Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Bản chất và vai trò kinh tế tư nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.42 KB, 30 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................2
I. BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN.......................3
1. Bản chất của kinh tế tư nhân..................................................................3
2. Tính tất yếu tồn tại kinh tế tư nhân ở Việt Nam.....................................4
3. Vai trò của kinh tế tư nhân.....................................................................8
II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN ......................13
1. Thực trạng phát triển...........................................................................13
2. Nguyên nhân.......................................................................................18
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN ...........19
1. Những thuận lợi và khó khăn trong phát triển kinh tế tư nhân..........19
2. Một số giải pháp phát triển kinh tế tư nhân........................................22
2.a Các vấn đề kinh tế vĩ mô...................................................................22
2.b Các vấn đề kinh tế vi mô...................................................................27
IV. KẾT LUẬN......................................................................................29
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
LI M U

Trong xu th ton cu húa hin nay,c bit l vn hi nhp nn kinh t th
gii ó v ang t ra nhng c hi cng nh nhng thỏch thc i vi nn kinh t
Vit Nam.Vit Nam ó v ang cú nhng bc tin vng chc trong vic phỏt trin
nn kinh t th trng ng hng xó hi ch ngha,hi nhp cựng th gii bng vic
phỏt huy ni lc ng thi tranh th cỏc ngun lc bờn ngoi thụng qua vic phỏt
huy sc mnh ca cỏc thnh phn kinh t.Trong ú phi k n s úng gúp quan
trng ca thnh phn kinh t t nhõn trong vic phỏt trin nn kinh t.
Hi ngh ln th 5 ban chp hnh trung ng khúa IX khng nh: kinh t t
nhõn l mt b phn cu thnh quan trng ca nn kinh t quc dõn.Phỏt trin kinh t
t nhõn l vn chin lc lõu di trong phỏt trin kinh t nhiu thnh phn nh
hng xó hi ch ngha.


Vy trong vic phỏt trin kinh t Vit Nam thnh phn kinh t t nhõn ó cú vai
trũ nh th no? Hay ti sao Vit Nam li phi phỏt trin kinh t t nhõn trong khi
chỳng ta muụn hng ti mt xó hi xó hi ch ngha ni s hu t liu sn xut l
ca tp th.Vic xỏc nh ỳng vai trũ ca kinh t t nhõn v con ng ỳng n
cho s phỏt trin ca thnh phn kinh t ny l vic lm cp thit hin nay, bi vỡ
hin nay ton cu húa l mt xu th phỏt trin tt yu trong tin trỡnh phỏt trin ca
nhõn loi, chỳng ta khụng mun b cun vo vũng xoỏy dú mt cỏch th ng thỡ
chỳng ta phi bit phỏt huy sc mnh ca cỏc thnh phn kinh t trong ú cú thnh
phn kinh t t nhõn, nú l mt mt xớch quan trng trong vic ni kt nn kinh t th
trng Vit Nam vi nn kinh t th trng th gii.
Vỡ vy em xin lm rừ v vai trũ ca kinh t t nhõn Vit Nam v thc trng
phỏt trin ca thnh phn kinh t ny trong thi gian qua cng nh xin a ra mt s
ý kin v gii phỏp phỏt trin thnh phn kinh t ny.
vai trò và giải pháp phát triển kinh tế t nhân
ở việt nam hiện nay
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
I. BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN
1. BẢN CHẤT CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN:
Việt Nam đang trong giai đoạn quá độ lên chủ mghĩa xã hội, việc đổi mới đường
lối phát triển kinh tế xã hội trong thời gian qua đã đem lại cho chúng ta những bước
tiến vượt bậc. Chúng ta chấp nhận mở cửa hội nhập với thế giới, xây dựng đường lối
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy nội lực đồng thời
tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Việc
xây dựng đường lối phát triển kinh tế như vậy là sự phù hợp với thực tế khách quan
hiện nay ( phù hợp với điều kiện thực tế của kinh tế Việt Nam hiện nay và quá trình
toàn cầu hóa đang diễn ra như một điều tất yếu trong quá trình phát triển của lịch sử)
vì vậy đã mang lại cho chúng ta những thành tựu đáng kể. Trong kết quả chúng ta có
hôm nay phải kể đến sự đóng góp ngày càng quan trọng vào sự phát triển kinh tế xã
hội Việt Nam của khu vực kinh tế tư nhân nhất là sau khi có sự đổi mới đường lối

phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước.
Kinh tế tư nhân là một loại hình Kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất, gắn liền với lao động cá nhân người chủ sở hữu và lao động làm thuê.
Kinh tế tư nhân ra đời, tồn tại và phát triển trong những điều kiện kinh tế xã hội
nhất định, do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định. Như vậy bản
chất của lọai hình kinh tế này đó là dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Người sở hữu tư liệu sản xuất là người chủ và họ luôn có xu hướng tối đa hóa lợi ích
mà mình thu được vì vậy họ phải bóc lột sức lao động của công nhân làm thuê.
Mỗi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế tuyệt đối, quy luật phản ánh
mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của phương thức sản xuất đó. Trong phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa thì chế tạo ra giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của nó.
Thật vậy giá trị thặng dư, phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động của công
nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt phản ánh mối quan hệ kinh tế bản
chất nhất của chủ nghĩa tư bản – quan hệ bóc lột lao động làm thuê. Mục đích của
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà là sản xuất ra giá trị thặng
dư, là nhân giá trị lên. Theo đuổi giá trị thặng dư tối đa là mục đích và động cơ thúc
đẩy sự hoạt động mỗi nhà tư bản, cũng như toàn bộ xã hội tư bản. Các nhà tư bản
luôn được bộ máy chính quyền tư bản bảo vệ lợi ích nên họ đã tìm đủ mọi cách để
bóc lột giá trị thặng dư như tăng cường độ lao động, kéo dài thời gian lao động, tăng
năng suất lao động… Chủ nghĩa tư bản ngày nay tuy có những điều chỉnh nhất định
về hình thức sỏ hữu,quản lí, phân phối để thích nghi với điều kiện mới nhưng về bản
chất thì không thay đổi. Nhà nước tư bản hiện nay tuy có tăng cường can thiệp vào
đời sống kinh tế xã hội nhưng về cơ bản nó vẫn là bộ máy thống trị của giai cấp tư
sản. Xét trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay thì kinh tế
tư nhân chịu sự kiểm soát quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa nên không còn
hoàn toàn giống như kinh tế tư nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Khái niệm kinh tế
tư bản tư nhân chỉ xuất hiện gắn liền với sự hình thành và phát triển phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Quá trình đổi mới ở nước ta với sự xuất hiện và phát triển các

loại hình doanh nghiệp của tư nhân không đồng nghĩa với sự xuất hiện trở lại của
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và giai cấp tư sản. Các loại hình doanh nghiệp tư
nhân hoạt động theo luật doanh nghiệp ở nước ta, được hình thành và phát triển trong
điều kiện có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, chịu sự quản lý của Nhà nước xã hội
chủ nghĩa, phục vụ cho sự nghiệp đổi mới, được nhà nứơc khuyến khích và bảo vệ
không hoàn toàn do quy luật giá trị thặng dư chi phối. Hơn nữa các loại hình doanh
nghiệp của tư nhân và đội ngũ doanh nhân ở nước ta được hình thành và phát triển
trong điều kiện mới, không hàm chứa tính chất giai cấp hay bản chất tư bản như dưới
xã hội tư bản điều này được chứng minh là đã có rất nhiều doanh nhân là đảng viên.
Các doanh nghiệp của tư nhân nước ta đại diện cho một lực lựơng sản xuất mới, là
một trong những động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế cá thể, tiểu
chủ, tư bản tư nhân…
2.TÍNH TẤT YẾU TỒN TẠI KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM:
* Quan điểm về kinh tế tư nhân của Đảng trước khi đổi mới (1986)
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Kinh tế tư nhân là đối tượng chính phải cải tạo, xóa bỏ. Vì kinh tế tư nhân luôn
đồng nghĩa với làm ăn cá thể bóc lột, tự phát lên con đường chủ nghĩa tư bản, vì thế
kinh tế tư nhân không thể là một chủ thể kinh tế để xây dựng chr nghĩa xã hội.
Sau cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta thì Đảng và Nhà nước đứng trước hai
hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là sở hữu tư nhân của những người sản
xuất nhỏ(cá thể, thợ thủ công, tiểu thương…) và sở hữu tư nhân của giai cấp tư sản
dân tộc Việt Nam. Đối với sở hữu tư nhân của những ngừơi sản xuất nhỏ thì Nhà
nước cải tạo bằng con đường vận động thuyết phục để đưa họ vào làm ăn tập thể.
Còn đối với sở hữu tư nhân của giai cấp tư sản dân tộc thì Nhà nước phân làm hai
đối tựơng, một đối tượng đó là các nhà tư sản dân tộc nhưng có công với cách mạng
và kháng chiến thì Nhà nước cải tạo hòa bình bằng cách chuộc lại hay chưng mua rồi
sau đó chuyển thành sở hữu Nhà nước (sau đó vận động họ kết hợp với nhà nước để
kinh doanh hình thành các xí nghiệp công tư hợp doanh) Đối với nhà tư sản làm tay

