Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Đường lối xây dựng và phát triển nền văn hóa của đảng cộng sản việt nam trong sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân giai đoạn 1930 1954

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (506.44 KB, 65 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu đề tài: “Đường lối xây dựng và phát triển
nền văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân giai đoạn 1930 – 1954”. Em xin bày tỏ lòng cảm
ơn chân thành nhất tới Tiến sĩ Khuất Thị Hoa – Người đã tận tình chỉ bảo,
giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Em xin bày tỏ lòng cảm ơn tới các thầy, cô trong trường Đại học sư
phạm Hà Nội 2, đặc biệt là các thầy cô trong khoa Lịch sử đã giúp đỡ em
trong suốt thời gian qua.
Em cũng xin bày tỏ lời cảm ơn tới gia đình cũng như bạn bè đã tạo điều
kiện và giúp đỡ em trong thời gian hoàn thành khóa luận.
Trong quá trình nghiên cứu, với điều kiện hạn chế về thời gian cũng
như kiến thức của bản thân nên khóa luận khó tránh khỏi những thiếu sót.
Kính mong sự chỉ bảo của các thầy cô cũng như các bạn sinh viên.

Hà Nội, ngày

tháng 5 năm 2013

Sinh viên

Nguyễn Thị Thuân


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan với đề tài: “Đường lối xây dựng và phát triển nền
văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân giai đoạn 1930 – 1954” là kết quả nghiên cứu của riêng
tôi dựa trên những kiến thức đã được học trong chuyên ngành Lịch sử Đảng
và các tài liệu tham khảo, đặc biệt dưới sự giúp đỡ của Tiến sĩ Khuất Thị


Hoa. Kết quả này không trùng với kết quả của bất cứ tác giả nào khác. Nếu
sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày

tháng 5 năm 2013

Sinh viên

Nguyễn Thị Thuân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ............................................... 3
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu ................................................ 4
5. Đóng góp của khóa luận ............................................................................. 4
6. Bố cục của khóa luận.................................................................................. 5

NỘI DUNG .................................................................................................. 6
CHƯƠNG 1: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM BƯỚC ĐẦU
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HÓA GIAI ĐOẠN
ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930-1945).......................... 6
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHO VIỆC HÌNH
THÀNH ĐƯỜNG LỐI VĂN HÓA CỦA ĐẢNG ........................................ 6
1.1.1. Khái niệm về văn hóa ......................................................................... 6
1.1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn ................................................................... 8
1.2. ĐƯỜNG LỐI VĂN HÓA THỜI KỲ 1930 – 1945.............................. 10

1.2.1. Giai đoạn 1930 – 1939....................................................................... 10
1.2.2. Giai đoạn 1939 – 1945....................................................................... 23

CHƯƠNG 2: ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN
VĂN HÓA CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG CUỘC
KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC
(1945-1954) ................................................................................................ 33
2.1. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
SAU NĂM 1945 .......................................................................................... 33


2.2. ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HÓA
KHÁNG CHIẾN – KIẾN QUỐC .............................................................. 36
2.3. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN VÀ HIỆU QUẢ CHIẾN LƯỢC ........... 44
2.3.1. Quá trình thực hiện .......................................................................... 44
2.3.2. Hiệu quả chiến lược .......................................................................... 47

KẾT LUẬN ............................................................................................... 63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................. 65


1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Mỗi quốc gia dân tộc đều có bản sắc văn hóa (VH) riêng. Bản sắc VH
là sức mạnh nội tại của mỗi dân tộc, là nhân tố trường tồn cho sự phát triển
của đất nước. VH theo nghĩa đó chính là thẻ căn cước cho mỗi quốc gia.
Là một thành viên trong cộng đồng quốc tế, Việt Nam không thể không

kế thừa những giá trị văn minh của nhân loại, nhưng trải qua hàng ngàn năm
phát triển, đã hình thành nên một nền VH rất riêng, lâu đời và mang bản sắc
dân tộc đậm đà. Nằm ở vị trí chiến lược quan trọng, lại giàu có về tài nguyên,
vậy nên ngay từ thủa dựng nước, chúng ta đã phải đối mặt với các loại giặc,
trong đó giặc xã hội là thường trực. Hơn một nghìn năm bị phong kiến phương
Bắc đô hộ là minh chứng. Không chỉ thống trị về kinh tế, chính trị, họ còn có
mưu đồ nô dịch về VH. Tuy vậy, văn hóa Việt Nam (VHVN) không những
không bị đồng hóa mà ngày càng được luyện sáng, hiên ngang tồn tại và phát
triển.
Trong thời đại toàn cầu hóa về kinh tế và giao thoa VH, khi các mục
tiêu kinh tế được đặt ra mà không tính đến môi trường VH thì kết quả sẽ hết
sức khập khiễng, mất cân đối, tiềm năng sáng tạo của mỗi dân tộc sẽ bị giảm
sút. Vì vậy, mối quan hệ có tính chất sống còn giữa các quá trình sáng tạo VH
và phát triển kinh tế đang ngày càng trở nên quan trọng đối với toàn thể nhân
loại. Mối quan hệ đó dựa trên cơ sở chống lại sự độc tôn cũng như sự phân
biệt đối xử giữa các nền VH, giữa các quốc gia và các dân tộc; đó cũng là mối
quan hệ dựa trên sự khẳng định các giá trị nhân bản, mang tính toàn cầu mà
thiếu nó thì không thể nói đến sự đối thoại giữa các quốc gia dân tộc.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta xây
dựng một nền VH đặc sắc, trong đó chủ nghĩa yêu nước và ý chí độc lập dân


2

tộc là nền tảng, cốt lõi được vun đắp suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ
nước. Sức mạnh đó đã giúp dân tộc ta đánh thắng kẻ thù xâm lược và không
bị đồng hóa bởi nền VH ngoại lai. Trong phát triển VH, Đảng chủ trương hội
nhập và giao lưu để nền VH dân tộc nói chung (bản sắc dân tộc nói riêng) trở
thành “bộ lọc chiết xuất” và kết tụ muôn vàn vòng sáng đa sắc của văn hóa
toàn nhân loại.

