Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Nghiên cứu sự biến động thành phần loài ve giáp (acari oribatida) ở trảng cỏ bụi cây tại vườn quốc gia tam đảo tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 32 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Môi trường đất là một môi trường sống rất đặc thù, với cấu trúc ba thể
rắn, lỏng, khí, trong đó chứa cả một thế giới sinh vật vô cùng đa dạng và
phong phú.
Trong cấu trúc hệ động vật, động vật Chân khớp bé (Microarthropoda)
với kích thước cơ thể nhỏ bé (từ 0,1- 0,2mm đến 2,0- 3,0mm) thường chiếm
ưu thế về số lượng so với các nhóm khác, mật độ từ hàng chục đến hàng trăm
nghìn cá thể trên 1m2. Hai đại diện chính của nhóm này là: ve giáp (Acari) và
bọ nhảy (Collemboda), ngoài ra còn có số lượng không đáng kể các nhóm
chân khớp bé khác như: rết tơ (Myriapoda: Symphyla), côn trùng Đuôi
Nguyên Thủy, họ Hai Đuôi và họ Ba Đuôi (Insecta: Protura, Diplura,
Thysanura). Chúng tham gia tích cực vào quá trình sinh học của đất, quá trình
vận chuyển năng lượng và vật chất, quá trình làm sạch đất khỏi các ô nhiễm
chất thải (Vũ Quang Mạnh, 2003) [3].
Việc nghiên cứu về ve giáp có ý nghĩa quan trọng góp phần tìm hiểu
tính đa dạng của thế giới sinh vật và các đặc tính sinh học đất. Từ đó góp
phần đề xuất cải tạo và tăng độ phì nhiêu của đất, hoặc giúp đánh giá sắp xếp
các vùng địa lý tự nhiên, các vùng sinh thái, quy hoạch và phân bố các vùng
sản xuất nông nghiệp.
Vườn quốc gia Tam Đảo là kho tài nguyên quý giá, nơi lưu giữ sự đa
dạng sinh học cao với nhiều loài động, thực vật đặc hữu quý hiếm. Đã có rất
nhiều nghiên cứu về khu hệ động, thực vật ở đây nhưng những nghiên cứu về
động vật đất chưa nhiều.
Với tất cả lý do trên và trong khuôn khổ một khóa văn tốt nghiệp,
chúng tôi đã chọn “Nghiên cứu sự biến động thành phần loài ve giáp
(Acari: Oribatida) ở trảng cỏ cây bụi tại vườn quốc gia Tam Đảo - Vĩnh
Phúc”
1



2. Mục đích nghiên cứu
Bước đầu làm quen với nghiên cứu khoa học, xây dựng lòng say mê
học tập, làm tiền đề cho phục vụ giảng dạy và nghiên cứu sau này.
Xác định sự biến động về thành phần loài Oribatida ở sinh cảnh trảng
cỏ cây bụi tại vườn quốc gia Tam Đảo.
3. Nội dung nghiên cứu
Đa dạng thành phần loài Oribatida ở sinh cảnh trảng cỏ cây bụi.
Thành phần phân loại học của Oribatida ở sinh cảnh trảng cỏ cây bụi.
Đặc điểm phân bố của Oribatida ở sinh cảnh trảng cỏ cây bụi.
Một số chỉ số định lượng của Oribatida ở sinh cảnh trảng cỏ cây bụi.

2


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu Ve giáp (Acari: Oribatida) trên thế giới
Khu hệ Oribatida trên thế giới hiện đã mô tả khoảng 10000 loài
(Schatz, 2002) [31] và số loài thực tế có thể khoảng 50000 loài (Trave’ et al.,
1996) [33], đến 100000 loài (Schatz, 2002) [31]. Theo Balogh J. và Balogh P.
(1992) [15], chỉ trong 20 năm gần đây số lượng giống Oribatida trên thế giới
đã tăng từ 700 giống đến 1000 giống. Ở châu Âu hằng năm các loài mới vẫn
được mô tả đều đặn hàng năm ước tính có khoảng 75% số loài Ve giáp của
khu hệ Oribatida còn chưa được mô tả ở Bắc Mỹ (Behan - Pelletier et al.,
1993) [18].
Trong các công trình nghiên cứu về Acari trước đây, các công trình của
Berlese đóng một vai trò quan trọng và có một vị trí đặc biệt. Ông là một
trong những người quan tâm nghiên cứu đến ve giáp đầu tiên. Từ năm 1881
đến năm 1923, ông đứng tên một mình hoặc đồng tác giả của 73 công trình
nghiên cứu về Acari, Microarthropoda, Scorpiones.
Khu hệ Oribatida của Canada là một trong những khu hệ được nghiên

cứu khá kỹ, từ rất sớm. Theo Behan- Pelletier và Eamer (2000) dù các dẫn
liệu về sinh thái, phân bố của khu hệ có nhiều, nhưng số loài được biết đến
chỉ chiếm 1/4 số loài có trong thực tế (Behan- Pelletier và Eamer, 2000) [19].
Trong khoảng 20 năm gần đây, các hoạt động nghiên cứu Oribatida
diễn ra mạnh mẽ và nhiều kết quả được công bố. Trên cơ sở các kết quả
nghiên cứu của các tác giả khác, cùng với kết quả nghiên cứu của riêng mình.
Schatz công bố và tổng hợp bản danh lục các loài Oribatida đã biết ở khu vực
Trung Châu Mỹ. Danh sách này gồm 543 loài Oribatida thuộc 87 họ. Ngoài
ra, ông còn liệt kê số lượng Oribatida đã thu thập ở các quốc gia và vùng lãnh
thổ khác cũng thuộc Trung Mỹ như: Cuba (225 loài), Antilles (387 loài),
Jamaica (28 loài), Dominica (21 loài)... (Schatz, 2002) [31].
Ở Nga nghiên cứu về Oribatida phát triển mạnh từ những năm 50 của
thế kỷ XX. Cho đến nay ghi nhận được 300 loài Oribatida ở tất cả các hệ sinh
3