sai cho đế quốc phong kiến thì Nhà nước cải tạo bằng cách quốc hữu hóa hay tịch thu
toàn bộ tài sản biến thành sở hữu Nhà nước.
Tuy nhiên trong giai đoạn này ngay cả ở trong nghiệp là nơi diễn ra quá trình xóa
bỏ tư nhân mạnh nhất nhưng sở hữu tư nhân vẩn còn tồn tại,trong thời gian này
những ngừơi không vào tập thể hợp tác xã, làm ăn cá thể, tiểu thương… thường
không được coi trọng, bị phân biệt trong nhiều việc.
* Từ sau đại hội VI kinh tế tư nhân được thừa nhận tồn tại khách quan lâu dài có
lợi cho quốc kế dân sinh trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị lần thứ 5 BCH trung ương khóa IX khẳng định: “ Kinh tế tư nhân là
một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư
nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần định
hướng xã hội chủ nghĩa”.
Tuy nhiên trong thời kỳ hiện nay về mặt tâm lý vẫn còn nhiều người nghi ngờ về
tầm quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân, họ vẫn giữ quan niệm cũ trước đổi mới
cho rằng không nên phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế tư nhân đi liền với sự bóc lột
của tư bản, kinh tế tư nhân là một rào cản trong con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
của chúng ta. Điều này đã tạo nên tâm lý lo ngại cho một bộ phận không nhỏ trong
xã hội và tạo thành một rào cản về mặt tâm lý trong việc xây dựng phát triển kinh tế
tư nhân theo đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước. Việc Đảng và Nhà nước
ta chủ trương xây dựng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa là một việc làm đúng đắn, thể hiện tầm nhìn sâu, rộng, xuyên suốt của
Đảng. Việc xây dựng đường lối chủ trương của Đảng đã gắn với thực tế, xuất phát từ
thực tế phù hợp với điều kiện và tình hình phát triển của Việt Nam. Xuất phát từ thực
tế thì nhà nước ta đã khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân trong gần 20 trở lại đây
vì sự tồn tại phát triển của kinh tế tư nhân hay phát triển nền kinh tế thị trường trong
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay là một sự tất yếu khách
quan xuất phát từ những lý do sau:
Thứ nhất: phù hợp với thực trạng của lực lượng sản xuất phát triển chưa đồng