Có thể nói, nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực VH là một
vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc nhằm chứng minh sự lãnh đạo
của Đảng toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội từ chính trị, kinh tế,
xã hội đến VH, quân sự, ngoại giao. Đồng thời khẳng định sự lãnh đạo của
Đảng đối với lĩnh vực phức tạp và tế nhị này là yêu cầu cấp bách để Việt Nam
hòa nhập mà không hòa tan.
Với ý nghĩa đó, bằng khả năng của mình, tôi chọn vấn đề “Đường lối
xây dựng và phát triển nền văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự
nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân giai đoạn 1930- 1954” làm khóa
luận tốt nghiệp chuyên ngành Lịch sử Đảng.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đường lối VH (ĐLVH) của Đảng là một vấn đề lớn được nhiều nhà
khoa học, các lãnh tụ của Đảng và Nhà nước nghiên cứu dưới những góc độ
khác nhau. Họ tập trung làm rõ khái niệm, bản chất cấu trúc, chức năng, nội
dung của VH; quan hệ giữa phát triển VH với phát triển kinh tế - xã hội,
chính trị - đạo đức pháp luật.
Trong số các công trình đã được xuất bản, đáng chú ý là:
+ 50 năm Đề cương văn hóa Việt Nam của trung tâm khoa học xã hội
và nhân văn quốc gia.
+ Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa ở nước ta của Giáo
sư Hoàng Vinh.


3

+ Lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của ĐCSVN của Giáo sư, Tiến
sĩ Trần Văn Bính, NXBLLCT (2006).
+ Đường lối văn hóa văn nghệ của ĐCSVN của Phan Khanh, NXBVH
– TT (1995).
+ Đường lối văn hóa của ĐCSVN từ 1930 đến nay của Phó Giáo sư,

Tiến sĩ Phạm Duy Đức. NXBVH – TT và Viện VH.
+ Văn hóa trong sự phát triển của xã hội Việt Nam (1996) của Thành
Duy.
+ Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc của Nguyễn Khoa Điềm, NXBCTQG (2001).
+ Xây dựng nền văn hóa văn nghệ ngang tầm với dân tộc ta, thời đại ta
của Phạm Văn Đồng, NXBCTQG (1995).
+ Nội sinh và ngoại sinh trong giao lưu văn hóa ngày nay của Vũ
Khiêu, Tạp chí sinh hoạt lý luận (số 2) 1998.
+ Bản sắc văn hóa Việt Nam của Phan Ngọc, NXB Văn hóa, (2001).
Ngoài ra còn nhiều bài viết đăng trên các tạp chí khoa học đề cập đến
nhiều vấn đề về VH. Những công trình khoa học trên là cơ sở để tôi tham
khảo kế thừa trong quá trình hoàn thành khóa luận của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
3.1 Mục đích
Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng, làm rõ sự lãnh đạo của Đảng đối với
sự nghiệp VH nói chung và xây dựng nền VH Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc nói riêng. Qua đó bước đầu rút ra được hiệu quả chiến lược của
Đảng trong việc lãnh đạo sự nghiệp VH trong giai đoạn 1930-1954, đồng thời
góp phần cung cấp một số tư liệu mới phục vụ việc nghiên cứu lịch sử Đảng.
3.2 Nhiệm vụ
Để đạt mục đích đó, khóa luận có nhiệm vụ:


4

Khái quát đường lối xây dựng và phát triển nền VH của Đảng giai đoạn
đấu tranh giành chính quyền.
Trình bày có hệ thống quan điểm, ĐLVH của Đảng trong thời kỳ kháng
chiến chống thực dân Pháp.

Nêu rõ quá trình lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực VH trong thời kỳ này.
Rút ra hiệu quả chiến lược.
3.3 Phạm vi nghiên cứu
Đây là một vấn đề rộng lớn và rất phức tạp nên đề tài chỉ tập trung làm
rõ:
Sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển VH giai
đoạn 1930-1954.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1 Nguồn tài liệu
Nguồn tư liệu được sử dụng chủ yếu trong khóa luận bao gồm:
- Các văn kiện của Đảng, Nghị quyết Hội nghị BCH TƯ, các nghị
quyết, chỉ thị của Trung ương Đảng.
- Các văn kiện của Nhà nước như Hiến Pháp, Pháp lệnh, các nghị
quyết, chỉ thị, nghị định, quyết định của chính phủ, Bộ Văn hóa Thông tin về
công tác VH.
- Một số sách, báo, tạp chí trong và ngoài nước đã xuất bản.
- Các công trình khoa học nghiên cứu về VH.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng các phương pháp lịch sử và logic, phương pháp
phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp lịch đại và đồng đại.
5. Đóng góp của khóa luận
Hệ thống hóa các quan điểm, đường lối và khẳng định sự lãnh đạo của
Đảng trên lĩnh vực VH giai đoạn 1930 - 1954.


5

6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
khóa luận gồm hai chương:

Chương 1: Đảng Cộng sản Việt Nam bước đầu xây dựng và phát
triển nền văn hóa giai đoạn đấu tranh giành chính quyền (1930-1945).
Chương 2: Đường lối xây dựng và phát triển nền văn hóa của Đảng
Cộng Sản Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược (1945 – 1954).


6

Chương 1
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM BƯỚC ĐẦU XÂY DỰNG
VÀ PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HÓA GIAI ĐOẠN ĐẤU TRANH
GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930-1945)
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHO VIỆC HÌNH THÀNH
ĐƯỜNG LỐI VĂN HÓA CỦA ĐẢNG
1.1.1. Khái niệm về văn hóa
VH là một khái niệm đa nghĩa. Thuật ngữ "văn hoá" vốn bắt nguồn từ
chữ latinh Colere, sau trở thành Cultura có nghĩa là cày, cấy, vun trồng. Nói
tới VH là nói tới con người. Theo C.Mác, VH là sự phát triển các lực lượng
bản chất người của con người nhằm vươn tới hoàn thiện con người, xã hội
theo hướng nhân bản.
VH là một khái niệm rộng lớn. Cho đến nay, VH vẫn là một trong
những khái niệm phức tạp và có nhiều cách hiểu khác nhau. Nếu như ta hiểu
VH là tất cả những gì do con người sáng tạo ra trong quá trình ứng xử với
thiên nhiên và xã hội thì mọi cái liên quan đến con người đều có mặt VH của
nó. Cùng với quá trình phát triển của xã hội loài người, VH ngày càng có nội
dung phong phú. Vì thế, cho đến nay đã có khoảng trên 400 định nghĩa về
VH với nội dung rộng, hẹp và ở nhiều góc độ khác nhau, song tựu chung có
3 loại chính:
Một là, VH hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả quá trình sáng tạo và

trình độ phát triển vật chất, tinh thần của xã hội loài người trong suốt quá
trình lịch sử.
Hai là, VH hiểu theo nội dung bao gồm cả khoa học, kỹ thuật, VH, nghệ
thuật, được hiểu theo nghĩa rộng nhất là giá trị của VH. Đó là toàn bộ những


