Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Trang phục phụ nữ việt thời phong kiến (thế kỷ x XIX)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 74 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ

NGUYỄN THỊ VUI

TRANG PHỤC PHỤ NỮ VIỆT
THỜI PHONG KIẾN (THẾ KỶ X - XIX)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử văn hóa

Người hướng dẫn khoa học
Th.S TRẦN THỊ THU HÀ

HÀ NỘI - 2013


LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới cô Trần Thị Thu Hà người
đã hướng dẫn tận tình, giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này.
Em xin bày tỏ lời cảm ơn tới các thầy cô trong trường Đại học Sư phạm
Hà Nội 2, đặc biệt là các thầy cô trong khoa Lịch sử đã giảng dạy em trong
suốt thời gian qua.
Với điều kiện hạn chế về kiến thức của bản thân, nên khóa luận khó
tránh khỏi những thiếu sót, kính mong sự chỉ bảo của thầy cô cũng như các
bạn sinh viên trong khoa.
Em xin chân thành cảm ơn!
Tháng 05 năm 2013
Sinh viên


Nguyễn Thị Vui


LỜI CAM ĐOAN

Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của cô
Trần Thị Thu Hà, tôi xin cam đoan đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Tháng 05 năm 2013
Sinh viên

Nguyễn Thị Vui


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ............................................... 3
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ................................................. 4
5. Bố cục đề tài............................................................................................... 4
6. Cấu trúc khóa luận...................................................................................... 4
PHẦN NỘI DUNG ....................................................................................... 5
CHƯƠNG 1: NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TRANG PHỤC
PHỤ NỮ VIỆT THỜI PHONG KIẾN (THẾ KỶ X – XIX) ....................... 5
1.1Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội Việt nam.............................................. 5
1.1.1 Điều kiện tự nhiên ................................................................................. 5
1.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội ....................................................................... 6
1.2 Trang phục phụ nữ Việt trước thế kỷ X .................................................. 13

1.2.1 Trang phục trước thế kỷ X ................................................................... 13
1.2.2 Chính sách của nhà nước về trang phục .............................................. 17
Tiểu kết chương 1 ..................................................................................... 22
CHƯƠNG 2: TRANG PHỤC PHỤ NỮ VIỆT THỜI PHONG
KIẾN (THẾ KỶ X – XIX).......................................................................... 23
2.1 Bối cảnh lịch sử thế kỷ X - XIX ............................................................. 23
2.2.Trang phục phụ nữ Việt thời phong kiến (thế kỷ X - XIX) ..................... 26
2.2.1 Trang phục phụ nữ thế kỷ X - XV ......................................................... 26
2.2.2 Trang phục phụ nữ thế kỷ XVI - XVIII ................................................. 38
2.2.3 Trang phục phụ nữ thế kỷ XIX ............................................................. 48
2.3 Đặc điểm vai trò trang phục phụ nữ trong thời kỳ phong kiến ................ 52


2.3.1 Đặc điểm ............................................................................................. 52
2.3.2 Vai trò ................................................................................................. 57
Tiểu kết chương 2 ..................................................................................... 59
PHẦN KẾT LUẬN ..................................................................................... 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 63
PHỤ LỤC.................................................................................................... 65


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân tộc Việt Nam có hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước
oanh liệt với nền văn hóa lâu đời, phong phú và độc đáo. Nền văn hóa ấy
được tìm hiểu và giới thiệu về nhiều mặt nhưng vẫn có những đối tượng chưa
được đề cập đến. Đó là trang phục:
“Hơn nhau tấm áo manh quần
Thả ra bóc trần ai cũng như ai”
(Ca dao Việt Nam).

Trang phục bên cạnh nội dung khẳng định con người là bình đẳng còn
là vấn đề về giá trị văn hóa – xã hội của cái áo – cái quần. Trong xã hội cũ vì
cái áo, cái quần mà biết bao người lao động phải thốt lên:
“Cha đời cái áo rách này
Mất chúng mất bạn vì mày áo ơi”
(Ca dao Việt Nam)
Lịch sử đã chứng minh với ý nghĩa sâu sắc về văn hóa, xã hội, xu
hướng thẩm mĩ của từng dân tộc, từng người, trang phục còn là biểu hiện của
tinh thần dân tộc. Không phải vô ý thức mà quân xâm lược nhà Minh hay nhà
Thanh kiên trì chủ trương đồng thời dùng vũ lực tàn bạo bắt nhân dân ta phải
mặc theo kiểu phương Bắc. Cũng không phải ngẫu nhiên mà vua Lý Thái
Tông (1040) dạy cung nữ dệt gấm vóc để dùng, không dùng gấm vóc của nhà
Tống nữa.
Có thể nói trong văn hóa dân tộc, trang phục của cư dân, đặc biệt là
trang phục phụ nữ là cái mà ở đó bản sắc dân tộc biểu hiện rõ rệt, thường
xuyên, lâu bền nhất. Sở dĩ như vậy là vì, có thể thấy ở hầu hết các dân tộc,
trong đó có dân tộc Việt, trang phục vốn là và còn là sáng tạo văn hóa của
người phụ nữ. Từ việc tìm kiếm, trồng trọt để tạo ra nguyên liệu, đến việc chế

1


biến, làm sợi, dệt vải, cắt may, thêu thùa… hầu như là công việc thiên tính
của người phụ nữ. Những người chị, người vợ, người mẹ có thể hoàn toàn tự
hào rằng trong kho tàng vô cùng phong phú của văn hóa nhân loại có nhiều
phần mà trang phục chỉ là một khía cạnh, là cống hiến chính của bàn tay, trí
tuệ người phụ nữ.
Bên cạnh đó trong ăn mặc của bất cứ dân tộc nào, dù ở trình độ lạc hậu
hay văn minh trong đó có người Việt, phụ nữ bao giờ cũng đẹp nhất. Họ là
người sáng tạo đồng thời cũng là người có ý thức và biết làm đẹp cho chính

mình. Trong việc tạo ra và sử dụng trang phục người phụ nữ có ý thức về cái
đẹp của riêng mình. Hơn thế nữa trong xã hội truyền thống người phụ nữ ít giao
tiếp với bên ngoài, ít đi lại các vùng xa như nam giới nên họ giữ lại lâu bền nhất
sắc thái dân tộc thông qua quần áo cũng như các sinh hoạt văn hóa khác.
Vì vậy có thể nói rằng trang phục chính là một trong những sắc thái nổi
bật của văn hóa mà trong đó trang phục phụ nữ thời phong kiến là điển hình.
Việt Nam trải qua chế độ phong kiến lâu dài với sự tiếp nối liên tục của các
triều đại kế tiếp nhau cùng với những biến động thăng trầm của dân tộc, điều
đó cũng có ảnh hưởng đến trang phục mà cụ thể là trang phục phụ nữ qua các
thời kỳ. Thông qua các giai đoạn lịch sử cùng với đó là những chính sách của
nhà nước đã khiến cho trang phục người phụ nữ có sự biến đổi theo hoàn cảnh
lịch sử dân tộc. Tuy trang phục người phụ nữ có những đổi thay nhất định trải
qua các triều đại nhưng nó vẫn có những điểm chung, vẫn thể hiện truyền
thống của dân tộc. Xuất phát từ những lý do trên tôi đã chọn đề tài “Trang
phục phụ nữ Việt thời phong kiến (thế kỷ X – XIX)” làm đề tài khóa luận
tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Có thể nói, trang phục của cộng đồng cư dân Việt là đề tài được nhiều
người để tâm nghiên cứu. Tính đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về
trang phục của các tộc người ở Việt Nam. Có thể kể đến một số tác phẩm:

