Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Nghiên cứu sự biến động thành phần loài ve giáp (acari oribatida) ở rừng tự nhiên tại vườn quốc gia tam đảo tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.47 MB, 36 trang )

Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2

Khoa Sinh - KTNN

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế giới sinh vật đất vô cùng đa dạng và phong phú. Ở đây, ta có thể
gặp hầu hết các đại diện của ngành động vật không xương sống và một số đại
diện của động vật có xương sống.
Ngay từ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, các nhà động vật học, thổ
nhưỡng học, sinh thái học đã đặc biệt quan tâm đến các hoạt động tạo đất của
các nhóm sinh vật sống trong môi trường này. Tuy nhiên chỉ đến những năm
40-50 của thế kỉ XX, nghiên cứu các nhóm sinh vật đất cùng các hoạt động
sống của chúng trong mối quan hệ chặt chẽ với môi trường đất mới thực sự
trở thành bộ môn khoa học riêng biệt, đó là khoa học Sinh thái đất. Ngày nay,
số lượng nghiên cứu của các công trình này ngày càng đa dạng, ngay trong
phòng thí nghiệm và ứng dụng thực tiễn.
Trong hệ thống động vật đất, nhóm Chân khớp bé (Microarthropoda),
với kích thước cơ thể khoảng 0,1 – 0,2 mm đến 2,0 – 3,0 mm thường chiếm
ưu thế về số lượng. Hai đại diện chính của nhóm này là Ve bét (Acari) và Bọ
nhảy (Collembola), ngoài ra còn có các đại diện thuộc các nhóm động vật
không xương sống khác[5].
Ve giáp (Acari: Oribatida, còn gọi là Oribatei hoặc Cryptostigmata) là
những chân khớp có kìm, kích thước cơ thể khoảng 0,1 – 0,2 mm đến 1,0 –
2,0 mm. Chúng tham gia tích cực vào sự phân hủy vật chất hữu cơ, chu trình
nitơ và quá trình tạo đất. Chúng ăn cả thực vật sống và chết, nấm, rêu, địa y,
thịt thối rữa. Do mật độ quần thể lớn, có thể đạt tới vài trăm nghìn cá thể
trong một mét vuông đất, thành phần loài đa dạng nên việc nghiên cứu đầy đủ
nhóm động vật này sẽ góp phần làm chủ nguồn tài nguyên đa dạng sinh học,
đánh giá đặc điểm khu hệ và tính chất địa động vật[5].
Vườn quốc gia Tam Đảo là một trong 30 vườn quốc gia của Việt Nam,


nằm trọn trên dãy núi Tam Đảo. Rừng ở đây chủ yếu là rừng tự nhiên mưa
Khóa luận tốt nghiệp

1

Bùi Như Quỳnh


Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2

Khoa Sinh - KTNN

ẩm, thường xanh với độ che phủ chiếm 70% diện tích trên toàn vườn. Việc
nghiên cứu động vật đất đặc biệt là ve giáp đã được tiến hành nhưng chưa
nhiều. Nhằm bổ sung và cập nhật những dẫn liệu về ve giáp ở khu vực này
chúng tôi đã chọn đề tài “ Nghiên cứu sự biến động thành phần loài ve
giáp (Acari: Oribatida) ở rừng tự nhiên tại vườn quốc gia Tam Đảo –
Vĩnh Phúc”
2. Mục đích nghiên cứu
Bước đầu làm quen với nghiên cứu khoa học, xây dựng lòng say mê
học tập làm tiền đề cho giảng dạy và nghiên cứu sau này.
Tìm hiểu sự biến động thành phần loài, phân bố và mật độ ve giáp ở
rừng tự nhiên tại vườn quốc gia Tam Đảo – Vĩnh Phúc.
3. Nội dung nghiên cứu
Xác định thành phần loài ve giáp ở khu vực nghiên cứu
Đặc điểm phân bố của ve giáp ở khu vực nghiên cứu
Sự biến động thành phần loài của quần xã ve giáp ở khu vực nghiên cứu
Những loài ve giáp ưu thế ở khu vực nghiên cứu

Khóa luận tốt nghiệp


2

Bùi Như Quỳnh


Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2

Khoa Sinh - KTNN

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu ve giáp (Acari: Oribatida) trên thế giới
Trên thế giới, các nhóm động vật không xương sống nói chung và
Oribatida nói riêng đã được nghiên cứu từ rất lâu, cách đây hàng trăm năm. Ở
Đức với công trình của Hermann J.F năm 1804; ở Ý là công trình của
Canestrini G. & Fanzago F. năm 1876, 1877.
Khu hệ ve giáp trên thế giới hiện đã mô tả khoảng 10000 loài và thực tế
có thể lên đến 100000 loài. Theo Balogh J. và Balogh B. (1992), số lượng
giống ve giáp trên thế giới đã tăng từ 700 giống đến 1000 giống chỉ trong 20
năm gần đây[14]. Hàng năm, các loài ve giáp mới vẫn được mô tả đều đặn. Ở
Bắc Mỹ, khoảng 75% số loài của khu hệ ve giáp còn chưa được mô tả
(Bechan - Pelletier et al., 1993) [16].
Trong các công trình nghiên cứu về Acari trước đây, các công trình của
Berlese đóng một vai trò quan trọng và có một vị trí đặc biệt. Ông là một
trong những người quan tâm đến ve giáp đầu tiên. Từ năm 1881 đến năm
1923, ông đã mô tả khoảng 120 loài Oribatida. (Hammen L.Van Der, 2009).
Ở Canada, khu hệ ve giáp là một trong những khu hệ được nghiên cứu
khá kỹ. Theo Behan – Pelletier et al., 2000, mặc dù các dẫn liệu về sinh thái,
phân bố của chúng có nhiều, nhưng về khu hệ, số loài được biết chỉ chiếm 1/4
số loài có trong thực tế [17].