7

giá trị vật chất và giá trị tinh thần mà loài người đã sáng tạo ra nhằm đáp ứng
nhu cầu sinh tồn, đồng thời cũng là mục đích cuộc sống của con người.
Ba là, VH đặt trong phạm vi nếp sống, lối sống, đạo đức xã hội.
Ngay từ năm 1943, khi còn trong nhà tù của chính quyền Tưởng Giới
Thạch, Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa VH của riêng mình: “Vì lẽ sinh tồn
cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công
cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn ở và các phương thức sử dụng. Toàn
bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là VH. VH là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Hội nghị
Quốc tế họp ở Mêhicô (từ 26/7 - 6/8/1982) với sự tham gia của những nhà
VH đại diện cho hơn 100 nước đã chấp nhận quan niệm: "Trong ý nghĩa rộng
nhất, VH là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và
xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội. VH bao gồm nghệ thuật và văn
chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống
giá trị, những tập tục và tín ngưỡng" [33, tr.41]. Định nghĩa của Hồ Chí Minh
có nhiều điểm gần với quan niệm hiện đại trên về VH và khắc phục được
quan niệm phiến diện về VH trong lịch sử và hiện tại, coi VH chỉ là lĩnh vực
văn học và nghệ thuật… Như vậy, VH là tổng hoà của mọi giá trị vật chất và
tinh thần của mọi con người cũng như của xã hội. Môi trường VH tác động
trực tiếp đến sự hình thành nhân cách, phát huy mọi năng lực sáng tạo, khả

năng giao tiếp của con người với con người, con người với tự nhiên. Hoạt
động VH là hoạt động sản xuất ra những giá trị tinh thần nhằm đưa khát vọng
của con người hướng tới chân - thiện - mỹ. Với ý nghĩa đó, VH bao gồm hàng
loạt hoạt động về giáo dục, khoa học, văn học, nghệ thuật, tư tưởng...
Trong mỗi quốc gia, bản sắc dân tộc là cốt lõi chi phối nếp nghĩ, cách
sống, phong tục tập quán và định hướng phát triển của mỗi dân tộc. Bản sắc


8

dân tộc là sức mạnh nội tại của mỗi dân tộc, là hạt nhân và tổng hoà các
khuynh hướng của VH mỗi quốc gia. Bản sắc dân tộc có mối liên hệ lâu đời,
sâu sắc, bền vững trong lịch sử và đời sống văn hóa dân tộc (VHDT).
Có thể nói, VH có vị trí quan trọng trong mỗi bước tiến của xã hội loài
người. Ý thức được tầm quan trọng của VH trong phát triển và trong đời sống
tinh thần của dân tộc nên ngay từ khi ra đời cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt
Nam (ĐCSVN) luôn coi trọng xây dựng và phát triển nền VH, coi đó là một
trong 3 mặt trận của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam.
1.1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn
Truyền thống VH dân tộc đã được hình thành từ rất lâu đời, nó có sức
sống nội sinh bền bỉ, kỳ diệu, các giá trị của nó đã hình thành và bám rễ vào
đời sống nhân dân ngay từ thời dựng nước. Đến thời kỳ Bắc thuộc, chính
quyền ngoại bang dù sử dụng các thủ đoạn đồng hóa bằng bạo lực hay bằng
“diễn biến hòa bình” thì nền VH ấy càng được tôi luyện như lửa thử vàng.
Một mặt người Việt bảo tồn các sinh hoạt VH dân gian với ý thức tự giác dân
tộc cao, mặt khác họ sẵn sàng tiếp nhận các yếu tố VH ngoại sinh thích hợp.
Đến thời kỳ độc lập tự chủ nền VH đó lại tiếp tục được xây dựng, phát triển
mạnh mẽ, mang đậm bản sắc dân tộc. Đến thời kỳ Pháp thuộc nhân dân ta có
sự giao lưu VH theo hướng Việt hóa, những yếu tố tích cực của VH phương
Tây, để từng bước hội nhập với thời đại.

Thập niên 20 của thế kỷ XX được xem như là giai đoạn đan xen giữa
nền VH thực dân, phong kiến với nền VH cách mạng đang định hình. Trong
thực tế đã diễn ra một cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa. Chính
quyền thực dân phong kiến sử dụng VH để quảng bá cho mục đích xâm lược
của chúng. Báo chí thực dân tung ra những bài viết bôi nhọ chủ nghĩa cộng
sản. Giới thượng lưu thân Pháp lập ra Hội Khai trí Tiến Đức, Phạm Quỳnh thì
xuất bản Nam Phong tạp chí, thực hiện chủ trương “Pháp – Việt đề huề”.


9

Ngoài ra có thể kể đến Thực nghiệm dân báo của Nguyễn Hữu Thu, Khai hóa
nhật báo của Bạch Thái Bưởi.
Đáng chú ý là nền VH mới tiến bộ, cách mạng đang định hình, thể hiện
một sức sống mãnh liệt trên thế thắng. Khởi đầu cho nền VH mới ấy là dòng
sách báo tiến bộ với tờ Chuông rạn và Nước Nam của Nguyễn An Ninh và
Phan Văn Trường. Ở một số thành phố lớn đã xuất hiện các thư xã (Nhà xuất
bản). Một số tác phẩm văn học chứa đựng những yếu tố tiến bộ, nhân văn
được công bố: Chén thuốc độc (1922 – kịch của Vũ Đình Long), Tố Tâm
(1925 – tiểu thuyết của Hoàng Ngọc Phách)… phê phán xã hội đương thời, lễ
giáo phong kiến trói buộc con người, ít nhiều công khai bộc lộ tình cảm yêu
nước thương nòi. Điều đặc biệt là những hoạt động về văn hóa ở người ngoài
của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc với các tác phẩm tiêu biểu như báo Le Paria;
Bản án chế độ thực dân Pháp; báo Thanh niên và tác phẩm Đường Cách
mệnh. Những tác phẩm được truyền bá về nước đã tuyên truyền, phổ biến tư
tưởng yêu nước, tiến bộ, tư tưởng cộng sản để giác ngộ nhân dân, tập hợp lực
lượng, dấy lên phong trào yêu nước từ Bắc chí Nam. Trong khi giai cấp tư sản
Việt Nam với những tiếng nói yếu ớt, hoạt động rời rạc, thì giai cấp vô sản và
đồng minh của họ đã và đang ngày càng thể hiện vai trò tiên phong trên vũ
đài chính trị, trên mặt trận VH, từng bước khẳng định vị thế người chủ tương

lai của dân tộc.
Có thể nói tình hình VH trên không những là tiền đề quan trọng để
ĐCSVN ra đời, lãnh đạo cách mạng, mà còn là tiền đề để ĐCSVN hình thành,
từng bước hoàn thiện và phát triển ĐLVH ở giai đoạn sau này.
Sự ra đời của ĐCSVN vào ngày 03 tháng 02 năm 1930 đã tạo ra một
bước ngoặt quyết định cho lịch sử cách mạng. Hội nghị thành lập Đảng đã
thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và điều lệ vắn tắt do
Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Chính cương vắn tắt và sách lược vắn tắt có thể