2


Tác phẩm “Trang phục cổ truyền các dân tộc Việt Nam” xuất bản năm
1994 của tác giả Ngô Đức Thịnh đã trình bày những nét cơ bản về đặc trưng
trong trang phục truyền thống của các dân tộc trên đất nước Việt Nam bao
gồm của người Kinh và cả những dân tộc ít người như Mường, Thái, Dao,
Mông, các dân tộc Tây Nguyên…
Tác phẩm “Trang phục Việt Nam” xuất bản năm 2006 của Đoàn Thị

Tình đã hệ thống hóa và bước đầu giới thiệu với độc giả những đặc điểm khái
quát và sự biến đổi trong trang phục Việt Nam từ thời kỳ phong kiến cho đến
hiện đại với các đặc trưng cơ bản nhất.
Tác phẩm “Lịch sử trang phục các triều đại phong kiến Việt Nam”
xuất bản năm 2007 của tác giả Trịnh Quang Vũ dẫn trình bày những nét cơ
bản về trang phục của triều đình, quan lại trải qua các thời kì phong kiến của
đất nước từ thời dựng nước cho đến thời Trần.
Như vậy, các tác phẩm kể trên đã nêu lên một số đặc điểm trong trang
phục Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Tuy vậy chưa có tác phẩm nào đi sâu vào
nghiên cứu về trang phục của người phụ nữ thời phong kiến (thế kỷ X-XIX).
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
- Mục đích: Đề tài nghiên cứu tìm hiểu trang phục của người phụ nữ
qua các thời kì phong kiến với các triều đại Lý, Trần, Hồ, Lê sơ, Mạc, Trịnh Nguyễn và triều Nguyễn và thấy được sự thay đổi trong trang phục ở các thời
kỳ.
- Nhiệm vụ: Nghiên cứu trang phục người phụ nữ Việt thời phong kiến
(thế kỷ X - XIX).
- Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Lãnh thổ Việt Nam
Về thời gian: Thời phong kiến (thế kỷ X – XIX)

3


4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lịch sử : Nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến
bối cảnh lịch sử, xã hội các triều đại phong kiến như tài liệu văn học, hội họa…
Phương pháp thông kê: Phương pháp này dùng để thống kê, phân loại
các tư liệu thu thập được, giúp người nghiên cứu nhìn nhận đánh giá được vấn
đề mà đề tài đặt ra.
Phương pháp đối chiếu so sánh: Đây là phương pháp được người viết

sử dụng để so sánh đối chiếu trang phục thông qua các thời kỳ từ đó thấy
được điểm tương đồng và khác biệt trong trang phục phụ nữ qua các giai đoạn
lịch sử.
Ngoài ra đề tài còn sử dụng kết hợp phương pháp logic và phương pháp
lịch sử. Hai phương pháp này có tác dụng bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau giúp người
nghiên cứu nhìn nhận vấn đề một cách logic khoa học trong việc xử lý tài
liệu, so sánh đối chiếu hệ thống thông tin đã thu thập được. Dưạ trên cơ sở đó
để rút ra kết luận mang tính khách quan.
5. Đóng góp của khóa luận
Ý nghĩa khoa học: Đề tài góp phần làm sáng tỏ những đặc trưng trong
trang phục của người phụ nữ thời Việt phong kiến( thế kỷ XI-XIX).
Ý nghĩa thực tiễn: Với những kết luận, trên cơ sở tổng hợp và chọn lọc
nguồn tư liệu người viết sẽ đưa ra những kết luậnvề trang phục người phụ nữ
Việt thời phong kiến( thế kỷ XI-XIX) qua đó sẽ đóng góp về mặt tư liệu cho
những ai quan tâm đến việc tìm hiểu trang phục đặc biệt là trang phục phụ nữ
thời phong kiến.
6. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục
khóa luận được kết cấu thành hai chương:
Chương 1: Những yếu tố tác động đến trang phục phụ nữ Việt thời
phong kiến (thế kỷ X – XIX).
Chương 2:Trang phục phụ nữ Việt thời phong kiến (thế kỷ X – XIX).

4


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TRANG PHỤC PHỤ NỮ VIỆT
THỜI PHONG KIẾN (THẾ KỶ X - XIX)


1.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Lãnh thổ Việt Nam chiếm vị trí khá đặc biệt trong khu vực Châu Á gió
mùa. Nước ta có đặc điểm hẹp ngang, chạy dài theo đường kinh tuyến, tiếp
giáp hai mặt với Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, lại nằm hoàn toàn trong
khu vực nội chí tuyến của bán cầu Bắc. Những điều kiện đó đã tạo cho khí
hậu Việt Nam có những nét độc đáo. Ở miền Bắc có 4 mùa xuân, hạ, thu,
đông. Miền Nam có 2 mùa phân hóa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô.
Nước ta có cấu trúc địa hình khá đa dạng: Có rừng, có núi, có biển, có
đồng bằng. Sông ngòi, ao hồ nhiều. Bên cạnh đó đất đai màu mỡ kèm theo khí
hậu thuận lợi kéo theo cây trồng sinh trưởng nhanh. Cây cối quanh năm tươi
tốt với nhiều chủng loại phong phú. Đây cũng là xuất phát điểm cho cơ tầng
văn hóa của người Việt – nền văn hóa thảo mộc với nền văn hóa lúa nước. Đó
chính là một trong những cơ sở để lí giải chất liệu của trang phục người Việt
chủ yếu lấy từ thiên nhiên.
Khí hậu nhiệt đới, nóng ẩm, mưa nhiều không phù hợp với chất liệu
len dạ. Ngược lại, vải bông, vải gai, vải lụa lại là những chất liệu thích hợp
với môi trường khí hậu nước ta, thích hợp với điều kiện làm việc của con
người. Trong thời tiết nóng ẩm, trong những công việc nặng nhọc, vải sợi
bông, gai có tác dụng thấm mồ hôi, thoáng rất tiện dụng. Như vậy về bản chất
trang phục dân tộc Việt thể hiện đặc trưng trang phục của cư dân vùng nhiệt
đới nóng ẩm của phương Nam.

