Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

Phát triển chăn nuôi và bảo tồn giống gà nhiều cựa ở xã xuân sơn, huyện tân sơn, tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2 MB, 47 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA SINH – KTNN
-------o0o-------

PHẠM THỊ VÂN

PHÁT TRIỂN CHĂN NUÔI VÀ BẢO TỒN
GIỐNG GÀ NHIỀU CỰA Ở XÃ XUÂN SƠN,
HUYỆN TÂN SƠN, TỈNH PHÚ THỌ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Kỹ thuật nông nghiệp

Người hướng dẫn khoa học

ThS. VŨ THỊ THƯƠNG

HÀ NỘI - 2013


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

PHẦN 1: MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong xu hướng phát triển của nền kinh tế, ngành nông nghiệp nói
chung và ngành chăn nuôi nói riêng đã phát triển mạnh mẽ với sự ra đời của
các giống cao sản. Tuy nhiên cùng với đó là sự mất đi nguồn gen bản địa với
các giống có khả năng thích nghi cao và mang nét văn hóa của từng vùng
miền.


Theo báo cáo của FAO – 1993, có ít nhất 40 – 45% tất cả các nguồn di
truyền động vật toàn cầu bao gồm khoảng 3.800 giống trong 40 loài đang có
nguy cơ bị tuyệt chủng và khoảng 70% trong số đó lại nằm ở các nước đang
phát triển.
Việt Nam vốn có nguồn gen bản địa rất phong phú với các giống gà
như: Hồ, Mía, Đông Tảo, Ri…; các giống lợn như: Ỉ, Móng Cái… và còn rất
nhiều giống quý khác như sếu đầu đỏ, hươu sao…nhưng cũng không nằm
ngoài danh sách các quốc gia có nguồn gen bản địa cần được bảo vệ tránh
khỏi nguy cơ tuyệt chủng.
Để bảo tồn sự đa dạng sinh học của nguồn gen bản địa, từ những năm
1990 Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng với Bộ Khoa học công
nghệ và Môi trường đã có nhiều đề tài về nghiên cứu bảo tồn gen một số
giống gà nội theo phương pháp in-situ, nuôi giữ trong nông hộ với quần thể
nhỏ, theo dõi các đặc điểm ngoại hình, tính năng sản xuất của chúng.
Ngày 1-2-2012, Bộ Nông nghiệp phát triển nông thôn có Thông tư số
06/2012/TT-BNNPTNT ban hành “ Danh mục bổ sung nguồn gen vật nuôi
quý hiếm cần được bảo tồn” trong đó có giống gà nhiều cựa Phú Thọ [1].
Giống gà này chỉ có ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ tập trung nhiều ở
hai xã Xuân Sơn và Xuân Đài. Đây là giống gà chân có móng nhọn, khỏe, có
nhiều cựa, thịt loại gà này bổ dưỡng, săn chắc và thơm ngon. Giống gà bản

Phạm Thị Vân - K35D

2


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp


địa này chủ yếu nuôi ở những vùng núi cao. Trước đây người dân chưa biết rõ
về giá trị của loài gà nhiều cựa của địa phương do đó, họ chỉ chăn nuôi tự
nhiên, không có ý thức chăm sóc đúng kỹ thuật và phòng bệnh, nên giống gà
này có nguy cơ bị tuyệt chủng. Mặt khác hiện nay có rất nhiều giống gà mới
được đưa vào sản xuất, khiến cho người chăn nuôi bị thu hút nên bỏ dần các
giống gà địa phương. Người dân thường nuôi thả với rất nhiều giống gà khác
cho nên rất dễ bị lai tạp giống. Trước thực tế đó, việc bảo tồn và phát triển
giống gà này nhằm lưu giữ nguồn gen cũng như nâng cao hiệu quả kinh tế
được nhiều cấp ngành quan tâm.
Năm 2008 Viện chăn nuôi đã xây dựng mô hình “chăn nuôi bảo tồn gà
nhiều cựa” ở các xóm thuộc xã Xuân Sơn, huyện Tân Sơn, Phú Thọ với sự hỗ
trợ của tổ chức DANIDA (Đan Mạch). Năm 2010 UBND huyện Tân Sơn đã
đầu tư, triển khai dự án “Phát triển nuôi gà nhiều cựa quy mô hộ gia đình để
xóa đói giảm nghèo” ở Xuân Sơn. Vậy tình hình phát triển chăn nuôi và bảo
tồn giống gà nhiều cựa ở địa phương hiện nay sau một số năm triển khai dự
án ra sao? Mô hình chăn nuôi, bảo tồn giống gà nhiều cựa có những hiệu quả
gì, còn những điểm gì cần xem xét để việc phát triển và bảo tồn giống gà
nhiều cựa ở địa phương cũng như các giống bản địa khác được bền vững? Với
mục đích về những vấn đề này chúng tôi tiến hành đề tài: “Phát triển chăn
nuôi và bảo tồn giống gà nhiều cựa ở xã Xuân Sơn, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú
Thọ”
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Nắm được tình hình phát triển chăn nuôi và tìm hiểu mô hình chăn
nuôi, bảo tồn giống gà nhiều cựa ở địa phương.
- Đề xuất các giải pháp góp phần phát triển chăn nuôi và bảo tồn giống
gà nhiều cựa ở địa phương.

Phạm Thị Vân - K35D

3



Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

PHẦN 2: NỘI DUNG
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Phân loại và nguồn gốc gà nhà
1.1.1. Phân loại
Theo Nguyễn Văn Thiện (1995) [11] gà thuộc:
Giới (Kingdom): Animal
Ngành (Phylum): Chordata
Lớp (Class): Aves
Bộ (Orders): Galli formes
Họ (Family): Phasianidae
Chủng (Genus): Gallus
Loài (Species): Gallus
Nòi gà Ri, gà Đông Tảo, gà Hồ…
1.1.2. Nguồn gốc và phân bố gà nhà
Theo tác giả Đặng Hữu Lanh và cộng sự (1999) [5], gà nhà ngày nay có
nguồn gốc từ gà rừng gallusgallus bao gồm 3 loại kiểu hình sau:
- Kiểu Bankiva: nhiều lông, dán vào mình, ức nở, mào và dái tai lớn,
mỏ cong dài và nhọn.
- Kiểu Mã Lai: Ít lông, cấu trúc lông cứng, mào và dái tai nhỏ, đầu nhỏ,
mắt lõm, mỏ khỏe ngắn.
- Kiểu Cocbin: nhiều lông, bồng, mào dái tai vừa nhỏ, mào đỏ, mỏ
ngắn.
Gà được thuần hoá đầu tiên ở Đông Nam Á và từ đó phân bố đi khắp

thế giới.