đều ở Việt Nam.
Đặc điểm to lớn nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là điểm
xuất phát rất thấp, sản xuất nhỏ là phổ biến, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Điều đó
có nghĩa là trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta còn rất thấp kém và do đó sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất vẫn còn phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất,
là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Bởi vậy trong giai đoạn đầu
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất chẳng những không cần phải xóa bỏ mà còn cần được tạo mọi điều kiện để phát
triển.
Trình độ lực lượng sản xuất của chúng ta không những còn rất thấp kém mà còn
phát triển không đồng đều có nhiều trình độ khác nhau do đó trong nền kinh tế tồn tại
nhiều loại hình sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất dẫn đến tồn tại nhiều thành phần
kinh tế. Trong lịch sử mỗi phương thức sản xuất có một loại hình sở hữu tư liệu sản
xuất đặc trưng nhưng điều đó không có nghĩa là mỗi phương thức sản xuất chỉ có
một hình thức sở hữu tư liệu sản xuất mà có thể có nhiều loại hình sở hữu tư liệu sản
xuất khác nhau cùng tồn tại. Sự xuất hiện của các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất
do tính chất và trình độ phát triển của các lực lượng sản xuất quy định, lực lượng sản
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
xuất không ngừng vận động biến đổi làm cho quan hệ sản xuất cũng không ngừng
vận động biến đổi, tương ứng với mỗi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ có
một kiểu quan hệ sản xuất. Do vậy sự chủ quan nóng vội duy ý chí trong việc xóa bỏ
sở hữu tư nhân, xác lập sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất đều trái với yêu cầu của
quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất và phải trả giá. Điều này đã được thực tế ở Việt Nam trong những năm sau
khi giành độc lập đến 1986 chứng minh. việc xóa bỏ vội vàng sở hũu tư nhân, phát
triển kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã làm cho kinh tế Việt Nam trì trệ, lâm vào
khủng hoảng, lạm phát tăng cao…Vì vậy từ một nền sản xuất nhỏ với nhiều loại hình
sở hữu không thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội thông qua việc xóa bỏ chế độ tư
hưu ngay.

Thứ hai: trong quá trình phát triển do điều kiện lịch sử đã để lại nhiều thành phần
kinh tế như thành phần kinh tế tư nhân, thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ, thành
phần kinh tế tự nhiên của đồng bào dân tộc ở dẻo cao phía bắc và tây nguyên… mà
chúng ta không thể cải biến nhanh được. Hơn nữa sau nhiều năm cải tạo và xây dựng
quan hệ sản xuất mới mới đã xuất hiện thêm một số thành phần kinh tế mới: thàh
phần kinh tế Nhà nước,thành phần kinh tế tập thể, thành phần kinh tế tư bản nhà
nước… các thành phần kinh tế này tồn tại khách quan và có quan hệ với nhau.
Thứ ba: phát triển kinh tế nhiều thành phần là phù hợp với xu thế phát triển kinh
tế khách quan của thời đại ngày nay, thời đại các nước hướng về phát triển kinh tế thị
trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Quá trình toàn cầu hóa kinh tế đang diễn
ra mạnh mẽ trên toàn thế giới, đây là quá trình phát triển tất yếu của lịch sử nhân
loại, nó tác động đến tất cả các quốc gia trên thế giới. Việc phát triển kinh tế thị
trường sẽ giúp Việt Nam có những cơ hội to lớn để thúc đẩy phát triển kinh tế trong
quá trình hội nhập với thế giới. Chúng ta đang đàm phán để được gia nhập tổ chức
WTO vì vậy nếu chúng ta không phát triển thị trường thì chúng ta sẽ không thể cạnh
tranh được với các nước trên thế giới, dẫn tới việc lạc hậu, bị cuốn theo vòng xoáy
của toàn cầu hóa.
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thứ tư: phát triển kinh tế nhiều thành phần phù hợp với lòng mong muốn thiết
tha của người dân Việt Nam là được đem hết tài năng, sức lực để lao động làm giàu
cho đất nước và cho cả bản thân mình, làm cho cuộc sống ngày càng ấm no hạnh
phúc.
Thứ năm: phát triển kinh tế nhiều thành phần cho phép khai thác có hiệu quả nhất
các tiềm năng hiện có và đang còn tiềm ẩn trong nước, có thể tranh thủ tốt nhất sự
giúp đỡ từ bên ngoài nhằm phát triển kinh tế hướng vào mục tiêu tăng trưởng nhanh
và hiện đại hóa. Chỉ có phát triển nhiều thành phần kinh tế chúng ta mới có khả năng
huy động mọi tiềm năng về vốn, kỹ thuật, tiềm năng về con người, mới có thể áp
dụng nhanh chóng các thành tựu khoa học kỹ thuật để phát triển kinh tế và xây dựng
đất nước.