Còn ở Thụy Sĩ, trên cơ sở các kết quả nghiên cứu của các tác giả khác,
cùng với kết quả nghiên cứu của riêng mình. Schatz, 2002 đã công bố và tổng
hợp bản mục lục các loài ve giáp đã biết ở khu vực Trung Châu Mỹ. Danh lục
này gồm 543 loài ve giáp thuộc 87 họ. Ngoài ra, ông còn liệt kê số lượng ve
giáp đã thu thập ở các quốc gia và vùng lãnh thổ khác cũng thuộc Trung Mỹ
như: Cuba (225 loài), Jamaica (28 loài).... Hiện tại 498 loài ve giáp đã được
ghi nhận (gồm 300 loài đã xác định tên, 198 loài còn ở dạng sp.) (Schatz,
2002) [22].
Khóa luận tốt nghiệp

3

Bùi Như Quỳnh


Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2

Khoa Sinh - KTNN

Ở Nga, nghiên cứu về ve giáp phát triển mạnh từ những năm 50 của thế
kỷ XX. Cho đến nay đã ghi nhận được 300 loài ve giáp ở tất cả các hệ sinh
thái, riêng khu hệ Oribatida sống trên cây cũng được đặc biệt đến nghiên cứu
từ mấy chục năm (Ermilov S.G., et al., 2007).
Đến năm 1999, Ve bét (Acari) vốn được coi là cư dân truyền thống ở
đất đã được chú ý đến khi được phát hiện ở lớp thảm mục. Khu hệ Ve bét
sống tự do, cư trú trên tán cây rừng nhiệt đới, ôn đới, được xem như “những
sinh vật sống trôi nổi trên cây” (Wallter et al., 1999) đã được một số tác giả
đề cập tới. Chúng được thu thập từ vỏ cây, rêu, địa y.
Năm 2004, Karasawa đã nghiên cứu cấu trúc quần xã Oribatida ở đất
treo và các nhân tố hữu sinh, vô sinh gây nên sự đa dạng của chúng. Theo tác

giả, Oribatida là một trong những nhóm Chân khớp chiếm ưu thế về số lượng
trong đất treo. Từ sinh cảnh này thu được không ít hơn 50 loài. Độ đa dạng
loài Oribatida ở đất treo có thể thấp hơn so với khu hệ Oribatida ở đất rừng
(Karasawa, 2004) [18].
Có rất nhiều công trình nghiên cứu về vai trò chỉ thị sinh học của
Oribatida theo các hướng: chỉ thị cho chất lượng đất ở mức độ loài hay quần
xã, chỉ thị cho thuốc trừ sâu, phân bón... sử dụng trong sản xuất nông nghiệp,
chỉ thị cho môi trường đô thị...
Những lợi thế của Oribatida khi sử dụng chúng như những sinh vật chỉ
thị trong việc đánh giá chất lượng hệ sinh thái trên cạn là ở chỗ: chúng có độ
đa dạng cao, thu lượm với số lượng lớn một cách dễ dàng, ở tất cả các mùa
trong năm, trong nhiều sinh cảnh; việc định loại cá thể trưởng thành tương đối
dễ; hầu hết chúng sống trong tầng hữu cơ của lớp đất màu mỡ và chúng là
nhóm dinh dưỡng không đồng nhất. Chúng bao gồm các taxon được đặc trưng
bởi sự sinh sản nhanh, thời gian sinh sống của các con non và con trưởng
thành dài, khả năng tăng quần thể chậm... (Behan – Pelletire, 1999) [15].

Khóa luận tốt nghiệp

4

Bùi Như Quỳnh


Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2

Khoa Sinh - KTNN

Một số nghiên cứu sơ bộ về chỉ thị sinh học trong môi trường đô thị
cũng cho thấy Oribatida là nhóm động vật nhạy cảm với sự thay đổi chất

lượng không khí .
Có thể thấy lịch sử nghiên cứu của Oribatida đã có từ rất lâu trên thế
giới, được nghiên cứu một cách hệ thống về cả khu hệ, sinh học, sinh thái và
vai trò chỉ thị.
1.2. Tình hình nghiên cứu ve giáp (Acari: Oribatida) ở Việt Nam
Ở Việt Nam, động vật chân khớp bé ở đất đã được nghiên cứu từ những
năm 30 của thế kỉ XX. Ban đầu là các nghiên cứu lẻ tẻ của các tác giả nước
ngoài kết hợp nghiên cứu cùng các nhóm sinh vật khác.
Năm 1967, lần đầu tiên trong công trình “New Oribatid from Viet
Nam”, hai tác giả người Hungari là Balogh J. và Mahunka S. đã giới thiệu
khu hệ, danh pháp học và đặc điểm phân bố của 33 loài Ve giáp, trong đó đã
mô tả 29 loài, 4 giống mới cho khoa học.
Từ sau 1975, các tác giả trong nước bước đầu đã tiến hành nghiên cứu
độc lập về Oribatida. Đầu tiên phải kể đến công trình nghiên cứu của tác giả
Vũ Quang Mạnh về nhóm Chân khớp bé (Microarthropoda) ở đất Cà Mau và
Từ Liêm năm 1980, 1984... [2], [3].
Tiếp theo là hàng loạt các nghiên cứu của nhiều tác giả nhằm đề xuất
phương pháp nghiên cứu, xác định mật độ, thành phần loài, khu hệ (chủ yếu
là nhóm Acari và Collembola) ở một số vùng địa lý, loại đất và kiểu hệ sinh
thái của Việt Nam.
Vũ Quang Mạnh, Mara Jeleva (1987) đã giới thiệu đặc điểm phân bố và
danh pháp phân loại học của 11 loài mới cho khu hệ Oribatida Việt Nam và 1
loài mới cho khoa học [8].
Nghiên cứu khu hệ Oribatida ở Việt Nam của Mahunka (1988) đã xác
định 15 loài mới cho khoa học, trong đó có một số loài mới thu từ mẫu đất
vùng Tam Đảo [20].
Khóa luận tốt nghiệp