Phạm Thị Vân - K35D

4


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Nước ta là một trong những trung tâm thuần hoá gà đầu tiên của vùng Đông
Nam Á, đàn gà được nuôi sớm nhất ở vùng Vĩnh Phú, Hà Bắc, Hà Tây… cách đây
chừng hơn 3.000 năm. Từ những giống gà nuôi ban đầu là tiền thân của gà Ri hiện
nay, trải qua hàng ngàn năm nhân dân ta đã tạo ra các giống gà: gà Hồ, gà Đông
Tảo, gà Mía, gà Chọi…
1.2. Các tính trạng ngoại hình của gia cầm
Theo Đặng Hữu Lanh (1999) [5], màu sắc da, lông là mã hiệu của
giống, là tín hiệu để nhận dạng giống.
- Bộ lông:
Màu sắc lông da là một chỉ tiêu chọn lọc con giống, thông thường màu
sắc lông đồng nhất là giống thuần, màu không đồng nhất là giống không
thuần đã bị pha tạp (tất nhiên không phải giống nào cũng thế).
Màu sắc lông gia cầm do sắc tố melanin và xantophin. Melanin có ở da và
gốc lông không phụ thuộc vào lứa tuổi. Xantophin chỉ nằm ở da và từ thức ăn đưa
vào.
Sắc tố lông được cố định ngay từ lúc còn trong bào thai do thể nhiễm sắc
của từng tế bào hay từng mảng da có thể do những biến dị soma.
Lông gia cầm có những màu sắc khác nhau là do mức độ oxy hoá các tiền
sắc tố trong tế bào lông. Nếu các chất sắc tố là nhóm lipocrom thì lông có màu

vàng, xanh tươi hoặc màu đỏ, nếu không có chất sắc tố thì lông có màu trắng. Sự
thay đổi màu sắc lông phụ thuộc vào màu sắc, hình thức, sự phân bố các hạt màu
trong tế bào và số lượng các lớp tế bào cấu trúc và khả năng thu nhận ánh sáng
của tế bào ấy.
- Đầu:
Cấu tạo bộ xương của đầu được coi là có độ tin cậy nhất trong việc
đánh giá đầu. Gà trống có đầu giống đầu gà mái có tính dục kém. Gà mái

Phạm Thị Vân - K35D

5


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

có đầu giống đầu gà trống sẽ không đạt được khả năng sản xuất cao nhất,
trứng đẻ ra thường không có phôi.
- Mắt:
Mắt của những gia cầm được công nhận là có giá trị kinh tế cao thường
tương đối to và lồi. Màu sắc tiêu chuẩn của mống mắt là từ màu đỏ đến màu
da cam, hai mắt phải có màu giống nhau.
- Mào:
Mào vào mào dưới thuộc về đặc điểm sinh dục phụ. Theo hình dáng của
mào, mào dưới, mào tai có thể suy đoán được tình trạng sức khoẻ và điều kiện
sống của chúng. Mào gà đa dạng về hình dáng như mào cờ, mào đơn, mào nụ,
mào hoa hồng, mào hạt đậu, kích thước, màu sắc và đặc trưng cho từng giống.
Các giống gà nhẹ cân, mào có kích thước trung bình, mào tai mềm và trắng. Các
giống gà nặng cân, mào nhỏ hơn, mào tai mỏng và đỏ.

- Mỏ:
Mỏ phải chắc và ngắn, mỏ trên và mỏ dưới phải phù hợp với nhau. Gà
có mỏ dài và mảnh không có khả năng sản xuất cao.
- Chân:
Gia cầm hầu hết có 4 ngón, rất ít có 5 ngón (như gà Ác). Cổ, bàn và
ngón chân thường có vẩy sừng bao kín, cơ tiêu giảm chỉ còn gân và da.
Chân gà phải chắc và không được thô, 2 bên to hơn có vảy bóng che phủ.
1.3. Các tính trạng sinh sản của gia cầm.
Sinh sản là tính trạng được các nhà chọn giống quan tâm. Đối với gia cầm
các tính trạng sinh sản mà các nhà chọn giống quan tâm là: tuổi đẻ quả trứng đầu
tiên, thời gian đẻ, tỷ lệ đẻ, năng suất trứng, tuổi thành thục sinh dục.
1.3.1. Tuổi thành thục sinh dục
Tuổi thành thục sinh dục là tuổi bắt đầu hoạt động sinh dục và có khả
năng tham gia quá trình sinh sản. Đối với cá thể là tuổi đẻ quả trứng đầu tiên,

Phạm Thị Vân - K35D

6


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

còn đối với đàn gà thì tuổi đẻ quả trứng đầu tiên là thời điểm tỷ lệ đẻ đạt 5% so
với toàn đàn.
Tuổi bắt đầu đẻ và kích thước cơ thể có tương quan nghịch. Những gia
cầm tầm vóc bé, khối lượng cơ thể nhỏ có tuổi thành thục sinh dục sớm hơn
gia cầm có khối lượng cơ thể to hơn. Tuổi thành thục sinh dục chịu sự ảnh
hưởng của ngày, tháng nở của gà con, nói đúng hơn là độ dài ngắn của ngày

chiếu sáng, khoảng thời gian chiếu sáng tự nhiên hay nhân tạo cũng như khối
lượng cơ thể.
1.3.2. Năng suất trứng và tỷ lệ đẻ
Năng suất trứng hay sản lượng trứng là số lượng trứng đẻ ra trong một thời
gian nhất định. Năng suất trứng là một tính trạng di truyền, phản ánh chất lượng
giống và phụ thuộc nhiều vào điều kiện ngoại cảnh. Sản lượng trứng của gà
giảm dần theo tuổi, thường thì sản lượng năm thứ hai giảm 15 - 20% so với
năm thứ nhất (Nguyễn Thị Mai và cộng sự, 2009) [8].
Việc sản xuất trứng do các yếu tố quyết định là: thời gian kéo dài sự đẻ
trứng, cường độ đẻ trứng, thời gian nghỉ đẻ mùa đông, tuổi thành thục và bản
năng đòi ấp.
 Thời gian đẻ:
Thời gian đẻ ảnh hưởng rõ rệt đến sức sản xuất trứng. Thời gian đẻ
được tính theo thời gian đẻ trứng của năm đầu, nghĩa là từ khi bắt đầu đẻ quả
trứng đầu tiên đến khi thay lông hoàn toàn.
Thời gian đẻ chịu ảnh hưởng của thời gian chiếu sáng. Do đó để kéo
dài thời gian đẻ có thể sử dụng ánh sáng nhân tạo.
 Cường độ đẻ trứng:
Cường độ đẻ trứng là sức đẻ trứng trong thời gian ngắn, có lien quan
chặt chẽ đến sức đẻ trứng trong cả năm của gia cầm. cường độ đẻ trứng mang
đặc điểm của từng giống và đặc trưng riêng cho từng cá thể gà mái và cũng

