Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Thương cảng thị nại từ thế kỷ x đến thế kỷ XV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (564.58 KB, 65 trang )

LỜI CẢM ƠN
Khóa luận “Thương cảng Thị Nại từ thế kỷ X đến thế kỷ XV” được hoàn
thành tại khoa Lịch Sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 dưới sự hướng dẫn
trực tiếp của Th.s Trần Thị Thu Hà.
Để hoàn thành khóa luận này, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành nhất
tới cô Trần Thị Thu Hà - người đã hướng dẫn tận tình, góp ý trực tiếp và giúp
đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài này.
Tôi xin cảm ơn tới các thầy cô trong trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2,
đặc biệt là các thầy cô trong khoa Lịch Sử đã giảng dạy tôi trong suốt thời gian
qua.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, thầy cô trong khoa
Lịch Sử, tập thể lớp K35 Cử nhân Lịch Sử, các bạn sinh viên cùng ngành các
khóa K36, K37, K38 Cử nhân Lịch Sử đã động viên, góp ý và tạo điều kiện cho
tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tháng 05 năm 2013
Sinh viên

Vũ Thị Như Quỳnh

i


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của cô
Trần Thị Thu Hà. Tôi xin cam đoan đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Tháng 05 năm 2013
Sinh viên


Vũ Thị Như Quỳnh

ii


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................. 2
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ................................................... 3
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu..................................................... 4
5. Đóng góp của khóa luận................................................................................. 5
6. Bố cục khóa luận............................................................................................ 5
NỘI DUNG ....................................................................................................... 6
Chương 1:QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH THƯƠNG CẢNG THỊ NẠI......... 6
1.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH THƯƠNG CẢNG THỊ NẠI ................................. 6
1.1.1. Điều kiện tự nhiên .................................................................................... 6
1.1.1.1. Vị trí địa lí ............................................................................................. 6
1.1.1.2. Sông ngòi .............................................................................................. 8
1.1.1.3. Khí hậu ............................................................................................... 10
1.1.2. Điều kiện kinh tế- xã hội ........................................................................ 11
1.1.2.1. Điều kiện kinh tế ................................................................................. 11
1.1.2.2. Điều kiện xã hội .................................................................................. 23
1.1.3. Điều kiện chính trị.................................................................................. 24
1.2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH THƯƠNG CẢNG THỊ NẠI ...................... 27
1.2.1. Niên đại.................................................................................................. 27
1.2.2. Tên gọi ................................................................................................... 27
1.2.3. Tiêu chí .................................................................................................. 28
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 30
Chương 2:THƯƠNG CẢNG THỊ NẠI TỪ THẾ KỶ X ĐẾN THẾ KỶ XV

......................................................................................................................... 31
2.1. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THƯƠNG CẢNG THỊ NẠI ............................... 31
2.1.1. Hoạt động nội thương ............................................................................ 31
iii


2.1.2. Hoạt động ngoại thương ......................................................................... 33
2.1.2.1. Với Trung Quốc.................................................................................. 33
2.1.2.2. Với Philippin ....................................................................................... 37
2.1.2.3. Với Ảrập.............................................................................................. 40
2.1.2.4. Với Đại Việt ........................................................................................ 41
2.2. SỰ SUY YẾU CỦA THƯƠNG CẢNG THỊ NẠI ..................................... 44
2.2.1. Sự suy yếu của thương cảng Thị Nại ...................................................... 44
2.2.2. Nguyên nhân suy yếu của thương cảng Thị Nại ..................................... 44
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 47
Chương 3: ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA THƯƠNG CẢNG THỊ NẠI . 48
3.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA THƯƠNG CẢNG THỊ NẠI ........................................ 48
3.1.1. Thương cảng Thị Nại mang tính chất vừa “thành” vừa “thị” .................. 48
3.1.2. Thương cảng Thị Nại là một ví dụ điển hình của mô hình mạng lưới trao
đổi ven sông..................................................................................................... 48
3.1.3. Hoạt động ngoại thương của Thị Nại mang tính chất một chiều ............. 49
3.1.4. Thương cảng Thị Nại là một đô thị kinh tế ............................................. 50
3.1.5. Thương cảng Thị Nại là một đô thị cảng ................................................ 50
3.2. VAI TRÒ CỦA THƯƠNG CẢNG THỊ NẠI ............................................ 50
3.2.1. Thúc đẩy kinh tế Bình Định phát triển, tăng cường tiềm lực kinh tế cho
vương triều Vijaya ........................................................................................... 50
3.2.2. Là thương cảng khu vực, mở cửa giao lưu kinh tế, văn hoá với các nước
trong khu vực. .................................................................................................. 53
3.2.3. Là một quân cảng, bảo vệ cho kinh đô Vijaya ........................................ 55
3.2.4. Tạo cở sở tiền đề cho sự hình thành và phát triển của thương cảng Nước

Mặn ................................................................................................................. 56
Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 56
KẾT LUẬN .................................................................................................... 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 59

iv


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Vào thế kỷ X, do những thay đổi nội tại của vương quốc Champa cũng
như những thay đổi về chính trị trong khu vực mà vương triều Vijaya đã thay
thế vương triều Indrapura. Với sức mạnh cũng như vị trí thuận lợi của mình mà
Vijaya đã trở thành một chính thể hùng mạnh, vượt trội so với các chính thể
khác trong khu vực. Một trong những nhân tố đóng góp không nhỏ tạo nên sự
cường thịnh ấy là các thương cảng - những điểm trung chuyển, trao đổi, buôn
bán hàng hóa như cửa Đề Di, Cách Thử (Phú Cát), cửa An Dũ (Tam Quan) mà
nổi bật lên là vai trò của thương cảng Thị Nại (Tuy Phước).
Thị Nại là nơi “thu gom” tất cả các sản phẩm nông nghiệp, thủ công
nghiệp, lâm thổ sản, và các sản phẩm của biển từ miền núi đến đồng bằng, từ
miền xuôi lên miền ngược để trao đổi, giao lưu, buôn bán.
Do án ngữ ở một vị trí quan trọng trên con đường giao lưu quốc tế ĐôngTây, những thuyền bè xuôi ngược trong hệ thống mậu dịch châu Á đều phải
dừng chân nơi đây, nên người Chăm đã từng có mối quan hệ rộng rãi với các
nước trong và ngoài khu vực.
Với sự ưu ái do thiên nhiên ban tặng cùng với sự sáng tạo, chịu khó của
cư dân nơi đây, Thị Nại đã nhanh chóng trở thành một trung tâm liên vùng. Các
cư dân Champa cổ đã tận dụng triệt để việc khai thác các nguồn tài nguyên của
một hệ sinh thái phổ tạp, đồng thời tận dụng các nhân tố ngoại sinh do điều kiện
quốc tế mang tới để gây dựng nên trên mảnh đất này những vương triều hùng
mạnh, một nền văn minh đặc sắc với những dấu tích còn để lại cho đến tận ngày

nay.
Nhằm đánh giá chính xác hơn nữa về một thương cảng đã từng phồn
vinh, bổ sung vào những nghiên cứu về sự hình thành thương cảng Việt Nam
trong lịch sử, cũng như đánh giá lại vị trí của ngoại thương trong nền kinh tế
Việt Nam thời kỳ trung đại, việc nghiên cứu lại những khía cạnh của thương
1


