam liên kết với các doanh nghiệp và quốc gia khác để mở rộng thị trường
nông sản là rất to lớn.

2.3. Giải pháp và định hướng cho phát triển nông nghiệp bền vững của
nước ta trong thời gian tới
- Quy hoạch sản xuất tổng thể trên toàn quốc và cung cấp đầy đủ thông tin
cho nông dân:
7



+ Cần có quy hoạch tổng thể quy mơ quốc gia về mỗi loại hàng nông, lâm,
thủy sản phù hợp với điều kiện đất đai, thổ nhưỡng, khí hậu... Diện tích đã được
quy hoạch để canh tác các loại cây trồng nông nghiệp quan trọng phục vụ an ninh
lương thực (như lúa...) phải được giao cho Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
quản lý. Với cách làm này sẽ tránh được tình trạng diện tích nơng nghiệp bị chuyển
đổi mục đích tùy tiện. Chiến lược phải được giao cho Bộ Nông nghiệp và phát
triển nông thôn và chịu trách nhiệm trước Chính phủ, nhân dân.
+ Trong quy hoạch sản xuất ở các đơn vị hành chính nhỏ hơn cần chỉ rõ loại
cây trồng, vật nuôi, số lượng, quy mô diện tích... ở từng khu vực cụ thể, đối với
một số cây trồng có thế mạnh như lúa, cà phê... phải chỉ rõ đến tận cánh đồng của
từng xã. Các thông tin này phải được công khai đến cơ quan chức năng của từng
địa phương và bà con nông dân. Các địa phương có trách nhiệm thường xuyên
tổng hợp số liệu hiện trạng về quy mô sản xuất, thông báo công khai để nông dân
tự xem xét nhu cầu thị trường và năng lực sản xuất của mình để ra quyết định, giúp
nông dân hạn chế sản xuất dư thừa, theo phong trào.
+ Điều chỉnh, bổ sung cập nhật quy hoạch phát triển nông - lâm - ngư nghiệp
trong từng vùng kinh tế và liên vùng theo hướng phát triển bền vững, gắn sản xuất
với thị trường, gắn vùng nguyên liệu với công nghiệp chế biến.
- Cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn theo hướng bền vững:
+ Xây dựng chiến lược phát triển nông nghiệp và nơng thơn theo hướng cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát huy thế mạnh của từng vùng, phát triển nông sản có
chất lượng và hiệu quả, gắn sản xuất với thị trường trong nước và thị trường quốc
tế nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên (đất đai, lao động và nguồn vốn),
nâng cao thu nhập trên một đơn vị ha đất canh tác, trên một ngày công lao động,
cải thiện đời sống nông dân; đa dạng ngành nghề và chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở
nông thôn.
+ Xây dựng chương trình đưa nhanh tiến bộ khoa học và kỹ thuật vào nông
nghiệp. Xây dựng và mở rộng mô hình hàng hóa ở vùng núi khó khăn.
- Xây dựng đề án sử dụng hợp lý tài nguyên nông nghiệp và nơng thơn:
+ Xây dựng và thực hiện chương trình nâng cao năng suất sử dụng đất, sử

dụng hợp lý tài nguyên nước, áp dụng hệ thống nông lâm kết hợp, nông lâm ngư
kết hợp phù hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng.
8


+ Xây dựng chương trình đưa nhanh tiến bộ khoa học và kỹ thuật vào nơng
nghiệp, thực hiện chương trình cải tạo các giống cây, con.
- Thúc đẩy và phát triển mối liên kết giữa các chủ thể trong các kênh sản xuất
và lưu thông sản phẩm, tạo mới và ổn định các kênh thị trường nhằm tối đa hóa lợi
ích của các thành phần tham gia.
- Tập trung đầu tư kết hợp cải tiến tổ chức, phát triển toàn diện toàn bộ chuỗi
ngành hàng (từ sản xuất, chế biến đến bn bán) đối với những ngành có lợi thế
như lúa gạo, các da trơn ở ĐBSCL, cây công nghiệp ở Tây Nguyên... tại các vùng
chuyên canh sản xuất hàng hóa phục vụ xuất khẩu trọng điểm (theo mơ hình cánh
đồng mẫu lớn, cánh đồng liên kết…). Ưu tiên đầu tư kết cấu hạ tầng, hệ thống dịch
vụ phục vụ sản xuất kinh doanh và hệ thống kho tàng, chế biến, vận chuyển, tiếp
thị… nhằm nâng cao giá trị gia tăng và giảm giá thành nông sản.
- Đăng ký và tạo dựng các thương hiệu nơng sản có uy tín, có chất lượng
nhằm tăng sức cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi và sự tín nhiệm của khách hàng đối với
nơng sản Việt trên Thế giới.
- Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm nhằm phát hiện kịp thời các loại bệnh dịch
nguy hiểm, nâng cao năng lực dự báo khí tượng thủy văn nhằm ứng phó với biến
đổi khí hậu, hồn thiện hệ thống thông tin thị trường làm cơ sở cho công tác điều
hành và dự báo thị trường. Tiến hành bảo hiểm sản xuất nông nghiệp.
- Cải cách và tăng cường vai trị của hội nơng dân, vai trị của các hiệp hội
ngành hàng và các HTX nông nghiệp. Nâng cao vai trò của các tổ chức này trong
việc cung cấp các dịch vụ cơng. Nâng cao vai trị giám sát của cộng đồng đối với
các dịch vụ công và các hoạt động sử dụng nguồn lực chung. Cải cách thủ tục hành
chính, tập trung hoạt động của Nhà nước vào những hoạt động quản lý chính
(chính sách, quy hoạch, tiêu chuẩn...).


3. Kết luận
Xây dựng một nền nông nghiệp bền vững là vấn đề có tính chiến lược quan
trọng đối với q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố, là một bộ phận hữu cơ trong
quá trình phát triển bền vững kinh tế - xã hội của đất nước. Phát triển bền vững
9


nông nghiệp là một biện pháp của phát triển bền vững kinh tế - xã hội đất nước.
Trong điều kiện Việt Nam, sự thành cơng của q trình xây dựng và phát triển nền
nông nghiệp bền vững sẽ tạo nền tảng quan trọng về kinh tế và xã hội để thúc đẩy
nhanh và bền vững tiến trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước; phát triển
bền vững nơng nghiệp là nhiệm vụ chung của toàn bộ nền kinh tế, là điều kiện
quyết định sự thành cơng của q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Tuy nhiên, trong điều kiện nước ta hiện nay, để phát triển nông nghiệp bền vững
gặp rất nhiều khó khăn, thách thức. Do đó, để thúc đẩy phát triển nơng nghiệp theo
hướng bền vững địi hỏi phải có những bước đi vững chắc, phải thay đổi tập quán
sản xuất lạc hậu, phải áp dụng nhiều biện pháp khoa học, kỹ thuật tiên tiến vào sản
xuất, cần một nguồn vốn lớn và sự đồng thuận, nỗ lực to lớn của Nhà nước, các
cấp, các ngành, các địa phương và đặc biệt là của chính những người nông dân và
cộng đồng dân cư nông thôn.

MỤC LỤC

10


11




×