5


Bùi Như Quỳnh


Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2

Khoa Sinh - KTNN

Vũ Quang Mạnh, Cao Văn Thuật (1990) xác định được 24 loài
Oribatida ở vùng đồi núi đông bắc Việt Nam khi tiến hành nghiên cứu cấu
trúc định lượng của nhóm Microarthropoda ở 7 kiểu sinh thái, ở 5 dải độ cao
khí hậu và 3 loại đất. Theo 2 tác giả này, trong nhóm Microarthropoda,
Oibatida luôn chiếm số lượng chủ yếu từ 70 – 80% tổng số lượng, còn nhóm
Collembola chỉ chiếm 10% [9].
Vũ Quang Mạnh, Vương Thị Hòa (1995) đã giới thiệu danh sách 146
loài và phân loài Oribatida ở Việt Nam và phân tích đặc điểm thành phần loài
của chúng [7].
Nhìn chung những nghiên cứu về ve giáp ở Việt Nam đã đề cập một
cách toàn diện và có hệ thống với kết quả cao. Tuy nhiên các kết quả đạt được
mới chỉ là những bước đi định hướng ban đầu. Để tìm hiểu thấu đáo vai trò
của nhóm ve giáp sống trong môi trường đất và để đưa nhóm này ứng dụng
vào lĩnh vực khoa học và thực tiễn thì việc nghiên cứu ve giáp cần được đẩy
mạnh nghiên cứu trong những năm tiếp theo.

Khóa luận tốt nghiệp

6

Bùi Như Quỳnh



Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2

Khoa Sinh - KTNN

CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng nghiên cứu
Các loài Oribatida (Acari: Oribatida) thuộc ngành chân khớp
(Arthropoda), phân ngành chân khớp có kìm (Chelicerata), lớp hình nhện
(Arachnida), phân lớp ve bét (Acari).
2.2 Thời gian nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu từ tháng 3 năm 2012 đến tháng 5 năm 2013. Tổng
số mẫu là 24.
2.3 Địa điểm nghiên cứu
Rừng tự nhiên của vườn quốc gia Tam Đảo – Vĩnh Phúc (Bảng 2.1).
2.4 Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp truyền thống trong nghiên cứu khu hệ và sinh
thái động vật đất ở thực địa và trong phòng thí nghiệm theo Krivolutsky, 1979
[19].
2.4.1. Phương pháp nghiên cứu ngoài thực địa
Các mẫu ve giáp được thu theo 4 tầng trong rừng tự nhiên của Vườn
quốc gia Tam Đảo, cụ thể:
- Mẫu đất được lấy ở 2 tầng: tầng A1 có độ sâu từ 0 – 10 cm (tính từ
mặt đất), và tầng A2 có độ sâu 11 – 20 cm. Mỗi mẫu có kích thước
(5 x 5 x 10) cm.
- Mẫu lá thu gom tất cả lá mục, cành cây, xác hữu cơ phủ trên mặt
đất, kí hiệu là tầng L. Mỗi mẫu có kích thước (20cmx20cm)
- Mẫu rêu bám thân cây gỗ rừng, xác vụn thực vật trên mặt đất nằm
ở độ cao 0-100cm, kí hiệu là tầng R. Mỗi mẫu là 200g.
Các mẫu định lượng của đất, lá, rêu được thu lặp lại 6 lần ở mỗi tầng và

ở mỗi điểm nghiên cứu. Mỗi mẫu được cho vào 1 túi nilon riêng được buộc

Khóa luận tốt nghiệp

7

Bùi Như Quỳnh


Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2

Khoa Sinh - KTNN

chặt, bên trong có chứa nhãn ghi đầy đủ các thông số: tầng phân bố, ngày
tháng, địa điểm… thu mẫu.
Bảng 2.1 Số lượng mẫu theo từng tầng nghiên cứu
Tầng phân bố

Số lượng mẫu

A1(0-10cm)

6

A2 (11-20cm)

6

L (10x10cm)


6

R (0-100cm)

6

2.4.2. Phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
Tách lọc mẫu Oribatida
Các mẫu sau khi thu ở thực địa về sẽ tiếp tục tiến hành tách động vật
Chân khớp bé ra khỏi đất theo phương pháp phễu lọc “Berlese – Tullgren”,
dựa theo tập tính hướng đất dương và hướng sáng âm của động vật đất, trong
thời gian 7 ngày đêm, ở điều kiện nhiệt độ phòng thí nghiệm.
Để xử lý mẫu, bảo quản và định loại: Các ống nghiệm chứa động vật
thu được nhờ phễu “Berlese – Tullgren” sẽ được đổ trên giấy lọc đặt sẵn trong
đĩa petri để dưới kính lúp 2 mắt để nhặt riêng từng nhóm Oribatida. Các mẫu
Oribatida không làm tiêu bản, sẽ được cho vào trong ống nghiệm chứa dung
dịch định hình là formol 4%. Các ống nghiệm đều được gắn nhãn ghi đầy đủ
ngày thu mẫu, địa điểm... Toàn bộ tiêu bản định loại và các mẫu vật được bảo
quản tại phòng Động vật, khoa Sinh – Kĩ thuật nông nghiệp, trường Đại học
Sư phạm Hà Nội 2.
Định loại Oribatida
Mẫu Oribatida, trước khi được định loại cần được tẩy màu, làm trong
vỏ kitin cứng. Quá trình làm trong màu có thể diễn ra trong một vài ngày hoặc
lâu hơn nên cần nhặt Oribatida riêng ra một lam kính lõm. Đưa lam kính lõm
quan sát dưới kính lúp, dựa vào đặc điểm hình dạng ngoài, dùng kim tách sơ
Khóa luận tốt nghiệp