cảng Thị Nại trong lịch sử là một điều cần thiết. Nó góp phần làm sáng tỏ hơn
những thành quả hoạt động cũng như tư duy kinh tế của cha ông ta, để phát huy
truyền thống ấy, đặc biệt là trong thời kỳ đất nước đang mở rộng quan hệ giao
lưu, hội nhập Quốc tế, phát triển kinh tế đối ngoại với nước ngoài.
Thương cảng Thị Nại nhận được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học
giả, song mới chỉ dừng ở các bài nghiên cứu nhỏ. Chúng ta vẫn thiếu những
công trình trình nghiên cứu chuyên sâu, làm rõ bản chất và đặc trưng của hoạt
động thương nghiệp ở Thị Nại, góp phần vào việc nghiên cứu lịch sử ngoại
thương Thị Nại nói riêng và của Việt Nam nói chung.
Với tất cả những lý do trên, tôi đã quyết định lựa chọn nghiên cứu về
thương cảng Thị Nại trong lịch sử thông qua đề tài: “Thương cảng Thị Nại từ
thế kỷ X đến thế kỷ XV” để cung cấp cái nhìn đúng đắn và toàn diện hơn về
thương cảng Thị Nại.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Thương cảng Thị Nại là một trong những thương cảng lớn và có vai trò
quan trọng đối với Champa nói riêng và của khu vực Đông Nam Á nói chung.
Vì vậy, thương cảng Thị Nại nhận được rất nhiều sự quan tâm, nghiên cứu của
các học giả trong và ngoài nước.
Thị Nại được đề cập tới qua nhiều thư tịch cổ của cả Đại Việt và Trung
Hoa như Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Việt sử
kí toàn thư, Doanh nhai thắng lãm (triều Minh)…. Các tác phẩm này chủ yếu
phác họa bức chân dung của thương cảng Thị Nại về vị trí địa lý, sản vật và

hoạt động buôn bán… trong trong bối cảnh xã hội Champa, song chưa phải là
sự nghiên cứu chuyên sâu mà mới chỉ là đề cập nhỏ thương cảng Thị Nại bên
cạnh việc tìm hiểu về vương quốc cổ Champa.
Khi nghiên cứu về thương cảng Thị Nại, nhiều tác giả đã có những thành
tựu nhất định như Nguyễn Thị Phương Chi- Nguyễn Tiến Dũng (2011), Về các
mối giao thương của quốc gia Đại Việt thời Lý- Trần trong Người Việt với biển,
Nxb Thế giới, Hà Nội.
2


Đỗ Trường Giang (2011), Biển với lục địa- Thương cảng Thị Nại
(Champa) trong hệ thống thương mại Đông Á thế kỷ X- XV trong Người Việt
với biển, Nxb Thế giới, Hà Nội.
Những tác phẩm này viết một cách khái quát về thương cảng Thị Nại trên
những mặt kinh tế, chính trị, văn hóa…
Hiện nay, thương cảng Thị Nại không còn nữa, muốn tìm hiểu về thương
cảng này, chủ yếu ta phải tìm hiểu qua những dấu tích còn lại trên vùng đất
Bình Định ngày nay. Vì vậy, nó nhận được sự quan tâm rất nhiều từ các nhà
khảo cổ học như Đinh Bá Hòa (1995), “Những di chỉ gốm Chăm ở Bình Định”,
Nghiên cứu Đông Nam Á, (số 4), tr.97-99.
Lê Đình Phụng (1997), “Thương cảng Champa trong lịch sử” trong
Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1996, Nxb KHXH.
Những phát hiện khảo cồ này đã chứng minh cho sự tồn tại, vai trò của
thương cảng Thị Nại đối với sự phát triển của thương mại Champa và thương
mại trong khu vực .
Gần đây, nhiều cuộc hội thảo về Thị Nại đã được tổ chức. Nhiều báo cáo
nghiên cứu có giá trị khoa học cao về nhiều lĩnh vực của thương cảng Thị Nại
đã được đưa ra, nhưng chúng vẫn chỉ là những bài tham luận bàn về thương
cảng Thị Nại ở các góc độ, khía cạnh nhỏ, đa phần tản mạn. Đây là các nguồn
tài liệu quý hiếm để tôi học tập, kế thừa và phát triển cùng những nghiên cứu

của mình, hoàn thiện nên công trình “Thương cảng Thị Nại từ thế kỷ X đến thế
kỷ XV” một cách hệ thống và toàn diện hơn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Mục đích
Làm rõ quá trình hình thành, phát triển cũng như suy vong của thương
cảng Thị Nại. Để từ đó có thể rút ra được đặc điểm, đánh giá được một cách
toàn diện vị trí, vai trò của Thị Nại trong lịch sử trên các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hoá, xã hội.

3


Nhiệm vụ
Nghiên cứu cơ sở hình thành cũng như quá trình hình thành của thương
cảng Thị Nại
Nghiên cứu quá trình phát triển của thương cảng qua các hoạt động kinh
tế nội thương, ngoại thương.
Nghiên cứu quá trình suy vong và tìm ra những nguyên nhân của sự suy
vong ấy.
Rút ra đặc điểm, đồng thời đánh giá vai trò kinh tế, văn hoá, chính trị - xã
hội của thương cảng Thị Nại trong lịch sử.
Phạm vi
Về không gian: Phạm vi không gian mà đề tài đề cập đến rất rộng lớn,
bao gồm cả châu Á, khu vực Đông Nam Á, Đông Bắc Á, biển Đông, lãnh thổ
Việt Nam, vùng đất Bình Định, nhất là thương cảng Thị Nại của vương quốc
Champa.
Về thời gian: từ thế kỷ X đến thế kỷ XV.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Nguồn tư liệu
- Nguồn tư liệu 1: Là các sách lịch sử thế giới, lịch sử dân tộc do các cơ

quan Trung ương xuất bản.
- Nguồn tài liệu 2: Các bộ chính sử Việt Nam như: Đại Nam nhất thống
chí, Đại Việt sử kí toàn thư,...
- Nguồn tư liệu 3: Các sách do cơ quan, cá nhân viết về thương cảng Thị
Nại, hoạt động thương mại liên quan đến Thị Nại.
- Nguồn tư liệu 4: Các bản tham luận, báo cáo của các nhà khoa học trong
và ngoài nước nghiên cứu về Thị Nại.
- Nguồn tư liệu 5: Các bài nghiên cứu viết về Thị Nại trên các tạp chí
nghiên cứu lịch sử.
- Nguồn tư liệu 6: Các trang Web đáng tin cậy cung cấp các tranh ảnh,
bản đồ... phản ánh các mặt của Thị Nại trong lịch sử.
4


Phương pháp nghiên cứu
- Sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh để nghiên cứu đề tài, các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử.
- Kết hợp phương pháp sử học và phương pháp logic, trong đó phương
pháp lịch sử là chủ yếu.
- Ngoài ra, trong bài nghiên cứu còn sử dụng các phương pháp liên
ngành, phương pháp tổng hợp, phân tích, đánh giá các sự kiện, hiện tượng lịch
sử, phương pháp so sánh đồng đại, phương pháp tiếp cận mới, nhìn nhận lịch sử
hình thành và phát triển đô thị thương cảng Thị Nại từ thế kỷ X đến thế kỷ XV
một cách khách quan.
5. Đóng góp của khóa luận
Cung cấp cái nhìn tương đối đầy đủ và hệ thống về thương cảng Thị Nại
từ thế kỷ X đến thế kỷ XV, từ đó khoá luận có những đóng góp nhất định về
mặt khoa học lịch sử.
Kết quả nghiên cứu của khoá luận sẽ góp phần cung cấp thêm chút tư liệu

về thương cảng Thị Nại, đồng thời giúp cho mọi người hiểu rõ hơn về vai trò và
giá trị của thương cảng này trong quá khứ, để đưa ra những chính sách phù hợp,
phát huy các thế mạnh của Thị Nại trong hiện tại và tương lai góp phần vào sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
6. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
gồm ba chương:
Chương 1: Quá trình hình thành thương cảng Thị Nại
Chương 2: Thương cảng Thị Nại từ thế kỷ X đến thế kỷ XV
Chương 3: Đặc điểm và vai trò của thương cảng Thị Nại từ thế kỷ X đến
thế kỷ XV

