Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Chính sách đối ngoại của hoa kỳ đối với nước nga dưới thời tổng thống barack obama (2009 2012)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 111 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
**********

NGUYỄN THỊ THU TRANG

CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HOA KỲ
ĐỐI VỚI NƯỚC NGA DƯỚI THỜI TỔNG
THỐNG BARACK OBAMA (2009 - 2012)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử thế giới

Người hướng dẫn khoa học
ThS. NGUYỄN THỊ BÍCH

HÀ NỘI – 2013


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu nhất đến cô giáo Thạc sỹ
Nguyễn Thị Bích – Người đã tận tâm nhiệt tình hướng dẫn tôi trong suốt quá
trình làm khóa luận.
Tôi xin cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong khoa Lịch Sử – Trường Đại
Học Sư Phạm Hà Nội 2, đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, hướng dẫn giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin gửi lời tri ân đến gia đình, bạn bè đã luôn động viên, khích lệ giúp
đỡ tôi trong thời gian học tập.
Là một sinh viên lần đầu nghiên cứu khoa học, chắc chắn đề tài của tôi
không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong sự đóng góp ý kiến
của quý thầy cô và các bạn sinh viên.


Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 05 năm 2013
Sinh Viên

Nguyễn Thị Thu Trang


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những kết quả nghiên cứu trong khóa luận tốt
nghiệp này là thành quả của riêng tôi dưới sự hướng dẫn và giúp đỡ của cô
giáo – Thạc sỹ Nguyễn Thị Bích. Nội dung khóa luận không trùng với bất cứ
một công trình nghiên cứu nào, nếu sai tôi xin chịu trách nhiệm.

Hà Nội, tháng 05 năm 2013
Sinh Viên

Nguyễn Thị Thu Trang


BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT

ABM:

Anti Ballistic Missile Systems (Hiệp ước phòng thủ tên lửa)

ASEAN:

Association of Southest Asian Natons (Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á)


ARF:

ASEAN Regional Forum (Diễn đàn khu vực ASEAN)

APEC:

Asia – Pacific Economic Cooperation Forum (Diễn đàn hợp tác
kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương)

AFTA:

ASEAN Free Trade Agriment (Khu vực thương mại tự do
ASEAN)

BRIC:

Brazil – India – Russia – China (Braxin, Nga, Ấn Độ, Trung
Quốc – Các nước mới nổi)

BTA:

Bilateral Trade Agreement (Hiệp định thương mại song phương)

CIA:

Central Intelligence Agency (Cục tình báo trung ương Hoa Kỳ)

EU:

European Union: Liên minh châu Âu


FED:

Federal Reserve System (Cục dự trữ Liên bang Hoa Kỳ)

FTAA:

Free Trade Area of the Americas (Khu vực thương mại tự do
châu Mỹ)

GDP:

Gross domestic product (Tổng sản phẩm quốc nội)

IAEA:

International Atomic Energy Agency (cơ quan năng lượng
nguyên tử quốc tế)

IMF:

International Monetary Fund (Quỹ tiền tệ quốc tế)

NAFTA:

North American Free Trade Agreement (Hiệp định Thương mại
Tự do Bắc Mỹ)

NATO:


North Alantic Treaty Organization (Tổ chức hiệp ước Bắc Đại
Tây Dương)

NIC:

National Intelligence Council (Hội đồng tình báo Quốc gia Mỹ)


NMD:

National missile defense (Hệ thống phòng thủ tên lửa quốc gia)

NPT:

Nuclear Non Proliferation Treaty (Hiệp ước không phổ biến vũ
khí hạt nhân)

OAS:

Organization of American States (Tổ chức các quốc gia châu Mỹ)

ODA:

Official development assistance (Hỗ trợ phát triển chính thức)

START:

Strategic Arms Reduction Treaty (Hiệp ước cắt giảm vũ khí
chiến lược)


TAC:

Treaty of Amity and Cooperation (Hiệp ước thân thiện và hợp
tác)

UNAMA:

United Nations Assistance Mission in Afghanistan (Phái bộ Hỗ
trợ Liên hợp quốc ở Afghanistan)

USAID:

US Agency of International Development (Cơ quan phát triển
quốc tế Hoa Kỳ)

UNCTAD: United Nations Conferences of Trade and Development (Hội
nghị Liên Hợp Quốc về thương mại và phát triển)
WB:

World Bank (Ngân hàng thế giới)

WTO:

World Trade Organization (Tổ chức thương mại quốc tế)


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHÍNH SÁCH ĐỐI

NGOẠI CỦA HOA KỲ ĐỐI VỚI NƯỚC NGA DƯỚI THỜI TỔNG
THỐNG BARACK OBAMA (2009 – 2012) ............................................... 8
1.1. Tình hình thế giới .................................................................................... 8
1.1.1. Xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa ................................................ 8
1.1.2. Khủng bố quốc tế, nguy cơ phổ biến vũ khí hạt nhân ......................... 10
1.1.3. Sự suy giảm sức mạnh Mỹ và sự nổi lên của các trung tâm quyền lực
trong quan hệ quốc tế ....................................................................................... 13
1.1.4. Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 – 2009 .... 16
1.2. Tình hình nước Mỹ từ khi Barack Obama lên cầm quyền (2009 – 2012).... 18
1.2.1. Thuận lợi. ........................................................................................... 18
1.2.2. Thách thức. ......................................................................................... 23
1.3. Vai trò của nướcNga đối với Hoa Kỳ (2009 – 2012) ............................. 28
1.3.1. Sức mạnh và vị trí quốc tế của Nga .................................................... 28
1.3.2. Lợi ích của Hoa Kỳ trong quan hệ với Nga......................................... 29
1.4. Khái quát chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với nước Nga trước
năm 2009...................................................................................................... 32
Tiểu kết : ...................................................................................................... 34
Chương 2 : QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
CỦA HOA KỲ ĐỐI VỚI NƯỚC NGA (2009 – 2012) .............................. 37
2.1. Quá trình lên cầm quyền của Tổng thống Barack Obama ...................... 37
2.2. Nội dung và mục tiêu của Hoa Kỳ trong quan hệ với nước Nga dưới
thời Tổng thống Obama (2009 – 2012)......................................................... 38
2.2.1. Nội dung............................................................................................. 38


2.2.2. Mục tiêu ............................................................................................. 40
2.3.

Quá trình triển khai chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với nước