8

Bùi Như Quỳnh



Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2

Khoa Sinh - KTNN

bộ chúng thành nhóm có hình thù giống nhau riêng. Đặt lamel ở bên trái lam
kính sao cho chỉ phủ một phần chỗ lõm. Nếu dung dịch axit nhỏ vào chỗ lõm
dưới lamel chưa đầy cần bổ sung cho đầy. Dùng kim chuyển từng Oribatida
vào chỗ lõm dưới lamel để quan sát ở các tư thế khác nhau theo hướng lưng
và bụng và ngược lại. Khi mẫu ở đúng tư thế quan sát, ta chuyển sang kính
hiển vi.
Sau khi định loại xong, các loài được đo kích thước và chụp ảnh. Tất cả
các cá thể cùng một loài để chung vào một ống nghiệm, dùng dung dịch định
hình bằng formol 4%. Dùng giấy can ghi các thông số tên loài cần thiết bằng
bút chì rồi nút bằng bông không thấm nước; tất cả các ống nghiệm được đặt
chung vào lọ thủy tinh lớn chứa formol 4% để bảo quản lâu dài. Ghi tất cả các
tên loài đã được định loại vào nhật ký phòng thí nghiệm.
Danh sách các loài Oribatida được sắp xếp theo hệ thống cây chủng loại
phát sinh dựa theo hệ thống phân loại của Balogh J. và Balogh P., 1992. Các
loài trong một giống được sắp xếp theo vần a, b, c. Định loại tên loài theo các
tài liệu phân loại, các khóa định loại của tác giả: Vũ Quang Mạnh, 2007 [6].
Tất cả các mẫu Oribatida sau khi đã phân tích, xử lý và định loại đều
được TS. Đào Duy Trinh kiểm định lại.
2.5. Xử lý số liệu
Sử dụng phương pháp thống kê trong tính toán và xử lý số liệu, trên
nền phần mềm Primer, 2001 [21]; phần mềm Excell 2003.
Các công thức tính:
- Số lượng loài:
Số lượng loài được tính bằng tổng số loài có mặt trong điểm nghiên

cứu ở tất cả các mẫu.
- Mật độ trung bình:
+ Với rêu, MĐTB là cá thể/ 1 kg
Khóa luận tốt nghiệp

9

Bùi Như Quỳnh


Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2

Khoa Sinh - KTNN

+ Với đất và thảm lá cá thể/ m2
- Chỉ số đa dạng loài (H’):
s

H'=−

ni

i =1

Trong đó:

 ni 

∑ N × ln  N 





s - số lượng loài;
ni - số lượng cá thể của loài thứ i

N – tổng số lượng cá thể trong sinh cảnh nghiên cứu.
Giá trị H’ dao động trong khoảng từ 0 đến ∞
Chỉ số (H’): được sử dụng để tính sự đa dạng loài hay số lượng loài
trong quần xã và tính đồng đều về sự phong phú cá thể của các loài trong
quần xã.
- Chỉ số đồng đều Pielou (J’)
J’=

H'
ln S

Trong đó: H’ – chỉ số đa dạng loài

S - số loài có trong sinh cảnh
Giá trị J’ dao động trong khoảng từ 0 đến 1
- Độ ưu thế D

Trong đó:

D : độ ưu thế
na: số lượng cá thể của loài a
n : tổng số cá thể của toàn bộ mẫu theo sinh cảnh hay
địa điểm


2.6 Một vài nét về khu vực nghiên cứu
- Vị trí địa lý và ranh giới : Vườn quốc gia Tam Đảo thuộc địa giới
hành chính của 3 tỉnh: Vĩnh Phúc, Thái Nguyên và Tuyên Quang. Nằm trên
Khóa luận tốt nghiệp

10

Bùi Như Quỳnh


Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2

Khoa Sinh - KTNN

dãy núi Tam Đảo, chạy dài trên 80km, rộng 10-15km, theo hướng Tây BắcĐông Nam, từ huyện Sơn Dương (Tuyên Quang) tới huyện Mê Linh (Vĩnh
Phúc). Trụ sở VQG cách Thủ đô Hà Nội khoảng 80 km về phía Bắc. Toạ độ
địa lý:
Từ 21021' đến 21042' độ vĩ Bắc
Từ 105013' đến 105044' độ kinh Đông
Ranh giới:
- Phía bắc giới hạn bởi Quốc lộ 13A (từ Thái Nguyên đi Tuyên
Quang);
- Phía nam giới hạn bởi ranh giới các huyện: Tam Dương, Mê Linh
(Vĩnh Phúc), Phổ Yên, Đại Từ (Thái Nguyên);
- Phía đông bắc giới hạn bởi đường ô tô, giáp chân núi từ xã Quân Chu
đến gặp đường Quốc lộ 13A, tại xã Phú Xuyên huyện Đại Từ;
- Phía tây nam giới hạn bởi đường ô tô phía trái sông Phó Đáy, nối từ
Quốc lộ 13A tại xã Kháng Nhật, qua mỏ thiếc Sơn Dương chạy dọc theo chân
dãy Tam Đảo gặp sông Bà Hạnh tại xã Mỹ Khê.
- Địa hình và địa mạo: Tam Đảo có địa hình vùng núi cao trung bình,

nằm cuối hệ thống núi hình cánh cung thượng nguồn sông Chảy. Bắt đầu từ
dãy Tam Đảo, độ cao địa hình giảm dần hình thành các đồi gò vùng trung du
và đồng bằng Bắc Bộ. Tam Đảo là dãy núi có cấu tạo địa hình đồ sộ và bị
phân cắt mạnh, sườn dốc. Độ dốc trung bình 26-350, có nơi trên 350 nên rất
hiểm trở, khó đi lại. Các khối núi có đặc điểm chung là đỉnh nhọn, độ chia cắt
sâu và dầy. Đỉnh cao nhất là đỉnh Tam Đảo Bắc (Tamdao North), cao 1592m,
là điểm ranh giới của ba tỉnh: Vĩnh Phúc, Thái Nguyên và Tuyên Quang.
Ngoài ra, trong khu vực còn có 3 đỉnh cao khác là: Thiên Thị (Rùng Rình)
1375m; Thạch Bàn 1388m và Phù Nghĩa cao 1300m. Về mùa đông, khi trời
nhiều mây, trông 3 đỉnh núi này như 3 hòn đảo lớn nổi trên biển mây trắng
nên được gọi là "Tam Đảo". Nằm sát với 3 đỉnh núi này là khu nghỉ mát Tam
Khóa luận tốt nghiệp

11

Bùi Như Quỳnh


Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2

Khoa Sinh - KTNN

Đảo, ở độ cao 900m, là khu du lịch nổi tiếng trong và ngoài nước với dịch vụ
nghỉ ngơi, giao thông thuận lợi.
Dựa vào độ cao, địa hình và địa mạo có thể chia Tam Đảo thành 4
dạng địa hình chính:
+ Thung lũng và đồng bằng ven sông suối: Phân bố rải rác dưới chân
các dãy núi, ven sông suối, độ cao tuyệt đối dưới 100m, độ dốc nhỏ
hơn 70.
+ Đồi cao trung bình: Phân bố xung quanh chân núi và tiếp giáp với