10

coi là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của ĐCSVN, thể hiện rõ nét tính khoa
học, đúng đắn và sáng tạo, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. ĐCSVN xác định
mình là đội tiên phong của giai cấp vô sản, chủ trương tiến hành tư sản dân
quyền và cách mạng thổ địa để đi tới xã hội cộng sản. Đảng xác định cho
mình nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân đánh đổ đế quốc và phong kiến tay sai,
thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, thực hiện các quyền lợi tự
do dân chủ, bình đẳng nam nữ, ngày làm 8 giờ… Về lực lượng nòng cốt của
cách mạng Đảng chủ trương phải tập hợp được đại bộ phận giai cấp công
nhân, thu phục cho được đa số dân cày (nông dân) đồng thời lôi cuốn các tầng
lớp tiểu tư sản, trí thức, trung nông… đứng về phía cách mạng. Sự lãnh đạo
của ĐCSVN là nhân tố quyết định đảm bảo ĐLVH của Đảng đi tới thắng lợi.
1.2. ĐƯỜNG LỐI VĂN HÓA THỜI KỲ 1930 – 1945
1.2.1. Giai đoạn 1930 – 1939
Đối với người dân một nước nô lệ, vấn đề quan tâm số một là giải
phóng dân tộc, xóa bỏ ách gông xiềng, được hưởng những quyền thông
thường mà mọi người bình thường đáng được hưởng. Cương lĩnh chính trị
đầu tiên được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng đã đáp ứng được yêu cầu
khách quan của dân tộc và khao khát ngàn đời của nhân dân lao động, bởi nó

vạch ra đường lối, nhiệm vụ chính trị đúng đắn, sáng tạo, cơ bản khắc phục
được sự khủng hoảng về con đường cứu nước trong suốt một thời gian dài.
Lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có một lực lượng dẫn dắt, chỉ lối soi
đường, được trang bị chủ nghĩa Mác – Lênin, học thuyết về giải phóng loài
người, chứa đựng những tư tưởng tiến bộ, nhân văn nhất của thời đại.
Cương lĩnh nêu lên chủ trương tiến hành tư sản dân quyền cách mạng
và thổ địa cách mạng để đi tới xã hôi cộng sản. Điều đó cũng có nghĩa là tiến
hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến lên xây dựng chủ nghĩa cộng
sản ở Việt Nam. Đây là một tư tưởng không chỉ có ý nghĩa nhất thời, mà là


11

xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam, bởi vì suy đến cùng, quá trình
cách mạng Việt Nam chính là quá trình phấn đấu để thực hiện chủ nghĩa cộng
sản trên đất nước ta. Để thực hiện cuộc cách mạng đó, trước hết phải đánh đổ
chính quyền của bọn thực dân phong kiến, giành lại độc lập dân tộc, xây dựng
một nhà nước kiểu mới – nhà nước của công – nông – binh. Đó là đường lối,
nhiệm vụ chính trị, nhưng cũng đồng thời là đường lối, nhiệm vụ của VH, bởi
vì từ xưa tới nay, không có nền VH tiến bộ nào lại đứng ngoài chính trị. Đối
với dân tộc Việt Nam lúc đó giá trị cao nhất của VH là giải phóng dân tộc.
Tháng 10 – 1930, trong bối cảnh phong trào cách mạng diễn ra sôi nổi
khắp cả nước, Ban chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng đã thông qua
Luận cương chính trị, xác định giai cấp vô sản và nông dân là hai lực lượng
chính của cách mạng Việt Nam và Việt Nam đã bỏ qua thời kỳ tư bản chủ
nghĩa phát triển tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đó là tư tưởng mang tầm chiến
lược, góp phần quan trọng vào kho tàng lý luận của cách mạng Việt Nam.
ĐLVH của Đảng thống nhất với đường lối đấu tranh cách mạng giải
phóng dân tộc do Đảng lãnh đạo, nên mục tiêu của sự nghiệp đấu tranh đó suy
đến cùng cũng là mục tiêu của nền VH tiến bộ. Vì thế Đảng đề ra mục tiêu

độc lập dân tộc để giải phóng con người đem đến cho con người những giá trị
chân, thiện, mỹ. Cho nên đánh đổ thực dân phong kiến phải đồng thời với
việc thành lập chính quyền của nhân dân, thực hiện quốc hữu hóa các tư liệu
sản xuất và các cơ sở sản xuất, các quyền tự do dân chủ, bình đẳng nam nữ,
ngày làm việc 8 giờ… Đặc biệt phải tịch thu ruộng đất của bọn thực dân
phong kiến để chia cho nông dân nghèo, đáp ứng nguyện vọng của dân cày.
ĐLVH thống nhất với đường lối giải phóng con người khỏi áp bức bóc
lột được biểu hiện rất rõ nét trong cao trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh. Trong cao
trào này, Đảng nhìn thấy sức mạnh to lớn có tính chất quyết định của công
nhân và nông dân nên đã đưa ra chủ trương liên minh công – nông, đấu tranh