Nga (2009 – 2012). ...................................................................................... 43
2.3.1. Trong lĩnh vực an ninh – quân sự ....................................................... 43
2.3.1.1.Tạo dựng khuôn khổ pháp lý cho quá trình hợp tác .......................... 43
2.3.1.2. Cắt giảm kho vũ khí hạt nhân .......................................................... 43
2.3.1.3. Chống tàn quân Taliban ................................................................... 48
2.3.1.4. Hợp tác quân sự giữa 2 nước .......................................................... 52
2.3.2. Trong lĩnh vực kinh tế. ....................................................................... 54
2.3.2.1. Cải thiện thương mại – đầu tư vào Nga............................................ 54
2.3.2.2. Hỗ trợ Nga tham gia vào các cơ chế kinh tế thế giới ........................ 57
2.3.3. Trong lĩnh vực chính trị, dân chủ và nhân quyền ................................ 59
2.4. Đặc điểm và tác động của chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với
Nga dưới thời tổng thống Barack Obama (2009 – 2012) .............................. 66
2.4.1. Đặc điểm ............................................................................................ 66
2.4.2. Tác động............................................................................................. 71
2.4.3. Dự đoán xu thế phát triển trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối
với nước Nga dưới thời Tổng thống Barack Obama (2009 –2012). .............. 80
Tiểu kết : ...................................................................................................... 84
KẾT LUẬN.................................................................................................. 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 88
PHỤ LỤC .................................................................................................... 96


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Năm 2008 đánh dấu cuộc chạy đua quyết liệt vào Nhà Trắng giữa các
ứng cử viên hai Đảng Cộng hòa và Dân chủ. Người dân Mỹ kỳ vọng vào một
vị tân Tổng thống có đủ bản lĩnh đưa đất nước Mỹ thoát khỏi giai đoạn suy
thoái kinh tế, được coi là giai đoạn khó khăn nhất trong lịch sử nước này, và
làm thay đổi hình ảnh hiện tại của nước Mỹ, vốn đang ngày càng xấu đi sau

cuộc chiến tranh Iraq.
Ngày 20/1/2009, Thượng nghị sĩ của Đảng Dân Chủ Barack Obama giơ
tay tuyên thệ nhậm chức, trở thành vị Tổng thống thứ 44 của Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ. Lần đầu tiên sau hơn 200 năm hình thành và phát triển, nước Mỹ có
một vị tổng thống da màu, điều mà cách đây 10 năm, thậm chí 5 năm người ta
chưa hề nghĩ đến. Vượt lên định kiến về chủng tộc, màu da, người dân Mỹ đã
lựa chọn một nhà lãnh đạo có thể giúp họ “thay đổi”. Chiến thắng của
B.Obama phản ánh sự chán ngán của đa số người Mỹ trước một đất nước từ
một nền kinh tế hùng mạnh nhất thế giới nay chìm trong khủng hoảng, suy
thoái, dễ bị tổn thương dưới chính quyền Bush trong tám năm qua. Khẩu hiệu
tranh cử “thay đổi – chúng ta có thể tin tưởng” của Barack Obama đã đánh
trúng lòng mong mỏi của cử tri, mang lại cho họ những luồng gió mới. Không
chỉ nước Mỹ mà cả thế giới đều hy vọng vào một sự đổi thay thực sự khi vị
tổng thống này bước chân vào Nhà Trắng.
Lên nắm quyền khi nước Mỹ đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức
cùng với những biến động to lớn của thế giới, Tổng thống B.Obama đã phải nỗ
lực rất nhiều trong việc xác định chiến lược, chính sách nhằm khắc phục cuộc
“khủng hoảng kép” của nước Mỹ, khẳng định nước Mỹ “lại lần nữa nhận
trách nhiệm lãnh đạo thế giới”. Thách thức cũng chính là cơ hội để B.Obama
1


chứng tỏ mình là một vị lãnh đạo mà người Mỹ đang trông đợi, đồng thời có
thể là nấc thang đưa ông lên hàng những tổng thống vĩ đại của nước Mỹ dù con
đường phía trước con gian truân. Đối với B.Obama, ngày 20 tháng 1 là một
ngày mới nhưng đối nước Mỹ, có thể mở ra một kỷ nguyên mới. Biết bao
người dân trên thế giới đã vui mừng khi nghe tin Barack Obama đắc cử.
Sau khi bước chân vào nhà trắng vị tân tổng thống da màu này đã tạo
nên một sự thay đổi rất lớn trong chính sách đối ngoại của Mỹ với các nước
đặc biệt là đối với nước Nga. Bởi chủ nghĩa đơn phương của Mỹ trong hai

nhiệm kỳ của Tổng thống G.W. Bush đã làm cho quan hệ Mỹ – Nga nguội
lạnh, ảnh hưởng tới không chỉ lợi ích của Mỹ – Nga, mà ở một mức độ nhất
định còn ảnh hưởng đến tình hình an ninh khu vực châu Âu và thế giới.
Tuy nhiên, tác động ngày càng mạnh của quá trình toàn cầu hóa cũng
như phổ biến vũ khí hạt nhân, khủng bố quốc tế… đòi hỏi cần phải có sự hợp
tác toàn cầu, khi mà một quốc gia dù mạnh như Mỹ cũng không đủ sức để
giải quyết một mình. Do đó, điều chỉnh chính sách đối ngoại, đặc biệt là cải
thiện quan hệ với Nga đã trở thành một trong những ưu tiên hàng đầu của
chính quyền Tổng thống Obama. Vậy câu hỏi đặt ra là “Chính sách đối
ngoại của Hoa Kỳ đối với nước Nga dưới thời Tổng thống Barack Obama
(2009 – 2012)” như thế nào? Theo đó, vấn đề mà khóa luận giải quyết có ý
nghĩa to lớn trong việc trong việc phân tích sự cải thiện trong quan hệ giữa
Mỹ và Nga kể từ khi ông Obama lên cầm quyền.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Có thể nói từ trước đến nay “Chính sách đối ngoại” của Hoa Kỳ vẫn
luôn là đề tài nóng bỏng thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều học giả
trong và ngoài nước. Nhiều công trình, tác phẩm đi sâu nghiên cứu vấn đề này
song mỗi tác giả, mỗi trường phái và ở mỗi quốc gia, lại có những quan điểm
khác nhau.