5


1.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội
Như trên đã nêu, Việt Nam là quốc gia nằm trong khu vực khí hậu nhiệt
đới ẩm gió mùa nên thuận lợi cho việc phát triển nền nông nghiệp nhiệt đới.

Trong nông nghiệp lúa là cây trồng chính. Bên cạnh đó còn có các cây hoa
màu và các cây công nghiệp mà đặc biệt là bông, đay, gai… Chính điều này
đã thúc đẩy nghề dệt phát triển, tạo ra nhiều loại vải đáp ứng nhu cầu của
người dân về trang phục.
Liên quan trực tiếp đến việc ăn mặc thời phong kiến là sự phát triển và
hoàn thiện không ngừng của nghề dệt truyền thống ở nước ta. Trong lịch sử
dựa trên nhiều cứ liệu có thể thấy nghề dệt xuất hiện ở nước ta từ rất sớm.
Đến nay không còn ai biết người xưa từng xe sợi như thế nào và dụng cụ của
họ ra sao. Tuy vậy các tài liệu về dân tộc học và khảo cổ học đã góp phần
dựng lại quá trình ra đời và phát triển của nghề dệt ở nước ta.
Trong các di chỉ khảo cổ được tìm thấy ở Đồng Bằng Bắc Bộ từ giai
đoạn Phùng Nguyên đến Đông Sơn đã tìm thấy nhiều hiện vật, qua nghiên
cứu được khẳng định chắc chắn đó là dọi xe sợi. Chúng cũng được tìm thấy ở
phía nam trong di chỉ Bàu Tró thuộc hậu kì đá mới. Căn cứ vào hình dáng và
mặt cắt có 6 kiểu: Tròn dẹt, chóp cụt, 2 chóp cụt chung đáy, 2 hình cầu, lọ
mực đáy lồi và lọ mực đáy bằng. Hà Văn Phùng trong luận văn nghề xe sợi và
dệt vải thời dựng nước đầu tiên đã phân loại theo mặt cắt dọc của hiện vật và
chia thành 6 loại: Hình chóp, hình bầu dục, hình thoi, hình lục giác, hình chữ
nhật, hình chữ T nằm ngang.
Trong số 76 di tích có dọi xe sợi được phát hiện phân bố trong từng giai
đoạn như sau: Phùng Nguyên 100 chiếc, Đồng Đậu – Gò Mun 189 chiếc và
Đông Sơn 394 chiếc.
Như vậy, có thể thấy rằng ngay từ thời Phùng Nguyên, dọi xe chỉ đã
được người Việt cổ sử dụng rộng rãi.

6


Cùng với những hiện vật, các nhà khảo cổ còn tìm thấy trên thân đồ
gốm được trang trí vết thừng chứng tỏ người xưa đã xe được các cỡ sợi khá

săn và đều bằng những thứ nguyên liệu khác nhau.
Càng về sau, nhiều vết thừng trên thân gốm vừa có tác dụng trang trí,
vừa có tác dụng làm chắc xương gốm. Ngoài ra một số dụng cụ bằng đá được
tìm thấy khẳng định là công cụ phục vụ cho việc gia công (đập) vỏ cây.
Trên nhiều hiện vật đồ đồng dưới thời Hùng Vương đã phát hiện được
không ít những bằng chứng về sự phát triển của nghề dệt, giúp chúng ta dựng
lại được trang phục của cư dân Việt cổ. Trên trống đồng, thạp đồng đã tìm
thấy hình ảnh người mặc áo, váy, đóng khố. Cứ liệu quan trọng và chắc chắn
nhất là dấu vết của vải đã được phát hiện. Tại di chỉ Bãi Dưới (Vĩnh Phú) lần
đầu tiên phát hiện dấu vải in trên đất nung có niên đại sớm. Vết tích vải còn
được tìm thấy ở Thiệu Dương. Đặc biệt vải còn được tìm thấy ở Việt Khê
(Hải Phòng), Châu Can (Hà Tây), làng Vạc (Nghệ An), niên đại khoảng thế
kỷ I TCN.
Những ghi chép sớm nhất về nghề dệt ở nước ta trước hết phải kể đến
thư tịch cổ Trung Quốc. Theo các sách Hán Thư, Tam Quốc Chí, vào những
thế kỷ đầu công nguyên tổ tiên ta đã nuôi tằm với năng suất cao, 1 năm 8 lứa
kén. Trong số các đồ cống phẩm hằng năm mà Sĩ Nhiếp nộp cho Tôn Quyền
ta thấy có vải cát bá nhỏ hàng nghìn tấm (Tam Quốc Chí). Các tác giả sử kí
và tiền Hán Thư ghi rằng người Lạc Việt trồng dâu, đay, gai, nuôi tằm, xe sợi,
dệt cửi và có loại vải cát bá nhỏ mịn.
Trong những thế kỷ đầu công nguyên nghề dệt ở nước ta có bước phát
triển quan trọng. Di vật lụa đã được tìm thấy trong một số ngôi mộ cổ. Ngoài
các loại lụa và vải người dệt thời đó còn dệt khăn bông, thêu chữ nhỏ và các
thứ hoa cỏ rất khéo gọi là “bạch diệp”. Bên cạnh loại vải bông còn có các loại
vải bằng đay, gai, tơ chuối. Cụ thể là:

7


1.1.2.1. Vải tơ chuối

Vải tơ chuối là loại vải đặc biệt ở nước ta. Từ tơ chuối tổ tiên ta xe sợi
dệt thành vải tiêu cát màu vàng nhạt tuy dễ rách nhưng lại đẹp. Sử cũ gọi loại
vải đặc sản này là vải Giao Chỉ - một thứ mặt hàng được xuất khẩu từ thế kỷ III
Sau công nguyên. Trong An Nam Chí Nguyên của Cao Hùng Trưng cho biết: “
Loại vải này mịn như lượt là, mặc vào mùa nực thì hợp lắm”. [18; 123 – 124].
Sách Quảng Chí theo sự biên khảo của Lê Quý Đôn chép rằng: “thân chuối xé
ra như tơ, đem dệt thành vải gội là vải chuối tiêu (tiêu cát). Loại vải này dễ
rách nhưng đẹp, màu vàng nhạt và sản xuất ở Giao Chỉ”[3; 235]. Sách Nam
Phương dị vật chí ghi lại cách chế biến nguyên liệu: “đem thân chuối nấu lên
sẽ như tơ có thể dùng dệt vải”[3; 237]. Điều đó cho thấy vải tơ chuối lúc bấy
giờ khá thịnh đạt và trình độ kĩ thuật cũng khá điêu luyện.
1.1.2.2. Vải bông
Nghề dệt vải bông xuất hiện muộn hơn nhưng ít ra cũng từ những thế
kỷ đầu công nguyên. Sách vở Trung Hoa gọi loại vải này là vải cát bối. Sách
Lương Thư giải thích: Cát bối là tên cây, hoa nở giống như lông ngỗng rút lấy
sợi dệt thành vải trắng muốt chẳng khác gì vải đay. Từ thế kỷ X – XI, vải
bông trở thành phổ biến ở nước ta đến nỗi người đương thời kêu là “vải bông
mặc kín cả thiên hạ” [15; 25 ].
1.1.2.3. Vải sợi đay – gai
Ngoài vải tơ chuối, sử cũ còn cho biết, ngay từ đầu công nguyên còn
xuất hiện loại vải bằng sợi đay và gai – các loại cây phù hợp với điều kiện tự
nhiên và khí hậu ở nước ta. Theo mô tả vải dệt bằng sợi đay, gai cũng có độ
mịn gần như tơ chuối, nhưng bền hơn. Sử cũ cho biết muốn sử dụng đay, gai
thành sợi người ta ngâm đay, gai vào nước làm cho “thịt” thối rữa ra chỉ còn
lại tơ sau đó rút ra xe tơ thành sợi để dệt vải. Việc sử dụng sợi đay, gai còn
phổ biến cho đến tận sau này. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê trong Đại

8



Việt sử kí toàn thư ghi lại chỉ dụ của vua Lê Thánh Tông định kiểu y phục để
tiếp sứ nhà Minh. Theo chỉ dụ, các công, hầu, bá, phò mã và các quan văn võ
phải may sẵn áo có cổ bằng đay, gai, cho phép từ mùa đông tháng 10, tiết trời
rét, các quan mặc áo là tơ gai để tiện khí hậu. Điều này cho thấy vải đay, gai
đã được đánh giá cao trong cả hình thức lẫn giá trị sử dụng.
1.1.2.4. Lụa tơ tằm
Nghề trồng dâu, chăn tằm, ươm tơ, dệt lụa có từ rất sớm ở nước ta.
Ngay từ ngày đầu công nguyên, người Lạc Việt đã biết trồng dâu nuôi tằm,
một năm hai vụ lúa, tám lứa tằm. Nghề chăn tằm dệt lụa còn phát triển ở cả
những giai đoạn sau này. Theo thần phả một ngôi đền tại làng Cổ Đô, huyện
Ba Vì, (tỉnh Hà Tây cũ), làng này nổi tiếng với nghề dệt lụa và công chúa
Thiều Hoa con gái vua Hùng thứ 6 là người đầu tiên đã tìm ra con tằm và phát
minh nghề dệt lụa, dân làng ở đây vẫn thờ bà là tổ sư nghề dệt lụa.
Theo truyền thuyết kể lại rằng, Thiều Hoa là cô gái rất xinh đẹp, hiền
hậu. Cô biết nói chuyện với chim và nghe tiếng nói của bướm. Những ngày cô
vào rừng chơi là những ngày hội của chim, của bướm. Trong một cuộc thi bay
lượn của loài bướm cô thấy một con bướm nâu xấu xí đậu ở cành cây, lặng lẽ
xem các bạn. Hỏi ra mới rõ con bướm đó thuộc loại bướm đẻ ra nhiều trứng,
nở thành sâu ăn lá dâu và nhả ra tơ vàng óng rất đẹp. Bướm dẫn công chúa ra
bãi ven sông xem hàng ngàn con sâu đang làm kén và còn dạy cho công chúa
biết cách thả kén vào nước sôi để rút lấy sợi. Có được những sợi tơ óng mượt,
công chúa nghĩ cách đan thành những tấm vải mỏng, may thành áo dâng vua
cha. Vua mặc thấy vừa đẹp, mát, bền, khen tài con gái. Nàng xin với vua cha
cho một số dân ở kinh đô Phong Châu sang bãi ven sông trồng dâu, chăn tằm
ươm tơ dệt lụa. Từ đó làng Cổ Đô mới có nghề dệt lụa nổi tiếng:
“Lụa này là lụa Cổ Đô
Đích danh lụa cống các cô ưa dùng”
(Ca dao Việt Nam)

9



Ngoài ra ta còn bắt gặp nhiều truyền thuyết, đền thờ các vị tổ sư nghề
dệt vải như bà Lã Thị Nga, tổ sư nghề dệt lụa là thành hoàng làng Vạn Phúc
từ thời nhà Đường (618 – 907), tổ sư nghề dệt gấm là Trần Quý người làng La
Khê, sau này vẫn giữ độc quyền về nghề dệt gấm độc đáo này; tổ sư nghề dệt
lượt là trạng Bùng thời nhà Lê ở làng Bùng (Hà Tây) là Phùng Khắc Khoan.
Tuy ông không phải là người đầu tiên truyền nghề nhưng ông đã có công dạy
dân làng Bùng biết và áp dụng kĩ thuật dệt lượt của phương Bắc. Phạm Thị
Ngọc Đô được gọi là bà chúa Thiên Niên (tổ nghề lĩnh), bà đã truyền dạy
nghề cho nhân dân vùng Bưởi để nơi đây xuất hiện những sản vật nổi tiếng
như the La, lĩnh Bưởi, sồi Phùng… Và không ai có thể quên sự tích Ỷ Lan
phu nhân, cô gái quê vùng Dâu Keo (Thuận Thành, Hà Bắc), nơi xưa được
mệnh danh là “bộ lạc Dâu” của Văn Lang, vốn là cô gái hái dâu chăn tằm và
trở thành vợ của vua Lý Thánh Tông, đã có công trong việc mở mang phát
triển nghề trồng dâu, mở xưởng nhà nước ở kinh đô chuyên dệt lụa.
Có thể thấy rằng, từ rất sớm ông cha ta đã tạo ra nhiều loại tằm khác
nhau phù hợp với thời tiết nóng, lạnh, khô, ẩm trong năm. Đó là Bát bối tàm,
Nguyên trân tàm (ươm tháng 3), Thái tàm (ươm tháng 4), Hàn trân tàm (ươm
tháng 7), Tứ xuất tàm (ươm tháng 9), Hàn tàm (ươm tháng 10). Những người
làm nghề này vất vả quanh năm, hơn cả nghề làm ruộng. Tục ngữ có câu
“làm ruộng ba năm không bằng chăn tằm một lứa” hay “nuôi lợn ăn cơm
nằm, nuôi tằm ăn cơm đứng”.
Sản phẩm dệt từ sợi tơ tằm rất phong phú và đa dạng như lụa, lĩnh,
lượt, đoạn, nái, thao… Mỗi loại hàng trên gồm hàng chục mã hàng khác nhau.
Sách Tây Việt ngoại kí cho biết: Ở An Nam vải lụa thì có sa cát liễn, sa lĩnh
văn tảo tâm, hợp sa, quang quyến (láng), bông, ý lăng, la, giày bằng tơ… Các
thứ này cũng khá tốt. Nói về sự phong phú đa dạng có thể lấy ví dụ như vân
lại bao gồm có vân tứ quý, vân hồng điệp, vân trúc điều, vân phương thọ, vân