5


NỘI DUNG

Chương 1
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH THƯƠNG CẢNG THỊ NẠI
1.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH THƯƠNG CẢNG THỊ NẠI
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
1.1.1.1. Vị trí địa lí
Nằm ở vị trí án ngữ trên tuyến đường giao thông hàng hải khu vực, Thị
Nại - mảnh đất “hội nhân, hội thủy, hội thuyền” có vị trí thuận lợi để phát triển
thành một thương cảng sầm uất nhất Champa.
Thương cảng Thị Nại nằm trên hạ lưu sông Côn, nơi tiếp giáp với biển
Đông được xem như một trung tâm kinh tế lớn của tiểu quốc Vijaya cũng như
toàn thể vương quốc Champa.
Thương cảng Thị Nại nằm ở vị trí trung tâm của một hệ tiểu cảng ven bờnơi diễn ra các hoạt động nhộn nhịp của các đoàn thuyền buôn, cũng như là nơi
đặt trị sở kiểm soát của chính thể Vijaya. Chính bởi vai trò và vị trí của mình

mà thương cảng Thị Nại được ghi chép khá nhiều trong thư tịch cổ của cả Đại
Việt và Trung Hoa.
Kinh thế đại điển tự lục đã chép về cảng Thị Nại: “Cửa cảng phía Bắc
liền với biển, bên cạnh có 5 cảng nhỏ thông với Đại Châu của nước ấy, phía
Đông Nam có núi ngăn, phía Tây có thành gỗ” [13, tr.145]
Theo công trình biên niên của Quốc sử quán triều Nguyễn- Đại Nam nhất
thống chí thì vịnh Thị Nại (hay tấn Thị Nại) “Ở phía Đông huyện Tuy Phước,
rộng 197 trượng, thủy triều lên sâu 4 trượng 7 thước, thủy triều xuống sâu 4
trượng 4 thước, thủ sở ở địa phận thôn Bình Chính, có bảo đất, chu vi 48 trượng
4 thước, cao 6 thước, mở một cửa. Về phía Đông cửa biển, có pháo đài Hổ Ky,
chu vi 27 trượng, mở một cửa, có một kỳ đài và 12 lỗ sung…” [14, tr. 39-40].
6


Như vậy, ta có thể thấy Thị Nại có vị trí tương đối khúc khuỷu. Phía
Đông Nam có dãy núi Phương Mai kéo dài, phía Bắc là biển với đường bờ biển
khúc khuỷu, có nhiều cửa sông tạo thành vịnh kín gió thuận lợi cho tàu thuyền
tránh gió, hình thành thương cảng. Đây là đặc điểm thuận lợi chung để hình
thành các thương cảng Đàng Trong. Hơn nữa, sự hiện diện của bán đảo Phương
Mai chạy dài gần 20 km song song với bờ biển của Vijaya đã trở thành một tấm
bình phong chắn gió cho tàu thuyền lưu thông trong vùng biển Thị Nại, đặc biệt,
tàu thuyền có thể ra vào từ cả cửa biển phía Bắc cũng như cửa biển phía Nam
(cửa Quy Nhơn ngày nay). Nhận định này càng trở nên chắc chắn bởi cho đến
cuối thế kỷ XVII, Giáp Ngọ Niên Bình Nam Đồ khi vẽ về Nước Mặn Hải Môn
của phủ Quy Ninh vẫn cho thấy rõ sự chia tách giữa bán đảo Phương Mai với
đất liền. Cảng Thị Nại là cửa ngõ tiến ra biển của toàn bộ vùng cao nguyên trù
phú phía Tây. Với ý nghĩa này, thương cảng Thị Nại có thể được xem là một
điểm kết nối giữa biển và lục địa.
Thương cảng Thị Nại nằm ở vị trí tiếp giáp giữa đất liền với cửa sông ven
biển tạo điều kiện cho cư dân nơi đây phát triển hoạt động hướng sông, hướng

biển từ rất sớm. Sự hình thành và phát triển của vùng cửa sông Côn chịu ảnh
hưởng rất lớn tới các điều kiện của biển lẫn lục địa.
Cùng với cảng Thị Nại thì thành Thị Nại cũng được xây dựng. Dựa trên
các khảo sát điền dã, thì hiện dấu vết của tòa thành này vẫn còn được lưu giữ tại
hạ lưu sông Côn, gần với địa điểm tọa lạc của Tháp cổ Bình Lâm. Sự hiện diện
của thành Thị Nại cùng với tháp cổ Bình Lâm tại vùng hạ lưu sông Côn, tiếp
giáp với phía Bắc của vịnh Thị Nại ngày nay cũng gợi cho chúng ta nhận thức
cơ bản về vị trí cổ xưa của thương cảng Thị Nại. Xét theo địa hình duyên hải
Bình Định ngày nay thì vịnh Thị Nại chỉ có một cửa thoát ra biển ở cửa Quy
Nhơn. Tất cả thuyền bè muốn lưu thông ra vào vịnh Thị Nại đều phải đi qua cửa
biển này.
Căn cứ vào tài liệu lịch sử, địa lý và điền dã khảo cổ học, có thể khẳng
định rằng Thị Nại là một thương cảng rộng lớn, đủ sức để chứa đựng nhiều
7


nguồn hàng ở nội địa cũng như ở bên ngoài lưu thông, là nơi dừng chân của
nhiều thương nhân, tàu buôn lớn của nước ngoài.
Việc xác định một vị trí chính xác tuyệt đối của thương cảng Thị Nại thời
Vijaya là tương đối khó khăn. Chúng ta chỉ có thể dựa trên những bằng chứng
lịch sử cùng với khảo sát địa chất- sinh thái của khu vực biển Quy Nhơn trong
khi chờ đợi kết quả khai quật khảo cổ học tại vùng vịnh Thị Nại- Quy Nhơn.
Cùng với sự đổi dòng của các nhánh sông Côn, cũng như là các biến đổi về địa
hình (đặc biệt là sự bồi lấp của cửa biển phía Bắc, dần dần nối liền đất liền với
dãy núi/ đảo Phương Mai ở phía Đông) thì vị trí của thương cảng Thị Nại cũng
đã có những sự thay đổi cho phù hợp. Bên cạnh đó, xét trong một cái nhìn đối
sánh đồng đại với sự vận hành của các thương cảng khác trong khu vực Đông
Nam Á như Vân Đồn ở phía Bắc của Đại Việt hay Palembang Srivijaya ở
Sumatra, cũng như thông qua việc khảo sát địa hình, địa mạo của vùng vịnh Thị
Nại, có thể nhận xét rằng: Thương cảng Thị Nại nằm ở trung tâm của một hệ

tiểu cảng ven bờ.
Với vị trí địa lý như vậy, Thị Nại nhanh chóng trở thành một nơi có điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội. Sự ra đời và phát
triển thịnh vượng của thương cảng Thị Nại đã mang đến sự ổn định, vững mạnh
cho chính thể Vijaya.
1.1.1.2. Sông ngòi
Nằm ở vị trí tiếp giáp của đất liền và sông biển, Thị Nại nhờ các con sông
bắt nguồn từ Trường Sơn và cao nguyên phía tây đổ ra biển Đông tạo nên cửa
khẩu và thương cảng. Nơi đây sớm hình thành nhiều làng mạc và trung tâm
thương nghiệp.
Đầu tiên, khi nhắc đến chính thể Vijaya cũng như thương cảng Thị Nại
không thể không nhắc đến vai trò của dòng sông Côn. Sông Côn là dòng sông
dài nhất của vùng Vijaya, và hầu hết các trung tâm kinh tế, chính trị, tôn giáo
quân sự đều nằm trải dọc theo dòng sông này. Sông Côn có thể được xem là
một trục chính của một mạng lưới trao đổi ven sông của nagara Vijaya. Sông
8