2


Về sách chuyên khảo: Cho đến nay, chưa có tác phẩm chuyên khảo nào
viết về chính sách đối ngoại của Tổng thống Barack Obama, mà chỉ có một số
sách viết về cuộc đời, sự nghiệp và quan điểm chính trị cũng như lập trường
của ông về các vấn đề kinh tế, chính trị, ngoại giao. Các tác phẩm phải kể đến
như: “Quan hệ Nga – Mỹ vừa là đối tác – vừa là đối thủ” của tác giả Nguyễn
Văn Lập do nhà xuất bản thông tấn, Hà Nội, 2002, hay tác giả Lisa Rogak với
tác phẩm “Barack Obama hiện tượng của thế giới” (Nxb Công an Nhân dân,

Hà Nội, 2009)…
Về tạp chí: Một số tạp chí có những bài viết về chính sách đối ngoại của
Tổng thống Obama đối với một số nước, khu vực và những vấn đề nóng bỏng trên
toàn cầu. Tiêu biểu nhất là các tạp chí:

* Tạp chí “Châu Mỹ ngày nay” là một trong những tạp chí tập hợp
nhiều nhất những bài viết về sự điều chỉnh chiến lược của Tổng thống Obama
cả về đối nội và đối ngoại.“Chính sách đối ngoại của Mỹ hiện nay” của Th.S.
Nguyễn Anh Hùng, số tháng 1/2010. Bài viết nêu lên những thách thức, tác
động của tình hình thế giới đối với nước Mỹ và những điều chỉnh bước đầu
trong chính sách đối ngoại của Chính quyền Obama.
Bài viết của Trần Thị Thu Hà (2010), “Hoa Kỳ và những định hướng
lại quan hệ với Nga”, Châu Mỹ ngày nay, (2), tr. 33 – 38. Bài viết nói về sự
điều chỉnh chính sách đối ngoại, trong đó cải thiện trong quan hệ với Nga là
một trong những ưu tiên hàng đầu của chính quyền Tổng thống Obama.
“Điều chỉnh chính sách đối ngoại của chính quyền Obama hiện nay”
của PGS.TSKH Trần Nguyễn Tuyên Vụ trưởng Ban đối ngoại Trung ương
Th.S Nguyễn Kỳ Sơn, nói về bối cảnh và nội dung điều chỉnh chính sách đối
ngoại của chính quyền Obama và nêu lên những kết quả bước đầu sau gần
một năm điều chỉnh chính sách đối ngoại của Tổng thống Obama.

3


* “Tạp chí cộng sản”: với rất nhiều bài viết như “Quan hệ Mỹ – Nga
một năm nhìn lại ” (2010) của Lê Minh Quang, số 4(196) phân tích sự điều
chỉnh quan hệ với Mỹ dưới thời Tổng thống Obama, đánh giá những thành
tựu đạt được cũng như những bất đồng còn tồn tại giữa hai cường quốc này.
* Tạp chí “Nghiên cứu quốc tế” cũng có nhiều bài viết như: “Việc triển
khai chính sách đối ngoại của chính quyền Obama sáu tháng đầu năm 2009”

(6/2009) của tác giả Mỹ Châu nêu lên những mục tiêu trong chính sách đối
ngoại của Tổng thống Obama và sự điều chỉnh chính sách ngoại giao của Mỹ
trong sáu tháng đầu cầm quyền; Phan Doãn Nam (2009), “Nga – Mỹ: Một sự
khởi động lại tốt đẹp”, Nghiên cứu Quốc tế, 2 (77), tr. 11 – 18 nói về sự hợp
tác của Mỹ với Nga trong giai đoạn hiện nay; “Điều chỉnh chính sách đối ngoại
của Chính quyền Obama hiện nay” của Trần Nguyễn Tuyên, Nguyễn Kỳ Sơn, số
tháng 3/2010, nói về bối cảnh điều chỉnh, nội dung điều chỉnh chính sách đối ngoại
của Tổng thống Obama và những đánh giá sơ bộ về việc triển khai chính sách đối
ngoại đó trong hơn một năm cầm quyền của ông; “Chuyển biến trong quan hệ Mỹ –
Nga dưới Chính quyền Obama: Nguyên nhân và triển vọng” của Lê Linh Lan, số
tháng 2/2012, chủ yếu nói về những chuyển biến tích cực trong quan hệ Nga – Mỹ
dưới thời chính quyền Obama, nguyên nhân của những chuyển biến đó và triển
vọng của mối quan hệ Nga – Mỹ trong thời gian sắp tới…

* Tạp chí “Quan hệ quốc phòng và an ninh” có bài “Nhìn lại sự điều
chỉnh chiến lược của Tổng thống Obama sau hơn một năm cầm quyền” tháng
2/2010 của Nguyễn Nhâm đã khái quát những thay đổi cơ bản về định hướng
chính sách đối ngoại của Tổng thống Obama, đặc biệt chú trọng đến quan hệ
Mỹ và một số nước lớn như Trung Quốc, Nga, Ấn Độ… Đồng thời nêu lên
một số vấn đề tồn tại trong chính quyền mới.
Ngoài ra, còn một số báo, tạp chí khác cũng đề cập đến chính sách đối
ngoại của chính quyền Obama đối với các nước lớn, các tổ chức và khu vực

4


trên thế giới như: “Những vấn đề kinh tế – chính trị thế giới”, “Sự kiện và
nhân vật nước ngoài”; “Hồ sơ sự kiện”; “Tạp chí Cộng Sản”; “Tạp chí
nghiên cứu châu Phi và Trung Đông”; “Tạp chí nghiên cứu Việt – Mỹ”…
* Tài liệu Thông tấn xã Việt Nam.

Thông tấn xã Việt Nam có rất nhiều các bài viết trên tài liệu tham khảo,
tài liệu Tham khảo đặc biệt, Tin thế giới, Tin tham khảo thế giới, Tin nhanh
… cập nhật những chính sách mới nhất của Tổng thống Obama tiêu biểu như
“TTXVN (2012), “Học thuyết chiến tranh của Barack Obama”, Tài liệu tham
khảo đặc biệt, (073), ngày 18/3/2012, tr. 1 – 25. TTXVN (2010), “Ý nghĩa
START mới với quan hệ Nga – Mỹ”, Tin tham khảo thế giới, ngày
25/10/2010. TTXVN (2009), “Sự khởi đầu trong chính sách đối ngoại của
Tổng thống Barack Obama”, Tài liệu tham khảo, (10 – 11).
* Tạp chí nước ngoài: Viết về chiến lược mới của Tổng thống Obama,
trên các tạp chí nước ngoài như Foreign Affairs, Foreign Policy, International
Affairs cũng có rất nhiều bài viết “Christian Brose (2009), “The making of
George W. Obama”, Foreign Policy, (January/February, 2009), pp. 53 – 55.
Fareed Zakaria (2008), The Post American world, WW Norton & Company.
Nhìn chung, tất cả những nguồn tài liệu trên chỉ để cập đến những mảng
vấn đề riêng lẻ, những sự kiện cụ thể còn đang tiếp diễn, mang tính thời sự mà
chưa có tác phẩm, bài viết nào đề cập một cách chi tiết và có hệ thống về chính
sách đối ngoại của Mỹ dưới thời cầm quyền của Tổng thống Barack Obama đối
với nước Nga trên các bình diện: những yếu tố tác động đến sự điều chỉnh
chính sách đối ngoại của chính quyền Obama, nội dung chính, quá trình triển
khai và những đánh giá sơ bộ về chính sách đối ngoại của Tổng thống Obama.
Tuy nhiên, các nguồn tài liệu nêu trên là cơ sở để tôi tham khảo trong
khi thực hiện đề tài: “Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với nước Nga
dưới thời Tổng thống Barack Obama (2009 – 2012)”

