Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

HIỆU ỨNG NHÀ KÍNH - ẢNH HƯỞNG CỦA HIỆU ỨNG NHÀ KÍNH ĐẾN SỰ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ SỰ NÓNG LÊN TOÀN CẦU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1005.04 KB, 32 trang )

TRƯỜNG ĐHKHTN- ĐHQGHN
KHOA MÔI TRƯỜNG

BÀI TIỂU LUẬN: HIỆU ỨNG NHÀ KÍNH - ẢNH
HƯỞNG CỦA HIỆU ỨNG NHÀ KÍNH ĐẾN SỰ BIẾN
ĐỔI KHÍ HẬU VÀ SỰ NĨNG LÊN TỒN CẦU

SV:
Đỗ Thị Thu Trang
Giáo viên: GS.TS. Phạm Ngọc Hồ


Hà nội 2007

1


HIÊUU ỨNG NHÀ KÍNH
I. Hiệu ứng nhà kính là gì?
1. Khí nhà kính là gì?
Khí nhà kính bao gồm carbon dioxide, methane, hơi nước và nitrous
oxide. Những loại khí này xuất hiện một cách tự nhiên trong môi trường, nhưng
cũng do các q trình sản xuất cơng nghiệp tạo nên. Khí CFCs là dạng khác của
khí nhà kính, loại khí này cũng do q trình cơng nghiệp tạo ra.
2. Khái niệm
Hiệu ứng nhà kính, xuất phát từ effet de serre trong tiếng Pháp, do Jean
Baptiste Joseph Fourier lần đầu tiên đặt tên, dùng để chỉ hiệu ứng xảy ra khi năng
lượng bức xạ của tia sáng mặt trời, xuyên qua các cửa sổ hoặc mái nhà bằng
kính, được hấp thụ và phân tán trở lại thành nhiệt lượng cho bầu khơng gian bên
trong, dẫn đến việc sưởi ấm tồn bộ không gian bên trong chứ không phải chỉ ở
những chỗ được chiếu sáng.


Hiệu ứng này đã được sử dụng từ lâu trong các nhà kính trồng cây. Ngồi
ra hiệu ứng nhà kính cịn được sử dụng trong kiến trúc, dùng năng lượng mặt trời
một cách thụ động để tiết kiệm chất đốt sưởi ấm nhà ở.

H.1.Sơ đồ mô phỏng hiệu ứng nhà kính

2


Khi bức xạ Mặt Trời chiếu xuống Trái Đất, một phần bức xạ này sẽ phản xạ lại
vào vũ trụ tại biên ngồi khí quyển, phần cịn lại xun qua bầu khí quyển truyền
đến bề mặt Trái Đất dưới dạng bước sóng ngắn.Tại đây, một phần bức xạ sóng
ngắn phản xạ lại, xun qua lớp khí nhà kính vào khơng gian vũ trụ và một phần
đốt nóng Trái Đất. Trái Đất hấp thu phần năng lượng bước sóng ngắn và trở
thành vật bức xạ nhiệt vào khí quyển( bức xạ sóng dài). Một phần bức xạ hồng
ngoại sóng dài do Trái Đất phát ra được hấp thụ bởi các khí trong khí quyển( hơi
nước, CO2, CH4, Nox…)tạo thành một lưới nhiệt bao trùm toàn bộ bề mặt Trái
Đất, giữ cho khí quyển và bề mặt Trái Đất ở một nhiệt độ nhất định. Hiệ tượng
này giống nhưhiện tượng nhà kính trồng rau khi mà bức xạ Mặt Trời xuyên qua
kính bị giữ lại làm cho nhiệt độ của nhà kính tăng lên.Vì vậy, các khí có tính chất
trên được gọi là khí nhà kính. Lớp khí bao gồm các khí nhà kính được gọi là lớp
khí nhà kính.
3. Định nghĩa
“ Hiệu ứng nhà kính là hiện tượng trong khí quyển tầng thấp (tầng đối
lưu) tồn tại một lớp khí chỉ cho bức xạ sóng ngắn xuyên qua và giữ lại bức xạ
nhiệt của mặt đất dưới dạng sóng dài, nhờ đó bề mặt trái đất ln có nhiệt độ
thích hợp đảm bảo duy trì sự sống trên Trái Đất”.
4. Bản chất của Hiệu ứng nhà kính
Nhiệt độ bề mặt trái đất, được tạo nên do sự cân bằng giữa năng lượng
mặt trời đến bề mặt trái đất và năng lượng bức xạ của trái đất vào khoảng không