Phạm Thị Vân - K35D

7


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp


chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác như chế độ nuôi dưỡng, phương thức
chăn nuôi. Theo Nguyễn Văn Thạch (1996) [10], gà Ri nuôi bán thâm canh có
tỷ lệ đẻ cao hơn so với gà Ri nuôi chăn thả (39,43% so với 31,45%). Chu kỳ
đẻ trứng là sản lượng trứng đẻ ra trong một thời gian liên tục không có sự
ngắt quãng.
 Bản năng đòi ấp:
Bản năng đòi ấp phụ thuộc vào yếu tố di truyền. Những giống nhẹ cân ít
nhiều không đòi ấp trong khi những giống nặng cân và trung bình đòi ấp nhiều
hơn.
Bản năng đòi ấp chịu sự tác động của nhiệt độ và độ chiếu sáng, nhiệt
độ cao, độ chiếu sáng thấp thì bản năng đòi ấp tăng.
Năng suất trứng là tính trạng do nhiều gen kiểm soát. Gen quy định nó
nằm trên NST thường và bị hạn chế bởi giới tính. Hệ số di truyền của sản
lượng trứng ba tháng đẻ đầu là h2 = 0.22.
Tỷ lệ đẻ là một chỉ tiêu biểu thị khả năng đẻ trứng. Tỷ lệ đẻ trứng bình
quân toàn đàn là một chỉ tiêu phản ánh đặc tính của khả năng đẻ trứng toàn
đàn. Tỷ lệ đẻ tỷ lệ thuận với năng suất trứng.
1.3.3. Các đặc điểm của trứng
1.3.3.1. Hình dạng trứng
Hình dạng trứng là một đặc điểm của từng cá thể, vì vậy nó do nguyên
nhân di truyền ở một mức độ rõ rệt.
Trứng gia cầm có hình trứng một đầu to, một đầu nhỏ hoặc hình elip với
hai đầu trứng tròn đều. Biến dị trong hình dạng trứng ít hơn so với khối lượng.
Hình dạng trứng không bị biến dị theo mùa. Những quả trứng đầu tiên trong chu
kỳ đẻ và sau một thời gian nghỉ đẻ kéo dài hơn và nhỏ hơn một chút. Hệ số di
truyền hình dạng trứng đến nay vẫn chưa rõ. Chỉ số hình dạng trứng (dài/rộng)

Phạm Thị Vân - K35D


8


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

trung bình là 0,74. Đây là một trong những chỉ tiêu căn bản để đánh giá chất
lượng bên trong của trứng.
Hình dạng trứng có ý nghĩa quan trọng không chỉ trong tiêu thụ, vận
chuyển, bảo quản mà còn liên quan chặt chẽ đến tỷ lệ ấp nở.
1.3.3.2. Khối lượng trứng
Khối lượng trứng là cơ sở để đánh giá sản lượng trứng tuyệt đối của một cá
thể hay một đàn. Khối lượng trứng có mối tương quan nghịch với năng suất và
tương quan thuận với tuổi thành thục sinh dục và khối lượng cơ thể. Khối lượng
trứng phụ thuộc vào: loài, giống, tuổi đẻ, tuổi thành thục sinh dục, khối lượng gà
lúc bắt đầu đẻ, chỉ số hình thái trứng… Ngoài ra khối lượng trứng còn phụ thuộc
vào mùa vụ, thức ăn, hoạt động của tuyến giáp và các loại thuốc dùng để chữa
bệnh.
Khối lượng trứng của các giống gà nước ngoài từ 55 - 60g. Đối với gà
nội khoảng 40 – 50g là phù hợp với sinh lý và bản năng ấp của gà.
1.3.3.3. Màu sắc và chất lượng vỏ trứng
Trứng gà thường có màu nâu và trắng (riêng gà Araukan - Nam Mỹ
trứng có màu xanh). Màu vỏ trứng đậm nhất vào mùa thu và đầu mùa đông
(nguyên nhân do trứng đẻ ra nhiều làm giảm sự tích luỹ sắc tố của tế bào).
Độ dày và độ bền (hay độ chịu lực) của vỏ trứng là những chỉ tiêu quan
trọng đối với trứng gia cầm, có ảnh hưởng đến kết quả ấp nở và vận chuyển.
Độ dày vỏ trứng được xác định bằng thước đo độ dày khi đã bóc vỏ dai.
Độ dày và độ bền của vỏ trứng phụ thuộc vào giống, tuổi, điều kiện
chăm sóc, nuôi dưỡng. Độ dày vỏ trứng được xác định bằng thước đo độ dày

khi đã bóc vỏ dai. Trứng gà Mía ở 38 tuần tuổi có độ dày trung bình 0,36mm
và độ chịu lực 2,88 kg/cm2. Trứng gà Lương Phượng Hoa ở 38 tuần có độ dày
vỏ trung bình 0,35mm và độ chịu lực 4,46 kg/cm2.
Độ dày vỏ trứng biến động 0,311 - 0,588 mm.
Vỏ trứng bình thường xốp và soi không có vết.

Phạm Thị Vân - K35D

9


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

1.3.3.4. Khả năng thụ tinh, tỷ lệ ấp nở
 Khả năng thụ tinh
Khả năng thụ tinh được đánh giá qua tỷ lệ trứng có phôi. Sự thụ tinh là
quá trình tinh trùng kết hợp với tế bào trứng tạo thành 1 hợp tử. Khả năng thụ
tinh là một chỉ tiêu để đánh giá sức sinh sản của đời bố mẹ. Tỷ lệ thụ tinh phụ
thuộc vào trạng thái dinh dưỡng, sự chênh lệch về khối lượng gia cầm bố mẹ,
sức khỏe của đàn giống, mùa vụ và nhiệt độ môi trường. Sự thích ứng cá thể
trong giao phối có ý nghĩa đặc biệt làm tăng tỷ lệ trứng có phôi. Gà trống có
tỷ lệ thụ tinh cao đối với gà mái này nhưng có thể không cao đối với gà mái
khác. Giao phối cận huyết cũng làm giảm tỷ lệ thụ tinh. Trong cùng một
giống, dòng gà khối lượng cơ thể lớn có tỷ lệ thụ tinh kém hơn so với dòng gà
có khối lượng cơ thể thấp. Sự khác nhau do tính năng đạp mái của gà trống
dòng nặng kém hơn 3 lần so với trống dòng nhẹ cân.
 Tỷ lệ ấp nở
Tỷ lệ ấp nở là một chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá sức sinh sản của