thái. Riêng khu hệ Oribatida sống trên cây cũng bắt đầu được quan tâm
nghiên cứu. Các mẫu Oribatida được thu tập từ rêu, địa y sống phụ sinh, từ vỏ
cành, thân cây và trong tán cây với các công trình của Dalenius (1960);
Kielozewski; Kashyna (1965); Niedbale (1969); Woltemade (1982), Coloff
(1983)... (Ermilov and Chistyakov, 2007) [20].
Cho đến nay, ở vùng Nizhiy Novgorod đã thống kê được 74 loài
Oribatida thuộc 51 giống, 36 họ, 22 liên họ sống trên cây. Ermilov và
Chistyakov đã nghiên cứu một số đặc điểm: thành phần loài, mật độ, loài ưu
thế, phân bố theo chiều thẳng đứng của quần thể Oribatida sống trên cây và đề
xuất hệ thống phân loại của chúng theo khu vực và phân chia chúng thành 3
nhóm hình thái- sinh thái, phụ thuộc vào nơi sống của chúng: nhóm sống hoàn
toàn trên cây, nhóm sống trên cây- dưới đất và nhóm sống hoàn toàn trong
đất. Theo các tác giả trên, loài Oribatida ưu thế là loài có số lượng cá thể
riêng chiếm từ 5% trở lên trong tổng số Oribatida của seri mẫu phân tích (theo

sinh cảnh, theo địa phương hay khu vực…) (Ermilov and Chistyakov, 2007)
[20].
Oribatida sống trong nhiều hệ sinh thái khác nhau, từ môi trường cực kì
khô hạn đến môi trường có độ ẩm cao. Nhóm Oribatida sống ở nước ngọt tuy
gặp phổ biến đôi khi phong phú về số lượng nhưng không giàu loài. Do sống
trong môi trường nước nên những loài thuộc giống Hydrozeles có những đặc
điểm thích nghi với đời sống ở dưới nước như ở các cá thể trưởng thành, xuất
hiện các nhú nhỏ và vỏ dạng sáp gần lỗ thở để giữ các màng mỏng không khí,
hình thành một tấm yếm bên ngoài, giúp cho việc trao đổi khí dưới nước được
dễ dàng. Cũng có trường hợp hình thành bong bóng khí ở trong dạ dày của
con trưởng thành và khí được phân tán dễ dàng qua nước.
Cùng với kết quả nghiên cứu nguồn gốc phát sinh chủng loại, khu hệ,
hệ thống học Oribatida, các nghiên cứu về sinh học Oribatida cũng thu được
nhiều kết quả có giá trị, trong đó việc nghiên cứu sự phát triển, sinh trưởng
trong mối quan hệ với các yếu tố tác động lên chúng là một hướng quan trọng
4


được nhiều tác giả chú ý đến. Bản chất và thời gian phát triển, sinh trưởng của
nhóm động vật này còn chưa được điều tra một cách đầy đủ. Tuy nhiên, nhiều
nhà nghiên cứu hiểu rằng các nhân tố môi trường (nhiệt độ, độ pH, hàm lượng
mùn, số lượng và chất lượng thức ăn, sự xáo trộn nơi cư trú…) và mật độ của
các nhóm chân khớp khác có thể ảnh hưởng đến thời gian sinh trưởng của hầu
hết các Oribatiba (Siepel, 1994; Maraun & Scheu, 2003; Ermilov and
Lochynska, 2008) [21], [29], [32].
Oribatida là nhóm tham gia tích cực trong quá trình phân hủy các chất
hữu cơ, trong chu trình nitơ và quá trình tạo đất. Các nghiên cứu cho thấy
trong tất cả các giai đoạn hay chu kì sinh trưởng, phát triển của chúng đều có
phổ thức ăn rộng, bao gồm thực vật sống và chết, nấm, rêu, địa y và thịt thối
rữa. Nhiều loài là vật chủ trung gian của sán lá dây, một vài loài là động vật

ăn thịt, không có loài nào sống kí sinh (Krants, 1978) [25]. Ở Oribatida, chân
kìm và các bộ phận khác nhau trên phụ miệng thường được sử dụng cùng với
nhau để cắt hay xé thức ăn thành các tiểu phần có kích thước phù hợp để đưa
vào cơ thể (Norton, 1990) [30].
Ngoài ra, có rất nhiều công trình nghiên cứu về vai trò chỉ thị sinh học
của Oribatida theo các hướng: chỉ thị cho chất lượng đất ở mức độ loài hay
quần xã, chỉ thị cho thuốc trừ sâu, phân bón... sử dụng trong sản xuất nông
nghiệp, chỉ thị cho môi trường đất đô thị,...
Những lợi thế của Oribatida khi sử dụng chúng như những sinh vật chỉ
thị trong việc đánh giá chất lượng hệ sinh thái trên cạn là ở chỗ: chúng có độ
đa dạng cao, thu lượm với số lượng lớn một cách dễ dàng, ở tất cả các mùa
trong năm, trong nhiều sinh cảnh; việc định loại cá thể trưởng thành tương đối
dễ; hầu hết chúng sống trong tầng hữu cơ của lớp đất màu mỡ và chúng là
nhóm dinh dưỡng không đồng nhất. Chúng bao gồm các taxon được đặc trưng
bởi sự sinh sản nhanh, thời gian sinh sống của các con non và con trưởng
thành dài, khả năng tăng quần thể chậm... (Behan – Pelletire, 1999) [17].

5


Có thể thấy lịch sử nghiên cứu của Oribatida đã có từ rất lâu trên thế
giới, được nghiên cứu một cách hệ thống về cả khu hệ, sinh học, sinh thái và
vai trò chỉ thị.
1.2. Tình hình nghiên cứu Ve giáp (Acari: Oribatida) ở Việt Nam
Trước năm 1975, các công trình nghiên cứu về Oribatida ở Việt Nam
còn chưa được nghiên cứu sâu và đồng bộ. Năm 1967, lần đầu tiên trong công
trình “New Oribatid from Viet Nam”, hai tác giả người Hungari là Balogh J.
và Mahunka S. đã giới thiệu về khu hệ, danh pháp học và đặc điểm phân bố
của 33 loài Ve giáp, trong đó đã mô tả 29 loài, 4 giống mới cho khoa học
(Balogh J. And Mahunka S., 1967) [16].