10


chữ triện, vân chữ kỷ… Kĩ thuật dệt hàng lụa ở nước ta thời kì này cũng đã
đạt đến trình độ tinh xảo, mỗi thời kì lại có những loại hàng đặc sản mới, làm
tăng thêm các mặt hàng dệt. Đến thế kỷ XVIII, chúng ta không những dệt
được những loại lụa đẹp, khổ rộng (3 thước ta, tương đương khoảng 1 mét),
không thua kém các khung dệt thủ công ngày nay.
Bên cạnh các loại vải kể trên, trong các thư tịch cổ còn ghi lại cho thấy
ông cha ta từ rất lâu đã bieets sáng tạo các loại vải bằng tre, trúc. Theo Nam
phương thảo mộc trạng cho biết ở quận Cửu Chân có thứ tre tên gọi là Đàm
trúc lá thưa mà lớn, mỗi đốt dài tới 5 – 6 thước. Người ta lấy cây con của loại
tre này đập dập rồi ngâm lấy sợi dệt thành vải gọi là trúc sơ bố.
1.1.2.5. Kỹ thuật nhuộm vải
Cùng với sự phát triển của nghề dệt vải, làm sợi, kĩ thuật nhuộm cũng
đạt được những bước tiến bộ, đặc biệt là việc sử dụng thực vật như lá, vỏ, rễ,
quả cây rừng rất độc đáo. Màu sắc vải được mô tả một cách chi tiết, cụ thể
“màu trắng, trắng như tuyết, không có điểm nhẹ đen, màu đỏ, đỏ như tiết dê
để lâu không phai bạc, màu đen thì giống như mực, màu huyền thì trong sắc
đen có pha sắc tía, màu thanh thiên thì trong sắc xanh có pha sắc lam, trong
một màu mà khác hẳn nhau. Màu đỏ rất tươi mà màu tía không át được. Màu
vàng là vàng chính, màu tạp thì có màu huyền, thanh thiên, hoa đào, cánh trả,
quan lục, không màu nào giống màu nào”[11; 165]. Điều này chúng tỏ kỹ
thuật nhuộm màu ở nước ta thời đó đạt tới trình độ rất tinh tế.
Trong nhân dân còn lưu truyền câu ca dao về kĩ thuật nhuộm vải như
sau:
“Nhuộm thâm chẳng hết bao nhiêu
Chỉ một nắm đất với niêu lá sòi”.
(Ca dao Việt Nam)


11


Có thể thấy trong nhân dân, màu chàm và màu nâu là hai màu chính
được ưa dùng, theo đó kỹ thuật nhuộm chàm, dãi nâu quen thuộc với mọi nhà.
Lê Quý Đôn đã ghi chép khá tỉ mỉ kỹ thuật nhuộm ở nước ta thế kỷ XVIII
“Tục nước Nam ta, lấy chày đập, rồi phơi khô để nhuộm may áo, gọi là thanh
cát y, có 3 thứ: màu lửa sáng, màu hơi sáng nhạt, màu hoa quỳ. Bất cứ quân,
dân, sang, hèn đều mặc như thế, chỉ khác có dài ngắn”[3; 270 ].
Như vậy, có thể thấy rằng nghề dệt vải ở nước ta không ngừng phát
triển trong suốt thời kì Bắc thuộc và đặc biệt trong thời kì độc lập tự chủ. Sử
cũ ghi lại trong vòng 4 năm sau khi lên ngôi vua, Lý Công Uẩn đã ra lệnh đặt
các loại thuế khóa trong nước trong đó có thuế bãi dâu là một trong 6 thứ thuế
bấy giờ. Trong giai đoạn này, nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa đã trở thành
một ngành kinh tế quan trọng. Ở Thăng Long, triều đình đã cho lập khu chứa
lụa riêng gọi là quyên khố ty, dưới sự kiểm soát của nhà vua. Tháng 11 –
1044, Lý Thánh Tông xuống chiếu cho quyên khố ty ai nhận riêng một thước
lụa của người khác thì bị xử 100 trượng, từ 1 tấm đến 10 tấm trở lên thì tính
số tấm mà gia thêm đầy khổ sai lên đến 10 năm.
Trên cơ sở phát triển của nghề dệt vải trong nước và sự thôi thúc ý thức
tự cường dân tộc Lý Thánh Tông đã quyết định không dùng vải vóc của nhà
Tống nữa và ra lệnh phát hết gấm vóc của nhà Tống trong kho để may áo ban
cho các quan. Các triều đại phong kiến Lý, Trần, Lê, Nguyễn sau này vẫn
thường xuyên chú trọng phát triển nghề dệt.
Chẳng hạn, dưới thời Trần, trước sự phát triển mạnh mẽ của nghề dệt,
lệ thu thuế đất bãi trồng dâu theo ghi chép trong Đại Việt Sử Kí Toàn Thư
mỗi mẫu 9 hoặc 7 quan tiền. Đến năm 1402, Hồ Hán Thương đã định lại các
thứ thuế, chia đất trồng dâu làm 3 hạng: Hạng cao nhất thu mỗi mẫu 5 quan,
hạng trung bình thu 4 quan, hạng thấp nhất thu 3 quan…