đồng bằng, độ cao tuyệt đối 100-400m, độ cao tương đối 25-400m, độ
dốc từ 8-150.
+ Núi thấp: Phân bố xen giữa vùng đồi và núi cao trung bình, độ cao
tuyệt đối 400-700m, độ cao tương đối lớn hơn 400m, độ dốc từ 16-250.
+ Núi cao trung bình: Bao gồm toàn bộ các đỉnh có độ cao lớn hơn
700m, độ cao tuyệt đối từ 700- 1592m, độ dốc 26-350.
Vườn quốc gia Tam Đảo là vùng núi cao nằm trọn trong dãy núi Tam Đảo.
Đây là dãy núi có trên 20 đỉnh cao từ 1000m trở lên so với mặt nước biển,
đỉnh cao nhất là 1592m. Địa hình ở đây có đặc điểm là đỉnh nhọn, sườn rất
dốc, độ chia cắt sâu, dày bởi nhiều dông phụ gần như vuông góc với dông
chính.
- Khí hậu: Dãy núi Tam Đảo tạo ra 2 sườn đông và tây rõ rệt, lượng
mưa hàng năm khác nhau đã góp phần tạo nên các tiểu vùng khí hậu khác
biệt. Đây cũng là yếu tố tạo ra 2 đai khí hậu nóng ẩm, nhiệt đới mưa mùa từ
độ cao 700-800 m trở xuống và đai khí hậu á nhiệt đới mưa mùa, cũng như
một số khu vực có nhiệt độ, lượng mưa rất khác nhau của Tam Đảo. Tất cả
tạo nên một vườn quốc gia Tam Đảo được che phủ bởi một lớp thảm thực vật
dày đặc, nhiều tầng và đa dạng về loài, đa dạng về quần xã sinh học và hệ
sinh thái.

Khóa luận tốt nghiệp

12

Bùi Như Quỳnh


Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2

Khoa Sinh - KTNN


- Thủy văn: Trong khu vực có 2 hệ thống sông chính: sông Phó Đáy ở
phía tây và sông Công ở phía đông. Hầu hết các suối chính của Tam Đảo đều
đổ vào hai con sông này. Hệ thống suối dày đặc, ngắn và dốc. Do độ dốc lớn
nên lưu lượng nước chênh lệch lớn giữa mùa khô và mùa mưa. Lũ lớn thường
sảy ra từ tháng 4-10 (tập trung vào tháng 8), nước dâng nhanh và rút nhanh.
Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, phần lớn suối nhỏ cạn nước, gây
khó khăn cho sản xuất và sinh hoạt của người dân. Trong khu vực có một số
hồ nước lớn: Xạ Hương, Khôi Kỳ, Ninh Lai, Hồ Sơn có khả năng phục vụ
tưới tiêu cho khu vực.
Nhìn chung, điều kiện khí hậu, thuỷ văn khu vực thuận lợi cho sinh
trưởng, phát triển của các loài động thực vật rừng và sản xuất nông nghiệp.
- Địa chất
Dãy núi Tam Đảo được cấu tạo chủ yếu bằng hệ tầng phún trào axid
gồm các lớp Rionit, Daxit kết tinh xen kẽ nhau, tuổi địa chất khoảng trên 260
triệu năm. Trong quá trình vận động tạo sơn đã tạo ra những khoáng sản quý
có nguồn gốc nội sinh như: Thiếc, Wolfram...phân bố ở phía bắc Tam Đảo.
- Hệ thực vật và động vật
+ Hệ thực vật
Theo kết quả điều tra từ 1997-2000, đã ghi nhận được tại vườn quốc
gia Tam Đảo 1282 loài thực vật bậc cao có mạch, thuộc 660 chi, 179 họ.
Trong số 1282 loài thực vật được phát hiện tại Tam Đảo có 66 loài cây quý
hiếm có tên trong Sách đỏ Việt Nam: trầm hương, kim tuyến, trầu tiên, vù
hương, đỗ trọng bắc, sưa bắc bộ, vàng tâm, đinh hương, kim giao vv. Đặc
biệt, trong số đó có 42 loài thực vật được coi là đặc hữu của vườn quốc gia
Tam Đảo (nguồn: Các VQG Việt Nam, 2001).
Mặc dù đây mới chỉ là những ghi nhận bước đầu, chắc chắn trong
tương lai sẽ còn nhiều loài được phát hiện tại khu vực, nhưng số liệu trên cho

Khóa luận tốt nghiệp


13

Bùi Như Quỳnh


Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2

Khoa Sinh - KTNN

thấy vườn quốc gia Tam Đảo là nơi có mức độ đa dạng cao về thành phần
loài thực vật và là nguồn gen vô giá cho bảo tồn đa dạng sinh học.
+ Hệ động vật rừng
Theo kết quả điều tra, tính đến năm 2003, đã phát hiện được tại vườn
quốc gia Tam đảo 70 loài thú, 248 loài chim, 132 loài bò sát 62 loài ếch nhái
và 651 loài côn trùng. Với số liệu trên, nếu đánh giá theo chỉ số đa dạng sinh
học thì khu hệ động vật Tam Đảo có mức độ đa dạng rất cao về bộ, họ và đa
dạng cao về thành phần loài so với toàn quốc [1].