Sau năm 1975, Oribatida Việt Nam mới được các tác giả trong và ngoài
nước nghiên cứu sâu. Đầu tiên phải kể đến các công trình nghiên cứu của các
tác giả nước ngoài như Golosova (1983, 1984); Mahunka (1987, 1988, 1989);
Bahan- Pelletier (1999) [17], [22], [23], [26], [27], [28].
Đến năm 1977, các tác giả trong nước bước đầu đã tiến hành nghiên
cứu độc lập về Oribatida. Đầu tiên phải kể đến công trình nghiên cứu của tác
giả Vũ Quang Mạnh về nhóm Chân khớp bé (Microarthropoda) ở đất Cà Mau
(Minh Hải) và Từ Liêm (Hà Nội) năm 1984 [2].
Vũ Quang Mạnh, Mara Jeleva (1987) đã giới thiệu đặc điểm phân bố và
danh pháp phân loại học của 11 loài mới cho khu hệ Oribatida Việt Nam và 1
loài mới cho khoa học [34].
Nghiên cứu khu hệ Oribatida ở Việt Nam của Mahunka (1988) đã xác
định 15 loài mới cho khoa học, trong đó có một số loài mới thu từ mẫu đất
vùng Tam Đảo (Mahunka, 1988) [27].
Các nghiên cứu về khu hệ và định loại Oribatida được công bố từ năm
1990 tới nay ở trong và ngoài nước vẫn chủ yếu do nhóm tác giả Vũ Quang
Mạnh và cộng sự thực hiện.
Vũ Quang Mạnh, Cao Văn Thuật (1990) [8], xác định được 24 loài
Oribatida ở vùng đồi núi Đông Bắc Việt Nam khi tiến hành nghiên cứu cấu
6


trúc định lượng của nhóm Microarthropoda ở 7 kiểu sinh thái, ở 5 dải độ cao
khí hậu và 3 loại đất. Theo 2 tác giả này, trong nhóm Chân khớp bé, Oribatida
luôn chiếm số lượng chủ yếu từ 70- 80% tổng số lượng, còn nhóm
Collembola chỉ chiếm 10% .
Năm 1996, Vũ Quang Mạnh, Lại Văn Tạc, Nguyễn Văn Sức đã nghiên
cứu quần xã động vật chân khớp bé (Microarthropoda) và động vật đất cỡ
trung bình (Mesofauna) liên quan đến việc sử dụng thuốc trừ cỏ Sofit cho lúa
[12].

Năm 2002, Vũ Quang Mạnh và Vương Thị Hòa đã đưa ra dẫn liệu bổ
sung về vai trò và cấu trúc quần xã Oribatida ở vùng rừng Tam Đảo (Vĩnh
Phúc). Có nhận xét cấu trúc quẫn xã Oribatida ở hệ sinh thái đất có liên quan
rõ rệt với sự suy giảm của cây gỗ rừng. Nó có thể được xem xét và đánh giá
như một đặc điểm sinh học, chỉ thị quá trình diễn thế của rừng Tam Đảo nói
riêng và của Việt Nam nói chung. Mặt khác có sự thay đổi đặc điểm đa dạng
thành phần loài của quần xã Oribatida theo chiều thẳng đứng, từ thảm rêu
quanh thân cây và vụn thực vật, nằm trên mặt đất từ 0- 100cm, cho đến lớp
thảm lá rừng phủ trên mặt đất, lớp đất mặt 0- 10cm và lớp đất sâu 11- 20cm ở
hệ sinh thái rừng Tam Đảo. Chỉ số này có thể xem xét như một yếu tố chỉ thị
sinh học các diễn thế ở hệ sinh thái rừng Việt Nam (Vũ Quang Mạnh, Vương
Thị Hòa, 2002) [6].
Năm 2004, Vũ Quang Mạnh đã giới thiệu về họ Oribatida Otocepheidae
Balogh, 1961 của khu hệ động vật Việt Nam [4]. Cũng trong năm này, nhóm
tác giả Phan Thị Huyền, Vũ Quang Mạnh, Nguyễn Xuân Lâm, Đặng Việt Hà,
Đặng Thúy Hiền đã xác định được 25 loài Oribatida thuộc 12 họ trong cấu
trúc quần xã Ve bét ở hệ sinh thái vùng rừng vườn quốc gia Ba Vì (Phan Thị
Huyền và cộng sự, 2004) [1].
Năm 2005, trong báo cáo khoa học tại Hội nghị côn trùng học toàn Quốc
lần thứ V, Vũ Quang Mạnh, Nguyễn Xuân Lâm đã công bố khu hệ Oribatida
7


Việt Nam; xác định được 158 loài, thuộc 46 họ, mang tính chất Ấn Độ- Mã
Lai và thuộc vùng địa động vật Đông Phương. Song khu hệ Oribatida Việt
Nam có tính chất chuyên biệt cao, có tới 76 loài chỉ mới phát hiện được ở
Việt Nam. Đồng thời, có nhiều loài mang đặc điểm chung của khu hệ Thái
Lan, Inđônêxia, Malaixia, Philipin, Nhật Bản và các đảo Nam Thái Bình
Dương. Tại một số khu hệ Oribatida vùng núi phía Bắc mang yếu tố động vật
Cổ Bắc thuộc các giống Nothrus C. L. Koch, 1836; Metabelba Grandjean,

1956; Tectocepheus Berlese, 1913; Oppia C. L. Kock, 1836; Xylobates Jacot,
1929; Scheloribates Berlese, 1908; Orbatella Bank, 1895, Achipteria Berlese,
1885; Galumna Heyden 1826 (Vũ Quang Mạnh, Nguyễn Xuân Lâm, 2005)
[7].
Năm 2006, Vũ Quang Mạnh, Đào Duy Trinh công bố 30 loài Oribatida
được phát hiện ở vườn quốc gia Xuân Sơn – Phú Thọ. Công bố Oribatida họ
Oppidae Grandjean, 1954 và Mulltioppiinae Balogh, 1938 ở Việt Nam (Vũ
Quang Mạnh, Đào Duy Trinh, 2006) [9].
Các tác giả Vũ Quang Mạnh, Lê Thị Quyên, Đào Duy Trinh (2006) tiếp
tục nghiên cứu và công bố các phân họ Pulchroppiinae, Oppiellinae,
Mystrppiinae, Brachyoppiinae, Arcoppiinae ở Việt Nam (Vũ Quang Mạnh,
Lê Thị Quyên, Đào Duy Trinh, 2006) [14]
Năm 2007, Vũ Quang Mạnh, Lưu Thanh Ngọc, Đào Duy Trinh đã công
bố 3 loài thuộc giống Perxylobatas Hammer 1972 hiện có ở Việt Nam (Vũ
Quang Mạnh và cộng sự, 2007) [11].
Cũng vào năm 2007, tác giả Vũ Quang Mạnh đã tổng kết và giới thiệu
toàn bộ các loài Oribatida đã phát hiện được từ trước tới nay ở Việt Nam của
các tác giả trong và ngoài nước trong công trình Động vật chí Việt Nam. Ông
đã giới thiệu hệ thống phân loại và danh pháp đầy đủ nhất của 150 loài trong