Côn trở thành con đường vận chuyển hàng hóa từ các vùng trong vương quốc
Champa tới thương cảng Thị Nại, mà đặc biệt là từ Tây Nguyên. Sông Côn
không chỉ vận chuyển hàng hóa mà còn có vai trò chuyển tải văn hóa giữa các
vùng trong vương quốc.
Sông Côn còn có vai trò địa chính trị đối với vương quốc Champa. Sông
Côn được dùng làm hào khi có giặc phương Bắc tấn công xuống, ngăn chặn sự
tấn công xâm lược của chúng, bảo vệ Thị Nại, giúp cho Thị Nại thực hiện chức
năng là quân cảng của mình, giữ vững kinh đô Vijaya.
Dòng sông Côn còn có vai trò quan trọng để gây dựng nên một đồng
bằng Bình Định trù phú. Hằng năm, sông Côn cung cấp một lượng lớn phù sa
và nước cho vùng đồng bằng này. Sự trù phú, màu mỡ của nơi đây khiến cho
vùng đồng bằng Bình Định trở thành hậu phương lương thực cho cảng thị và

cho chính thể Vijaya. Đây là một trong những nguyên nhân giúp cho chính thể
Vijaya hùng mạnh, bền vững.
Bên cạnh đó, trong không gian duyên hải với điểm nhấn là cảng Thị Nại
còn có một hệ thống thủy lộ, cửa biển và các hệ đảo ven bờ. Đó là hòn Thanh
Châu “ở thôn Chính Thành, phía nam huyện, tục gọi là núi Cù Lao, là trấn sơn
của cửa biển Thị Nại” [14, tr.30], là Ghềnh Hổ “ở phía ngoài cửa biển Thị Nại,
phía Đông huyện Tuy Phước” [14, tr.30]. Các dòng sông từ thượng nguồn đổ về
của biển Thi Nại có sông Tam Huyện “ở địa phận ba huyện Tuy Viễn, Tuy
Phước và Phù Cát nên gọi tên thế” [14, tr.32-33], chia làm 4 dòng, đều đổ vào
đầm Biển Cạn và chảy xuống cửa biển Thi Nại. Bên cạnh đó có đầm Biển Cạn
“ở phía Đông huyện Tuy Phước, chu vi hơn 9.500 trượng, nước đầm đổ vào cửa
biển Thị Nại, trong đầm có núi nhỏ, tục gọi là tháp Thầy Bói, phía tả là Ghềnh
Hồ, phía hữu là Bãi Nhạn” [14, tr.35].
Với một mạng lưới sông ngòi dày đặc như vậy đã tạo điều kiện thuận lợi
cho các tài nguyên, sản vật của Champa tham dự vào hệ thống thương mại khu
vực và thế giới, góp phần tăng cường vai trò trung tâm liên vùng của thương
cảng Thị Nại.
9


1.1.3. Khí hậu
Cũng như các vùng khác trong cả nước, Bình Định nằm trong khu vực
khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa. Mùa đông khu vực này chịu ảnh hưởng của gió
mùa Đông Bắc, mùa hè chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam. Hoạt động của
gió mùa tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi và về của các đoàn thuyền buôn.
Hoạt động này chỉ diễn ra vào một khoảng thời gian nhất định từ 3 đến 4
tháng gọi là “mùa mậu dịch”. Các thương thuyền từ Đông Bắc Á đến Thị Nại đi
theo gió mùa Đông Bắc bắt đầu thổi từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Đến
tháng 6 tháng 7, gió mùa Đông Nam lại thổi ngược lên phía Bắc. Theo hướng
gió, thuyền buôn Trung Hoa, Ấn Độ,.. lại dong thuyền về nước.

Bình Định có hai mùa rõ rệt là mùa khô và mùa mưa. Mùa mưa bắt đầu
từ tháng 9 đến tháng 12. Riêng đối với khu vực miền núi có thêm một mùa mưa
phụ từ tháng 5 đến tháng 8 do ảnh hưởng của mùa mưa Tây Nguyên. Mùa khô
kéo dài từ tháng 1 đến tháng 8. Do khí hậu ở đây khô hạn và mưa kéo dài nên
các thương thuyền nước ngoài phải thường xuyên dừng chân tại những thương
cảng dọc miền Trung trên lãnh thổ đất Bình Định để tránh mưa to, gió lớn hay
lấy nước ngọt, lương thực và trao đổi hàng hóa. Điều này càng đẩy mạnh vai trò
của các thương cảng trong hoạt động kinh tế thương mại ở vùng đất này. Thêm
nữa, ở Thị Nại cho đến trước Tết Âm lịch thời tiết vẫn khô ráo thuận lợi cho
việc thu gom, vận chuyển, bốc dỡ hàng hoá.
Độ ẩm tuyệt đối tại khu vực miền núi là 22,5 - 27,9% và độ ẩm tương đối
79-92%; tại vùng duyên hải độ ẩm tuyệt đối trung bình là 27,9% và độ ẩm
tương đối trung bình là 79%.
Chế độ mưa: Đối với các huyện miền núi tổng lượng mưa trung bình năm
2.000 - 2.400 mm. Đối với vùng duyên hải tổng lượng mưa trung bình năm là
1.751 mm. Tổng lượng mưa trung bình có xu thế giảm dần từ miền núi xuống
duyên hải và có xu thế giảm dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam.
Vậy là ngay từ những buổi đầu sơ khởi vùng Thị Nại đã có những tiền đề
thuận lợi của một thương cảng thời trung cổ phát triển một hệ thống giao
10


thương đa chiều nhờ vào hệ thống sông, vị trí sát biển và khí hậu phân hai mùa
rõ rệt. Những điều kiện sơ khởi trên hứa hẹn những nhân tố quan trọng tạo tiền
đề cho sự phát triển của Thị Nại về sau.
1.2. Điều kiện kinh tế- xã hội
1.2.1. Điều kiện kinh tế
• Tiềm năng kinh tế của vùng đất Bình Định
Địa hình lãnh thổ cổ xưa của mandala Champa được nhìn nhận như là một
trong những vùng đất bị chia cắt bởi các đèo, dốc và núi ven biển. Các vùng đồng