5


3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của khóa luận nhằm làm rõ chính sách đối ngoại
của Hoa Kỳ đối với nước Nga dưới thời Tổng thống Obama (2009 – 2012)

Để đạt được mục đích trên, khóa luận tập trung giải quyết những nhiệm vụ
chủ yếu sau:
- Phân tích những nhân tố tác động đến chính sách đối ngoại của Hoa
Kỳ đối với nước Nga dưới thời Tổng thống Barack Obama (2009 – 2012)
- Làm rõ nội dung và quá trình thực hiện chính sách đối ngoại của Hoa
Kỳ với nước Nga dưới thời Obama (2009 – 2012)
- Đồng thời làm rõ những đặc điểm và tác động của chính sách đó đối
với Hoa Kỳ và nước Nga, cũng như với thế giới.
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ
đối với nước Nga thời kỳ cầm quyền của Tổng thống Obama và phân tích nét

chính trong chính sách đối ngoại, trong đó, tập trung làm rõ những chính sách
của Hoa Kỳ đối với nước Nga. Trên cơ sở đó, đề tài phân tích những kết quả,
những hạn chế và tác động của chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ với nước
Nga (2009 – 2012) đến tình hình thế giới, với Hoa Kỳ cũng như nước Nga.
Từ đó, đề tài đưa ra những dự đoán xu thế phát triển trong chính sách đối
ngoại của Hoa Kỳ đối với nước Nga dưới thời Tổng thống B.Obama (2009 –
2012).
- Phạm vi không gian chủ yếu bao gồm nước Mỹ và nước Nga.
- Phạm vi thời gian chủ yếu đề tài nghiên cứu về chính sách đối ngoại
của Hoa Kỳ với nước Nga dưới thời Tổng thống Barack Obama (2009 –
2012). Ngoài ra, để làm rõ hơn nội dung của khóa luận, ở một số phần tác
giả còn mở rộng thêm phạm vi thời gian về phía trước hoặc phía tiếp sau
phạm vi thời gian chủ yếu trên.

6


4. Phương pháp nghiên cứu
Trong khóa luận này, tác giả sử dụng chủ yếu các phương pháp sau :

phương pháp lịch sử, phương pháp logic và phương pháp nghiên cứu quốc tế.
Bên cạnh việc sử dụng phối hợp nhuần nhuyễn tất cả các phương pháp này
xuyên suốt khóa luận, ở những phần, đoạn cụ thể, tác giả đều lựa chọn một
phương pháp chủ đạo nhằm đạt tới hiệu quả nghiên cứu một cách tối đa.
5. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận có thể coi là công trình nghiên cứu có hệ thống về chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ với nước Nga dưới thời Tổng thống Barack
Obama (2009 – 2012)
Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng
dạy về lịch sử nước Mỹ thời hiện đại, bổ sung nguồn tài liệu cập nhật về
chính sách đối ngoại Mỹ với nước Nga, đặc biệt là dưới thời Tổng thống
Barack Obama (2009 – 2012)
6. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tư liệu tham khảo, nội dung khóa
luận được trình bày theo hai chương:
Chương 1 : Những nhân tố tác động đến chính sách đối ngoại của Hoa
Kỳ đối với nước Nga dưới thời Tổng thống Barack Obama (2009 – 2012)
Chương 2 : Quá trình triển khai chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ với
nước Nga (2009 – 2012)

7


Chương 1:
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
CỦA HOA KỲ ĐỐI VỚI NƯỚC NGA DƯỚI THỜI TỔNG
THỐNG BARACK OBAMA (2009 – 2012)
1.1. Tình hình thế giới
1.1.1. Xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa
Trong những năm gần đây, quá trình toàn cầu hóa và cuộc cách mạng

khoa học – công nghệ đã tạo ra những biến đổi sâu sắc trên toàn thế giới.
Nhiều quan điểm cho rằng, toàn cầu hóa và cuộc cách mạng khoa học công
nghệ là nguyên nhân gây nên những vấn đề bất ổn ngày nay như khủng hoảng
chính trị, biến động về kinh tế, những biến động về xã hội và tình trạng mất
an ninh... Điều này đã gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia của mỗi nước, từ
đó, ảnh hưởng đến việc hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại của các
nước mà Hoa Kỳ cũng không là một ngoại lệ.
Trước hết, những tác động tích cực của toàn cầu hóa, khu vực hóa đã
tạo không gian cho sức mạnh Mỹ. Mỹ được đánh giá là nước có ưu thế nổi
bật nhất trong nền kinh tế toàn cầu. Trong sự cạnh tranh kinh tế mang tính
toàn cầu của nền kinh tế thông tin, Mỹ có đầy đủ ưu thế về chất lượng và tính
sáng tạo của nguồn nhân lực để có thể duy trì vai trò chi phối nền kinh tế thế
giới trong tiến trình toàn cầu hóa, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp của
Mỹ hiện nay.
Toàn cầu hóa thúc đẩy liên kết giữa các nước trên phạm vi toàn thế
giới, làm tăng tính phụ thuộc và ảnh hưởng lẫn nhau của các quốc gia thông
qua hoạt động giao lưu kinh tế, văn hóa. Các nước đều chuyển sang nền kinh
tế thị trường và trở thành những thành viên mới của các tổ chức tài chính,
thương mại thế giới như WB, IMF, WTO, hoặc các tổ chức khu vực như
8


APEC, AFTA, NAFTA…
Tuy nhiên, bên cạnh tích cực thì toàn cầu hóa và khu vực hóa cũng tạo
ra những thách thức lớn. Toàn cầu hóa làm cho sự cạnh tranh giữa các nước
và các khu vực trở nên hết sức khốc liệt và đã làm cho tất cả các nước tuy có
lợi ích dân tộc khác nhau nhưng muốn hay không đều phải lệ thuộc vào nhau,
phải hợp tác với nhau để đối phó với những vấn đề đe dọa đến sự sinh tồn của
mỗi nước và của thế giới mà không một nước nào dù có sức mạnh phi thường
đến đâu cũng không thể một mình đảm nhận được.