12


Sự phát triển của nghề dệt còn được thể hiện ở việc nhiều sản phẩm đã
là vật phẩm ngoại giao như năm 1473, vua Lê Thái Tông gửi tặng vua và
hoàng hậu Xiêm La (Thái Lan) nhiều tấm lụa màu. Vua Lê Nhân Tông
(1448), tặng sứ thần Ai Lao (Lào) lụa và đoạn màu hồng…
Như vậy, nghề dệt ở nước ta phát triển với những sản phẩm phong phú
và đa dạng. Sự phát triển của nghề dệt đã tạo điều kiện cho sự ra đời của trang
phục và làm phong phú về hình thức cũng như chất liệu cho trang phục.
1.2. TRANG PHỤC PHỤ NỮ VIỆT TRƯỚC THẾ KỶ X
1.2.1. Trang phục phụ nữ Việt trước thế kỷ X
Trước hết ta tìm hiểu ở thời kì Văn Lang – Âu Lạc mà cụ thể là thời kỳ
Hùng Vương. Những tư liệu về trang phục phụ nữ thời kì này hầu hết là thông
qua khảo cổ học. Các tư liệu này đã cho thấy khá rõ nét về cách ăn mặc, kiểu
tóc, trang sức của cư dân ở thời kì này trong đó có phụ nữ.
Trước hết thông qua các tư liệu khảo cổ học ta biết được rằng nghề dệt
vải nước ta ở thời kì này phát triển hơn so với các giai đoạn trước đó. Người
dân đã sản xuất được nhiều loại vải khác nhau từ các loại sợi đay, gai, tơ tằm,
tơ chuối, bông. Sự phát triển phong phú của vải vóc là điều quan trọng hàng
đầu để phát triển và đa dạng hóa trang phục.
Các tài liệu đều cho thấy, cư dân thời kỳ Hùng Vương ăn mặc giản dị
và gọn gàng. Ngày thường cư dân ở trần, đóng khố cả nam lẫn nữ. Riêng với
phụ nữ phổ biến mặc váy thay khố. Phụ nữ thời kì này có kiểu áo khá hoàn
chỉnh. Các tượng Núi Nưa, Làng Vạc cho ta hình ảnh cụ thể của áo phụ nữ.
Cả hai đều là áo cánh dài tay, tay áo và thân áo bó lấy thân thể làm nổi rõ
đường cong thân người. Áo phụ nữ Làng Vạc giắt gọn trong cạp váy, ngoài
thắt thắt lưng rộng bản, cổ áo thể hiện không rõ lắm vì bị chuỗi hạt cườm che
khuất. Áo Núi Nưa xẻ ngực không cài cúc để lộ bên trong chiếc yếm kín cổ.
Bên dưới chỉ có phía trước áo giắt trong váy, phía sau lưng vạt áo lại trùm ra


13


ngoài cạp váy. Điều này chứng tỏ áo được xẻ tà. Trong thư tịch cổ Trung
Quốc cũng thấy nói đến lối cài cúc áo bên phải, bên trái khác nhau ở người
Âu, người Lạc và khác với cả lối cài áo của người Hán.
Trang phục nửa thân dưới có phần phong phú hơn và có sự phân biệt rõ
rệt giữa nam và nữ. Cụ thể là nam đóng khố, nữ mặc váy các kiểu.
Phụ nữ mặc váy là chính với 2 kiểu cơ bản là váy quấn và váy chui.
Váy quấn (còn gọi là váy mở) được làm từ một mảnh vải dài, rộng tương đối,
không khâu 2 đầu mép vải vào nhau mà để nguyên quấn quanh hông rồi giắt
mép váy vào cạnh sườn. Đây là kiểu váy của người nữ trong cặp nam – nữ
trên thạp Đào Thịnh. Váy chỉ dài đến đầu gối.
Kiểu váy chui (váy kín) phổ biến hơn. Những tượng cán dao găm Núi
Nưa, Làng Vạc đều mặc loại váy kín, dài trùm gót chân. Váy bó sát hông.
Thắt lưng rộng bản có thêu thùa cẩn thận, bó chặt quanh eo, trước bụng và sau
mông buông 2 vạt dài gần hết chiều dài váy. Các tượng mặc váy dài đều có
phần trên mặc áo, yếm cẩn thận. Kiểu tóc họ để khá cầu kì, lại đeo đồ trang
sức ở tai, cổ và tay. Có thể thấy đây là những phụ nữ quý tộc hoặc thuộc tầng
lớp trên giàu có. Phụ nữ bình dân cũng có thể mặc váy chui nhưng đơn giản
hơn, không được thêu thùa cẩn thận và phải ngắn hơn để tiện làm việc
Trong ngày lễ hội, tất cả những người tham gia đều có kiểu hóa trang
lông chim hoặc bông lau nhưng lông chim được dùng phổ biến hơn. Trang
phục trong ngày lễ hội thường được nhắc đến là váy lông chim hay lá kết,
cũng có thể là khố dài có thêu thùa đẹp đẽ chỉ dành riêng cho lễ hội.
Một bộ phận không thể thiếu và luôn đi kèm với trang phục đó là trang
sức. Cư dân thời kì này đeo đồ trang sức ở tay, chân, tai và cổ, phổ biến hơn
cả là đeo đồ trang sức ở tai và tay. Đồ trang sức được làm bằng đá, đồng và
thủy tinh với các kiểu loại phong phú và cầu kì. Đối với cư dân thời kì này

trong đó có phụ nữ, việc đeo đồ trang sức không chỉ để làm đẹp mà còn khẳng
định vị trí xã hội và sự giàu sang của mình nữa.

14


Những đồ trang sức mà cư dân trong đó có phụ nữ thời kì này sử dụng
như khuyên tai, các loại vòng như vòng tay, vòng cổ, vòng chân.
Thông qua các bức tượng ở thời kì này có thể thấy khuyên tai được thể
hiện theo kiểu đặc tả: Tai to hơn thật, khuyên tai là vòng tròn lớn đeo xệ
xuống đến vai. Trong số đồ thủy tinh ở thời kì này, khuyên tai hình vành khăn
chiếm số lượng đáng kể. Có cả những khuyên tai bằng đồng mặt cắt hình chữ
nhật dẹt có móc đeo lục lạc hay vòng có mấu.
Vòng tay rất phổ biến, chủ yếu làm bằng đồng. Vòng tay rất phổ biến,
chủ yếu làm bằng đồng. Vòng tay bằng đá có số lượng không lớn. Vòng tay
bằng đồng có đến 5 loại khác nhau, riêng loại vòng ống có đến 6 kiểu khác
nhau. Vòng cổ cũng trở nên phổ biến hơn do sự có mặt của hạt cườm, hạt
chuỗi thủy tinh. Một kiểu đeo hạt chuỗi biểu hiện trên bức tượng phụ nữ Làng
Vạc: người phụ nữ này đeo đến 3 vòng hạt chuỗi, lần lượt từ ngắn đến dài
không khác gì lối đeo vòng cổ kép hiện đại. Vòng chân ít thông dụng hơn, đặc
biệt loại bao chân có đeo nhiều lục lạc. Có lẽ chỉ giới quý tộc mới đủ khả
năng và được quyền đeo vòng ở chân như thế.
Có thể thấy đồ trang sức rất phong phú, đa dạng với nhiều chủng loại.
Đeo đồ trang sức vừa là để làm đẹp cho con người vừa thể hiện địa vị xã hội
của họ.
Trong thời kì này, cách để tóc của cư dân trong đó có người phụ nữ
cũng khá phong phú. Thông qua các tượng và hình vẽ trên trống đồng có thể
thấy cư dân thời kì này trong đó có phụ nữ để các kiểu tóc bao gồm:
Kiểu tóc cắt ngắn: Thể hiện rõ nhất ở những cặp tượng trên thạp đồng
Đào Thịnh. Bốn người phụ nữ nằm ở vị trí không cho phép ta thấy rõ cách để

tóc của họ ở phía sau lưng nhưng nhìn phía trước mặt có thể thấy tóc của họ
giống như nam giới đó là tóc ngắn ngang vai và để xõa. Cách để tóc này còn
được lặp lại trên hình người trang trí ở các trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ,
Cổ Loa I. Có thể nói đây là kiểu tóc phổ biến nhất của cư dân ở thời kì này.