bằng nhỏ hẹp nằm ở châu thổ của những con sông ngắn, có độ đốc cao bắt nguồn
từ dãy Trường Sơn đổ ra biển, cộng thêm khí hậu nóng ẩm đã đưa tới nhận định
cho rằng kinh tế nông nghiệp của Champa là kém phát triển.
Tuy nhiên, không phải tất cả các đồng bằng ven biển đó đều là những
vùng đồng bằng kém phì nhiêu, không thuận lợi cho việc phát triển một nền
nông nghiệp bền vững. Các đồng bằng châu thổ sông Thu Bồn (thuộc tiểu quốc
Amaravati - vùng Quảng Nam ngày nay), hay đồng bằng châu thổ sông Côn
(thuộc tiểu quốc Vijaya- vùng Bình Định ngày nay) được ghi nhận như những
vùng đồng bằng trù phú. Các vùng đồng bằng châu thổ rộng lớn này đã tạo nên
nền tảng cho sự phát triển một nền kinh tế nông nghiệp mang lại các nguồn thu
ổn định và bền vững cho các tiểu quốc Amaravati và Vijaya.
Theo Đại Nam nhất thống chí thì đồng bằng lưu vực sông Côn “ruộng đất
màu mỡ, rộng rãi, xưa gọi là “Tiểu nông trại”, nhân dân đông, phẩm vật nhiều,
thuyền xe tụ tập, buôn bán đông vui, trong ngoài sông núi bao vây, đánh hay giữ
hai đường đều tiện, thật là đất xung yếu ở Tả kỳ vậy” [14, tr.11- 12]
Với đất đai màu mỡ do phù sa bồi đắp hàng năm, trên các đồng bằng
châu thổ ấy, các cư dân Champa đã tiến hành canh tác nông nghiệp. Nghề trồng
lúa vốn là sinh hoạt chính của họ và cây lúa là cây trồng quan trọng nhất của
người Chăm. Điều này được thể hiện qua các văn bia có nội dung liên quan đến
việc dâng hiến hoa màu cho các đền tháp.

11


Trong bối cảnh đặc trưng của một vùng khô, người Chăm đã có những
sáng tạo riêng của mình để thích ứng, duy trì và phát triển. Theo Thủy kinh chú,
người Chiêm Thành biết trồng lúa trên hai loại ruộng là xích điền và bạch điền.
Nhiều giống lúa Chiêm Thành nổi tiếng đã được đưa tới miền Đông Nam Trung
Quốc vào đầu thế kỷ XI là những giống lúa nhanh chín, có thể chịu được cả khô
hạn và ngập nước. Ở phía Bắc Việt Nam bây giờ trong dân gian vẫn còn nhắc

đến 35 giống lúa cấy về mùa nắng được gọi là lúa Chiêm, trong đó có hai thứ
rất quen thuộc với người nông dân là chiêm hẩm và chiêm dự. Những ghi chép
của Wang Dayuan - người được coi là đã đi hết các hải quốc ở Nam Hải vào thế
kỷ XIV cho rằng: những cánh đồng (lúa của Champa) thuộc loại thượng đẳng
và trung đẳng thích hợp cho việc trồng trọt.
Hơn thế, người Chăm là những người rất thạo trong việc làm thủy lợi,
dẫn nước vào các ruộng cao bằng hệ thống guồng nước, hay xây đắp hệ thống
đập nước để trữ nước cho nông nghiệp. Bia Lomngơ đã cho biết việc làm đập
nước, đào kênh của người Chăm.
Ở khu vực làng Phú Phong, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định vẫn còn dấu
vết của một hệ thống thủy lợi của người Chăm. Đó cũng là một hệ thống đập
bổi có kè đá. Theo tài liệu địa phương thì địa điểm xây đập phải đảm bảo độ dốc
của dòng chảy tại nơi nó bị chặn lại để đủ một lượng nước đưa vào hệ thống
mương dẫn tới từng cánh đồng. Mặt khác lòng sông suối nơi xây đập phải có
loại đá tảng để làm cửa mương tránh bị xói mòn.
Miền Trung vốn là vùng đất khô hạn, chính vì vậy, người Chăm đã biết
khai thác nguồn nước ngầm để sinh hoạt và tưới tiêu bằng cách đào giếng. Theo
các nhà nghiên cứu, đào giếng là loại hình sinh hoạt văn hóa xuất hiện sớm ở
miền Trung Việt Nam và những khảo sát điền dã, khảo cổ học dọc theo ven biển
duyên hải và hải đảo đã phát hiện một loạt hệ thống giếng Chăm cổ. Các giếng
này phổ biến loại hình giếng hình vuông làm nguồn nước công cộng cho cư dân
như giếng ở vùng Ninh Phước, Phan Rang, Bình Định ngày nay và trở thành
mặt hàng có chức năng xuất khẩu.
12


Champa là đất nước tranh thủ xuất khẩu đủ mọi thứ, từ nước giếng đến
trầm hương, mã não, duy chỉ một món hàng cấm xuất khẩu vì thiếu, đó là lúa
gạo.
Ngoài cây lúa là cây trồng chính, người Bình Định còn biết trồng các

loại cây ăn quả (cây chuối, cây dừa…), các loại cây màu (cây mè, cây đậu,
khoai lang…), cây công nghiệp, đặc biệt là hồ tiêu. Hồ tiêu Chàm cũng là mặt
hàng xuất khẩu được ưa chuộng nhất khi thế giới Tây Á và châu Âu săn tìm các
đồ gia vị.
Nhiều nhà nghiên cứu cổ điển đã nói đến sự tồn tại và phát triển của kinh
tế nông nghiệp ở Champa. Dựa trên nguồn tư liệu thư tịch cổ Trung Hoa về sản
phẩm nông nghiệp của Champa, G.Maspero đã viết: Champa có ít đồng bằng,
đất trồng trọt thì hiếm, ít lúa nhưng nhiều rau đậu, trồng nhiều cây ăn quả, trồng
dâu nuôi tằm và trồng bông.
Champa là một chính thể trọng nông. Sự hình thành và phát triển của các
chính thể này trên các đồng bằng châu thổ sông rộng lớn và trù phú đã cung cấp
một nguồn thu ổn định và bền vững.
Xét trong bối cảnh chung của khu vực Đông Nam Á cổ xưa, việc tự cung
cấp lúa gạo có thể được coi như là một nhân tố nội tại quan trọng để duy trì sự
phát triển và thịnh vượng của một cộng đồng cư dân, hay rộng lớn hơn là của cả
một mandala. Đặc biệt, với các cảng thị, các thương nhân quốc tế trong quá
trình giao thương thường ở lại Đông Nam Á một thời gian dài để đợi gió mùa,
bởi vậy một cảng thị có nguồn cung cấp hoa lợi nông nghiệp được coi là thiết
yếu đối với thành công của chúng. Sự phồn vinh trong một thời gian dài của
mandala Phù Nam ở Đông Nam Á là được cho là có sự đóng góp quan trọng
của năng suất nông nghiệp cao và ổn định ở châu thổ sông Mêkông, dẫn tới sự
vượt trội của Phù Nam so với các tiểu quốc khác đương thời. Nagara Vijaya và
thương cảng Thị Nại, với bệ đỡ về lương thực đã cung cấp một cách ổn định từ
vùng châu thổ sông Côn chắc chắn là một tiền đề quan trọng và thiết yếu cho sự
phát triển của tiểu quốc này, cũng như tiền đề cho sự vượt trội và chiếm ưu thế
13


của Vijaya trước sự cạnh tranh của các tiểu quốc láng giềng khác. Khác với bối
cảnh chung của Champa là một vùng đất khô cằn và không thuận lợi cho việc