Toàn cầu hóa đang làm cho quá trình “phi tập trung hóa quyền lực”
diễn ra nhanh hơn thông qua các hình thức tập hợp lực lượng mới... “và là một
trong những thách thức lớn nhất phải đối mặt với chính sách đối ngoại” [44].
Đồng thời sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia về an ninh và phát triển
cũng ngày càng gia tăng và “khi lợi ích giữa các quốc gia đan xen vào nhau
và ngày càng phụ thuộc lẫn nhau thì tư duy về đối ngoại và phương thức quan
hệ quốc tế cũng thay đổi mạnh mẽ” [9;13]. Đó cũng là một trong những yếu tố
quan trọng buộc Mỹ phải quan tâm khi hoạch định chính sách đối ngoại. Bởi
“Chủ nghĩa đơn phương của Mỹ trong hai nhiệm kỳ của Tổng thống G.W.
Bush đã làm cho quan hệ Mỹ hệ Mỹ – Nga trở nên nguội lạnh, ảnh hưởng
không chỉ lợi ích của Mỹ, Nga, mà ở một mức độ nhất định còn ảnh hưởng đến
tình hình an ninh khu vực châu Âu và thế giới” [18;33]. Vì vậy, cải thiện quan
hệ với nước Nga là một trong những ưu tiên hàng đầu của chính quyền của
Tổng thống Obama. “Định hướng trong quan hệ với Nga cũng là nội dung
quan trọng sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Mỹ” [18;33].
Như vậy, dưới tác động của toàn cầu hóa và cuộc cách mạng khoa học –
công nghệ, các nước trong đó có Mỹ, phải có những thay đổi, điều chỉnh về
chính sách đối ngoại cho phù hợp với xu thế chung của thế giới.

9


1.1.2. Khủng bố quốc tế, nguy cơ phổ biến vũ khí hạt nhân
Hiện nay, vấn đề chống khủng bố quốc tế và nguy cơ phổ biến vũ khí
hạt nhân đang là mối quan tâm số 1 của nước Mỹ. Vì vậy, chiến lược, lực
lượng và ngân sách chống khủng bố phải liên tục gia tăng do nguy cơ ngày
càng nhiều. Cơ quan, quân đội và ngay cả công dân Mỹ vẫn là những đối
tượng được bọn khủng bố nhắm vào nhiều nhất ở cả trong nước lẫn trên khắp
thế giới [39;33].
Ngoài ra, một trong những vấn đề nổi bật hiện nay là việc sở hữu vũ khí

hạt nhân và hoạt động phát triển sản xuất vũ khí hạt nhân của một số quốc gia
trên thế giới. Chạy đua vũ trang giữa Ấn Độ và Pakistan đã vượt ra ngoài các
khuôn khổ kiểm soát quốc tế. Gần đây, Trung Quốc tăng cường hiện đại hóa
tên lửa đạn đạo, không chỉ chế tạo tên lửa tầm ngắm mà cả tên lửa xuyên lục
địa. Bên cạnh đó, có những thông tin tình báo cho hay mạng lưới Al Qaeda ở
Pakistan đang tích cực tuyển dụng những chuyên gia về chế tạo vũ khí nguyên
tử và tìm kiếm các nguyên liệu hạt nhân cũng như công nghệ cho hoạt động đó.
Nếu những hoạt động này không kịp thời ngăn chặn, thì đây sẽ là mầm mống
cho nguy cơ khủng bố hạt nhân và nước Mỹ sẽ là mục tiêu đầu tiên.
Vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên cũng là một trong những thách
thức lớn của chính quyền Obama, đặc biệt là ở khu vực châu Á – Thái Bình
Dương – mục tiêu mà Mỹ đang chinh phục. Hoạt động hạt nhân của Bắc
Triều Tiên ngày một trở nên khó kiểm soát. Bất chấp sự phản đối của Mỹ,
Nhật Bản, Hàn Quốc và cộng đồng quốc tế, Bắc Triều Tiên đã thực hiện thử
hạt nhân, gây ảnh hưởng tới an ninh của hai quốc gia láng giềng là Hàn Quốc
và Nhật Bản. Vụ phóng thử vệ tinh gây nhiều tranh cãi vào tháng 4/2009 cùng
với những tuyên bố Bình Nhưỡng sẽ tiếp tục theo đuổi chính sách hạt nhân,
đã đẩy cuộc đám phán sáu bên rơi vào bế tắc. Đàm phán sáu bên có sự tham
gia của Mỹ, Nhật, Nga, Trung Quốc, Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên được khởi

10


động vào năm 2003, chỉ đạt được những thành công rất hạn chế trong việc
ngăn cản các hoạt động hạt nhân của Bắc Triều Tiên. Gần đây nhất, một vụ
phóng tên lửa đạn đạo tầm xa của Bắc Triều Tiên cũng đã gây lên một sự
phản đối kịch liệt của cộng đồng quốc tế, nhất là Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản và
Trung Quốc. Theo phát ngôn viên Bộ Quốc phòng Hàn Quốc Kim Minseok
và các quan chức Mỹ cho biết, Triều Tiên đã phóng tên lửa mang vệ tinh viễn
thông vào quỹ đạo lúc 7:39 ngày 13/4/2012 theo giờ địa phương [92], trong