Hình 2.1: Vị trí điểm nghiên cứu

Khóa luận tốt nghiệp

14

Bùi Như Quỳnh


Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2


Khoa Sinh - KTNN

CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
3.1. Thành phần loài ve giáp ở rừng tự nhiên của vườn quốc gia Tam Đảo
3.1.1. Danh sách loài ve giáp tại rừng tự nhiên ở vườn quốc gia Tam
Đảo
Đã ghi nhận được 45 loài thuộc 28 giống và 20 họ (Bảng 3.1). Trong
danh sách này, thành phần loài Oribatida được xếp theo hệ thống phân loại
của Balogh J. et al., 1992; Vũ Quang Mạnh, 2007 [6], [14].
Bảng 3.1. Thành phần ve giáp ở sinh cảnh rừng tự nhiên vườn quốc gia
Tam Đảo – Vĩnh Phúc

Tầng phân bố
STT

Thành phần
R

I

L

A1

x

x

A2


EUPHTIRACARIDAE JACOT, 1930
Giống Rhysotritia Maerkel et Meyer,
1 1959
Rhysotritia ardua (C. L. Koch, 1841)
2 Rhysotritia duplica (Grandjean, 1953)

II

x

LOHMANNIIDAE BERLESE, 1916
Giống Javacarus Balogh, 1961
3 Javacarus kuehnelti Balogh, 1961

x

Giống Lohmannia Michael, 1898
4 Lohmannia javana Balogh, 1961

x

x

Giống Papilacarus Kunst, 1959
5 Papilacarus aciculatus (Berlese, 1905)

x

x


6 Papilacarus arboriseta Vu et Jeleva,
7 1987
Papilacarus sp.

Khóa luận tốt nghiệp

x
x

15

Bùi Như Quỳnh


Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2

Khoa Sinh - KTNN

8 Papilacarus undrirostratus Aoki, 1964
III

x

EPILOHMANNIIDAE OUDEMANS,
1923
Giống Epilohmannia Berlese, 1910
9 Epilohmannia cylindrica (Berlese, 1904)

IV


x

NOTHRIDAE BERLESE, 1896
Giống Nothrus C. L. Koch, 1836
10 Nothrus baviensis Krivolutsky, 1998

V

x

TRHYPOCHTHONIDAE
WILLMANN,
1931Grandjean, 1931
Giống Archegozetes
11 Archegozetes longisetosus Aoki, 1965

x

12 Archegozetes sp.

x

NANHERMANNIIDAE SELLNICK,

VI

1928
Giống Nanhermannia Berlese, 1913
13 Nanhermannia thainensis Aoki, 1965
VII


x

x

HERMANNIIDAE SELLNICK, 1928
Giống Phyllhermannia Berlese, 1916
14 Phyllhermannia gladiata Aoki, 1965
15 Phyllhermannia similis

VIII

x

Balogh et

x

x

Mahunka, 1967
CEPHEIDAE BERLESE, 1896
Giống

Sphodrocepheus

Woolley

et


Higgins, 1963 tuberculatus Mahunka,
16 Sphodrocepheus
17 1988
Sphodrocepheus sp.
IX

x

x

x

x

x

MICROTEGEIDAE BALOGH, 1972

Khóa luận tốt nghiệp

16

Bùi Như Quỳnh


Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2

Khoa Sinh - KTNN

Giống Microtegeus Berlese, 1916

18 Microtegeus reticulatus Aoki, 1965
X

x

x

x

x

x

x

x

x

ASTEGISTIDAE BALOGH, 1961
Giống Cultroribula Berlese, 1908
19 Cultroribula lata Aoki, 1961

x

20 Cultroribula sp.
XI

PELOPPIIDAE BALOGH, 1943
Giống Furcoppia Balogh et Mahunka,

21 1966
Furcoppia parva Balogh et Mahunka,

x

1967
CARABODIDAE
C. L. KOCH, 1837

XII

Giống Aokiella Balogh et Mahunka,
22 1967
Aokiella florens Balogh et Mahunka,

x

1967
Giống Gibbicepheus Balogh, 1958
23 Gibbicepheus baccanensis Jeleva et Vu,
XIII

x

1987
OTOCEPHEIDAE BALOGH, 1961
Giống Acrotocepheus Berlese, 1905

24 Acrotocepheus duplicornutus Aoki, 1965


x

Balogh
et Mahunka,Balogh
1967 et
25 discrepans
Acrotocepheus
triplicornutus

x

x

x

x

x

x

x

x

Mahunka,
1967
Giống Dolicheremaeus
Jacot, 1938
26 Dolicheremaeus


aoki

(Balogh

et

1967) lineolatus Balogh et
27 Mahunka,
Dolicheremaeus
1967
28 Mahunka,
Dolicheremaeus
XIV

ornata

(Balogh

et

x

x

x
x

Mahunka,
1967) BALOGH, 1961

EREMELLIDAE

Khóa luận tốt nghiệp

17

Bùi Như Quỳnh


Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2

Khoa Sinh - KTNN

Giống Eremella Berlese, 1913
29 Eremella vestita Berlese, 1913

x

30 Eremella sp.
XV

x

x

x

x

x


x

OPPIIDAE GRANDJEAN, 1954
Giống Pulchroppia Subias et Balogh,
31 1989
Pulchroppia granulata Mahunka, 1988

x

Giống Lasiobelba Aoki, 1959
32 Lasiobelba remota Aoki, 1959
XVI

x

MOCHLOZETIDAE GRANDJEAN,
1960
Giống Unguizetes Sellnick, 1925

33 Unguizetes clavatus Aoki, 1967

x

34 Unguizetes sp.
XVII

x

XYLOBATIDAE J. BALOGH ET P.

BALOGH,
1984
Giống Brasilobates

Pérez-Inigo

et

1980maximus Mahunka, 1988
35 Baggio,
Brasilobates

x

Giống Perxylobates Hammer, 1972
36 Perxylobates brevisetus Mahunka, 1988

x

37 Perxylobates

et

x

1968)
38 Mahunka,
Perxylobates
vietnamensis (Jeleva et Vu,


x

vermiseta

(Balogh

1987)
Giống Xylobates Jacot, 1929
39 Xylobates capucinus (Berlese, 1908)

x

40 Xylobates lophotrichus (Brerlese, 1904)

x

XVIII PROTORIBATIDSAE J. BALOGH
ET P. BALOGH, 1984
Khóa luận tốt nghiệp

18

Bùi Như Quỳnh


Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2

Khoa Sinh - KTNN

Giống Liebstadia Oudemans, 1906

41 Liebstadia humerata Sellnick, 1928
XIX

HAPLOZETIDAE

x

x

x

x

x

x

GRANDJEAN,

1936
Giống Peloribates Berlese, 1908
42 Peloribates pseudoporosus Balogh et

x

x

Mahunka,
1967 Sellnick, 1925
Giống Rostrozetes

43 Rostrozetes sp.
XX

SCHELORIBATIDAE
GRANDJEAN,
1953Berlese, 1908
Giống Scheloribates
44 Scheloribates laevigatus (C. L. Koch,

x

45 1836)
Scheloribates latipes (C. L. Koch, 1841)

x
11

Số loài theo sinh cảnh

31

20

15

45

Chú thích:
R: rêu (0-100cm)