phát triển nông nghiệp, đồng bằng Bình Định với sự trù phú của mình đã tạo
nên sự khác biệt lớn và ưu thế quan trọng của Vijaya đối với các tiểu vùng khác
của mandala Champa.
Dựa trên nền tảng của một cộng đồng cư dân nông nghiệp ổn định, các
trung tâm thủ công nghiệp đã ra đời và phát triển trong không gian đồng bằng
thuộc vùng châu thổ sông Côn như trung tâm thủ công nghiệp gốm sứ, trung
tâm thủ công nghiệp dệt,... mà điển hình nhất là trung tâm gốm sứ Gò Sành ở
Bình Định. Một hệ thống các lò gốm Gò Sành được phát hiện đã minh chứng
cho sự hoạt động và phồn vinh của nghề thủ công sản xuất gốm mang đặc trưng
của tiểu quốc Vijaya. Sự hiện diện dày đặc của các trung tâm sản xuất gốm Gò
Sành ở lưu vực sông Côn có thể dẫn chúng ta tới nhận định rằng nghề sản xuất
gốm của Vijaya xưa đã ở một trình độ phát triển cao cả về quy mô và chất
lượng với một lượng lớn thợ thủ công chuyên nghiệp. Qua tìm hiểu, nghiên cứu
cho thấy những khu lò này chuyên sản xuất những sản phẩm gốm gia dụng
tráng men và còn sản xuất cả những sản phẩm gốm trang trí kiến trúc phục vụ
cho nhu cầu xây dựng các cung điện của Hoàng gia và các công trình tín
ngưỡng tôn giáo. Trung tâm thủ công nghiệp gốm Gò Sành ngoài việc sản xuất
các sản phẩm phục vụ cho nhu cầu tiêu thụ trong nước, còn trở thành một mặt
hàng quan trọng của Champa cùng với các sản phẩm lâm sản đặc trưng khác
tham gia vào thị trường trao đổi khu vực và thế giới, trong đó nhiều nhất là thị
trường Đông Nam Á. Sự bắt đầu và phát triển của các lò gốm Gò Sành ở vùng
Bình Định nằm trong xu thế phát triển chung của các lò gốm ở Đông Nam Á
trước sự đóng cửa của nhà Minh đã chứng tỏ chính thể Vijaya đã rất năng động
trong việc nắm bắt thị trường quốc tế và chủ động dấn thân vào mạng lưới giao
thương quốc tế, đặc biệt là mạng lưới trao đổi gốm sứ trên biển.
Bên cạnh nghề làm gốm, nghề luyện kim, chế tác vàng bạc, các loại trang
sức quý và đồ kim khí cũng rất phổ biến. Nhiều kiểu trang sức đẹp bằng vàng
14



ngọc được chạm trổ cầu kỳ trên nhiều pho tượng cũng như nhiều bộ trang sức
bằng kim loại quý là đồ tế nhuyễn đã được tìm thấy ở hầu hết tại các di tích đền
tháp. Bên cạnh đó, đạo quân đông hàng vạn binh sĩ với những cuộc chiến tranh
liên miên đã có nhu cầu rất lớn về vũ khí. Tất cả những sản phẩm này đều có
hình dáng đẹp, được gia công khéo léo, chạm trổ nhiều hình hoa lá rất tỉ mỉ, nói
lên trình độ nghề nghiệp tinh xảo của thợ Chăm trước kia.
Các sản phẩm thủ công nghiệp không những là mặt hàng trao đổi buôn
bán mà nó còn trở thành mặt hàng quan trọng dùng để tiến cống mà đặc biệt là
sản phẩm vải bông. Theo Lương sử, vào thế kỷ VI, bông được sản xuất ra ở
Lâm Ấp. Ở Lâm Ấp, bông được đem xe thành chỉ để dệt thành vải trắng hoặc
nhuộm thành năm màu để dệt vải màu. Vải được chọn là mặt hàng dùng để tiến
cống các đế quốc phương Bắc. Vua của Lâm Ấp tiến cống vải cho nhà Đường
vào năm 630 và các vua Chiêm Thành thì dâng cống nhiều loại vải bông cho
nhà Tống vào những năm 966, 962.
Đối với những cư dân miền thượng thì hoạt động khai thác lâm thổ sản là
hoạt động kinh tế chủ yếu. Bình Định là vùng đất có nguồn lâm thổ sản phong
phú, giàu có và quý hiếm. Bình Định cũng giống như các vùng đất khác của
Champa luôn nổi tiếng là xứ sở của trầm hương. Trầm hương của Nhật Nam đã
được người Trung Quốc biết đến rất sớm từ khoảng thế kỷ III sau Công nguyên
và luôn được ghi chép là cống vật của Champa. Sau thế kỷ IX, các nhà địa lí
Hồi giáo mà người đầu tiên là Ibun Khordadzbeh, cũng nói tới trầm hương của
nước Champa. Tome Pires còn nói rằng trong các mặt hàng xuất khẩu của
Champa, quan trọng nhất là trầm hương. Đây là loại trầm hương thực sự, là loại
trầm hương tốt nhất trong các loại trầm hương.
Ngoài trầm hương, Bình Định còn có nhiều mặt hàng lâm sản khác như
vàng, các loại gỗ thơm, ngà voi, sừng tê, yến sào,....
Các cộng đồng cư dân ở vùng thượng nguyên ấy lấy những sản phẩm
khai thác được từ núi rừng để trao đổi với bên ngoài làm hoạt động kinh tế
chính của mình. Theo Phan Huy Chú đã chép về phủ Hoài Nhân trong cuốn
15



Lịch triều hiến chương loạn chí cho biết: “Của cải trong một phủ, có phần đầy
đủ, cùng với phủ Tư Nghĩa, phủ Thăng Hoa, đều gọi là hạt giàu có. Sản vật có
nhiều, như: Trầm hương, tốc hương, sừng tê, vàng, bạc, đồi mồi, châu báu, sáp
ong, đường, mật, dầu, sơn, cau tươi, hồ tiêu, cá, muối và các thứ gỗ đều rất tốt;
thóc lúa không biết bao nhiêu mà kể. Ngựa sinh ra ở trong núi, có từng đàn đến
trăm nghìn con” [1, tr. 30].
Các cư dân Bình Định sống ven biển rất quan tâm đến việc khai thác các
nguồn hải sản. Không gian duyên hải là địa bàn sinh sống của cộng đồng các cư
dân ven biển lấy hoạt động khai thác và trao đổi kinh tế biển làm động lực phát
triển chính. Những sản phẩm có từ biển không chỉ cung cấp cho cư dân vùng
duyên hải mà còn là nguồn lương thực quan trọng cung cấp cho cư dân đồng
bằng. Những sản phẩm đặc trưng của hệ sinh thái ven biển như các loại thủy hải
sản (đồi mồi, ngọc trai, vây cá...) được bán sang Trung Hoa, Ấn Độ,... hay sản
xuất muối biển trên các cánh đồng muối lớn ven biển mà ngày nay vẫn tiếp tục
được khai thác; chế biến các loại mắm, các loại hải sản phơi khô như cá, tôm,
tép, mực... cung cấp cho thương nhân dùng để trao đổi nguồn hàng lâm thổ sản
với cư dân miền núi. Nổi bật lên trong vùng duyên hải ấy là hoạt động và vai trò
của thương cảng Thị Nại và một hệ tiểu cảng ven bờ.
Với tiềm năng kinh tế, cùng với khả năng và óc sáng tạo của mình, người
dân Bình Định đã nhạy bén trong cuộc sống đưa nguồn lợi ấy phát triển trong
kinh tế nội thương và ngoại thương.
• Truyền thống thương mại
Hơn hai ngàn năm trước, mảnh đất này đã tồn tại và phát triển nền văn
hóa Sa Huỳnh. Điều này được chứng minh qua kết quả nghiên cứu khảo cổ học
trên vùng đất Bình Định với những hiện vật tìm được như nhiều loại hình mộ
chum đặc trưng, với những công cụ sản xuất, công cụ sinh hoạt, đồ trang sức
tuyệt xảo bằng đá, gốm, thủy tinh, kim loại… được lấy lên từ lòng đất đã khẳng
định sự phát triển rực rỡ của nền văn hóa Sa Huỳnh.