khi Chính quyền Bình Nhưỡng vẫn chưa tiết lộ thời gian cụ thể của việc
phóng vệ tinh lần này. Vụ phóng tên lửa lần này của Triều Tiên là để chào
mừng lễ kỉ niệm 100 năm ngày sinh của cố Chủ tịch Kim Nhật Thành. Trong
khi trước đó, Bình Nhưỡng tuyên bố, nước này phóng tên lửa đưa vệ tinh
“thời tiết” vào vũ trụ là vì các mục đích nghiên cứu mang tính hòa bình.
Tuy nhiên, phương Tây không tin vào tuyên bố này mà khẳng định, vụ
phóng vệ tinh của Triều Tiên chỉ là vỏ bọc che mắt để nước này tiến hành thử
công nghệ tên lửa tầm xa, một hoạt động mà Triều Tiên đã bị cấm theo một
nghị quyết được Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc thông qua cách đây vài
năm. Dù được dự báo từ trước, các cường quốc như Mỹ, Nhật Bản và Hàn
Quốc không khỏi ngỡ ngàng, choáng váng khi Bình Nhưỡng thông báo kế
hoạch phóng tên lửa chỉ một thời gian ngắn, sau khi nước này “đốt” lên ngọn
lửa hy vọng về việc nối lại các cuộc đàm phán hạt nhân, bằng một thoả thuận
ngừng làm giàu Uranium với Mỹ. Từ trạng thái “sốc”, các nước đã phản ứng
gay gắt trước động thái mới của Triều Tiên. Không chỉ dùng những ngôn từ
mạnh mẽ để lên án, chỉ trích kế hoạch phóng tên lửa của Triều Tiên, Mỹ,
Nhật Bản và Hàn Quốc còn tuyên bố sẽ bắn hạ vệ tinh cũng như đáp trả một
cách tương xứng với hành động mà họ xem là mang tính khiêu khích của
Bình Nhưỡng [93]. Khi tin tức về việc phóng tên lửa Triều Tiên vừa được
tung ra, các quan chức Mỹ, Hàn Quốc và Nhật Bản đã ngay lập tức khẳng

11


định, vụ phóng tên lửa chào mừng lễ kỷ niệm lần sinh nhật thứ 100 của cố
Chủ tịch Kim Nhật Thành này đã thất bại. Mặc dù thất bại, vụ phóng tên lửa
vừa rồi của Triều Tiên cũng là một sự kiện khiến cả thế giới phải “náo loạn”.
Sau sự kiện này, dường như khả năng phi hạt nhân hóa trên bán đảo Triều
Tiên còn rất xa vời.
Không chỉ vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, Mỹ còn gặp phải thất

bại trong việc giải quyết vấn đề hạt nhân ở Iran. Trong hơn ba thập kỉ qua,
quan hệ Mỹ – Iran luôn “nóng”, phần lớn là do vấn đề hạt nhân. Vào tháng
2/2012 vừa qua, Iran và các chuyên gia Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc
tế (IAEA) đã tập trung đàm phán về chương trình vũ khí hạt nhân bị đồn đoán
của nước này – vấn đề mà xưa nay Tehran luôn chống đối. Vòng đàm phán đầu
tiên giữa Iran với nhóm P5+1 (hay nhóm “Iran 6”) tại Istanbul (Thổ Nhĩ Kỳ)
hôm 14/4/2012, đã khép lại với kết quả được tất cả các bên cùng gọi là “tích
cực”, “xây dựng”, “có tiến bộ”. Chỉ có một “bên” quan tâm đến vấn đề này
mà không chấp nhận là Israel. Nhiều ý kiến lo ngại rằng, sự phá bĩnh của Israel
có thể sẽ là mối đe dọa lớn nhất đến thành bại của đàm phán sắp tới [94]. Vấn
đề hạt nhân ở Iran vẫn còn rất nhiều trông gai phía trước. Vậy, những cuộc đàm
phán tiếp theo có đi đến giải pháp nào hay không vẫn còn đang là một dấu “?”,
và vấn đề này có được giải quyết hay không, cần có sự nỗ lực của cả cộng đồng
quốc tế, đặc biệt là những động thái của Mỹ.
Bên cạnh đó, về ngăn chặn phổ biến vũ khí hạt nhân nước Mỹ còn
lưỡng lự và chưa tìm được giải pháp hiệu quả nhất. Một là, Mỹ vẫn chưa tìm
được những giải pháp tối ưu và chưa có cách nào làm giảm sự gia tăng thành
viên của “câu lạc bộ hạt nhân” [1;67]. Hai là, chính quyền Obama vẫn hủy
bỏ cam kết tham gia Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT) vô thời
hạn như chính quyền Bush, hay ngược lại. Ba là, Mỹ vẫn dùng biện pháp
ngoại giao để giải quyết việc Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên và Iran

12


chế tạo vũ khí hạt nhân hay phải dùng ngay tới biện pháp quân sự. Bốn là,
Hiệp ước Cắt giảm Vũ khí tiến công chiến lược (có cả vũ khí hạt nhân)
START – I ký với Nga kết thúc hiệu lực ngày 5/12/2009, có ký tiếp START –
II hay không và nếu ký thì mức cắt giảm trong tình hình mới là bao nhiêu
[39;33].

Như vậy, để giữ vững nền hòa bình tạo điều kiện thuận lợi cho việc
phát triển đất nước, Hoa Kỳ và Nga cần phải những hợp tác với nhau để đối
phó với chủ nghĩa khủng bố quốc tế và nguy cơ phổ biến vũ khí hạt nhân.
1.1.3. Sự suy giảm sức mạnh Mỹ và sự nổi lên của các trung tâm quyền lực
trong quan hệ quốc tế
Tổng thống Obama lên nắm quyền khi “tình hình thế giới đã có những
thay đổi lớn, phản ánh tương quan lực lượng đang thay đổi giữa các nước lớn
dưới tác động của các xu thế vận động trong quan hệ quốc tế và sự phát triển
của cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế đang diễn ra theo hướng bất lợi hơn
đối với Mỹ; chính sách đối ngoại của chính quyền Bush đã tỏ rõ những hạn
chế lớn trong việc đảm bảo an ninh và vị thế của Mỹ trên thế giới”[2]. Có thể
nói không một vị nguyên thủ nào của Mỹ lại phải đương đầu với nhiều khó
khăn cùng một lúc khi nắm quyền như vậy.
Khi sức mạnh kinh tế của Mỹ suy yếu thì nhiều trung tâm quyền lực
khác nổi lên thách thức vị thế đơn cực của Mỹ điển hình là sự nổi lên của các
nước thuộc nhóm BRIC (gồm các nước Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc).
Chiếm 26% diện tích, 42% dân số và 16% GDP của thế giới (năm 2009), 33%
dự trữ ngoại tệ và 12,8% khối lượng giao dịch thương mại thế giới [40;3].
BRIC không chỉ là một động lực thúc đẩy kinh tế thế giới phát triển mà còn
có vai trò ngày càng lớn trên bàn cờ địa – chính trị toàn cầu. Chính tình báo
Quốc gia, tổ chức tư vấn của chính phủ Mỹ cũng đã từng dự đoán đến năm
2025, Trung Quốc và Ấn Độ sẽ là nền kinh tế đứng thứ hai và thứ tư thế giới.