gian giữa các hành tinh. Năng lượng mặt trời chủ yếu là các tia sóng ngắn dễ
dàng xun qua cửa sổ khí quyển. Trong khi đó, bức xạ của trái đất với nhiệt độ
bề mặt trung bình 160C là sóng dài có năng lượng thấp, dễ dàng bị khí quyển giữ
lại. Các tác nhân gây ra sự hấp thụ bức xạ sóng dài trong khí quyển là khí CO2,
bụi, hơi nước, khí mêtan, khí CFC... Kết quả của sự trao đổi cân bằng về năng
lượng giữa trái đất với không gian xung quanh, tạo nên bề mặt trái đất ln có
một nhiệt độ nhất định.Qúa trình này có bản chất tự nhiên nên vẫn gọi là “ Hiệu
ứng nhà kính tự nhiên”
Hiệu ứng nhà kính nhân loại : là Hiệu ứng nhà kính xuất hiện do các hoạt
động của con người tạo ra từ khoảng 100 năm nay. Sự gia tăng tiêu thụ nhiên liệu
hóa thạch của lồi người đang làm cho nồng độ khí CO2 của khí quyển tăng lên.

3


Sự gia tăng khí CO2 và các khí nhà kính khác trong khí quyển trái đất làm nhiệt
độ trái đất tăng. Theo tính tốn của các nhà khoa học, khi nồng độ CO2 trong khí
quyển tăng gấp đơi, thì nhiệt độ bề mặt trái đất tăng lên khoảng 3 0C. Các số liệu
nghiên cứu cho thấy nhiệt độ trái đất đã tăng 0,50C
trong khoảng thời gian từ
1885-1940, do thay đổi của nồng độ CO2 trong khí quyển từ 0,027% đến
0,035%. Dự báo, nếu khơng có biện pháp khắc phục hiệu ứng nhà kính, nhiệt độ
trái đất sẽ tăng lên 1,5- 4,50C vào năm 2050. Vai trò gây nên hiệu ứng nhà kính
của các chất khí được xếp theo thứ tự CO2, CFC, CH4, O3, NO2. Sự gia tăng
nhiệt độ trái đất do hiệu ứng nhà kính có tác động mạnh mẽ tới nhiều mặt của
môi trường trái đất. Kể từ những năm 1860, cơng nghiệp hóa đã tăng và những
cánh rừng bị thu hẹp làm mức CO2 trong khí quyển tăng lên tới mức 100 phần
triệu và nhiệt độ ở Bắc bán cầu cũng tăng lên. Nhiệt độ và các khí nhà kính gia
tăng, thậm chí cịn nhanh hơn kể từ những năm 1950.
II- Các tác động của Hiệu ứng nhà kính

1. Tác động tích cực
Năng lượng của Mặt trời có thể thay đổi, tuy rất ít, nhưng cũng có khả
năng ảnh hưởng đến khí hậu trên Trái đất. Nhờ có tầng khí quyển chứa sẵn
những khí gây ra hiệu ứng nhà kính bẫy một phần năng lượng Mặt trời, mà nhiệt
độ trên Trái đất mới trở nên vừa phải để sinh vật sinh sôi nảy nở và sinh sống
thoải mái.
Ở nhiệt độ 2550K, Trái Đất ở trạng thái đóng băng. Tuy nhiên các phép đo
thực tế chỉ ra rằng nhiệt độ trung bình của khí quyển và bề mặt Trái Đất trong cả
năm ở tất cả các khu vực là 299 0K( tương ứng với 160C), lớn hơn 1550K. Sự khác
biệt này là do sự tồn tại của Hiệu ứng nhà kính mà ta chư tính đến.
Nếu giả thử khơng có hiệu ứng nhà kính thiên nhiên thì nhiệt độ trung bình trên
Trái đất, hiện nay khoảng 160C, đã giảm xuống chỉ cịn khoảng -180C.
Hiệu ứng nhà kính hạn chế sự thay đổi nhiệt độ bề mặt giữa ban ngày và ban
đêm, giữa các mùa trong năm, cũng như các vùng khí hậu khác nhau trên Trái
Đất. Những tác động đó của Hiệu ứng nhà kính đã làm
cho mơi trường bề mặt Trái Đất là nơi lí tưởng cho sự tồn tại và phát triển của
sinh vật và con người trong hàng triệu năm qua.