15


Búi tóc sau gáy cũng khá phổ biến ở cả nam và nữ. Một số hình trên
trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Cổ Loa đều có xuất hiện hình ảnh người búi
tóc sau gáy. Búi tó có thể cao, thấp, to, nhỏ hơn nhau chút ít.
Kiểu quấn tóc ngược cũng có ở cả nam và nữ nhưng có sự phân biệt
nhất định. Thông qua các bức tượng có thể thấy tượng người nữ nấm tóc
thường to, khăn vấn gọn trên đầu không buông mối xuống như nam giới. Lối
quấn khăn có khi đơn giản, khi cầu kì.
Cách để tóc của cư dân đa dạng, phong phú, phù hợp với điều kiện tự
nhiên cũng như sinh hoạt của con người thời Văn Lang – Âu Lạc.
Như vậy, thông qua những tài liệu hiện có ta thấy đặc trưng trang phục
của cư dân thời kì Hùng Vương là tính giản dị, gọn gàng, thích nghi cao độ
với điều kiện tự nhiên và tính chất lao động. Hình ảnh người phụ nữ được
hiện lên với tóc vấn cao trên đầu, mặc yếm nhỏ chỉ để che phần ngực, váy
chui dài quá đầu gối, đi chân đất. Như vậy, cư dân thời kì này đã đặt nền
móng đầu tiên cho truyền thống, bản sắc dân tộc Việt Nam trong lĩnh vực văn
hóa mặc.
Cũng qua trang phục tượng người phụ nữ trên chuôi kiếm ngắn phát
hiện ở Núi Nưa (Thanh Hóa) với tấm váy dài chùm kín hai chân, chiếc thắt
lưng duyên dáng, mớ tóc tết hình vành khăn gọn gàng, đôi vòng tai lớn đung
đưa… đã chứng minh cho một cuộc sống tốt đẹp, ấm no của cư dân.
Thông qua việc nghiên cứu trang phục ta có thể thấy được bức tranh
nhiều khía cạnh về đời sống, về mối quan hệ xã hội thời đó được hiện lên.

Mặt khác ta có thể chắt lọc ra những yếu tố thẩm mĩ làm tôn vẻ đẹp của con
người gắn bó với thiên, hài hòa với đất nước thuở mới dựng xây.
Nửa sau thế kỷ III trước công nguyên, Thục Phán – người thủ lĩnh giỏi
của Âu Việt từ miền trên tràn xuống đánh chiếm Văn Lang, thống nhất 2 lãnh
thổ dụng nên nước Âu Lạc, dời đô từ miền núi xuống đồng bằng.

16


Trang phục của cư dân Việt vẫn giữ tục cắt tóc, xăm mình, mặc quần
áo chui đầu, cài khuy bên trái.
Truyền thuyết Mỵ Châu – Trọng Thủy trong đó có tấm áo lông ngỗng
đã chứng minh cho việc nuôi gia cầm, gia súc phổ biến và nói lên sự phát
triển của trang phục lúc bấy giờ.
Đất nước Âu Lạc bị Triệu Đà xâm lược, cai trị cùng với 3 lần bị phong
kiến phương Bắc thống trị hơn 1000 năm (179 trước công nguyên – 939)
nhân dân ta một mặt đấu tranh với kẻ thù, mặt khác vẫn tích cực phát triển sản
xuất. Nghề dệt có những bước tiến quan trọng. Nghề trồng dâu nuôi tằm đã
phổ biến và còn sản xuất được các loại vải bông, đay, gai…Ngoài ra còn có
nhiều đồ trang sức bằng vàng, bạc (vòng tay, nhẫn, trâm, hoa tai), bằng ngọc
(vòng, nhẫn), bằng thủy tinh…
Sử sách cũng cho biết thời thuộc Hán, hai bà Trưng (Trưng Trắc, Trưng
Nhị) – con gái lạc tướng huyện Mê Linh đã chiêu mộ nghĩa quân nổi dậy
chống lại thái thú Tô Định trả thù nhà đền nợ nước (40 – 43 sau công
nguyên). Trong hàng tướng lĩnh quân có rất nhiều phụ nữ. Trong đó, có thủ
lĩnh ở huyện Thanh Oai (Hà Tây) đã cho hơn 300 nam nghĩa quân mặc yếm,
váy giả làm đàn bà tham gia khởi nghĩa này.
Đầu thế kỷ III, đất nước bị nhà Ngô xâm chiếm. Năm 248, cuộc khởi
nghĩa của Bà Triệu bùng nổ. Bà Triệu mặc áo vải màu vàng, đi guốc, tóc cài
trâm cưỡi voi chỉ huy quân đánh giặc.

1.2.2. Chính sách của nhà nước về trang phục (thế kỷ X – XIX)
Từ thế kỷ X – XIX, ở nước ta tồn tại chế độ phong kiến trung ương tập
quyền ,ý thức dân tộc được đề cao. Bên cạnh những chính sách của nhà nước
nhằm phát triển kinh tế, xã hội, củng cố quân đội và chính quyền, quân đội
các nhà nước phong kiến từ Lý – Trần đến nhà Nguyễn đã đưa ra nhiều chính
sách về trang phục.