16


Kế tiếp dân cư Sa Huỳnh là dân cư Champa với nền văn hoá Champa rực
rỡ, mở đầu thời kì vàng son cho một cảng thị hưng thịnh.
Nền kinh tế của vương quốc Champa ngoài nền tảng nông nghiệp và ngư
nghiệp, phần lớn tập trung vào thương mại duyên hải với Arập, Trung Hoa và
các quốc gia khác ở Đông Nam Á.
Bờ biển miền Trung Việt Nam là nơi cập bến, “ghé chân” bắt buộc của
mọi tàu thuyền trên đường Đông- Tây, từ Ấn Độ đến Trung Quốc và ngược lại,
bởi ngoài khơi biển Đông nhiều giông bão và nhiều bãi san hô đá ngầm nên đi
men bờ hay gần bờ có thể tránh được cả hai mối nguy hiểm đó. Kinh nghiệm
nhiều năm của các thủy thủ đã truyền lại cho nhau điều đó. Hơn nữa, các hải
thuyền đi dài ngày cũng cần mua nước ngọt và lương thực. Lãnh thổ Champa
xưa, miền Trung Việt Nam ngày nay chính là nguồn cung cấp hàng hóa cho
nhiều tàu thuyền, nhiều thị trường mà gần gũi nhất là thị trường Trung Hoa. Từ
đây, Trung Hoa có thể nhập cảng nhiều loại xa xỉ phẩm như ngà voi, sừng tê,
quế, trầm hương và hương liệu…. Đồng thời các cảng trung chuyển hàng hóa ở
vùng duyên hải cung cấp chỗ neo đậu an toàn, nước ngọt và củi gỗ cho các tàu
đi dọc bờ biển từ Nam Á lên Đông Á. Do vậy, vương quốc Champa đã cung
ứng những thương nhân trung gian quan trọng có ảnh hưởng hầu hết đến hoạt
động thương mại trong vùng biển phía Nam.
Từ thế kỷ VII đến thế kỷ X, Champa đã trải qua một thời kỳ phát triển
quan trọng, trong đó, các cảng biển của Champa đã dần trở nên quen thuộc đối
với các thương thuyền trên tuyến hải thương khu vực như Cù Lao Chàm, Cửa
Đại Chiêm,... cùng với những tượng đá, giếng gạch và dấu vết nền tháp, các
hiện vật gốm sứ Champa, Ả Rập, Trung Quốc, các đồ trang sức từ Trung Đông,
Ấn Độ và nhiều tài liệu, thư tịch cổ Trung Quốc… đã xác nhận Cù Lao Chàm
xưa kia là hải cảng chính của nước Champa. Cù Lao Chàm là địa điểm lý tưởng

để trao đổi hàng hoá, tích trữ lương thảo, nước ngọt, nghỉ ngơi, sửa chữa tàu
trong chuyến đi dài ngày trước khi giong buồm đến Trung Quốc và Nhật Bản.
Thời điểm đó, các tuyến hàng buôn của Tây Á cũng phát triển mạnh về phía
17


Đông, tuyến đường buôn bán tơ lụa và gốm sứ và hương liệu quý xuất hiện. Các
tàu buôn hành trình đến Trung Quốc sẽ không thể bỏ qua Cù Lao Chàm của
Champa lúc bấy giờ vốn đang cực thịnh và là nguồn hàng khai thác không bao
giờ vơi, đặc biệt là vàng. Vàng đã được các thương nhân Tây Á mua rất nhiều
từ Champa (với nguồn khổng lồ lấy từ Butan. Điều này cho thấy Cù Lao Chàm
đóng vai trò to lớn trong quan hệ hàng hải Quốc tế và khu vực.
Tuy nhiên, từ thế kỷ X, thương cảng Cù Lao Chàm đã đánh mất vị thế là
thương cảng số 1 của Champa và Thị Nại đã nổi lên như một trong những
thương cảng chính trên bờ biển Champa.
Để Thị Nại có thể tồn tại như một thương cảng chính của Champa, những
người đứng đầu vương triều Vijaya đã có những cố gắng lớn trong việc thiết lập
một mạng lưới các cảng biển phụ trợ, đóng vai trò như những điểm thu gom
hàng hóa từ các vùng, tiểu quốc khác và sau đó được chuyển về thương cảng
Thị Nại. Từ đây, hàng hóa được trao đổi, buôn bán cho các thương nhân ngoại
quốc. Các vị vua của vương triều Vijaya đã nhận thức rõ về tầm quan trọng của
việc chiếm cứ các thương cảng khác ở phía Bắc và ở phía Nam, ít nhất để khẳng
định vị thế của mình nhằm chống lại sự đe dọa vị thế của thương cảng Thi Nại
từ các thương cảng khác ven bờ. Một ví dụ điển hình là sự kiện được ghi rõ
trong bia ký Champa năm 1050, Jaya Parames varavarman đã cho một đoàn
quân lớn chiếm đóng vùng Pamduranga ở phía Nam của Vijaya.
Khảo cổ học đã tìm thấy rất nhiều đồ gốm sứ Trung Quốc, gốm sứ nội địa
tức nhóm gốm Chăm và một số hiện vật có nguồn gốc Trung Đông, không chỉ
vậy nơi đây còn phát hiện rất nhiều hiện vật như trang sức, đồ gốm, đồ sứ có nét
giống với đồ vật trang sức cổ xưa của các nước trên thế giới tiêu biểu là Trung

Quốc và Ấn Độ cùng một số quốc gia ở Đông Nam Á. Điều này chứng tỏ từ rất
xa xưa cư dân nơi đây không chỉ biết giao lưu, trao đổi, mua bán hàng hoá, phát
triển kinh tế mà họ còn giao lưu, trao đổi cả những kỹ thuật, văn hoá và cả tôn
giáo… Tất cả xác định một điều chính xác rằng nơi đây từng có nhiều người

18


nước ngoài đến, nó khẳng định hơn nghi nghờ của chúng ta về thương cảng Thị
Nại từng là điểm giao thương của nhiều thương nhân nước ngoài.
Hoạt động kinh tế của thương cảng Thị Nại cũng phát triển mạnh để đáp
ứng những yêu cầu của khách nước ngoài. Mặt khác, thương cảng Thi Nại còn
nắm giữ vị trí trung tâm trao đổi buôn bán với các địa phương ở khu vực Bình
Định. Tại đây hình thành những khu phố buôn bán sầm uất với lượng hàng hoá
nhiều vô kể. Khi trở thành vùng đất của Đại Việt, vùng đất ấy vẫn không ngừng
phát huy truyền thống và tiềm năng thuận lợi vốn có của mình trong hoạt động
buôn bán hàng hải khu vực và Quốc tế.