A1: đất (0-10cm)

L: lá (20cmx20cm)

A2: đất (11-20cm)

Trong tổng số 45 loài ghi nhận được ở sinh cảnh rừng tự nhiên vườn
quốc gia Tam Đảo có 38 loài đã xác định được về tên, còn 7 loài chưa định
tên gồm: Rostrozetes sp.; Unguizetes sp.; Eremella sp.; Cultroribula sp.;
Sphodrocepheus sp.; Archegozetes sp.; Papilacarus sp.. Các loài Ve giáp có
mặt ở tất cả các dạng sinh cảnh nghiên cứu: Peloribates pseudoporosus
Balogh et Mahunka, 1967; Eremella vestita Berlese, 1913; Cultroribula lata
Aoki, 1961. Thành phần loài của các sinh cảnh khác nhau thì khác nhau. Tầng
L có nhiều loài nhất với 31 loài (chiếm 68,89% tổng số loài), tầng A1 có 20

Khóa luận tốt nghiệp

19

Bùi Như Quỳnh


Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2

Khoa Sinh - KTNN

loài (chiếm 44,44% tổng số loài), tầng A2 có 15 loài (chiếm 33,33% tổng số
loài), tầng R có ít loài nhất với 11 loài (chiếm 224,44% tổng số loài).
3.1.2. Thành phần phân loại học của ve giáp tại rừng tự nhiên của vườn
quốc gia Tam Đảo

Kết quả nghiên cứu về thành phần phân loại học của ve giáp tại vườn
quốc gia Tam Đảo trình bày ở bảng 3.2 cho thấy:
Trong số 20 họ ghi nhận được, có 2 họ (Lohmanniidae; Xylobatidae) có
nhiều giống nhất (cũng có 3 giống chiếm 10,71% tổng số giống). Tiếp đến là
3 họ (Carabodidae; Otocepheidae; Oppiidae) với 2 giống/họ (chiếm 7,14%
tổng số giống). Các họ còn lại chỉ có 1 giống (chiếm 3,57% tổng số giống).
Số loài tập trung nhiều nhất ở 2 họ (Lohmanniidae; Xylobatidae), cùng có 6
loài (chiếm 13,33% tổng số loài). Tiếp theo là họ Otocepheidae với 5 loài
(chiếm 11,11% tổng số loài). Các họ còn lại chỉ có 1 đến 2 loài
Bảng 3.2. Thành phần phân loại học ve giáp ở rừng tự nhiên vườn quốc
gia Tam Đảo – Vĩnh Phúc
Tỉ lệ % so với

Số loài

tổng số
STT

Họ

Số

Euphtiracaridae Jacot, 1930

1

2

Lohmanniidae Berlese, 1916


3

Epilphmanniidae

Tổng

tên

tên

số

khoa

khoa

1

1

Đã
định

giống định

1

3

Chưa


Loài

Giống

2

2

4,44

3,57

5

6

13,33

10,71

1

1

2,22

3,57

Oudemans, 1923


Khóa luận tốt nghiệp

20

Bùi Như Quỳnh


Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2

4

Nothridae Berlese, 1896

1

TrhypochthonidaeWillmann,

5

1931
Nanhermanniidae Sellnick,

6

1928
Hermanniidae

7


Khoa Sinh - KTNN

Sellnick,

1

1

2,22

3,57

1

2

4,44

3,57

1

1

1

2,22

3,57


1

2

2

4,44

3,57

1

2

4,44

3,57

1

1

2,22

3,57

1

2


4,44

3,57

1

1

1928
8

Cepheidae Berlese, 1896

1

9

Microtegeidae Balogh, 1972

1

10

Astegistidae Balogh, 1961

1

11

Peloppiidae Balogh, 1943


1

1

1

2,22

3,57

2

2

2

4,44

7,14

5

5

11,11

7,14

1


2

4,44

3,57

2

2

4,44

7,14

1

2

4,44

3,57

3

6

6

13,33


10,71

1

1

1

2,22

3,57

12

Carabodidae C. L. Koch,

1

1

1837
13

Otocepheidae Balogh, 1961

2

14


Eremellidae Balogh, 1961

1

15

Oppiidae Grandjean, 1954

2

16
17
18

Mochlozetidae

Grandjean,

1960
XylobatidaeJ.Baloghet
P.Balogh, 1984
ProtoribatidaeJ.Balogh

et

1

1

1


P. Balogh, 1984

Khóa luận tốt nghiệp

21

Bùi Như Quỳnh


Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2

19
20

Haplozetidae

Khoa Sinh - KTNN

Grandjean,

1

1936
Scheloribatidae Grandjean,

1

1


1

2

4,44

3,57

2

2

4,44

3,57

38

45

1953
Tổng số

28

7

100,00 100,00

3.2. Đặc điểm phân bố của ve giáp

Kết quả nghiên cứu đặc điểm phân bố của ve giáp trình bày ở bảng 3.1
và bảng 3.6 cho thấy: có 3 loài xuất hiện ở cả 4 tầng sinh cảnh là:
Cultroribula lata; Eremella vestita; Peloribates pseudoporosus. Đây cũng là
những loài gặp phổ biến ở sinh cảnh nghiên cứu rừng tự nhiên vườn quốc gia
Tam Đảo.
Ngoài ra ở mỗi tầng phân bố khác nhau còn có tập hợp các loài đặc trưng
riêng, cụ thể:
Có 9 loài phân bố ở cả 2 tầng A1 và tầng A2, gồm: Nanhermannia
thainensis;

Sphodrocepheus

tuberculatus;

Microtegeus

reticulatus;