13


Nhiều chuyên gia kinh tế dự đoán đến năm 2025 Trung Quốc sẽ vượt
Mỹ về tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và trở thành nền kinh tế lớn nhất thế
giới [41;38]. Bằng các chính sách tiền tệ và tài chính nhanh nhạy, kịp thời
cùng sự điều hành hết sức linh hoạt của chính phủ, Trung Quốc là nền kinh tế

lớn duy nhất trên thế giới vẫn duy trì được mức tăng trưởng cao (8,7% năm
2009 và 10,3% năm 2010) [42;4], trong bối cảnh Mỹ, EU, Nhật Bản và hàng

loạt các nước khác đang phải vật lộn để thoát khỏi khủng hoảng. Trong hai
năm 2009 và 2010, Trung Quốc đã cho các nước nghèo vay khoản tiền khổng
lồ tới 110 tỷ USD. Trong khi đó, theo điều tra của Tạp chí Financial Times,
tổng khoản cho vay của Ngân hàng thế giới trong cùng thời gian này cũng chỉ
có 100 tỷ USD [95]. Rõ ràng, với con số tăng trưởng kinh tế đáng “sốc” trên,
Trung Quốc một lần nữa khẳng định đã bỏ xa Nhật Bản và xứng đáng vươn
lên trở thành nền kinh tế thứ hai thế giới. Và như thế, cứ trên đà phát triển như
hiện nay, thì khả năng Trung Quốc bắt kịp, thậm chí là vượt sự phát triển của
Mỹ là điều hoàn toàn có thể trong tương lai không xa. Đáng chú ý là sức
mạnh quân sự của Trung Quốc đang tăng nhanh, đặc biệt là có bước đột phá
trong lĩnh vực hải quân và vũ trụ. Cùng với Mỹ, Trung Quốc đang tích cực
tiếp xúc với các nước trong khu vực ASEAN, tranh giành ảnh hưởng với Mỹ
ở khu vực Mỹ Latinh – vốn được coi là “sân sau” của Mỹ. Trong vài thập kỉ
tới, Trung Quốc có thể sẽ là một thách thức lớn cho vị trí siêu cường số một
của Mỹ tại khu vực và trên thế giới.
Ngoài Trung Quốc, các nền kinh tế mới nổi khác là Ấn Độ và Brazil
cũng đang từng bước nâng cao vị thế của mình, nỗ lực đấu tranh vì một thế
giới đa cực, tìm cách gây ảnh hưởng lớn hơn tại các thể chế tài chính quốc tế
như IMF, WB…
Nước Nga, mặc dù cũng phải gánh chịu những hậu quả từ cuộc khủng
hoảng kinh tế, nhưng vẫn khẳng định địa vị cường quốc chính trị của mình

14


khi tham gia giải quyết nhiều vấn đề quốc tế. Những biện pháp cứng rắn của
Nga trong cuộc chiến Gruzia năm 2008 là sự khẳng định “sự trở lại của Nga”

[33;37]. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao chính trị ổn định, sự đồng thuận
xã hội lớn về nhu cầu phục hồi địa vị cường quốc thế giới, nước Nga đang
thực sự tìm lại vị trí, vai trò của một cường quốc, một trung tâm quyền lực
quan trọng.
Cùng với BRIC, EU cũng mở rộng và khẳng định vai trò của mình.
Nhiều chính trị gia cho rằng chính trị toàn cầu thế kỷ XXI sẽ do Mỹ, Trung
Quốc và EU chi phối. Về kinh tế, EU có sức mạnh và khả năng cạnh tranh
ngang hàng với Mỹ. Tổng sản phẩm quốc nội của EU từ lâu đã vượt Mỹ (cao
hơn 25% nếu tính tỷ giá trao đổi hiện nay). Năm 2007, GDP của Mỹ ước tính
là 13.843,8 tỷ USD, và của 15 nước thuộc liên minh châu Âu là 8.847,889 tỷ
EURO [43;67]. Nhiều nước EU đang muốn thực hiện vai trò ngoại giao cân
bằng toàn cầu giữa Mỹ và Trung Quốc theo tư tưởng “chủ nghĩa vị châu Âu”.
Sự vươn lên không ngừng của các nước châu Âu là một thách thức lớn cho
Mỹ trên phạm vi toàn thế giới.
Các quốc gia châu Á, gồm những thị trường mới nổi và phụ thuộc nhiều
vào kinh tế Mỹ và châu Âu, dường như dễ tổn thương nhất trong cuộc khủng
hoảng vừa qua, song thực tế đã phục hồi rất mạnh mẽ. Điều đó khiến cho
chiến lược của nhiều quốc gia phải thay đổi đặc biệt là Mỹ. Mỹ Latinh – một
khu vực giàu tài nguyên thiên nhiên, đa dạng về khí hậu và thổ nhưỡng, có vị
trí địa – chính trị quan trọng đang trở thành một khu vực được Liên Hợp
Quốc đánh giá là phát triển năng động nhất thời gian qua. Chín nước cánh tả
của khu vực này gọi tắt là ALBA bao gồm Venezuela, Cuba, Nicaragua,
Honduras, Ecuador, Bolivia, Antigua & Barbuda, San Vincent & Grenadines
và Dominica đã tuyên bố sẽ tiến hành giao dịch thương mại nội khối bằng
đồng tiền chung có tên gọi là sucre kể từ năm 2010. Các quốc gia thuộc khu