4


2. Tác động tiêu cực
Phần lớn các nhà khoa học ủng hộ giả thuyết cho rằng việc tăng nồng độ
các khí nhà kính do lồi người gây ra, và hậu quả của nó là sự gia tăng hiệu ứng
nhà kính đang là mối lo ngại của nhân loại, Sự gia tăng hiệu ứng nhà kính làm
tăng nhiệt độ trên tồn cầu và như vậy sẽ làm thay đổi khí hậu trong các thập kỷ
và thập niên kế đến.
2.1.Nguyên nhân sự gia tăng Hiệu ứng nhà kính
Nguyên nhân chủ yếu gia tăng Hiệu ứng nhà kính là sự gia tăng nồng độ các khí
nhà kính phát thải vào khí quyển từ các ộat động của con người. Theo số liệu

năm 1900, nồng độ và các đặc trưng chủ yêu của các loại khí nhà kính được trình
bày ở bảng sau:
Loại khí nhà kính
Nồng độ hiện tại trong khí quyển
Mức gia tăng trung bình năm(%)
Hệ số nhà kính tương đương(so với
CO2=1)
Tỷ lệ gây ra Hiệu ứng nhà kính (%)
H: Sự gia tăng của một số khí nhà kính

CO2
351
0,4
1

CFC
0,00225
5,0
15000

CH4
1,675
1,0
25

NOx
0,31
0,2
230


57

25

12

6

*Mêtan trong khí quyển Trái Đất
Mêtan trong khí quyển là một khí gây hiệu ứng nhà kính. Mật độ của nó đã tăng
khoảng 150% từ năm 1750 và đến năm 1998, mật độ trung bình của nó trên bề
mặt Trái Đất là 1745 ppb. Mật độ ở bán cầu Bắc cao hơn vì ở đó có nhiều nguồn
mêtan hơn (cả thiên nhiên lẫn nhân tạo). Mật độ của mêtan thay đổi theo mùa,
thấp nhất vào cuối mùa hè.
*Dioxyt cacbon trong khí quyển

5


Sự thải khí điơxít cacbon tồn cầu từ
năm 1751 đến năm 2000

Nồng độ CO 2 trong khí quyển

khí quyển Trái Đất chứa khoảng 0,038% theo thể tích (380 µL/L hay
ppmv) hoặc 0,053% theo trọng lượng là CO 2. Nó tương đương với 2,7 × 10 12 tấn
CO2. Do có nhiều đất đai hơn (và vì thế nhiều thực vật hơn) nên ở bắc bán cầu
khi so với nam bán cầu có sự dao động hàng năm vào khoảng 5 µL/L, sự dao
động này lên tới đỉnh vào tháng 5 và xuống tối thiểu vào tháng 10 khi kết thúc
mùa sinh trưởng ở bắc bán cầu, khi mà khối lượng các chất sinh học trên hành

tinh là lớn nhất.
Mặc dù nồng độ thấp nhưng CO2 là một thành phần cực kỳ quan trọng
trong khí quyển Trái Đất, do nó hấp thụ bức xạ hồng ngoại và làm tăng hiệu ứng
nhà kính.
Hà Nội (TTXVN) - Báo cáo do các tổ chức môi trường thế giới cùng soạn
thảo được Cục sinh thái toàn cầu thuộc Viện nghiên cứu Canigiê phát hành cho
biết lượng khí thải độc hại CO2, nguồn gốc chủ yếu làm cho Trái đất nóng dần
lên, đã và đang gia tăng với tốc độ đáng báo động kể từ năm 2000.
Theo các tác giả của báo cáo, trong thập kỷ 1990 của thế kỷ trước, lượng
khí thải CO2 trên tồn cầu tăng với tốc độ trung bình 1,3% mỗi năm, thế nhưng
từ năm 2000 tới nay đã vọt lên mức 3,3%/năm. Năm 2006 lượng khí CO2 do con
người thải vào khơng khí cao hơn 35% so với năm 1990.
Phát hiện thêm một chất khí mới gây hiệu ứng nhà kính cực mạnh