8


khoảng 180 loài Oribatida đã biết của khu hệ động vật Việt Nam (Vũ Quang
Mạnh, 2007) [5].
Năm 2008, các tác giả Vũ Quang Mạnh, Lưu Thanh Ngọc, Nguyễn Hải
Tiến đã nghiên cứu cấu trúc quần xã ve giáp trong đó có Oribatida, về ảnh
hưởng và vai trò của chúng đối với các loại đất và đặc điểm của thảm cây
trồng ở vùng đồng bằng sông Hồng. Trong báo cáo tại hội nghị Techmart tại
Tây Nguyên vào tháng 4/2008, nhóm tác giả Vũ Quang Mạnh, Đào Duy

Trinh và Nguyễn Hải Tiến đã trình bày về vai trò của động vật đất trong đó có
Oribatida như là yếu tố chỉ thị cho sự phát triển bền vững của hệ sinh thái đất
[10], [13].
Nhìn chung, các kết quả nghiên cứu đã đưa ra đặc điểm nhóm động vật
Microarthropoda, đặc biệt là nhóm Oribatida có vỏ cơ thể cứng, mật độ cá thể
lớn tương đối ổn định, thành phần loài phong phú, phân bố rộng, dễ dàng thu
bắt nên chúng được chú ý như đối tượng nghiên cứu mẫu trong nhiều nghiên
cứu sinh học, động vật hoặc phân vùng địa lý. Bên cạnh đó Microarthropoda
có khả năng di cư nhanh và có số lượng lớn nên chúng là nhóm làm phân tán
và lan truyền nhiều bệnh và giun sán kí sinh. Như vậy, các nghiên cứu về
Microarthropoda nói chung và ve giáp nói riêng đã đề cập một cách toàn diện
và có hệ thống trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên các kết quả đạt được mới chỉ là
những bước đi định hướng ban đầu. Để tìm hiểu thấu đáo vai trò của ve giáp
sống trong môi trường đất và để đưa chúng ứng dụng vào lĩnh vực khoa học
và thực tiễn thì việc nghiên cứu nhóm này cần được đẩy mạnh nghiên cứu
trong những năm tiếp theo.

9


CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Các loài Oribatida (Acari: Oribatida) thuộc ngành Chân khớp
(Arthropoda), phân ngành Chân khớp có kìm (Chelicerata), lớp Hình nhện
(Arachnida), phân lớp Ve bét (Acari).
2.2. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 3 năm 2012 đến tháng 5 năm 2013.
2.3. Địa điểm nghiên cứu.
Chúng tôi tiến hành 2 đợt thu mẫu đất ở sinh cảnh trảng cỏ cây bụi của

vườn quốc gia Tam Đảo theo 2 tầng đất (0 – 10 cm) và (11 – 20 cm). Tổng số
mẫu đất đã thu là 24 mẫu (Bảng 2.1)
Bảng 2.1. Địa điểm và số lượng mẫu thu ở khu vực nghiên cứu
Tầng đất

Tổng

Địa điểm

Trảng cỏ cây bụi
(Vườn quốc gia Tam Đảo)

số mẫu
A1 (0 - 10 cm)

A2 (11 – 20 cm)

12

12

24

2.4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp truyền thống trong nghiên cứu khu hệ và sinh
thái động vật ở thực địa và trong phòng thí nghiệm của Ghilarov, 1975 [24].
Tách chân khớp bé ra khỏi đất theo phương pháp phễu lọc “BerleseTullgren”, dựa theo tập tính hướng đất dương và hướng sáng âm của động vật
đất theo Ghilarov, 1975 [24].

10



2.4.1. Phương pháp nghiên cứu ngoài thực địa
Mẫu đất được lấy ở 2 tầng có độ sâu từ 0 - 10 cm (tính từ mặt đất) kí
hiệu là tầng A1, từ 11 – 20 cm kí hiệu là tầng A2. Mỗi mẫu có kích thước (5 x
5 x 10) cm.
Các mẫu đất định lượng được thu làm 2 đợt và lặp lại 6 lần ở mỗi tầng
của sinh cảnh nghiên cứu. Mỗi mẫu đất sau khi thu được cho vào 1 túi nilon
riêng được buộc chặt, bên trong có chứa nhãn ghi đầy đủ các thông số: tầng
đất, ngày tháng, địa điểm… lấy mẫu.
2.4.2. Phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
Tách lọc mẫu Oribatida
Các mẫu sau khi lấy ở thực địa được đưa ngay về phòng thí nghiệm động
vật của trường để xử lý. Chúng tôi tiến hành tách nhóm động vật chân khớp
bé theo phương pháp phễu lọc “Berlese – Tullgren”, phương pháp này đã “lợi
dụng” tập tính của các loài động vật đất là: hướng đất dương và hướng sáng
âm khi ở đất trong phễu lọc để khô dần chúng sẽ chui sâu xuống lớp đất phía
dưới, qua lưới lọc và rơi xuống đáy phễu.
Dụng cụ dùng trong phương pháp này gồm có phễu thủy tinh và rây lọc.
Phễu thủy tinh có đường kính miệng là 18cm, đường kính vòi là 1,5cm. Bộ
phễu được đặt trong giá gỗ, vòi phễu gắn với ống nghiệm chứa dung dịch
formon 4%, bên trong có nhãn ghi thời gian đặt mẫu, địa điểm, tầng đất….
Rây lọc hình trụ đặt trên phễu, thành của rây lọc là vành kim loại, đường kính
15cm, cao 4cm, lưới lọc bằng sợi nilon, kích thước mắt lưới (1,0 x 1,0) mm.
Trước khi cho mẫu vào rây lọc, đất được bóp nhỏ và rải đều trên mặt lớp
lưới, phần vụn lọt qua mắt lưới sẽ được đổ trở lại trước khi đặt rây vào phễu.
Mẫu được tách lọc trong điều kiện phòng thí nghiệm nhiệt độ từ 250C300C, bảy ngày đêm rồi mới tiến hành thu ống nghiệm dưới đáy phễu đã được
lọc. Dùng nút bông bịt kín ống nghiệm và lấy dây chun bó các ống nghiệm
của cùng một tầng tại một địa điểm lại với nhau, sau đó cho vào lọ nhựa có
chứa dung dịch formon 4% để giữ cho mẫu không bị hỏng.