12

xóa bỏ chế độ áp bức bóc lột, tức là xóa bỏ cái ác, cái xấu, cái cản trở sự phát
triển, đồng thời xây dựng một chính quyền cách mạng kiểu mới để quản lý xã
hội. Bao nhiêu năm thực dân Pháp nô dịch, chúng thực hiện chính sách ngu
dân khiến cho hơn 90% người dân Việt Nam mù chữ, đồng thời lối sống kiểu
phương Tây tràn vào sinh ra đủ các thứ tệ nạn xã hội như ma túy, cờ bạc,
rượu chè… Vì thế Đảng và chính quyền mơi chủ trương học chữ quốc ngữ
cho nhân dân, xóa bỏ các tệ nạn xã hội, bài trừ các hủ tục, tổ chức sinh hoạt
cụ thể như đọc sách báo cách mạng, phát huy truyền thống của VH dân gian
để tuyên truyền vận động cách mạng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho nhân dân… Chính cao trào Xô viết Nghệ - Tĩnh đã sản sinh ra thơ ca Xô
viết Nghệ - Tĩnh với một khối lượng tác phẩm khá lớn (cả có danh và khuyết
danh) chủ yếu cổ vũ tinh thần đấu tranh cách mạng của nhân dân, vạch trần
âm mưu và thủ đoạn thâm độc của kẻ thù, biểu hiện niềm lạc quan tin tưởng ở
tương lai tươi sáng của dân tộc.
Từ góc độ tư tưởng – văn hóa, sự kiện ĐCSVN ra đời là khẳng định sự
thắng lợi quan trọng của ý thức hệ tư sản. Tuy nhiên cả trong lúc phong trào

cách mạng đang lên hay lâm vào thoái trào, công tác tư tưởng phải luôn được
đặt lên hàng đầu. Thực tế lúc bấy giờ số đông nhân dân ta, nhất là giới trí thức
tư sản và tiểu tư sản chưa hiểu đầy đủ, chính xác về chủ nghĩa cộng sản, về
nhân sinh quan, thế giới quan, về VH văn nghệ. Trong án nghị quyết của
Trung ương toàn thể Hội nghị lần thứ hai (tháng 3 – 1931), Đảng đã thẳng
thắn và nghiêm khắc chỉ ra những khuyết điểm trong lĩnh vực này, đó là các
cấp ủy Đảng chưa chú ý đúng mức tới việc xây dựng một nền tư tưởng
Bônsêvich vững bền, chống lại những tư tưởng sai lầm, báo chí vẫn còn kém
về tư tưởng, số người viết còn ít, phần đông Đảng viên không tham gia vào
việc viết báo, không có phóng viên ở nhà máy và ở làng quê… Án nghị quyết
cũng chỉ rõ báo chí của Đảng mới chỉ chủ yếu phát hành trong Đảng, trong


13

công hội và nông hội, rất ít đến với quần chúng, trong các báo việc giải thích
các khẩu hiệu và đường lối của Đảng nhiều khi không rõ ràng, cách viết chưa
phổ thông và khó hiểu…
Vì sao phải chỉ ra những khuyết điểm cụ thể như vậy? Bởi vì vai trò
của công tác tư tưởng – văn hóa là vô cùng quan trọng, trong khi Đảng mới
thành lập, trình độ lý luận của Đảng còn thấp kém, nên tư tưởng vẫn còn chưa
vững bền. Vậy nên tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin trong Đảng và trong
quần chúng vô sản là một việc rất cần kíp để nâng cao trình độ lý luận của
đảng viên, gây dựng một nền tư tưởng vô sản trong Đảng và trong quần chúng
vô sản, đào tạo ra một lớp nhân tài vô sản cho Đảng.
Như vậy, theo quan điểm của Đảng, công tác tư tưởng – văn hóa phải
đào tạo ra lớp nhân tài cho Đảng, nghĩa là phải xây dựng và hoàn thiện con
người mới. Đây là một quan điểm rất đáng chú ý, bởi nó được xác định cách
đây hơn 75 năm, nhưng đến nay vẫn còn như rất mới đối với việc xây dựng
nền văn hóa Việt Nam hiện đại.

Không phải đến khi có Đề cương văn hóa (1943) nguyên tắc đại chúng
của VH mới được đặt ra, mà từ năm 1931, Đảng ta đã đề cập tới vấn đề này,
nhất là đối với công tác tư tưởng – VH, công tác tuyên truyền vận động cách
mạng: “Trong các báo ấy phải đem những vấn đề chính trị phổ thông, những
khẩu hiệu chính trị mà liên kết với sự sinh hoạt hằng ngày của thợ thuyền…
Trong các báo và sách phải viết văn bài cho thật dễ hiểu thì việc cổ động
tuyên truyền mới có kết quả tốt” [2, tr.202]. Đối tượng phục vụ chủ yếu của
công tác tư tưởng – văn hóa chính là quần chúng lao động. Vì vậy, để họ hiểu
và làm đúng đòi hỏi phải phù hợp cả về nội dung và hình thức, không hạ thấp
yêu cầu, nhưng tính chất đại chúng phải được đặt lên hàng đầu. Vấn đề này
tiếp tục được đề cập trong nghị quyết Hội nghị các nhân viên lãnh đạo Đảng
cộng sản Đông Dương ở hải ngoại và các đại biểu các Đảng bộ trong nước,


14

họp từ ngày 14 đến ngày 26 – 6 – 1934. Nghị quyết yêu cầu công tác tư tưởng
– văn hóa phải bám sát tình hình kinh tế - xã hội, phải đáp ứng được nguyện
vọng của nhân dân, phải đưa đường lối chính sách của Đảng đến với dân:
“Báo chí phải giải thích chính sách Đảng, nghiên cứu tình hình kinh tế chính
trị xã hội của Đông Dương và các địa phương để biết rõ đúng các nguyện
vọng, nhu cầu và yêu sách cụ thể của quần chúng… Mỗi tờ báo phải có tính
chất vô sản, dùng một giọng văn không kiêu kỳ và dùng lời lẽ thông dụng của
quần chúng” [4, tr.196].
Về công tác tư tưởng – VH thời kỳ này, Đảng cũng xác định nhiệm vụ
xây dựng nền VH vô sản đồng thời phải kiên quyết chống các tư tưởng, luận
điểm sai trái, chống VH nô dịch của thực dân xâm lược và phong kiến tay sai.
Nền VH vô sản mà chúng ta xây dựng là nền VH vì con người, đem đến
tương lai và hạnh phúc cho con người, vừa phù hợp với Việt Nam, vừa tiếp
thu tinh hoa của Liên Xô, Trung Quốc như trong Nghị quyết hội nghị các

nhân viên lãnh đạo Đảng Cộng sản... đã nêu lên. Xây dựng phải đi đôi với
chống, công tác tư tưởng của VH phải có tính chiến đấu cao. Trong lúc cách
mạng lâm vào thoái trào, bọn thực dân phong kiến cũng tìm đủ mọi thủ đoạn
để xuyên tạc, bôi nhọ Đảng Cộng sản và chính quyền cách mạng… Trong bối
cảnh như vậy, công tác tư tưởng VH phải trở thành một thứ vũ khí sắc bén để
bảo vệ Đảng, bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, thức tỉnh quần chúng cách
mạng… Nghị quyết Hội nghị các nhân viên lãnh đạo Đảng Cộng sản Đông
Dương ở hải ngoại và các đại biểu các đảng bộ trong nước (6 – 1934) đã đặt
ra nhiệm vụ “phê bình thiên hướng sai lệch trong Đảng, lột mặt nạ bọn quốc
gia cải lương, bọn tờ-rốt-kít” [4, tr.196], phê bình thứ VH phi vô sản, phi
nhân tính… Nghị quyết chính trị của đại biểu Đại hội lần thứ nhất từ ngày 27
đến 31 tháng 3 năm 1935 của Đảng Cộng sản Đông Dương đặt vấn đề phải
đấu tranh cho sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, cho sự thống nhất về