15


vực Mỹ Latinh đang dần thể hiện sức mạnh và tiếng nói của mình đối với thế

giới, đặc biệt là những quốc gia có nền kinh tế tăng trưởng khá như Brazil hay
Venezuena.
Ngoài ra, các nước khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, Brazil, các nước
ASEAN… cũng có nền kinh tế đang có những bước phục hồi mạnh mẽ sau cuộc
khủng hoảng, cũng đang từng bước nâng cao vị thế của mình, nỗ lực đấu tranh vì
một thế giới đa cực. Điều đó khiến chiến lược của nhiều quốc gia phải thay đổi,
đặc biệt là Mỹ.
1.1.4. Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế (2008 – 2009) đến tình hình
thế giới
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008 –
2009 bắt đầu từ khủng hoảng tài chính – tiền tệ ở Mỹ – trung tâm phát triển
nhất của hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa. Dưới tác động của cuộc suy thoái
bắt đầu từ tháng 12 năm 2007 – lần suy thoái dài nhất và gây tác động sâu
rộng hơn bất cứ cuộc suy thoái nào từ cuộc Đại khủng hoảng năm 1930 [28;3]
và nhanh chóng lan rộng ra các nền kinh tế lớn, trở thành cuộc khủng hoảng
tài chính, suy thoái toàn cầu và hiện đang diễn biến rất phức tạp. Nhiều quốc
gia đã phải bơm vào nền kinh tế hàng trăm cho đến hàng nghìn tỉ USD để cứu
vãn tình hình và ổn định kinh tế. Đó là chưa kể đến những thiệt hại tiếp theo
từ kinh tế suy giảm, không tăng trưởng, rối loạn đang chờ phía trước.
Cho đến nay, tác động lớn nhất của cuộc khủng hoảng này là làm thay
đổi hoàn toàn và sâu sắc ngành công nghiệp tài chính Mỹ và hệ thống tài
chính toàn cầu. Sự sụp đổ của những ngân hàng lớn đã gây nên những lo ngại
và mất niềm tin của dân chúng. Ngay cả các quỹ đầu tư tiền tệ, vốn được coi
là góc an toàn bậc nhất trong hệ thống tài chính Mỹ, là nền tảng cho hoạt
động đầu tư của nước này, cũng gặp khó khăn khi người dân ồ ạt rút tiền do
những quan ngại về sự đổ vỡ tiếp theo.

16



Theo tính toán của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), cuộc khủng
hoảng lần này đã làm tiêu tan tới 50.000 tỉ USD [82]. Giả dụ, kinh tế thế giới
có được phục hồi trong một đến hai năm, thì cũng còn lâu mới có thể khắc
phục hoàn toàn được hậu quả. Vả lại, sau cuộc khủng hoảng này, nhiều nước,
nếu không nói là tất cả, sẽ phải đối phó với tình trạng thâm hụt ngân sách cao,
nguy cơ bùng phát lạm phát là rất lớn vì đã tung ra một lượng tiền khổng lồ để
cứu nguy cho hệ thống ngân hàng và các doanh nghiệp, kích cầu đầu tư và tiêu
dùng. Cuộc khủng hoảng lần này đã làm tiêu tan học thuyết kinh tế “tự do hóa,
tư nhân hóa, phi điều tiết hóa” thời R. Rigan và được tán dương dưới thời G.
Busơ. Nay, chưa rõ có xuất hiện một học thuyết kinh tế mới nào không, nhưng
rõ ràng, tinh thần của học thuyết Keynes đang được phục hồi, trong đó, có ý
tưởng về việc nhà nước cần có sự can thiệp, điều tiết nhất định. Sau cuộc
khủng hoảng 1929 – 1933, xu hướng bảo hộ mậu dịch gia tăng mạnh mẽ.
Để đối phó với cuộc khủng hoảng lần này, nhiều nước đã có những biện
pháp bảo hộ sản xuất trong nước, làm dấy lên nỗi lo ngại về sự trở lại của chủ
nghĩa bảo hộ và sự bùng nổ của cuộc chiến thương mại. Mối lo ngại này
không phải không có cơ sở, song, chắc sẽ khó xuất hiện trào lưu đóng cửa vì
nền kinh tế các nước đã tùy thuộc nhau quá nhiều, khó có nước nào có thể
phát triển nếu co về chủ nghĩa bảo hộ quá mức. Chí ít thì tất cả các nước và
các tổ chức quốc tế chủ yếu, đều cam kết chống lại chủ nghĩa bảo hộ, tiếp tục
thúc đẩy vòng đàm phán Đôha. Chắc chắn rằng, sau cuộc khủng hoảng lần
này, sẽ diễn ra quá trình cơ cấu lại một cách sâu sắc nền kinh tế của các nước
và toàn cầu. Một trong những đặc điểm của cuộc khủng hoảng kinh tế – tài
chính lần này là nó diễn ra đồng thời với cuộc khủng hoảng năng lượng,
khủng hoảng khí hậu và môi trường. Do đó, kinh tế thế giới sẽ hướng mạnh
vào công nghệ tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường. Các nền kinh
tế tùy thuộc quá nhiều vào xuất khẩu sẽ phải điều chỉnh theo hướng chú trọng

17



hơn tới thị trường nội địa. Hệ thống tài chính ngân hàng có thể sẽ được cơ cấu
lại. Các ngành nghề, các doanh nghiệp kém hiệu quả, không bền vững sẽ bị
đào thải… Cuộc khủng hoảng lần này, vừa thể hiện vừa thúc đẩy quá trình
dịch chuyển vị thế của các nền kinh tế. Rõ ràng, uy tín và vị thế hàng đầu của
kinh tế Mỹ bị thách thức. Ngày nay, Mỹ đã trở thành con nợ lớn nhất của thế
giới. Điều này khác với những năm 20, 30 thế kỷ trước, khi đó, Mỹ là chủ nợ
lớn nhất. Vai trò và vị trí của kinh tế Trung Quốc hiện được coi trọng, mặc dù,
nước này cũng chịu tác động nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng toàn cầu.
Tuy nhiên, quá trình đi xuống của kinh tế Mỹ sẽ lâu dài. Trong những thập kỷ
tới, kinh tế Mỹ vẫn chiếm vị trí quan trọng hàng đầu, vị trí Trung Quốc gia tăng
đáng kể song cũng chưa trở thành chủ đạo.
Trước những tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính (2008 – 2009),
chính quyền Obama cần có sự điều chỉnh chiến lược cả về đối nội và đối
ngoại, để khắc phục những hậu quả của cuộc khủng hoảng mang lại, khôi
phục lại nền kinh tế Mỹ cũng như vai trò và ảnh hưởng của Mỹ trên thế giới.
1.2. Tình hình nước Mỹ từ khi Barack Obama lên cầm quyền (2009 – 2012)
1.2.1. Thuận lợi
Ngày 20/1/2009, Tổng thống Barack Obama đã chính thức nhậm chức
và bước chân vào Nhà Trắng với rất nhiều sự ủng hộ và niềm tin của người
dân Mỹ cũng như cộng đồng thế giới. “Obama chiếm một vị trí độc đáo trong
con mắt của thế giới”, cũng như “kỹ năng giao tiếp của ông thay đổi tạo ra
một cánh cửa mở”, “để thu hút mọi người trên toàn thế giới”[52]. Đa số
phiếu bầu trong 13 quốc gia được khảo sát, cộng với Mỹ, có niềm tin vào
Obama. Chúng bao gồm tất cả các quốc gia châu Âu, hai quốc gia châu Phi,
và hầu hết các quốc gia châu Á. Bảy mươi phần trăm người Mỹ thể hiện niềm
tin vào Obama là tốt.

18



×