Thứ sáu: phát triển kinh tế nhiều thành phần mới có khả năng giải quyết được
vấn đề việc làm của chúng ta. Nước ta còn có lực lượng lao động dồi dào (hơn 40
triệu lao động) cần cù thông minh, song số người chưa có việc làm hay thiếu việc
làm còn nhiều, vừa lãng phí sức lao động, vừa gây ra những khó khăn lớn về kinh tế
xã hội ( thất nghiệp, tệ nạn…) Trong khi khả năng thu hút lao động của khu vực kinh
tế nhà nước không nhiều thì việc khai thác, tận dụng tiềm năng của các thành phần
kinh tế khác là một trong những giải pháp quan trọng để tạo thêm nhiều công ăn
việc làm cho người lao động.
Từ những lý do phân tích như trên chúng ta có thể thấy việc Đảng và Nhà nước
chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước là việc
làm hết sức đúng đắn phù hợp với thực tế, mong muốn của người dân và lựa chọn
đúng con đường phát triển giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. VAI TRÒ CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN:
Hội nghị lần thứ 5 BCH trung ương khóa IX đã khẳng định: “Kinh tế tư nhân là
một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư
nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần định
hướng xã hội chủ nghĩa…” Điều này chứng tỏ tầm quan trọng của kinh tế tư nhân đã
được Đảng khẳng định và trên thực tế khu vực kinh tế tư nhân cũng đã và đang thể
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hiện được vai trò của mình trong nền kinh tế, và ngày càng có những đóng góp quan
trọng trong nền kinh tế, khu vực kinh tế tư nhân đang thực sự trở thành một động lực
mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế xã hội ở nước ta.
* Khu vực kinh tế tư nhân đóng góp vào tăng trưởng của tổng sản phẩm trong nước
GDP và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tổng sản phẩm của khu vực kinh tế tư nhân
nhìn chung tăng ổn định trong những năm gần đây. Nhịp độ tăng trưởng năm 1997 là
12,89%; năm 1998 là 12,74%; năm 1999: 7,5%; năm 2000: 12,55% và chiếm tỷ
trọng tương đối ổn định trong GDP, tuy năm 2000 có giảm chút ít so với năm 1996
(từ28,45% năm 1996 còn 26,87% năm 2000). Tỷ trọng GDP của khu vực kinh tế tư
nhân trong tổng GDP giảm đi chút ít do sự tham gia và đóng góp của khu vực có vốn

đầu tư nước ngòai.
Bảng đóng góp GDP của khu vực kinh tế tư nhân:
Chỉ tiêu Đơn
vị
Năm
1996
Năm
1997
Năm
1998
Năm
1999
Năm
2000
Tổng GDP toàn quốc Tỷ đ 272.036 313.623 361.017 399.943 444.140
1.khu vưc tư nhân - 77.481 87.475 98.625 106.029 119.337
% trong GDP toàn quốc % 28.48 27.89 27.32 26.51 26.87
2. hộ kinh doanh cá thể Tỷ đ 57.879 65.555 73.321 78.054 87.604
Tỷ trọng hộ trong GDP % 21.28 20.9 20.31 19.52 19.72
Tỷ trọng hộ trong khu
Vực kinh tế tư nhân
- 74.7 74.94 74.34 73.62 73.41
3. Doanh nghiệp tư nhân Tỷ đ 19.602 21.920 25.304 27.975 31.733
Tỷ trọng trong GDP % 7.21 6.99 7.01 6.99 7.14
Tỷ trọng trong khu vực
Tư nhân
% 25.3 25.06 25.66 26.38 26.59
Nguồn:Báo cáo tổng hợp tình hình và phương hướng,giải pháp phát triển kinh tế tư nhân. Ban kinh
tế trung ương ngày 26-11-2001
Trong 4 năm (2000-2003) tốc độ tăng trưởng của kinh tế tư nhân trong công nghiệp