15

lý luận trong Đảng. Từ năm 1932 đến 1935, những người cộng sản hoạt động
hợp pháp đã sử dụng báo chí công khai để tiến hành đấu tranh chống lại các
quan điểm chính trị, triết học, văn học nghệ thuật tư sản, nô dịch, tiêu biểu là
các cuộc tranh luận “Duy vật hay duy tâm”, “Nghệ thuật vị nghệ thuật hay
nghệ thuật vị nhân sinh” trên hàng loạt các tờ báo lúc bấy giờ như Phụ nữ thời
đàm, Đời mới, Ánh sáng... Về vấn đề này, từ 1933, trên báo Đông Phương số
872 ra ngày 12 – 8 và số 873, ra ngày 19 – 08, Hải Triều – một nhà lý luận
xuất sắc của Đảng, sau khi phê phán thứ VH nghệ thuật “lông bông”, đã có ý
kiến xác đáng: “Văn học là cái biểu hiện của nhân sinh, không biểu hiện được
nhân sinh thì không thành ra văn học được. Vì thế nên văn học phải bị nền
kinh tế của xã hội chi phối một cách trực tiếp và sâu sắc… Văn học là cái sản
vất cuối cùng của xã hội, cho nên cũng phải tùy theo cái cơ bản của xã hội mà
biến đổi, mà mất còn…”. Trên tiểu thuyết thứ bảy số 38, ra ngày 16 – 2 –

1935, Thiếu Sơn có bài “Hai cái quan niệm về văn học” cho rằng văn học
nước nào cũng đều lấy nghệ thuật làm gốc”.
Xuất phát từ quan điểm mác xít, trong bài “Nghệ thuật với nhân sinh”
đăng trên báo Trung Kỳ số 1 ra ngày 9 – 10 – 1935 và số 4, ra ngày 6 – 11 –
1935, Hải Triều đã phản bác các quan điểm duy tâm trên đây bằng lý luận rất
chặt chẽ của mình: “Nghệ thuật vì nhân sinh chứ không bao giờ có nghệ thuật
vì nghệ thuật… Các bạn đã thấy rõ ràng từ cái nghệ thuật vẽ chạm, ca hát,
nhảy múa đến chữ nghĩa, văn chương… đều lấy gốc tích trong hoàn cảnh sinh
hoạt vật chất của người ta. Mà cái cứu cánh của nó cũng vì sự sinh hoạt của
người ta mà có… Một công trình văn nghệ hay mỹ thuật càng diễn được rõ
ràng cái tính cách xã hội thì càng có giá trị. Nói một cách khác, nếu một tác
phẩm mà có thể biểu hiện được cái tình cảm, tư tưởng phổ biến của số đông
người trong một thời đại thì cái công trình nghệ thuật ấy sẽ được hoan
nghênh”.


16

Những cuộc bút chiến như vậy phần nào nói lên sự trưởng thành về mặt
tư duy lý luận tư tưởng – văn hóa của Đảng, góp phần tích cực vào việc phục
hồi phong trào cách mạng, bảo vệ Đảng, định hướng phát triển VH văn nghệ
phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân.
Thời kỳ 1936 – 1939, trước tình hình thế giới và trong nước có nhiều
biến đổi (xuất hiện chủ nghĩa phát xít, Mặt trận nhân dân Pháp giành thắng lợi
thi hành một số cải cách tiến bộ ở thuộc địa…), tháng 7 năm 1936, Hội nghị
Ban chấp hành Trung ương Đảng đã định ra đường lối và phương pháp đấu
tranh cho phù hợp với điều kiện mới. Mục tiêu chiến lược của cách mạng
trước sau không thay đổi, nhưng phương pháp đấu tranh cần linh hoạt hơn với
mục tiêu trước mắt là chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít và
đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo hòa bình.

Triệt để tranh thủ thuận lợi, đẩy mạnh việc xuất bản, phổ biến sách báo
vô sản tiến bộ.
Sau cao trào Xô viết - Nghệ Tĩnh, chính quyền thực dân phong kiến bắt
bớ, đàn áp dã man lực lượng cách mạng, các quyền tự do của nhân dân bị bóp
nghẹt, báo chí cách mạng bị cấm xuất bản, bầu không khí của xã hội vô cùng
ngột ngạt. Đồng thời chúng ra sức xuyên tạc chủ nghĩa cộng sản và văn hóa
vô sản. Vì vậy không phải ai cũng tiếp cận được với lý luận Mác – Lênin, chủ
trương, đường lối của Đảng và nền VH vô sản.
Với những thuận lợi khách quan (những cải cách tiến bộ ở thuộc địa)
và chủ quan (phong trào cách mạng đã và đang được phục hồi, những bài học
kinh nghiệm của thời kỳ 1930 – 1935), Đảng chủ trương tung ra cả một rừng
sách báo cách mạng từ Bắc chí Nam, bằng cả tiếng Việt và tiếng Pháp.
Chủ trương của Đảng là rất cụ thể, xác đáng, khắc phục được tình trạng
chung chung trước đây. Thông cáo ngày 20 – 3 – 1937 của Trung ương Đảng
Cộng sản Đông Dương chỉ rõ:


17

“- Các cấp bộ đảng phải khuyến khích những người cảm tình đứng tên
ra xin Chính phủ cho phép xuất bản những tờ báo công khai.
- Mỗi một chi bộ phải lập một chỗ “bình dân thư xã” hay có một cơ
quan tương đương để mua những sách báo công khai về làm tài liệu nghiên
cứu. Các cấp đảng bộ, các đồng chí ta nên cổ động quần chúng mua cho
nhiều, Đảng sẽ giới thiệu những sách nên mua và sẽ phê bình những quyển
sách ấy.
- Các đảng bộ nên lấy một số đồng chí có thể viết được văn trôi chảy để
viết ra những quyển sách công khai làm tài liệu tuyên truyền, chia nhau viết
bài đăng trong các báo công khai để gây ra dư luận”.
Trong những năm đầu của thời kỳ Mặt trận dân chủ, về đường lối tư

tưởng - VH, Đảng ta đã khôn khéo tranh thủ các hình thức công khai và bán
công khai để tuyên truyền cổ động các nhiệm vụ chính trị của Đảng. Tuy
nhiên nghị quyết của Hội nghị của toàn thể Ban Trung ương của Đảng Cộng
sản Đông Dương (họp từ ngày 25 – 8 đến 4 – 9 – 1937) cũng chỉ rõ những sai
lầm, khuyết điểm như chưa biết dùng sách báo công khai để giác ngộ quần
chúng, các bài vở thường nói cao xa, thiên về lý thuyết hơn là về thực tế, khẩu
hiệu tuyên truyền có khi mâu thuẫn nhau, không thích hợp với điều kiện thực
hiện ở địa phương, nhiều bài lại viết quá dài, thiếu tính chất cấp tiến cho các
tầng lớp khác. Nghị quyết lý giải vì sao quần chúng chưa thích báo chí của
Đảng vì phần nhiều các bài vở chỉ nói về các vấn đề chính trị mà không bao
giờ bàn đến văn học, mỹ thuật… Những khuyết điểm đó làm cho báo chí
công khai chưa trở thành cơ quan ngôn luận chung cho toàn thể nhân dân,
chưa được toàn thể nhân dân ủng hộ. Điều đáng chú ý ở đây là Nghị quyết
của Đảng có tính chiến đấu rất cao đã đề cập đến hàng loạt những vấn đề bức
xúc, trong đó có vấn đề mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn, nội dung và
cách thức tuyên truyền tư tưởng – VH phiến diện một chiều, hiệu quả thấp.


18

Chỉ có nhìn thẳng vào sự thật như vậy mới thúc đẩy được sự phát triển của
VH vô sản sau này.
Đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng VH là sự nghiệp lâu dài, kiên trì, phức
tạp và rất nhạy cảm, đòi hỏi cả trình độ và bản lĩnh chính trị vững vàng không
thể hời hợt, nửa vời mà đạt được hiệu quả. Vả lại, kẻ thù của giai cấp vô sản
vốn rất nhiều mưu mô xảo quyệt, nên trong bối cảnh của thời kỳ Mặt trận dân
chủ, sách báo công khai của Đảng là con đường ngắn nhất, nhanh nhất để
đường lối của Đảng, trong đó có ĐLVH đến với nhân dân. Vì vậy, Nghị quyết
nhấn mạnh bên cạnh sách báo bí mật, phải triệt để sử dụng sách báo công khai
trong vận động quần chúng, vừa tuyên truyền, vừa phải phát huy vai trò của

chính quần chúng nhân dân. Lúc này, chống các biểu hiện chia rẽ, âm mưu
phá hoại, phản động, chống các luận điệu của bọn tờ-rốt-kít, nâng cao giác
ngộ của nhân dân phải được chú trọng.
Nghị quyết của toàn thể Hội nghị Đảng bộ Bắc Kỳ (8 – 1939) nhấn
mạnh: “Tờ báo công khai hiện giờ sẽ phải làm cho nó trở nên hoàn toàn một
cơ quan dân chủ hợp với đa số nhân dân, phải chú ý thêm đến quyền lợi các
lớp tiểu tư sản, nhất là các viên chức, viết những bài điều tra phóng sự linh
hoạt về đời sống của họ và mở thêm những lĩnh vực văn chương, khoa học,
kịch ảnh. Các đồng chí nên biết lợi dụng những sách báo công khai để tuyên
truyền và tổ chức quần chúng”[14, tr.310-311].
Tuyên truyền tư tưởng - VH bằng sách, báo công khai là rất quan trọng,
nhưng tỷ lệ người mù chữ lúc bấy giờ tới hơn 90% dân số, nên trong chừng
mực nhất định, hiệu quả chưa được như mong muốn. Vì vậy phải vận dụng
ngay cách tuyên truyền thường thấy của VH dân gian, tuyên truyền miệng,
đồng thời đa dạng hóa cách thức tuyên truyền để đường lối của Đảng đến với
quần chúng đông đảo: truyền đơn, biểu ngữ, tranh vẽ, thi ca… Đó là một
trong những vấn đề được đặt ra trong Nghị quyết của Ban Thường vụ Trung
ương Đảng (họp ngày 6, 7/11/1939).


19

Về báo chí lúc đó có thể kể tới: Nhành lúa, Dân, Tiếng vang, Kiến Văn,
Đời nay, Tin Tức, Mới…, về sách có thể kể tới: Duy tâm hay duy vật, Văn sĩ
xã hội (của Hải Triều), Côn Lôn ký sự - đăng báo (của Trần Huy Liệu)…
Với số lượng sách báo khổng lồ ấy, Đảng cùng các nhà VH mác xít,
tiến bộ đã tấn công một cách mạnh mẽ và tương đối toàn diện vào tư tưởng –
VH nô dịch phản động, VH tiêu cực tư sản, đồng thời khuyến khích các xu
hướng tiến bộ, giới thiệu về chủ nghĩa cộng sản và VH vô sản. Cuộc đấu tranh
của các nhà VH mác xít chống lại quan điểm VH, nghệ thuật tiêu cực tư sản

vẫn rất quyết liệt. Vấn đề “nghệ thuật vị nghệ thuật” hay “nghệ thuật vị nhân
sinh” tiếp tục được đặt ra. Các nhà VH tư sản, tiểu tư sản ôm khư khư lý luận
“văn chương muôn đời”, “văn chương là văn chương”… cho thấy phần nào
thái độ vô trách nhiệm của họ đối với xã hội, đối với dân tộc. Hải Triều và
một số nhà văn hóa khác như Hồ Xanh, Trần Đình Long… trong cuộc tranh
luận đã nhấn mạnh vào tính chất giai cấp của VH, nghệ thuật, vào vai trò của
các nhà hoạt động VH, nghệ thuật chân chính đối với xã hội, đối với cách
mạng. Những cuộc tranh luận này phần nào chứng tỏ được sự phát triển tư
duy lý luận của Đảng, trong đó có vấn đề lý luận về ĐLVH. Qua cuộc tranh
luận đó những quan điểm về mác xít về VH, văn nghệ, ngày càng trở nên
quen thuộc, gần gũi với quần chúng nhân dân, thể hiện sự thắng thế của
những người cộng sản.
Một điểm chú ý khác trong ĐLVH của Đảng thời kỳ Mặt trận dân chủ
là Đảng khuyến khích việc giới thiệu, phổ biến tinh hoa VH nhân loại, nhất là
văn hóa Liên bang Xô viết hay tên tuổi, sự nghiệp của các nhà văn hóa vô sản
lớn như M.Gorki, R.Rô-lăng, H.Bác-buýt…
Về VH Xô viết, đáng chú ý nhất là loạt bài của Trần Đình Long – nhà
văn hóa nổi tiếng của Đảng ta thời kỳ Mặt trận dân chủ, đăng 43 số liền ở báo
Tin tức. Nếu như VH tư sản đầy những bài khiêu dâm, phóng đãng, những