6


Các nhà khoa học thuộc Viện Nghiên cứu Khơng
khí Na Uy (NILU) vừa ghi nhận sự gia tăng của một
chất khí HFC134a gây hiệu ứng nhà kính cực mạnh.
Loại khí HFC134a ngày càng được sử dụng nhiều ở
các hệ thống điều hịa khơng khí trong xe hơi và nhà
ở.
Dù các nhà sản xuất đảm bảo rằng các hệ thống này đã được thiết kế để tránh mọi
rò rỉ, nồng độ HFC134a đã tăng gấp đôi từ nằm 2001 đến năm 2004. Theo các nhà nghiên
cứu, chất khí này có tác động gây hiệu ứng nhà kính cực mạnh (gấp 1000 lần so với khí
CO2). Do đó, cần phải theo dõi sự tiến triển của nó dù chưa đạt đến nồng độ đủ để tác động
trực tiếp đến hiện tượng khí hậu tồn cầu nóng dần.
1.2 Các hoạt động phát thải khí nhà kính


Các hoạt động chính gây nên Hiệu ứng nhà kính
2.2.1 Hoạt động cơng nghiệp
Trong số các hoạt động của con người thì hoạt động cơng nghiệp là tác nhân
quan trọng gây ra sự thải các khí nhà kính. Các ngành công nghiệp là nới sử
dụng một lượng lớn nhiên liệu hóa thạch( than, dầu, khí đốt).Ngồi CO2 , các
ngành cơng nghiệp cũng tạo ra các loại khí nhà kính khác như ,..trong q
trình sản xuất phân bón, hóa chất, khai thác khoáng sản..

7


Nhà máy nhiệt diện thải vào khơng khí một lượng khổng lồ khí CO2, NOx, CH4..

vào năm 2005, số lượng kênh thải ra khí gaz gây hiệu ứng nhà kính tại
các nước công nghiệp phát triển đã tăng quá cao, gần “đánh đổ” kỷ lục
của năm 1990 mặc dù trên phạm vi toàn thế giới, cuộc đấu tranh chống
lại sự nóng lên của khí hậu tồn cầu đã bắt đầu có những bước chuyển
biến tốt đẹp.
Văn phịng phụ trách về sự thay đổi khí hậu tồn cầu thuộc Liên hợp quốc
cho biết vào năm 2005, các kênh phát tán khí gaz ô nhiễm của 40 quốc gia
công nghiệp phát triển nhất đã lên tới con số 18,2 tỷ tấn, cao hơn so với 18,1
tỷ tấn vào năm trước đó. Cũng theo cơ quan này, mức độ khí ơ nhiễm thải ra
lên đến mức đỉnh điểm là vào năm 1990 với 18,7 tỷ tấn khí gaz gây hiệu ứng
nhà kính thải ra bầu khí quyển.
Sự gia tăng lượng khí thải vào năm 2005 khẳng định xu hướng biến động tăng
lên của các kênh phát tán khí gaz gây hiệu ứng nhà kính trên thế giới, mặc dù
hầu hết các quốc gia đều nỗ lực hành động để cố gắng giảm các kênh này.
Phần lớn trong số họ đều nhận thức rõ ràng rằng đây chính là ngun nhân
dẫn đến sự nóng lên của khí hậu tồn cầu – một hiện tượng thiên nhiên không
hề được trông đợi.

Theo những số liệu Liên hợp quốc thu thập được trong thời gian qua, “kể từ
năm 2000, các kênh thải ra khí gaz gây hiệu ứng nhà kính (…) đã tăng thêm
2,6%”.
Chỉ trong thời gian từ năm 2004 đến năm 2005, riêng số kênh thải ra khí gaz
gây hiệu ứng nhà kính của Mỹ đã vượt qua 7,19 tỷ tấn lên 7,24 tỷ tấn.