đạt mức 20% năm. Trong nông nghiệp kinh tế tư nhân đã có đóng góp đáng kể trong
trồng trọt chăn nuôi và đặc biệt là trong các ngành chế biến và xuất khẩu. Nhờ sự
phát triển của kinh tế tư nhân, cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã có sự chuyển dịch quan
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trọng theo hướng sản xuất hàng hóa, đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH khu vực nông
nghiệp nông thôn.
* Đóng góp về xuất khẩu và tăng nguồn thu ngân sách:
Theo số liệu thống kê của bộ thương mại, đến năm 2002 khu vực kinh tế tư nhân
trong nước đóng góp khoảng 48% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, kinh tế
tư nhân là nguồn lực chủ yếu phát triển các mặt hàng mới, số lượng hàng hóa tham
gia xuất khẩu ngày càng tăng, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Xuất khẩu trực tiếp của khu vực kinh tế tư nhân đến nay đã tăng khá, 9 tháng đầu
năm 2001 đạt 2.189.330.000 USD, trong đó các công ty cổ phần đạt 361.759.900
USD, công ty trách nhiệm hữu hạn đạt 1.606.489.900 USD, công ty tư nhân đạt
211.900.000 USD(số liệu của tổng cục hải quan)
Các doanh nghiệp tư nhân đã tham gia tích cực vào xuất nhập khẩu trực tiếp, đến
năm 2000 số doanh nghiệp tư nhân tham gia xuất khẩu trực tiếp tăng lên 16.200
doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp đã vươn lên chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu về
một số mặt hàng quan trọng( sản phẩm thủ công mỹ nghệ, thực phẩm chế biến…), đã
có một số doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD / năm, ở một số
địa phương kinh tế tư nhân là khu vực đóng góp chủ yếu về xuất khẩu ( Hà Giang:
60%,Bình Thuận 45%, Quảng Ngãi 34% ).Vì thế khu vực ngòai quốc doanhtrong
nước từ chổ chỉ chiếm 11% giá trị xuất khẩu vào năm 1997 thì đến quý I-2002 dã
tăng lên khoảng 31% ( Thời báo kinh tế Việt Nam số 66 ngày 3-6-2002 ).
Đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân đã trở thành nguồn thu quan trọng cho
ngân sách Nhà nước và có xu hướng ngày càng tăng, từ khoảng 6,4% năm 2001 lên
hơn 7% năm 2002.Nhiều địa phương mức đóng góp của doanh nghiệp dân doanh
chiếm trên 20% nguồn thu ngân sách địa phương ( Bình Định 33% Tiền Giang
24%...). Thu từ thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh năm 2002 đạt

103,6% kế hoạch và tăng 13% so với năm 2001.
* Kinh tế tư nhân có đóng góp rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư xã
hội phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội.
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong 10 năm gần đây vốn đầu tư cho khu vực tư nhân tăng nhanh, chiếm tỷ lệ
cao trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Năm 1999 tổng vốn đầu tư khu vực kinh tế tư
nhân đạt 31.542 tỷ đồng chiếm 24.05% , năm 2000 đạt 55.894 tỷ đồng tăng 13.8% so
với năm 1999,chiếm 24.31% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội,và trong gần 4 năm thực
hện luật doanh nghiệp số vốn các doanh nghiệp đầu tư là hơn 145.000 tỷ đồng. Đặc
biệt số vốn đăng kí giai đoạn 2000-2003 cao gấp 4 lần số vốn đăng kí 9 năm trước đó
(1991-1999). Vốn đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh đã đóng vai trò là nguồn
vốn đầu tư chủ yếu đối với sự phát triển kinh tế địa phương. Nhờ vốn huy động được
từ thực hiện luạt doanh nghiệp cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội đã thay đổi theo hướng
tăng tỷ lệ vốn đầu tư trong nước, tăng tỷ lệ vốn đầu tư của khu vực dân doanh trong
tổng dầu tư toàn xã hội (Vốn đầu tư của dân cư và các doanh nghiệp từ chổ chiếm
20% năm 2000 tăng lên 23% năm 2001; 25.3% năm 2002 và trong năm 2003 khoảng
gần 27% trong đầu tư ).
* Khu vực kinh tế tư nhân tạo việc làm và góp phần xóa đói giảm nghèo:
Ở nước ta hàng năm có khoảng 1.5 triệu người đến độ tuổi lao động, gồm có lực
lượng thanh niên đến độ tuổi lao động, số học sinh tốt nghiệp phổ thông , trung học,
đại học , cao đẳng và dạy nghề. Ngoài ra còn có những lao động bị thât nghiệp do
sắp xếp lại sản xuất trong các nghành kinh tế quốc dân. Nếu chỉ thông qua các doanh
nghiệp Nhà nước thì sẽ không bao giờ tạo đủ công ăn việc làm cho những người có
nhu cầu lao động. Thực tế những năm qua cho thấy ở thời điểm cao nhất quốc doanh
củng chỉ thu hút được khoảng 2 triệu lao động/năm. Trong khi dó tính đến thời điểm
31-12-2000 số lượng lao động trong khu vực kinh tế tư nhân là4.643.884 người
chiếm 12% tổng số lao động xã hội, bằng 1.36 lần tổng số việc làm trong khu vực
kinh tế Nhà nước. Lao động của hộ kinh doanh cá thể là 3.802.057 người,của các
doanh nghiệp tư nhân là 841.787 người, trong 3 năm ( 2000-2002 ) các doanh nghiệp