20

điệu nhảy õng ẹo thô tục, những bài hát xô đẩy người ta vào những dục vọng
thấp hèn – một thứ văn hóa trục lợi, chạy theo đồng tiền, thuộc quyền sở hữu
của số ít, thì văn hóa Xô viết lại thuộc về đại đa số quần chúng lao động, mang
tư tưởng tiến bộ, gắn với công cuộc kiến thiết đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Để phục vụ nhân dân lao động, nhà nước nắm quyền kiểm soát nhà in, nhà
sách, nhà hát, hãng quay phim, rạp chiếu bóng… đồng thời chú trọng nâng cao
dân trí, bồi dương cho nhân dân trình độ thưởng thức nghệ thuật.

Từ thực tiễn VH Xô viết, Trần Đình Long nhận thấy “Trong cái đám
quần chúng mà bọn tư sản khinh miệt trước kia, bây giờ khôi phục lại nền văn
hóa đã nảy nở được rất nhiều nhân tài, trí thức. Đã nhiều những anh chị thợ từ
chỗ nhà máy nóng nực nhem nhuốc trở nên những văn sĩ, thi sĩ, nhà viết báo
đại tài…”. Trong nhiều cái ưu việt của VH vô sản ở Liên bang Xô viết, Trần
Đình Long rất tâm đắc với vấn đề địa vị và tự do của giới văn nghệ sĩ – chiến
sĩ. Cách mạng vô sản đã giải phóng cho giới văn nghệ sĩ, tôn trọng tự do sáng
tác và các hoạt động khác của họ, miễn là không đi ngược lại với quyền lợi
của nhân dân. Nhưng văn nghệ sĩ vô sản không chỉ biết phục vụ cho dân tộc
mình mà còn phải phục vụ cho nhân loại tiến bộ. Nền VH vô sản bao giờ
cũng gắn liền với tên tuổi, sự nghiệp của những nhà VH vô sản. Báo Hồn trẻ
số 5 ra ngày 4 – 7 – 1936 đã đăng bài “Một cái tang của nhân loại: M.Gorki,
nhà đại văn hào của Liên bang Xô viết và của thế giới đã qua đời” của Hải
Triều và Hải Thanh. Trong bài viết này, các tác giả đã xem M.Gorki là “anh
thợ tiên phong của nền văn hóa mới, ông thấy tinh thần nhân loại tương lai”,
“nhà chỉ huy cả cái trào lưu văn nghệ trong nước và cả thế giới vô sản”.
Trong điều kiện lúc đó còn thiếu thông tin nhưng các tác giả Hải Triều và Hải
Thanh đã có được một cách nhìn nhận khá sâu sắc về vai trò, sự đóng góp của
M.Gorki với VH Xô viết và VH nhân loại, có ý nghĩa tích cực trong việc định
hướng xây dựng nền VH mới, cổ vũ các nhà hoạt động VH vô sản, tiến bộ ở


21

Việt Nam. Trong bài “Rô-manh Rô-lăng” đăng trên báo Hồn trẻ số 6 ra ngày
11-7-1936, Hải Triều thấy cả thế giới trong một con người. Nhà VH vô sản ấy
theo con mắt của Hải Triều là có một quả tim hàng ngày rung động theo
những tiếng kêu thương sầu khổ của cả một nhân loại bị giày xéo dưới gót sắt
của bao chế độ bạo ngược, tham tàn của bọn quân phiệt và phát xít. Đó là nhà
văn của quần chúng lao khổ, của chủ nghĩa nhân đạo chân chính. Hải Triều

cũng đánh giá R.Rô-lăng là ông thầy của văn hóa: “Với mười lăm năm tranh
đấu, con người ấy đã cho chúng ta thấy ý nghĩa của văn chương. Lấy lưỡi làm
gươm, lấy bút làm súng, với mười lăm năm tranh đấu con người ấy đã đánh
đổ bao nhiêu sự tàn bạo, xấu xa và xây đắp những tảng đá đầu cho nền móng
của văn hóa mới”. Lần đầu tiên, tinh hoa VH của giai cấp vô sản thế giới
được giới thiệu với sự phân tích một cách thuyết phục trên báo của Đảng ta,
có tính chiến đấu mạnh mẽ. Hải triều, Trần Đình Long và các nhà VH mác xít
của Việt Nam một lần nữa khẳng định xu thế của VH mới gắn với người sáng
tạo ra nó chính là giai cấp vô sản được trang bị lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin. Đó phải là một nền VH hướng đến việc giải phóng con người khỏi tình
cảnh đau khổ bị áp bức bóc lột, được tự do phát triển tài năng sáng tạo và
hưởng thụ những thành quả do mình làm ra. Việc làm đó của Đảng không
những thể hiện một cách nhìn mới về tương lai của VH dân tộc, mà còn củng
cố niềm tin, tiếp sức đấu tranh cho các nhà VH vô sản trên mặt trận tư tưởng
– VH lúc bấy giờ.
Xây dựng và phát triển nền văn học cách mạng, cổ vũ các tác giả, tác
phẩm khác có xu hướng tiến bộ, nhân văn.
Văn học cách mạng ra đời từ trước những năm 1930 với các tác phẩm
của Nguyễn Ái Quốc, rồi được tiếp nối bởi thơ ca Xô viết Nghệ Tĩnh… Thời
kỳ Mặt trận dân chủ, trong hoàn cảnh tương đối thuận lợi, chế độ kiểm duyệt
tạm thời bị bãi bỏ, Đảng chủ trương đẩy mạnh việc xây dựng và phát triển nền


×