gia cầm trong chăn nuôi. Kết quả ấp nở được xác định bằng các công thức
khác nhau tùy mục đích. Thông thường trong sản xuất, tỷ lệ ấp nở được xác
định bằng tỷ lệ giữa số con nở ra so với tổng số trứng đem ấp. Trong nghiên
cứu, để xác định các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ lệ nở hoặc chất lượng máy ấp,
người ta tính tỷ lệ ấp nở bằng tỷ lệ giữa số con gà nở ra so với trứng có phôi. Để
xác định chất lượng toàn bộ đàn giồng người ta tính bằng tỷ lệ giữa gà con nở so
với trứng đẻ ra.
Kết quả ấp nở phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng 2 yếu tố chính là di
truyền và điều kiện môi trường.
Môi trường bên trong quyết định bởi đàn bố mẹ, khối lượng trứng, sự
cân đối giữa các thành phần cấu tạo và cấu trúc vỏ ảnh hưởng đến tỷ lệ ấp nở.
Những quả trứng có kích thước quá lớn hay quá nhỏ đều có khả năng nở kém

Phạm Thị Vân - K35D

10


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

hơn những quả trứng có kích thước trung bình. Olsen và Kavnes (1949) cũng
xác định rằng, tỷ lệ nở cao nhất ở những quả trứng có hình dạng, khối lượng
bình thường, tỷ lệ lòng trắng/lòng đỏ là 2/1.
Điều này được giải thích có thể do sự không ăn khớp giữa khối lượng
protein và noãn hoàng với bề mặt của trứng.
Môi trường bên ngoài bao gồm: các khâu vệ sinh, thu nhặt, bảo quản trứng,
kỹ thuật ấp trứng… bất kỳ yếu tố đơn lẻ nào cũng ảnh hưởng tới sự phát triển của
phôi.

Ngoài yêu cầu về kỹ thuật ấp trứng, tỷ lệ ấp còn phụ thuộc vào chế độ
chăm sóc nuôi dưỡng và quản lý đàn bố mẹ, khả năng sinh trưởng của gia cầm.
1.4. Các tính trạng sinh trưởng của gia cầm
1.4.1. Khái niệm
Sinh trưởng là sự tăng kích thước và khối lượng của sinh vật đang ở
giai đoạn lớn lên. Trong hai chỉ tiêu tăng kích thước và tăng khối lượng, chỉ
tiêu tăng kích thước là đáng tin cậy hơn vì khối lượng sinh vật có thể tạm thời
biến động tuỳ theo chế độ dinh dưỡng.
Sinh trưởng là quá trình tích lũy các chất hữu cơ do đồng hóa và dị
hóa, là sự tăng chiều cao, chiều dài, bề ngang, khối lượng các bộ phận và
toàn bộ cơ thể con vật trên cơ sở di truyền của đời trước. Sự sinh trưởng
chính là quá trình tích lũy dần dần các chất mà chủ yếu là protein, nên tốc
độ tích lũy của các chất cũng chính là tốc độ hoạt động của các gen điều
khiển sự sinh trưởng của cơ thể.
Phát triển là sự biến đổi không những về đặc điểm hình thái mà cả chức
năng sinh lý theo từng giai đoạn của cuộc đời sinh vật.
Sinh trưởng và phát triển luôn gắn liền với nhau, bổ sung cho nhau để
sinh vật lớn lên và trưởng thành. Sinh trưởng là điều kiện của phát triển và
phát triển làm thay đổi sự sinh trưởng.

Phạm Thị Vân - K35D

11


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Ở gà, căn cứ vào sự sinh trưởng của các cá thể con, người ta có thể

phân biệt các giai đoạn phát triển như sau: giai đoạn phát triển của phôi
trong trứng trước khi đẻ, giai đoạn phát triển của phôi trong trứng sau khi
đẻ, giai đoạn trứng nở thành con (sơ sinh) đến khi thành thục sinh dục,
giai đoạn sinh sản. Mỗi giai đoạn đều có những đặc điểm hình thái, sinh
lý đặc trưng.
1.4.2. Các chỉ tiêu đánh giá độ sinh trưởng


Tốc độ mọc lông:

Quá trình thay đổi bộ lông sơ sinh để mọc lông mới đầu tiên trong một thời
gian nhất định của một giống, trải qua nhiều giai đoạn nhanh, chậm khác nhau gọi
là tốc độ mọc lông.
Tốc độ mọc lông là một tính trạng di truyền có liên quan đến đặc
điểm trao đổi chất, sinh trưởng phát triển của gia cầm, là chỉ tiêu đánh giá
sự thành thục sinh dục. Gia cầm có tốc độ mọc lông nhanh, sự thành thục
về thể trọng sớm, chất lượng thịt tốt, khả năng kháng bệnh cao hơn gia
cầm có tốc độ mọc lông chậm. Song dù có tốc độ mọc lông chậm thì từ 8
– 12 tuần tuổi gà cũng mọc lông đủ. Tốc độ mọc lông của gia cầm phụ
thuộc vào giống, cá thể, giới tính và điều kiện chăm sóc.
 Kích thước các chiều đo:
Kích thước cơ thể là một biểu hiện cho sinh trưởng, đặc trưng cho
quá trình sinh trưởng và đặc trưng cho giống, qua đó phân biệt giống,
dòng. Kích thước cơ thể luôn có mối tương quan với khối lượng cơ thể
qua đó có thể đánh giá sự sinh trưởng và áp dụng cho chọn giống.
 Khối lượng cơ thể:
Về mặt sinh học, sinh trưởng là quá trình tổng hợp, tích lũy các chất
mà chủ yếu là protein. Do đó có thể lấy việc tăng khối lượng cơ thể làm
chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh trưởng của vật nuôi.