Những yếu tố mới của thương mại khu vực và thế giới

Thời kỳ này, lịch sử thương mại Champa cũng như thương mại Đông
Nam Á và thế giới chịu ảnh hưởng của ba nhân tố chính.
Nhân tố đầu tiên là các chính sách khuyến thương ở Trung Quốc.
Sự thống nhất của Trung Hoa dưới triều đại Tống (960- 1279) và các
chính sách được thực thi sau đó của các vương triều Tống đã có những tác động
sâu sắc tới hệ thống hải thương châu Á. Triều đại Tống được thừa nhận rộng rãi
như một trong những vương triều thành công nhất của Trung Hoa trong việc
thúc đẩy cũng như kiểm soát các hoạt động ngoại thương. Geoff Wade cho
rằng, sự tồn tại của các triều đại Bắc và Nam Tống từ năm 960 đến 1279 đã tạo

nên một thời kỳ phát triển thương mại và thủ công nghiệp mạnh mẽ ở Trung
Quốc, lớn đến mức những thay đổi diễn ra trong giai đoạn này được xem như
“cuộc cách mạng trung đại”. Một số chính sách đã được ban hành nhằm kiểm
soát và thúc đẩy sự phát triển của các cảng thị miền Nam Trung Hoa, đặc biệt là
các cảng ở Quảng Châu. Các vua nhà Tống cũng ban hành các chính sách
khuyến khích thương nhân ngoại quốc đến và thực hiện công việc trao đổi buôn
bán ở nhiều cảng thị Nam Trung Hoa. Một ví dụ điển hình là năm 987, triều
đình Trung Hoa đã cử bốn phái bộ ngoại giao mang theo quốc thư để khuyến
khích các thương nhân ngoại quốc vùng Nam Dương đến và buôn bán tại các
cảng thị Nam Trung Quốc.
19


Triều đình nhà Tống cũng khuyến khích các nước láng giềng phương
Nam gửi các phái bộ ngoại giao và triều cống tới Trung Hoa. Thông qua việc
đó, triều đình Trung Hoa nhận được những nguồn thu lớn qua các hàng hóa
cống phẩm được gửi tới, cũng như khẳng định vị thế của mình với các nước
láng giềng. Đồng thời, hệ thống triều cống cũng mang lại những lợi ích thiết
thực và quan trọng cho các phái bộ triều cống của các nước về mặt kinh tế và
chính trị. Champa cũng không nằm ngoài hệ thống này. Các sản phẩm của
Champa về nông sản, lâm thổ sản đều được các phái bộ ngoại giao mang sang
Trung Hoa thực hiện công việc triều cống. Từ đây, các mặt hàng của Champa
được người Trung Quốc và nhiều nước khác biết đến. Điều này thúc đẩy mạnh
mẽ hơn quá trình Champa dự nhập vào mạng lưới thương mại khu vực và Quốc
tế.
Vào đầu thế kỷ XIII, thương cảng Quảng Châu, cảng thị quan trọng nhất
ở miền Nam Trung Hoa bước vào giai đoạn khủng hoảng. Sự khủng hoảng này
là kết quả của một quá trình xung đột và chuyển giao giữa triều Nam Tống và
nhà Nguyên. Hệ quả là, hầu hết các thương nhân ngoại quốc đã rời khỏi các
cảng ven biển Nam Trung Quốc để tới các trung tâm buôn bán khác. Sau khi

kiểm soát được toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc, triều Nguyên bắt đầu thiết lập
quyền lực của mình ở vùng duyên hải Nam Trung Quốc, thiết lập một số lượng
lớn các cơ quan kiểm soát tàu buôn và thương nhân ngoại quốc tại các cảng thị
nhằm kiểm soát việc trao đổi buôn bán trên biển. Thương cảng Quảng Châu và
các cảng thị khác vùng Nam Trung Quốc lại bắt đầu hồi sinh và trở nên thịnh
vượng dưới triều Nguyên và triều Nguyên được xem như là một “bước ngoặt”
của lịch sử hải thương châu Á.
Vào thời nhà Tống (960 - 1279) và thời kỳ hậu Nguyên (cuối thế kỷ XIII
- đầu thế kỷ XIV), sự phát triển của các thị trường phổ quát ngày càng trở thành
một đòi hỏi bức thiết cùng với số lượng Hoa thương tăng lên và việc sử dụng
đồng tiền trở nên phổ biến toàn khu vực.

20


Sự biến đổi của thị trường Trung Quốc có ảnh hưởng lớn đến sự phát
triển của thương mại biển khu vực Đông Nam Á. Sự biến đổi quan trọng nhất
trong thời kỳ này là sự hưng thịnh của các đô thị ở Trung và Nam Trung Hoa.
Sự phát triển đó cần tới sự buôn bán trên biển. Về mặt kỹ thuật, thuyền buồn lớn
nhỏ xuất hiện ở các vùng biển Nam Trung Quốc. Sức trở của loại thuyền này
cũng tăng lên nhanh chóng và hải trình của chúng cũng thay đổi từ cận hải
(chạy ven bờ) đến viễn dương (đi biển xa). Hàng hóa chuyên chở cũng bắt đầu
thay đổi từ những hàng nhẹ, quý như tơ lụa sang những loại hàng nặng như đồ
sứ, từ những đồ xa xỉ như dầu thơm sang những vật dụng đại chúng hơn như
giấy. Sự gia tăng của các thị trường lớn được kiểm nghiệm cùng với sự có mặt
của số lượng phong phú gốm sứ và các sản phẩm kim loại vô giá trong số các
loại hàng hóa buôn bán đường dài, đặc biệt là hàng hóa trên biển từ thế kỷ VII
đến thế kỷ IX. Chính những sự thay đổi về kỹ thuật hàng hải cũng như thay đổi
về nhu cầu của các mặt hàng trao đổi ở các thị trường lớn đã dẫn đến sự biến
đổi của các tuyến hải thương khu vực, đặc biệt là các tuyến giao thương vận

hành trên các vùng biển Đông Nam Á. Sự thay đổi của các dòng chuyển vận
giao thương như vậy đã có tác động trực tiếp và sâu sắc tới sự hưng thịnh và suy
vong của các tiểu quốc vùng Đông Nam Á, trong đó có vương quốc Champa.
Vào thời kỳ này, Đông Nam Á đã hình thành được một hệ thống buôn
bán mang tính khu vực. Java xuất khẩu gạo để đổi lấy gỗ vàng, kim cương từ
Tây Borneo, trầm hương từ Champa, Timo, nhục đậu khấu từ Banda và
Malacca, hồ tiêu từ Sumatta. Đến đầu thế kỷ XIV, theo thống kê của Hall ở
Đông Nam Á đã có 5 khu vực buôn bán trên biển thực sự hoạt động.
Đông Nam Á trong nền lịch sử hải thương quốc tế cùng với lợi thế là
nằm ở vị trí trung gian trên con đường thương mại biển nối liền thế giới Đông Tây, còn nổi tiếng với những sản phẩm có giá trị cao trên trường quốc tế mà
nổi bật là ba sản phẩm: cánh kiến trắng, long não và một loại nhựa được biết
đến như Ju. Nhựa Ju được sử dụng trong y học cũng như một loại trầm hương.
Ngoài ba sản vật này, Đông Nam Á còn nổi tiếng với những loại sản vật đẹp kỳ
21


×