17


Kể từ khi Ngô Quyền khôi phục nền độc lập cho tới các triều đại phong
kiến sau nay ,nhà nước đều có qui định cụ thể về trang phục màu sắc quần áo.
Thời Lý – Trần, cùng với việc phục hưng đất nước, củng cố hệ thống
chính quyền cũng đã bắt đầu có những qui định tối thiểu về cách ăn mặc của
vua, quan và nhân dân.
Thời Lý, vua Lý Thái Tông (1029) đã qui định mũ áo cho công hầu, các
quan văn võ. Sau đó triều đình đã dùng gấm vóc trong nước để may triều phục,
từ ngũ phẩm trở lên may áo bằng gấm, từ cửu phẩm trở lên may áo bằng vóc.
Đến đời Lý Thánh Tông qui định chặt chẽ hơn triều phục vào chầu vua.
Đến thời Trần đã có sự củng cố một bước hệ thống quan lại triều đình.
Cùng với nó là những qui định về trang phục. Bên cạnh những quy định về
trang phục cho các quan văn võ và quan lại theo thứ bậc, đến đây, trang phục
phụ nữ cũng được quy định rõ ràng: Phụ nữ thường dân không được mặc áo
màu xanh, đỏ, vàng, tía, phần lớn là mặc áo màu đen, còn lại màu trắng là
màu áo của tôi tớ phục dịch trong cung. Ngoài ra triều đình còn xuống chiếu
cho quân dân không được mặc áo giống kiểu người phương Bắc.
Lợi dụng sự suy yếu của nhà Hồ, nhà Minh đem quân xâm lược và đô
hộ trong vòng 20 năm. Quân Minh thực hiện chính sách đồng hóa nhân dân ta
vô cùng tàn bạo. Chúng trắng trợn chủ trương “phong tục có liên quan tới
việc trị đạo”, ra lệnh con trai, con gái không được cắt tóc, đàn bà phải mặc áo

ngắn quần dài. Với phụ nữ lấy chồng là quan hay thường dân cũng phải tuân
theo những kiểu cách ăn mặc riêng. Với người lấy chồng là thường dân thì
mặc áo rộng quần dài, búi tóc, trùm khăn lụa đen, cài trâm thoa, đi giày bằng
vải hay da, cấm để lộ chân, không dùng màu huyền, vàng, tía.
Bước sang thời Lê sơ là thời điểm đánh dấu bước phát triển cao của nhà
nước phong kiến tập quyền Đại Việt. Nhà nước đã có những quy định khá tỉ
mỉ và chặt chẽ về cách ăn mặc trong đó có cả đối tượng là phụ nữ. Nhà nước

18


quy định rõ ràng về ăn mặc, mặt khác cũng có ý thức về phân biệt y phục của
nhân dân ta với phương Bắc. Nhà vua ra lệnh nhân dân ta không được ăn mặc
theo kiểu giống như nhà Minh.
Trong thời gian trị vì của Lê Thánh Tông (1466 – 1488), nhà vua đã 6
lần ra chiếu chỉ về thể thức ăn mặc. Đến thời Lê Dụ Tông, cứ 3 năm ra chiếu
một lần nhắc nhở về quy cách ăn mặc.
Thời Lê quy định về trang phục khá tỉ mỉ. Bên cạnh những quy định chặt
chẽ đối với phẩm phục của quan lại triều đình, trang phục người dân nói chung
và trang phục phụ nữ nói riêng nhìn chung cũng được quy định khá chi tiết.
Năm 1488, vua Lê Nhân Tông quy định cấm nhân gian mặc áo màu
vàng, đi hài mang giày thậm chí là dùng đồ vẽ chạm rồng phượng. Đàn ông,
trừ sư sãi không ai được cạo trọc đầu. Kích thước áo trong nhân dân cũng
được quy định khá tỉ mỉ như tay áo rộng 9 tấc (30 cm), nách áo rộng 8 tấc 7
phân (26 cm), hẹp hơn kích thước áo các quan. Cụ thể áo các quan có kích
thước như sau: gấu áo dài cách đất 2 tấc (7 cm), tay áo rộng 1 thước 3 tấc (43
cm). Trang phục khi tiếp sứ nhà Minh: “Các công, hầu, bá, phò mã và các
quan văn võ may áo có cổ bằng gai, tơ, sa là sắc xanh dài cách đất 1 tấc (3,3
cm), tay rộng 1 thước 2 tấc (40 cm)”[4; 1190].
Có thời kì nhân dân đi làm việc công hay mặc áo thâm (chu y). Ở thôn

quê hay mặc vải áo trắng thô, sau mặc áo thanh cát màu hoa minh (xanh đậm)
và vi minh (màu quỳ hay màu sừng). Đàn ông đi lao động thường cởi trần
đóng khố, hình thức búi tóc khá phổ biến.
Phụ nữ thời kì này vẫn mặc váy, tuy vậy do chính sách ép buộc ăn mặc
theo kiểu nhà Minh ở phương Bắc nên một số bộ phận dân cư nào đó đã mặc
quần. Vì vậy, năm 1665, vua Lê Huyền Tông ra chiếu chỉ cấm phụ nữ không
được mặc quần để bảo tồn quốc tục mặc váy như xưa.

19


Trải qua các thời kì từ Trịnh – Nguyễn phân tranh đến triều Tây Sơn rồi
đến nhà Nguyễn, trong điều kiện kinh tế - xã hội mới, trang phục cũng có
nhiều biến đổi.
Thời Trịnh – Nguyễn cũng đã đưa ra những quy chế cụ thể về trang
phục thứ dân:
Năm giáp thìn niên hiệu Cảnh Trị 2, mùa thu tháng 7 có lệnh cấm y
phục mặc sai pháp chế. Trang phục áo dân thường trong ống tay rộng 9 tấc,
chỗ nách rộng 7 tấc 8 phân, người nào thấp bé được may hẹp lại.
Nhà nước cũng ra lệnh cấm đàn bà không được mặc áo thắt lưng và
mặc quần có ống chân. Áo, quần đã có phép thường. Áo đàn ông thì có thắt
lưng và quần thì có ống chân. “Áo đàn bà con gái thì không có thắt lưng và
quần không có 2 ống từ xưa đến nay đã có tục, từ nay về sau áo quần đàn bà
con gái không được may áo có thắt lưng và mặc quần có ống chân để nghiêm
chỉnh phong tục. Bọn hát xướng ở hí trường thì không theo lệnh này. Ai trái
lệnh ở kinh đô thì cho phép quan Đề Lĩnh, quan Phủ Doãn và nha xá nhân
được coi xét bắt quả tang mặc áo trái lệnh sẽ phạt phạm nhân 5 quan cổ tiền
và nộp vào công khố”.[1; tr307 ]
Đặc biệt dưới thời Nguyễn, năm 1806 vua Gia Long đã ban chiếu quy
định phẩm phục đại triều, thường triều kèm với chỉ định về kiểu dáng, màu

sắc chất liệu cho từng cấp cụ thể. Điều này đã thể hiện triều đình nhà Nguyễn
đã quan tâm tới trang phục như thế nào. Có thể thấy nhà Nguyễn có ý đồ
thống nhất quyền lực trên toàn cõi Việt Nam thông qua trang phục. Vì vậy
không chỉ có những quy định cụ thể và mang tính bắt buộc đối với vua quan
mà ngay cả đối với đầy tớ trong các nhà quyền quý, thường dân cũng có
những quy định cụ thể và biện pháp trừng trị những người không theo quy
định về trang phục.

20


×