11


Định loại Oribatida
Mẫu Oribatida, trước khi được định loại cần được tẩy màu, làm trong vỏ
kitin cứng. Quá trình làm trong màu có thể diễn ra trong một vài ngày hoặc
lâu hơn nên cần nhặt Oribatida riêng ra một lam kính lõm. Đưa lam kính lõm
quan sát dưới kính lúp, dựa vào đặc điểm hình dạng ngoài, dùng kim tách sơ
bộ chúng thành nhóm có hình thù giống nhau riêng. Đặt lamel ở bên trái lam
kính sao cho chỉ phủ một phần chỗ lõm. Nếu dung dịch axit nhỏ vào chỗ lõm
dưới lamel chưa đầy cần bổ sung cho đầy. Dùng kim chuyển từng Oribatida
vào chỗ lõm dưới lamel để quan sát ở các tư thế khác nhau theo hướng lưng
và bụng và ngược lại. Khi mẫu ở đúng tư thế quan sát, ta chuyển sang kính
hiển vi. Sau khi định loại xong, các loài được đo kích thước và chụp ảnh. Tất
cả các cá thể cùng một loài để chung vào một ống nghiệm, dùng dung dịch
định hình bằng formol 4%. Dùng giấy can ghi các thông số tên loài cần thiết
bằng bút chì rồi nút bằng bông không thấm nước; tất cả các ống nghiệm được
đặt chung vào lọ thủy tinh lớn chứa formol 4% để bảo quản lâu dài. Ghi tất cả
các tên loài đã được định loại vào nhật ký phòng thí nghiệm.
Tất cả các mẫu Oribatida sau khi đã phân tích, xử lý và định loại đều
được TS. Đào Duy Trinh kiểm định lại.
2.4.3. Xử lý số liệu.
Sử dụng phương pháp thống kê trong tính toán và xử lý số liệu, trên
nền phần mềm Primer, 2001; phần mềm Excell 2010.
Các công thức tính:
- Số loài: được tính bằng tổng số loài có mặt trong điểm nghiên cứu ở tất
cả các lần thu mẫu.
- Số cá thể: được tính bằng tổng số cá thể của các loài có mặt trong điểm
nghiên cứu ở tất cả các lần thu mẫu.
- Chỉ số đa dạng loài (H’):

s

H '= ∑
i =1

ni
n 
× ln i 
N
N

12


Trong đó:

s - số lượng loài;
ni - số lượng cá thể của loài thứ i

N - tổng số lượng cá thể trong sinh cảnh nghiên cứu.
Giá trị H’ dao động trong khoảng từ 0 đến ∞
Chỉ số đa dạng loài (H’) được sử dụng để tính sự đa dạng loài hay số
lượng loài trong quần xã và tính đồng đều về sự phong phú cá thể của các loài
trong quần xã.
- Chỉ số đồng đều Pielou (J’)
J’=
Trong đó:

H'
ln S


H’ - chỉ số đa dạng loài
S - số loài có trong sinh cảnh

Giá trị J’ dao động trong khoảng từ 0 đến 1
2.5. Một vài nét khái quát về vườn quốc gia Tam Đảo
2.5.1. Vị trí địa lý
Tam Đảo là tên gọi của 3 đỉnh núi cao: Thiên Thị (1375 m); Thạch Bàn
(1388 m); Phù Nghĩa (1375 m). Dãy núi Tam Đảo kéo dài trên 80 km, với
khoảng 20 đỉnh núi cao, cao nhất là đỉnh Tam Đảo Bắc (1592 m). Vườn Quốc
gia Tam Đảo nằm trong dãy núi Tam Đảo, chạy dài trên 80 km theo hướng
Tây Bắc – Đông Nam có toạ độ đại lý từ 21021’ – 21042’ vĩ độ Bắc, 105023’105044’ kinh độ Đông; trên địa giới hành chính 3 tỉnh: Vĩnh phúc, Thái
Nguyên và Tuyên Quang. Trung tâm vườn quốc gia Tam Đảo cách thủ đô Hà
Nội 75 km về phía Tây Bắc và cách thành phố Vĩnh Yên 13 km về phía Bắc.
Vườn quốc gia Tam Đảo được quy hoạch ban đầu có diện tích là 36883
ha từ độ cao 100 m trở lên. Sau khi điều chỉnh ranh giới năm 2002 (Quyết
định 155/2002/QĐ-TTg) thì diện tích hiện nay do Vườn quốc gia Tam Đảo
quản lý là 34995 ha.

13


2.5.2. Khí hậu
Tam Đảo thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, mang tính chất của
miền núi phía Bắc, chia làm hai mùa:
- Mùa mưa từ tháng 4- 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau.
- Lượng mưa trung bình năm là 1600- 2600 mm, mưa phân bố không
đều theo vùng và theo mùa, tập trung vào tháng 7, 8.
Nhìn chung, khí hậu Tam Đảo thay đổi theo vùng. Theo tài liệu khí hậu
của các trạm khí tượng thuỷ văn quanh khu vực như sau:

Có thể coi số liệu của trạm khí tượng Tuyên Quang và Vĩnh Yên đặc
trưng cho khí hậu sườn Tây - Nam; trạm Đại Từ đặc trưng cho sườn Đông
Bắc; trạm Tam Đảo ở độ cao gần 900 m, đặc trưng cho vùng núi cao và khu
nghỉ mát Tam Đảo.
Theo số liệu bảng trên, có thể chia Tam Đảo thành 2 vùng khí hậu:
- Vùng thấp: Độ cao dưới 900 m, dưới chân núi, khí hậu tương tự vùng
đồng bằng Bắc Bộ, nhiệt độ trung bình năm 230C, lượng mưa 1600 mm,
lượng bốc hơi 700- 1040 mm/năm.
- Vùng cao: Độ cao trên 900 m, bao gồm các vùng núi cao và khu nghỉ
mát Tam Đảo, khí hậu mát mẻ, nhiệt độ trung bình năm 180C, lượng mưa lớn
2630 mm/năm, lượng bốc hơi thấp 561,5 mm/năm.
Vườn quốc gia Tam Đảo nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa,
chia làm 2 mùa là mùa khô và mùa mưa. Mùa mưa từ tháng 4 đên tháng 10,
mưa tập trung vào các tháng 7 và 8, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm
sau.
- Nhiệt độ bình quân năm 180C ở độ cao trên 700 m và 230C ở chân
núi.
- Độ ẩm trung bình hàng năm trong khu vực từ 80- 87 %.
- Lượng mưa bình quân năm 1603 mm (vùng có độ cao < 700 m), và
2630 mm (vùng trên 700 m).
- Số ngày mưa trung bình trong năm 160- 170 ngày.
14