Cultroribula lata; Acrotocepheus triplicornutus; Dolicheremaeus aoki;
Eremella vestita; Unguizetes clavatus; Peloribates pseudoporosus.
Có 7 loài chỉ có mặt tầng A1 mà không xuất hiện ở các tầng khác:
Javacarus kuehnelti; Papilacarus undrirostratus; Phyllhermannia gladiata;
Sphodrocepheus sp.; Aokiella florens; Dolicheremaeus ornata; Scheloribates
laevigatus (Bảng 3.1)
Có 2 loài chỉ xuất hiện ở tầng A2 mà không xuất hiện ở các tầng khác:
Papilacarus arboriseta; Rhysotritia duplica (Bảng 3.1).
Có 15 loài chỉ gặp ở tầng lá: Papilacarus sp.; Epilohmannia cylindrica;
Nothrus baviensis; Archegozetes longisetosus; Archegozetes sp.; Furcoppia
parva; Gibbicepheus baccanensis; Pulchroppia granulata; Eremella sp;


Khóa luận tốt nghiệp

22

Bùi Như Quỳnh


Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2

Lasiobelba

remota;

Brasilobates

Khoa Sinh - KTNN

maximus;

Perxylobates

brevisetus;

Perxylobates vermiseta; Perxylobates vietnamensis; Scheloribates latipes.
Đây có thể là các loài đặc trưng cho các đại diện ve giáp ở lớp thảm mục.
Có 1 loài chỉ gặp ở tầng rêu là: Rostrozetes sp.
3.3. Một số đặc điểm định lượng của quần xã ve giáp ở sinh cảnh nghiên
cứu.
3.3.1. Số lượng loài
Trong tổng số 45 loài thu được ở sinh cảnh nghiên cứu, ở tầng lá có số

loài nhiều nhất (31 loài). Tiếp đến là tầng đất 0-10cm: 20 loài, tầng đất 1120cm: 15 loài và thấp nhất ở tầng rêu: 11 loài. Như vậy lá là sinh cảnh thích
hợp cho ve giáp hơn cả vì có nhiều thảm mùn hữu cơ là nguồn thức ăn dồi
dào cho ve giáp đến cư trú và phát triển.
Bảng 3.3. Một số chỉ số định lượng của ve giáp theo tầng phân bố ở sinh
cảnh rừng tự nhiên vườn quốc gia Tam Đảo – Vĩnh Phúc
Tầng phân bố
Chỉ số

R

L

A1

A2

Mật độ trung

60,83

1795,83

6266,67

4666,67

11

31


20

15

bình
Số loài

8

Số loài chung

9

H’

1,81

2,36

2,32

2,23

J’

0,76

0,69

0,77


0,82

Ghi chú: H’: chỉ số đa dạng
J’: chỉ số đồng đều
3.3.2. Chỉ số đa dạng loài H’
Chỉ số H’ cao được ghi nhận ở 3 tầng là L, A1, A2 tương ứng:

Khóa luận tốt nghiệp

23

Bùi Như Quỳnh


Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2

Khoa Sinh - KTNN

Tầng lá: H’= 2,36. Tầng đất 0-10cm: H’= 2,32. Tầng đất 11-20cm:
H’=2,23. Tầng rêu có chỉ số đa dạng H’ nhỏ nhất: H’= 1,81.
3.3.3. Chỉ số đồng đều J’
Kết quả ghi nhận được về chỉ số đồng đều J’ có giá trị tương đương
nhau ở cả 4 tầng phân bố. Tầng đất 11-20cm cao nhất: J’= 0,82, tầng đất 010cm: J’=0,77, tầng rêu: J’= 0,76 và thấp nhất ở tầng lá: J’= 0,69.
3.4. Những loài ưu thế ở sinh cảnh nghiên cứu
Bảng 3.4. Tỉ lệ ve giáp ưu thế trong từng tầng phân bố

STT

Loài


R

1

Acrotocepheus triplicornutus Balogh

L

A1

A2

5,34

et Mahunka,1967
2

Eremella vestita Berlese, 1913

3

Phyllhermannia similis

6,26

Balogh et

11,70 25,71


6,85

Mahunka, 1967
4

Cultroribula lata Aoki, 1961

8,22

5

Nanhermannia thainensis Aoki, 1965

6

Gibbicepheus baccanensis Jeleva et

10,64 11,43
8,57
9,51

Vu, 1987
7

Javacarus kuehnelti Balogh, 1961

14,89

8


Peloribates pseudoporosus Balogh et 15,07 32,95 30,85
Mahunka, 1967

9

Liebstadia humerata Sellnick, 1928

Khóa luận tốt nghiệp

24

18,79

Bùi Như Quỳnh


Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2

Khoa Sinh - KTNN

10

Lohmannia javana Balogh, 1961

11

Xylobates capucinus (Berlese,1908)

12


Xylobates

lophotrichus

22,86
23,29

(Brerlese, 35,62

1904)
Bảng 3.5. Độ thường gặp của các loài ve giáp ở sinh cảnh nghiên cứu tại
rừng tự nhiên vườn quốc gia Tam Đảo – Vĩnh Phúc
Độ thường
STT Loài

Số mẫu

gặp

1

Cultroribula lata Aoki, 1961

12

50,00

2

Eremella vestita Berlese, 1913


10

41,67

15

62,50

Peloribates
3

pseudoporosus

Balogh

Mahunka, 1967

et

Bảng 3.4 trình bày về các loài ưu thế có ở sinh cảnh nghiên cứu cho
thấy: đã ghi nhận được 12 loài ve giáp ưu thế ở sinh cảnh rừng tự nhiên vườn
quốc gia Tam Đảo với độ ưu thế dao động từ 5,34% (tầng lá) đến 35,62%
(tầng rêu). Không có loài nào ưu thế cho cả 4 tầng. Có 3 loài ưu thế ở cả 3
tầng phân bố là: Cultroribula lata; Eremella vestita; Peloribates
pseudoporosus. Loài có độ ưu thế cao nhất là Xylobates lophotrichus ở tầng
rêu (chiếm 35,62%). Loài có độ ưu thế thấp nhất là Acrotocepheus
triplicornutus ở tầng lá (chiếm 5,34%). Ngoài ra ở mỗi tầng sinh cảnh có tập
hợp các loài ưu thế riêng.


Khóa luận tốt nghiệp

25

Bùi Như Quỳnh


×