Phạm Thị Vân - K35D

12


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Ở từng giai đoạn phát triển, chỉ tiêu này xác định sự sinh trưởng của cơ
thể tại một thời điểm, nhưng lại không khẳng định được sự sai khác về tỷ lệ
sinh trưởng giữa các thành phần của cơ thể trong cùng một thời gian ở các độ
tuổi. Khối lượng cơ thể được tính bằng g/con hoặc kg/con. Và được biểu thị
bằng đồ thị sinh trưởng tích lũy.
 Tốc độ sinh trưởng:
Tốc độ sinh trưởng là cường độ tăng các chiều cơ thể trong một
khoảng thời gian xác định. Trong chăn nuôi gia cầm, 2 chỉ số mô tả tốc độ
sinh trưởng là tốc độ sinh trưởng tương đối và tốc độ sinh trưởng tuyệt đối.
Tốc độ sinh trưởng tuyệt đối là sự tăng lên về khối lượng, kích thước,
thể tích cơ thể trong một khoảng thời gian xác định. Độ sinh trưởng tuyệt đối
chính là sự gia tăng về khối lượng sống trung bình trong 1 ngày đêm.
Tốc độ sinh trưởng tương đối là tỷ lệ % tăng lên của khối lượng, kích
thước và thể tích cơ thể lúc kết thúc khảo sát so với lúc ban đầu khảo sát.
Tốc độ sinh trưởng tương quan dương với tốc độ mọc lông và hiệu quả
sử dụng thức ăn. Tốc độ sinh trưởng của vật nuôi phụ thuộc vào giống, loài,
giới tính, đặc điểm cơ thể và điều kiện môi trường.
1.4.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng
Các tính trạng về sinh trưởng là các tính trạng số lượng nên ngoài phần
ảnh hưởng do các yếu tố của bản thân con vật (giống, tính biệt), chúng còn
chịu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường như: Nhiệt độ, ẩm độ, ánh sáng,

thức ăn, phương thức chăn nuôi...
+ Ảnh hưởng của dòng, giống
Mỗi dòng hay mỗi giống gia cầm có nhiều điểm khác nhau về đặc điểm
ngoại hình, sức sản xuất, khả năng kháng bệnh…từ đó ảnh hưởng rất lớn đến
sự sinh trưởng. Nhiều nghiên cứu đã khẳng định sự sinh trưởng của từng cá
thể, giữa dòng, giống có sự sai khác.

Phạm Thị Vân - K35D

13


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Nguyễn Mạnh Hùng và cộng sự (1994) [4], cho biết sự khác nhau giữa
các giống gia cầm rất lớn, giống gà kiêm dụng nặng hơn gà hướng trứng
khoảng 500 - 700g (từ 15 - 30%).
Theo Hoàng Phanh (1996) [9], khối lượng gà Mía lúc 12 tuần tuổi là
1503g. Còn kết quả nghiên cứu của Nguyễn Huy Đạt và cộng sự (2005) [3]
trên gà Đông Tảo giai đoạn 12 tuần tuổi là 1404,7g.
+ Ảnh hưởng của tính biệt
Giới tính khác nhau thì đặc điểm và chức năng sinh lý cũng khác nhau
nên khả năng đồng hoá, dị hoá và quá trình trao đổi chất dinh dưỡng của
chúng là khác nhau. Thường con trống có cường độ sinh trưởng lớn hơn so
với con mái.
Gà trống có tốc độ sinh trưởng nhanh hơn gà mái, các tác giả cho rằng
sự sai khác này do gen liên kết giới tính, những gen này ở gà trống hoạt động
mạnh hơn gà mái. Lúc mới nở gà trống nặng hơn gà mái và tuổi càng tăng thì

sự khác nhau càng lớn.
+ Ảnh hưởng của chế độ dinh dưỡng
Kết quả nghiên cứu của các tác giả Bùi Đức Lũng, Lê Hồng Mận
(1995) [11], khẳng định thức ăn và dinh dưỡng có ảnh hưởng rất lớn đến sự
sinh trưởng của gia cầm. Hàm lượng các axit amin là rất quan trọng, đặc biệt
nếu thiếu Methionin trong khẩu phần sẽ có hại cho sinh trưởng và hiệu số
chuyển hóa thức ăn.
+ Ảnh hưởng của các yếu tố môi trường.
Các yếu tố môi trường có ảnh hưởng rất lớn tới sự sinh trưởng của gia
cầm như: Nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, độ thông thoáng...Trong đó nhiệt độ và
ẩm độ là hai yếu tố luôn thay đổi theo mùa vụ và có ảnh hưởng rõ rệt đến tốc
độ sinh trưởng của gia cầm.
Nhiều nghiên cứu cho rằng khi nhiệt độ môi trường lên cao trên 36 –

Phạm Thị Vân - K35D

14


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

370C sẽ gây stress nhiệt, làm giảm quá trình trao đổi chất và hoạt động của cơ
thể, từ đó giảm lượng thức ăn tiêu thụ và giảm tốc độ sinh trưởng. Do vậy,
cần phải đảm bảo điều kiện chuồng nuôi có độ thông thoáng tốt, cung cấp đủ
ôxy, đồng thời có mật độ nuôi cũng như chế độ chiếu sáng thích hợp để tăng
hiệu quả chăn nuôi.
Trong chăn nuôi gia cầm cần phải chú ý đến yếu tố ánh sáng, vì gia
cầm là loài rất nhạy cảm với ánh sáng, đặc biệt là giai đoạn gà con và giai

đoạn gà đẻ. Nếu thời gian và cường độ chiếu sáng phù hợp thì thuận lợi cho
hoạt động ăn, uống từ đó ảnh hưởng tốt tới khả năng sinh trưởng.
1.5. Sức sống và khả năng kháng bệnh
Sức sống và khả năng kháng bệnh là chỉ tiêu quan trọng ảnh hưởng trực
tiếp tới hiệu quả chăn nuôi, bị chi phối bởi yếu tố di truyền và môi trưởng
ngoại cảnh. Sức sống được thể hiện ở khả năng có thể chống lại những ảnh
hưởng bất lợi của môi trường, cũng như ảnh hưởng khác của dịch bệnh.
Theo Đặng Hữu Lanh và cộng sự (1999) [5], sức kháng bệnh là tính
trạng do nhiều gen kiểm soát và chịu ảnh hưởng của nhiều điều kiện môi
trường
Hệ số di truyền về sức sống ở gia cầm rất thấp nên sức sống chủ yếu
phụ thuộc vào môi trường.
Động vật thích nghi tốt thể hiện sự giảm khối lượng cơ thể thấp nhất
khi bi stress, có sức sinh sản tốt, sức kháng bệnh cao,sống lâu và tỷ lệ chết
thấp. Sức đề kháng khác nhau ở các giống, các dòng, thậm chí giữa các cơ
thể. Khi điều kiện sống thay đổi gà lông màu có khả năng thích ứng tốt với
môi trường sống.
Nguyễn Đăng Vang và cộng sự (1999) [13],cho biết tỷ lệ nuôi sống gà
Ri giai đoạn (0 - 9 tuần tuổi) và sinh sản (19 - 23 tuần tuổi) đạt tương ứng
92,11% và 97,25%.