- Tổng số giờ nắng bình quân năm 1400 giờ.
- Hướng gió thịnh hành là Đông Bắc (mùa khô), gió Tây Nam (mùa
mưa).
Khí hậu trong vườn quốc gia Tam Đảo mang đặc trưng của khí hậu
nhiệt đới gió mùa, mát về mùa hè và lạnh vào mùa đông, đặc biệt về mùa
đông thì nhiệt độ rất thấp, có sương mù, sương muối ở vùng cao trên 700 m

nên ít nhiều có ảnh hưởng đến sản xuất lâm nghiệp, đặc biệt là khâu gieo ươm
cây giống. Từ độ cao trên 900 m trở lên, khí hậu mát mẻ quanh năm, thích
hợp cho nhiều loài cây á nhiệt đới sinh trưởng và phát triển.
2.5.3. Địa hình
Do điều kiện tự nhiên và quá trình phân hoá, vườn quốc gia Tam Đảo
hình thành 4 loại đất chủ yếu như sau:
- Đất Feralit mùn vàng nhạt trên núi cao phát triển trên đá axit rionit,
daxít, đá biến chất như diệp thạch, phiến thạch và sa thạch; diện tích khoảng 9
nghìn ha chiếm 17,7% diện tích; phân bố ở độ cao từ 700 m đến 1592 m;
thành phần cơ giới nhẹ hay trung bình.
- Đất Feralit màu vàng đỏ phát triển trên đá axit hoặc đá biến chất, diện
tích 9292 ha chiếm 18,4%; phân bố ở độ cao từ 100 m đến 700 m; thành phần
cơ giới trung bình đến nhẹ.
- Đất Feralit màu đỏ vàng phát triển trên đá phiến thạch sét, phiến thạch
mica, sa thạch; có diện tích 23259 ha lớn nhất, chiếm 46%; thường ở độ cao
100- 7000 m; thành hần cơ giới nhẹ.
- Đất Feralit màu xám biến đổi do trồng lúa và đất dốc tụ lại, phân bố ở
chân núi hay sườn núi gần các bản làng; diện tích 8991 ha, chiếm 17,8%;
thành phần cơ giới trung bình đến nhẹ.

15


2.5.4. Tài nguyên sinh vật
a. Hệ thực vật
Theo kết quả điều tra từ 1997- 2000, đã ghi nhận được tại vườn quốc
gia Tam Đảo có 1282 loài thực vật bậc cao có mạch, thuộc 660 chi, 179 họ.
Trong số 1282 loài thực vật được phát hiện tại Tam Đảo có 66 loài cây quý
hiếm có tên trong sách đỏ Việt Nam: trầm hương, kim tuyến, trầu tiên, vù
hương, đỗ trọng bắc, sưa bắc bộ, vàng tâm, đinh hương, kim giao vv. Đặc

biệt, trong số đó có 42 loài thực vật được coi là đặc hữu của vườn quốc gia
Tam Đảo.
Mặc dù đây mới chỉ là những ghi nhận bước đầu, chắc chắn trong
tương lai sẽ còn nhiều loài được phát hiện tại khu vực, nhưng số liệu trên cho
thấy vườn quốc gia Tam Đảo là nơi có mức độ đa dạng cao về thành phần loài
thực vật và là nguồn gen vô giá cho bảo tồn đa dạng sinh học.
b. Hệ động vật rừng
Theo kết quả điều tra, tính đến năm 2003, đã phát hiện được tại vườn
quốc gia Tam đảo 70 loài thú, 248 loài chim, 132 loài bò sát, 62 loài ếch nhái
và 651 loài côn trùng. Với số liệu trên, nếu đánh giá theo chỉ số đa dạng sinh
học thì khu hệ động vật Tam Đảo có mức độ đa dạng rất cao về bộ, họ và đa
dạng cao về thành phần loài so với toàn quốc.
2.5.5. Điều kiện kinh tế - xã hội
a. Dân số
Theo số liệu của vườn quốc gia (2001), vùng đệm của vườn quốc gia
Tam Đảo bao gồm 23 xã và thị trấn thuộc 6 huyện thị. Tổng dân số trong
vùng trên 148000 người, thuộc 29598 hộ. Số người trong độ tuổi lao động
89460, trong đó lao động nông nghiệp 84678 người, chiếm 94,65%. Tỷ lệ
tăng dân số 1,0- 2,0%.
Trong những năm gần đây với sự hỗ trợ của Nhà nước, vườn quốc gia
và các tổ chức khác, nhiều dự án phát triển kinh tế- xã hội đã được triển khai.
Do đường sá, giao thông được mở mang đi lại thuận tiện tạo điều kiện cho
16


người dân trong vùng giao lưu phát triển kinh tế, đổi mới kỹ thuật canh tác, cơ
cấu cây trồng vật nuôi, đời sống người dân được cải thiện khá hơn trước. Mặc
dù vậy, nhìn chung trong khu vực kinh tế người dân còn rất nhiều khó khăn
do phương thức canh tác lạc hậu, năng suất cây trồng thấp, thiếu đất sản xuất,
chậm đổi mới cơ cấu cây trồng vật nuôi, cơ cấu ngành nghề. Những khó khăn

trên của người dân là áp lực lớn đối với tài nguyên rừng của vườn quốc gia
Tam Đảo.
b. Giao thông
Trong khu vực vườn quốc gia có đường Quốc lộ 2B từ thị xã Vĩnh Yên
đến thị trấn Tam Đảo dài 24km, đường được nâng cấp, mở rộng hiện đại phục
vụ khách du lịch và giao thương trong vùng. Phía Đông Bắc Tam Đảo có
Quốc lộ 13A từ Thái Nguyên qua Đại Từ đến Đèo Khế, dài 80km, phía Tây
Nam có đường cấp phối từ Đèo Khế qua Vĩnh Linh tới hồ Đại Lải, dài 60km.
Hầu hết các xã trong khu vực đều có đường cấp phối rộng, đảm bảo giao
thông thuận lợi. Nhìn chung, trong khu vực vườn quốc gia và vùng đệm, hệ
thống giao thông rất phát triển phục vụ tốt cho nhu cầu đi lại, giao lưu phát
triển kinh tế, xã hội của địa phương.
c. Y tế, giáo dục văn hoá
Các xã quanh khu vực đều có trường tiểu học và trung học cơ sở, đảm
bảo nhu cầu học tập của trẻ em trong độ tuổi đi học. Những nơi trọng điểm có
trường phổ thông trung học. Phần lớn các trường được kiên cố hoá, khang
trang.
Các xã đều có trạm xá, có đủ đội ngũ y, bác sỹ, giường bệnh, trang thiết
bị, thuốc mem phục vụ khám, chữa bệnh tại chỗ cho người dân.
Hầu hết các thôn bản đều có điện lưới quốc gia phục vụ sinh hoạt, sản
xuất. Một số hộ có máy phát điện thuỷ lợi nhỏ.