dân doanh và hộ kinh doanh cá thể mới thành lập đã tạo ra khoảng 1.5 triệu chổ làm
việc mới . Tuy nhiên số lao động qua thực tế khảo sát ở hộ kinh doanh cá thể còn lớn
hơn nhiều so với số đăng kí vì nhiều hộ gia đình hủ yếu sử dụng lao động trong dòng
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
họ, lao động mang tính thời vụ và lao động nông nhàn không thể hiện trong các báo
cáo thống kê.
Khu vực kinh tế tư nhânvới mọi loại hình, mọi quy mô, mọi nghành nghề, áp
dụng nhiều phương thức sản xuất đã và đang góp phần quan trọng trong việc tạo ra
ngày càng nhiều việc làm cho người lao động. Với việc ngày càng tạo ra nhiều việc
làm và sử dụng linh hoạt mọi loại lao động, tạo được th nhập đáng kẻ cho người lao
động nhất là những người lao động thời vụ hay thiếu việc làm, cải thiện đời sống
nhân dân. Theo thực tế khảo sát thu nhập của người lao động trong khu vực kinh tế
tư nhân thường có mức thu nhập tương đương hoặc cao hơn thu nhập của người lao
động trồng lúa ở nông thôn cùng địa bàn.Chính vì vậy khu vực kinh tế tư nhân đang
có sức hút lao động lớn và đang làm chuyển dịch dần cơ cấu lao động của nước ta
theo hướng giảm tỉ lệ lao động trong nông nghiệp và tăng tỉ lệ lao động trong công
nghiệp và dịch vụ góp phần đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH đất nước.
* Góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế xã hội, thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Sự phát triển của kinh tế tư nhân đã đặt ra những yêu cầu mới thúc đẩy hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường địn hướng xã hội chủ nghĩa.
Sự phát triển của kinh tế tư nhân góp phần thu hút được ngày càng nhiều lao
động ở nông thôn vào các nghành phi nông nghiệp nhất là công nghiệp, giúp chuyển
đổi cơ cấu kinh tế từng địa phương, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước.
Trình độ sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân càng càng tiến bộ
hơn, các mặt hàng ngày càng phong phú đa dạng, số lượng hàng hóa tham gia xuất
ngày càng tăng đòi hỏi việc hoàn thiện cơ chế quản lí về nhiều mặt như chất lượng,
hàng giả, trốn thuế…
* Kinh tế tư nhân góp phần quan trọng tạo môi trường kinh doanh, đẩy nhanh

tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Sự phát triển kinh tế tư nhân là nhân tố chủ yếu tạo môi trường cạnh tranh
giửa các thành phần kinh tế phá bỏ dần tính độc quyền của một số doanh nghiệp
nhà nước. Thể chế kinh tế thị trường ngày càng thích ứng hơn với cơ chế kinh tế
12

×