Phạm Thị Vân - K35D

15


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp


Vì vậy, để nâng cao hiệu quả chăn nuôi cần chọn những giống gia cầm
có khả năng thích nghi cao, đồng thời cần có chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng
hợp lý và thực hiện đúng quy trình phòng bệnh.
1.6. Tình hình bảo tồn nguồn gen vật nuôi trong và ngoài nước
1.6.1. Tình hình bảo tồn nguồn gen vật nuôi trên thế giới
Đứng trước nguy cơ mất dần tính đa dạng sinh học, từ nhiều năm gần đây
dư luận và các nhà khoa học của nhiều quốc gia đã có các hành động tích cực
nhằm bảo vệ các loài động vật qúy hiếm khỏi sự tuyệt chủng với sự ra đời của
Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên thế giới (WCU) nay gọi là qũy Quốc tế về thiên
nhiên (WWF), tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá Liên Hiệp Quốc
(UNESCO) và chương trình môi trường Liên Hiệp Quốc (UNEP). Bên cạnh
đó nhiều khu bảo tồn quy mô lớn đã được thiết lập ở nhiều khu vực sinh thái
khác nhau, tại nhiều quốc gia khắp các châu lục, Hiệp định về cấm buôn bán
các loài thú quý hiếm đã được ký kết và thi hành có hiệu quả. Sách đỏ (Red
book) đã được Uỷ ban về các loài thú sống sót (Species Suvival Commission
của IUCN) xuất bản. Nhờ đó nhiều loài thú bị đe doạ tuyệt chủng đã được bảo
hộ, nhiều loài biến mất trong hoang dã đã được khôi phục và đưa trở lại môi
trường sống của chúng.
Nhiều tổ chức chính phủ và phi chính phủ ra đời ở các nước, các khu
vực dẫn đến sự ra đời của Tổ chức Quốc tế về các giống qúy hiếm (RBI). Các
hội thảo Quốc tế về bảo tồn giống động vật được tổ chức tại nhiều nơi trên
thế giới thống nhất chương trình hành động và đặt ra các mục tiêu, nhiệm vụ
bảo tồn nguồn gen động vật trên bình diện toàn cầu. Có hai phương thức bảo
tồn nguồn gen vật nuôi đó là bảo tồn in-situ và bảo tồn ex-situ.
 Bảo tồn in-situ
Là bảo tồn tại chỗ: là hình thức bảo tồn vật nuôi ngay trong môi trường
mà nó sinh ra và lớn lên, là hình thức bảo tôn đa dạng sinh học trong các hệ

Phạm Thị Vân - K35D


16


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

sinh thái vận động tiến hoá của nơi cư trú nguyên thuỷ hoặc môi trường tự
nhiên.
 Bảo tồn ex-situ
Là hình thức duy trì quần thể nhỏ, được quản lý chặt chẽ ở ngoài
môi trường tự nhiên của nó bằng phương pháp nhân tạo hay bán nhân
tạo. Bảo tồn ex-situ bao gồm:
- Bảo tồn trong phòng thí nghiệm.
- Bảo tồn lạnh vật chất di truyền: Tinh trùng, phôi, AND, tế bào hoặc trứng.
1.6.2. Tình hình bảo tồn nguồn gen vật nuôi trong nước
Việt Nam là một trong số ít nước phong phú về giống vật nuôi nội địa. Đặc
điểm nổi bật của các giống này là khả năng chống bệnh cao, khả năng sử dụng
thức ăn nghèo dinh dưỡng tốt, thịt thơm ngon, thích nghi với điều kiện sinh thái
từng vùng.
Chính vì nhận thức sâu sắc hiểm hoạ đang đến với các giống vật nuôi
bản địa, từ năm 1989 đến nay, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường đã cho
thực hiện đề án Bảo tồn nguồn gen vật nuôi. Và từ năm 1990 đến nay dự án đã
được tiến hành trên phạm vi cả nước, với sự tham gia của nhiều cơ quan. Kết quả
là nhiều giống có đặc điểm di truyền độc đáo như gà Hồ, Đông Tảo… đã được
bảo tồn, thoát được hiểm hoạ tuyệt chủng, thu thập được nhiều tư liệu và các
giống gia súc, gia cầm trong nước để tập hợp xử lý và lưu giữ trong máy tính, bên
cạnh đó đề án còn tạo ra sự chuyển biến trong nhận thức của mọi người về bảo tồn
nguồn gen vật nuôi.
Ở nước ta, đàn gà phân bố không đều chủ yếu tập trung ở vùng núi và

trung du phía bắc (27,5%), vùng đồng bằng sông Hồng (24,7%), vùng đồng
bằng sông Cửu Long (15,6%), còn lại là các vùng khác. Ngành chăn nuôi gà cho
đến nay vẫn chủ yếu là chăn nuôi các giống gà nội (75 – 80%) theo phương thức
chăn thả tự do, tận dụng các thức ăn rơi vãi từ thu hoạch lúa, ngô... Tuy nhiên, gà

Phạm Thị Vân - K35D

17


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

nội chưa được tập trung chọn lọc, bị pha tạp, nhiều các giống, dòng chưa được
xác định rõ rệt, các công trình nghiên cứu về các giống gà nội còn ít. Song mấy
năm gần đây nhà nước đã có chủ trương nghiên cứu và phát triển chăn nuôi các
giống gà địa phương để bảo tồn quỹ gen vật nuôi và đảm bảo tính đa dạng sinh
học trên toàn cầu.
Theo các tác giả Lê Viết Ly (2001) [6], thì đến nay chúng ta có kết quả
nghiên cứu về các giống gà nội như sau:
 Gà Mía: Có nguồn gốc từ tỉnh Hà Tây. Gà có dáng thô, mào đơn,
mình ngắn, chậm chạp. Gà mọc lông chậm. Thành thục muộn (7 - 8 tháng).
Gà mái lông vàng nhạt hoặc nâu xen kẽ lông đen ở cánh và đuôi, gà mái đạt
2,6 - 3,0 kg. Sức đẻ trứng đạt 70 - 80 quả/mái/năm. Khối lượng trứng 50 55 g/quả.
Gà trống có màu lông đỏ sẫm xen lông đen, hai hàng lông cánh chính
xanh biếc, gà trống đạt 3,0 - 3,5 kg.
 Gà Hồ: Có nguồn gốc từ tỉnh Bắc Ninh. Cả gà trống và gà mái đều
có mào xuýt, mào nụ, gà to cao trường, chân cao. Tuổi thành thục muộn (7 - 8
tháng).