17


Hình 1: Bản đồ hành chính vườn quốc gia Tam Đảo- Vĩnh Phúc

18



CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
3.1. Đa dạng thành phần loài Oribatida ở sinh cảnh trảng cỏ cây bụi
vườn quốc gia Tam Đảo – Vĩnh Phúc
3.1.1. Danh sách loài.
Đã ghi nhận được 30 loài, thuộc 21 giống và 15 họ (Bảng 3.1). Trong
danh sách này, thành phần loài Oribatida được xếp theo hệ thống phân loại
của Balogh J. et al., 1992; Vũ Quang Mạnh, 2007; Ghilarov, 1975 [5], [15],
[24].
Trong 30 loài ghi nhận được có 28 loài được định tên và 2 loài thuộc
dạng sp.. Các loài chưa được định tên bao gồm: Cultroribula sp. ; Unguizetes
sp. .
Trên cơ sở các mẫu ve giáp ở các địa điểm, sinh cảnh nghiên cứu, mẫu
vật lưu trữ ở phòng thí nghiệm cũng như các tài liệu tham khảo của TS. Đào
Duy Trinh, PGS.TS. Vũ Quang Mạnh, chúng tôi tin rằng trong 2 loài chưa
định tên ở trên là loài mới cho khoa học. Tuy nhiên trong khuôn khổ của một
khóa luận tôt nghiệp, do điều kiện hạn chế về mặt thời gian, nên chúng tôi
chưa định rõ được tên các loài này.
Bảng 3.1. Danh sách loài và phân bố của ve giáp (Oribatida) theo độ sâu
tầng đất ở sinh cảnh trảng cỏ cây bụi
Stt

Trảng cỏ cây bụi

Loài

I

A1

A2


+

+

EUPHTHIRACARIDAE JACOT, 1930
Rhysotritia Maerkel et Meyer, 1959
1 Rhysotritia ardua (C. L. Koch, 1841)

II

LOHMANNIIDAE BERLESE, 1916
Meristacarus Grandjean, 1934
2

Meristacarus madagaskarensis Balogh,
1961
19

+


Lohmannia Michael, 1898
3 Lohmannia javana Balogh, 1961

+

Javacarus Balogh, 1961
4 Javacarus kuehnelti Balogh, 1961


+

TRHYPOCHTHONIDAE WILLMANN,

III

1931
Archeozetes Grandjean, 1931
5 Archegozetes longisetosus Aoki, 1965

+

NANHERMANNIIDAE SELLNICK,

IV

1928
Nanhermannia Berlese, 1913
6 Nanhermannia thainensis Aoki, 1965

V

+

+

HERMANNIIDAE SELLNICK, 1928
Phyllhermannia Berlese, 1916
7 Phyllhermannia gladiata Aoki, 1965
8


VI

Phyllhermannia similis Balogh et
Mahunka, 1967

+
+

DAMAEIDAE BERLESE, 1896
Belba Heyden, 1826
9 Belba corynopus (Hermann, 1804)

VII

+

PROTORIBATIDAE J. BALOGH ET P.
BALOGH, 1984
Giống Liebstadia Oudemans, 1906
10 Liebstadia humerata Sellnick, 1928

VIII

+

MICROTEGEIDAE BALOGH, 1972
Microtegeus Berlese, 1916
11 Microtegeus reticulatus Aoki, 1965


IX

ASTEGISTIDAE BALOGH, 1961

20

+

+


Cultroribula Berlese, 1908
12 Cultroribula lata Aoki, 1961

+

13 Cultroribula sp.
X

+
+

OTOCEPEIDAE BALOGH, 1961
Dolicheremaeus Jacot, 1938
14

15

16


Dolicheremaeus aoki (Balogh et Mahunka,
1967)
Dolicheremaeus lineolatus Balogh et
Mahunka, 1967
Dolicheremaeus ornata (Balogh et
Mahunka, 1967)

+

+

+

+

+

Otocepheus Berlese, 1905
17
XI

Acrotocepheus discrepans Balogh et
Mahunka, 1967

+

+

OPPIIDAE GRANDJEAN, 1954
Cryptoppia Csiszár, 1961

18 Cryptoppia elongata Csiszar, 1961

+

Ramusella Hammer, 1962
19 Ramusella clavipectinata (Michael, 1885)
XII

+

+

+

+

EREMELLIDAE BALOGH, 1961
Eremella Berlese, 1913
20 Eremella vestita Berlese, 1913

XIII

MOCHLOZETIDAE GRANDJEAN,
1960
Unguizetes Sellnick, 1925
21 Unguizetes clavatus Aoki, 1967
22 Unguizetes sp.

XIV


+
+

XYLOBATIDAE J. BALOGH ET P.

21


BALOGH, 1984
Brasilobates Pérez-Inigo et Baggio, 1980
23 Brasilobates maximus Mahunka, 1988

+

Perxylobates Hammer, 1972
24 Perxylobates brevisetus Mahunka, 1988
25

26

Perxylobates vermiseta (Balogh et
Mahunka, 1968)
Perxylobates vietnamensis (Jeleva et Vu,
1987)

+

+

+


+

+

Xylobates Jacot, 1929

XV

27 Xylobates capucinus (Berlese, 1908)

+

28 Xylobates lophotrichus (Brerlese, 1904)

+

SCHELORIBATIDAE GRANDJEAN,
1953
Scheloribates Berlese, 1908
29 Scheloribates laevigatus (C. L. Koch, 1836)

+

30 Scheloribates latipes (C. L. Koch, 1841)

+
19

Tổng số loài


22
30

Ghi chú: A1: Tầng đất từ 0- 10 cm
A2: Tầng đất từ 11- 20 cm
3.1.2. Thành phần phân loại học
Phân tích thành phần phân loại học Oribatida ở sinh cảnh trảng cỏ cây
bụi vườn quốc gia Tam Đảo, Vĩnh Phúc trình bày ở bảng 3.2 cho thấy: có 4
họ có từ 2- 3 giống trên họ (chiếm tương ứng từ 9,53% tổng số giống đến
14,29% tổng số giống). Các họ còn lại (11 họ) chỉ có 1 giống/họ (chiếm
4,76% tổng số giống).