Gà mái có mã thó (màu đất thó, màu trắng), mã sẻ (màu chim sẻ). Khối
lượng gà mái 3 - 3,5 kg. Sức đẻ trứng 40 - 50 quả/mái/năm, khối lượng trứng
51 g/quả.
Gà trống có mã lĩnh (màu đen), mã mận (màu mận chín). Khối
lượng gà trống 3,5 - 4 kg.
 Gà Đông Tảo: Có nguồn gốc từ tỉnh Hưng Yên. Gà có dáng to, thô, đùi
và ống chân rất to, ngón chân múp míp, chân có vảy thịt, mào kép, mào nụ, da
màu vàng.
Gà mái trưởng thành có lông màu vàng nhạt hoặc màu nâu nhạt, khối
lượng giai đoạn trưởng thành của gà mái là 3 - 3,5 kg. Sản lượng trứng 60 70 quả/mái/năm

Phạm Thị Vân - K35D

18


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Gà trống hầu hết có màu lông mận chín pha lẫn lông đen, đỉnh đuôi và
cánh có màu lông đen ánh xanh. Khối lượng giai đoạn trưởng thành gà trống
là 3,5 - 4 kg.
 Gà Ác Việt Nam: Gà được thuần dưỡng và phát triển đầu tiên ở các
tỉnh Trà Vinh, Long An, Kiên Giang... Hiện nay, đã được di thực ra miền
Trung và miền Bắc. Gà Ác thường được sử dụng như một vị thuốc bổ (hầm
với thuốc bắc).
Đây là một giống gà có tầm vóc nhỏ bé, thịt và xương màu đen, lông
trắng tuyền xù như bông, mỏ chân cũng màu đen, mào cờ phát triển, chân có
5 ngón (ngũ trảo), có lông.

Kết quả nghiên cứu của một số tác giả về tỷ lệ nuôi sống của gà Ác
giai đoạn 1 - 56 ngày tuổi là 88,3%, sau đó ổn định không hao hụt. Về
sinh trưởng: Gà có khối lượng nhỏ, lúc 16 tuần tuổi con trống đạt 724,62g,
con mái 565,05g.

Phạm Thị Vân - K35D

19


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp
Chương 2

ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu
Giống gà nhiều cựa nuôi tại nông hộ ở xã Xuân Sơn, huyện Tân Sơn,
tỉnh Phú Thọ.
2.2. Nội dung nghiên cứu
2.2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội xã Xuân Sơn, huyện Tân Sơn,
tỉnh Phú Thọ.
2.2.2. Một số đặc điểm của giống gà nhiều cựa nuôi tại địa phương.
2.2.3. Tình hình phát triển chăn nuôi giống gà nhiều cựa ở địa phương
nghiên cứu.
2.2.4. Tìm hiểu mô hình phát triển chăn nuôi, bảo tồn giống gà nhiều cựa ở
địa phương.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
- Đọc tài liệu.

- Thu thập số liệu sơ cấp: thông qua quan sát, điều tra, phỏng vấn
- Thu thập số liệu thứ cấp: từ các báo cáo tổng kết tình hình phát triển
kinh tế, xã hội địa phương; báo cáo tổng kết thực hiện dự án.

Phạm Thị Vân - K35D

20


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp
Chương 3

KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội xã Xuân Sơn, huyện Tân Sơn, tỉnh
Phú Thọ
3.1.1. Điều kiện tự nhiên
Xuân Sơn là xã vùng sâu vùng xa, xã đặc biệt khó khăn của huyện Tân
Sơn, là một trong số 14 xã đặc biệt khó khăn nằm trong chương trình 135 giai
đoạn II. Xã Xuân Sơn phía đông giáp xã Xuân Đài, phía tây giáp Phù Yên
Sơn La - tỉnh Sơn La và huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình, phía bắc giáp xã Đồng
Sơn Lai Đồng và Tân Sơn - huyện Tân Sơn, phía nam giáp xã Kim Thượng huyện Tân Sơn. Tổng diện tích tự nhiên là 65,48 km2 .
Nhiệt độ trung bình năm biến động từ 220C-230C. Mùa lạnh từ tháng 11
đến tháng 3 năm sau, ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc, nhiệt độ trong các
tháng này xuống dưới 200C, nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất là tháng 1.
Mùa nóng do ảnh hưởng của gió mùa Đông Nam nên thời tiết luôn nóng ẩm
mưa nhiều. Nhiệt độ trung bình trên 250C, nóng nhất vào tháng 6 và 7[15].
3.1.2. Tình hình phát triển kinh tế, xã hội

Trên địa bàn xã có tổng số: 274 hộ với 1095 nhân khẩu, có 4 khu hành
chính là: xóm Lạng, xóm Dù, xóm Cỏi, xóm Lấp. Đồng bào dân tộc Dao
chiếm 50,3%, Mường 49,3%, dân tộc Nùng: 0,4% dân số (2012).
Người dân chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số, phong tục tập quán lạc
hậu, nhận thức còn hạn chế, khó tiếp thu, vận dụng các tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào sản xuất trồng trọt, chăn nuôi. Việc chăn nuôi gia súc, gia cầm trên
địa bàn xã chủ yếu là chăn thả tự nhiên, đàn gia súc phần lớn là thả dông cho
nên việc chăm sóc phòng dịch bệnh chưa được kịp thời.

Phạm Thị Vân - K35D

21


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Bên cạnh đó thời tiết khí hậu những năm vừa qua diễn biến phức tạp,
hệ thống thủy lợi kém phát triển, thiếu nước tưới tiêu gây khó khăn cho hoạt
động canh tác cây trồng của người dân. Tất cả những yếu tố này ảnh hưởng
không nhỏ đến phát triển kinh tế ở xã.
Trên địa bàn xã có vườn Quốc gia Xuân Sơn, hang Lạng là những danh
lam nổi tiếng thu hút khách du lịch, tuy nhiên chính quyền và người dân nơi
đây chưa khai thác tốt thế mạnh này để tăng thêm thu nhập, chỉ là những dịch
vụ nhỏ, lẻ, tự phát, không chuyên nghiệp.
Thu nhập bình quân đầu người của xã năm 2012 đạt khoảng 4,5
triệu/người/năm, chủ yếu từ trồng trọt và chăn nuôi.
3.2. Một số đặc điểm của giống gà nhiều cựa nuôi tại địa phương
3.2.1 Đặc điểm ngoại hình

Có sự tranh cãi là gà ở Xuân Sơn mang nhiều cựa hay mang nhiều
“ngón” vì cựa gà ở đây không cứng như cựa gà thường mà gần giống như
ngón chân gà. Ngón chân của gà bình thường ngoài chuyện để di chuyển thì
còn để cào bới và bấu vào cây. Nhưng ngón chân đeo vào chân của gà nhiều
cựa ở Xuân Sơn lại không làm nhiệm vụ đó, vì vậy có thể gọi là cựa. Hơn
nữa, gà có đủ chín cựa khá hiếm, vì vậy sau nhiều tranh cãi các nhà khoa học
đã thống nhất gọi gà có nhiều cựa ở Xuân Sơn là “ gà nhiều cựa”.
Gà nhiều cựa từ khi nở ra ở mỗi bên chân mọc từ 2 đến 3 cựa, về sau gà
trưởng thành đặc biệt có một số con mọc thêm mỗi bên chân 1 cựa hoặc đến 2
cựa. Cựa rất mềm không cứng như ở bàn chân chính. Mỗi cựa dài ngắn khác
nhau, mọc nối theo hàng. Đặc biệt cựa trên cùng hoàn toàn chỉ là sừng và rất
cong.
Đặc điểm màu lông: con trống thường có màu hoa mơ pha với tím sẫm;
gà mái: vàng nhạt, vàng trắng, hoa mơ; gà nhiều cựa thường có ở những con
lông màu đỏ; những con màu nâu, màu trắng thường ít có.

Phạm Thị Vân - K35D

22


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Mào màu đỏ tươi; đuôi cong, mắt sáng.
Một số đặc điểm ngoại hình của gà nhiều cựa (hình 1) được mô tả ở
bảng sau:

Bảng 1: Đặc điểm ngoại hình giống gà nhiều cựa

Chỉ tiêu

Gà con
Màu lông đa

Màu lông

Trưởng thành
Trống
Mái
Bộ lông sặc sỡ nhiều Vàng nhạt, vàng

dạng: Nâu, sọc

màu: hoa mơ pha

trắng, vàng rơm,

dưa, vàng nhạt

tím sẫm và hoa mơ

vàng nâu đen,

đen thẫm, đen đỏ,

trắng. màu pha

mận chín.


trộn.

Mào cờ, đỏ tươi,

Mào cờ, đỏ. Mỏ

mào có 6-7 khía. Mỏ cong màu vàng

Mào, mỏ

có màu vàng đậm,

đậm, vàng nhạt.

vàng nhạt.

Chân

Chân thấp, có

Chân thấp, có nhiều

Chân thấp có nhiều

nhiều cựa, mỗi

cựa (thường là 6,7,8

cựa.


bên chân mọc

cựa; 9 cựa rất hiếm)

từ 2 đến 3 cựa.
Ngoại hình, Nhỏ, lông mượt
kiểu lông

Lông mượt, tầm vóc

Lông mượt, tầm

nhỏ, chân thấp.

vóc nhỏ

3.2.2. Một số chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật của giống gà nhiều cựa
Chúng tôi cũng đã tìm hiểu về một số chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật của
giống gà nhiều cựa nuôi tại Xuân Sơn, Tân Sơn, Phú Thọ. Số liệu trình bày ở
bảng 2.

Phạm Thị Vân - K35D

23


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp


Bảng 2. Các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật của giống gà nhiều cựa và một số
giống gà khác [12], [14]
Giống gà
Chỉ tiêu
Tuổi thành thục tính (tháng)

Gà nhiều
Gà Tre
cựa
4-5
5-6

Gà Ri

Gà Hồ

4-5

6-8

K.lượng thời điểm thành thục
(gr)
- Gà trống

850

400

1500


3800

- Gà mái

750

350

1200

2300

- Gà trống

1960

1000

2100

4400

- Gà mái

1510

700

1800


2700

70 - 75

40 - 50

80- 100

40 - 50

4,5-5

3-4

5-6

4,23

K.lượng trưởng thành (gr)

Sản lượng trứng bình quân
(quả)
Số lứa đẻ (lứa)

So sánh các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật của giống gà nhiều cựa với một số
giống gà nội chúng tôi nhận thấy:
- Khối lượng trưởng thành của gà nhiều cựa (gà mái: 1510 gr; trống:
1960 gr) lớn hơn so với giống gà tre (gà mái: 600-700 gr; trống: 800-1.000
gr); gần tương đương với giống gà ri (gà mái: 1200-1800 gr; gà trống: 15002100 gr); nhưng lại nhỏ hơn so với Gà Hồ (gà mái: 2700 gr; trống: 4400 gr).
- Sản lượng trứng của gà nhiều cựa cao hơn gà Hồ, gà Tre nhưng lại

thấp hơn so với gà ri.
- Tuổi thành thục tính của gà nhiều cựa: 4-5 tháng sớm hơn gà Hồ: 6-8
tháng.

Phạm Thị Vân - K35D

24


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

3.3. Tình hình phát triển chăn nuôi giống gà nhiều cựa ở xã Xuân Sơn,
huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ
Gà nhiều cựa là giống gà thích nghi với điều kiện sống ở vùng núi cao,
khí hậu mát mẻ. Tại tỉnh phú Thọ giống gà này được chăn nuôi nhiều ở huyện
Tân Sơn, trong huyện cũng chỉ một số xã phát triển chăn nuôi gà nhiều cựa
như: Xuân Sơn, Xuân Đài, Kim Thượng.
Số lượng giống gà này ở huyện Tân Sơn qua những năm gần đây do
một số lý do mà có những biến động lớn. Số lượng gà nhiều cựa ở huyện Tân
Sơn qua các năm theo thống kê của huyện thể hiện ở bảng 3.
Bảng 3: Số lượng gà nhiều cựa của huyện Tân Sơn qua một số năm [14]

Năm

Số lượng (con)

2007


1670

2008

1190

2009

944

2010

1800

2011

3700

2012

6000

Nhận xét: Giai đoạn 2007-2009: số lượng gà giảm nhiều từ 1670 con năm
2007 đến năm 2009 chỉ còn 944 con.
Giai đoạn 2010-2012 có hiện tượng gia tăng nhanh về số lượng: từ 1800
con năm 2010 tăng lên 6000 con vào 2012.
Nguyên nhân gây biến động lớn về số lượng gà nhiều cựa ở huyện
Xuân Sơn trong những năm vừa qua là do:

Phạm Thị Vân - K35D


25


×