22


Có 1 họ (Xylobatidae) có số loài nhiều nhất (6 loài, chiếm 20,00% tổng
số loài). Có 7 họ (Lohmanniidae, Hermanniidae, Astegistidae, Otocepeidae,
Oppiidae, Mochlozetidae, Scheloribatidae) có 2- 4 loài/họ (chiếm từ 6,67%13,34% tổng số loài). 7 họ còn lại (Euphthiracaridae, Trhypochthonidae,
Nanhermanniidae, Damaeidae, Protoribatidae, Microtegeidae, Eremellidae)
chỉ có 1 giống và 1 loài.
Bảng 3.2. Thành phần phân loại học Oribatida ở sinh cảnh trảng cỏ cây
bụi vườn quốc gia Tam Đảo, Vĩnh Phúc.
Tỉ lệ % so với
Số loài
Stt

Taxon

Số


(Họ)

giống

Đã xác
định

Chưa
định
tên

tổng số
Tổng
số

Giống

Loài

1

Euphthiracaridae

1

1

0


1

4,76

3,33

2

Lohmanniidae

3

3

0

3

14,29

10,00

3

Trhypochthonidae

1

1


0

1

4,76

3,33

4

Nanhermanniidae

1

1

0

1

4,76

3,33

5

Hermanniidae

1


2

0

2

4,76

6,67

6

Damaeidae

1

1

0

1

4,76

3,33

7

Protoribatidae


1

1

0

1

4,76

3,33

8

Microtegeidae

1

1

0

1

4,76

3,33

9


Astegistidae

1

1

1

2

4,76

6,67

10 Otocepeidae

2

4

0

4

9,53

13,34

11
12

13
14
15

2
1
1
3
1
21

2
1
1
6
2
28

0
0
1
0
0
2

2
1
2
6
2

30

9,53
4,76
4,76
14,29
4,76
100

6,67
3,33
6,67
20,00
6,67
100

Oppiidae
Eremellidae
Mochlozetidae
Xylobatidae
Scheloribatidae
Tổng

23


Trong số các họ đã ghi nhận được họ Xylobatidae có số giống và số
loài nhiều nhất (3 giống và 6 loài, chiếm tương ứng 14,29% tổng số giống và
20% tổng số loài) (bảng 3.2). Giống Dolicheremaeus và Perxylobates là 2
giống có số loài nhiều nhất (3 loài/giống). Các giống còn lại chỉ có từ 1 đến 2

loài.
Như vậy, tính đa dạng về taxon giống loài của Oribatida ở sinh cảnh
trảng cỏ cây bụi tập chung chủ yếu ở 3 họ (Lohmanniidae, Otocepeidae và
Xylobatidae) với số giống và số loài cao hơn các họ còn lại.
3.2. Đặc điểm phân bố của Oribatida ở sinh cảnh trảng cỏ cây bụi vườn
quốc gia Tam Đảo.
Kết quả nghiên cứu trình bày ở bảng 3.1 cho thấy:
Có 11 loài xuất hiện ở cả 2 tầng phân bố (Rhysotritia ardua (C. L. Koch,
1841); Nanhermannia thainensis Aoki, 1965; Microtegeus reticulatus Aoki,
1965; Cultroribula lata Aoki, 1961; Acrotocepheus discrepans Balogh et
Mahunka, 1967 ; Dolicheremaeus aoki (Balogh et Mahunka, 1967);
Dolicheremaeus

lineolatus

Balogh

et

Mahunka,

1967;

Ramusella

clavipectinata (Michael, 1885); Eremella vestita Berlese, 1913; Perxylobates
brevisetus Mahunka, 1988; Perxylobates vermiseta (Balogh et Mahunka,
1968) ).
Có 8 loài chỉ xuất hiện ở tầng A1 (Archegozetes longisetosus Aoki,
1965 ; Phyllhermannia similis Balogh et Mahunka, 1967; Belba corynopus

(Hermann, 1804); Liebstadia humerata Sellnick, 1928; Dolicheremaeus
ornata (Balogh et Mahunka, 1967); Unguizetes sp.; Brasilobates maximus
Mahunka, 1988; Perxylobates vietnamensis (Jeleva et Vu, 1987)).
Có 11 loài chỉ xuất hiện ở tầng A2 (Javacarus kuehnelti Balogh, 1961;
Lohmannia javana Balogh, 1961; Meristacarus madagaskarensis Balogh,
1961;Phyllhermannia gladiata Aoki, 1965; Cultroribula sp.; Cryptoppia
elongata Csiszar, 1961; Unguizetes clavatus Aoki, 1967; Xylobates capucinus

24


(Berlese, 1908); Xylobates lophotrichus (Brerlese, 1904); Scheloribates
laevigatus (C. L. Koch, 1836); Scheloribates latipes (C. L. Koch, 1841)).
Như vậy, trong tổng số 30 loài ghi nhận được ở trảng cỏ cây bụi Vườn
Quốc gia Tam Đảo Oribatida phân bố khá đều ở cả 2 tầng đất A1 và A2.
3.3. Một số chỉ số định lượng của Oribatida ở trảng cỏ cây bụi vườn quốc
gia Tam Đảo
3.3.1. Số loài
Theo kết quả nghiên cứu số loài ghi nhận được là tương đương nhau ở
cả 2 tầng phân bố, cụ thể: tầng A1: 19 loài và tầng A2: 22 loài (bảng 3.3).

22
19
20
15
10
5

A1


0

A2

Biểu đồ 1: Số loài Oribatida ở sinh cảnh trảng cỏ cây bụi vườn quốc gia
Tam Đảo
Bảng 3.3. Chỉ số định lượng cấu trúc của Oribatida ở sinh cảnh trảng cỏ
cây bụi vườn quốc gia Tam Đảo, Vĩnh Phúc
Chỉ số

Trảng cỏ cây bụi
A1

A2

Số loài

19

22

Số cá thể

152

103

H’

2,58


2,78

J’

0,88

0,90

25


×