8


Mặt khác, cũng theo những điều tra, nghiên cứu của Cơ quan phụ trách vấn
đề thay đổi khí hậu thuộc Liên hợp quốc, trong giai đoạn này, sự gia tăng số
lượng các kênh thải ra loại khí độc hại này trên phạm vi toàn cầu một phần
lớn bắt nguồn từ sự phục hồi kinh tế của các nước thuộc hệ thống Liên bang
Xơ Viết.
Các kênh thải khí gaz ơ nhiễm của Nga đã vượt qua 2,09 tỷ tấn vào năm 2004
lên 2,13 tỷ tấn vào năm 2005. Tuy vậy, các kênh phát tán khí độc hại của Nga
vẫn cịn ở mức độ rất xa so với “kỷ kục” của nước này vào năm 1990 với 3 tỷ
tấn khí thải, chính xác là trước khi Nga ra lệnh đóng cửa nhiều nhà máy sản
xuất công nghiệp.
2.2.2 Giao thông vận tải
Sự phát triển nhanh các phương tiện giao thông vận tải của thế giới là
nguyên nhân tiềm tàng gây tăng Hiệu ứng nhà kính .
Trong q trình hoạt động các phương tiện giao thơng phát thải vào khơng
khí một khối lượng lớn các loại khói, khí độc như CO, CO2, hydrocacbon,
NO2, SO2, khói đen, chì và các dạng hạt khác. Tùy theo loại động cơ và loại
nhiên liệu mà khối lượng các chất thải độc hại chiếm tỷ lệ khác nhau trong
khí xả. Trong những năm gần đây người ta chú ý nhiều đến giao thơng vận
tảivì nó góp phần thải ra CO2 – khí nhà kính quan trọng nhất. Trên tịan thế
giới khỏang 15% CO2 trong khơng khí là do các phương tiện giao thơng vận
tải thải ra.

Khi dịng xe lưu thông trên đường, đặc biệt là khi hãm phanh, các lốp xe sẽ
ma sát mạnh với mặt đường làm mòn đường, mòn các lốp xe và tạo ra bụi đá,
bụi cao su và bụi sợi. Các bộ phận ma sátcủa phanh bị mòn cũng thải ra bụi
kẽm, đồng, niken, crom, sắt và cadmi. Ngồi ra q trình cháy khơng hết
nhiên liệu cũng thải ra bụi ccacbon. Bên cạnh các nguồn bụi sinh ra từ xe, cịn
có bụi đất đá, cát tồn đọng trên đường do chất lượng đường kém, do đường
bẩn và do chuyên chở các vật liệu xây dựng, chuyên chở rác.

9


2.2.3 Khai thác rừng
Việc gia tăng khai thác gỗ và ô nhiễm môi trường không khí ở các nước đang
phát triển là cho diện tích rừng suy giảm nhanh chóng. Tính trung bình, tốc độ
mất rừng hàng năm của thế giới vào khoảng 20 triệu ha.Bên cạnh suy giảm về
diện tích, chất lượng rừng cũng bị suy giảm.Những nguyên nhân trên đang làm
giảm khả năng hấp thụ khí C02 của rừng thế giới theo thời gian.
Sự mất rừng: chủ yếu là do chuyển đổi đất rừng sang đất nông nghiệp, vẫn ở
một tốc độ nhanh: khỏang 13 triệu ha mỗi năm.
Trong giai đoạn 2000-2005 thì tỉ lệ mất rừng tồn cầu giảm còn 7,3 triệu ha
mỗi năm (so sánh với tỉ lệ mất 8,9 triệu ha mỗi năm trong giai đoạn 1990 -2000).

Khai thác gỗ là nguyên nhân chính gây mất rừng

10


2.2.4 Hoạt động nông nghiệp
Dân số ngày càng tăng làm cho nhu cầu về lương thực thực phẩm của con
người tăng lên. Con người phải đẩy mạnh khai thác tài nguyên đất, tăng cường

quay vòng sản xuất, sử dụng một khối lượng lớn các phân bón hố học và các
thuốc bảo vệ thực vật. Điều này đã làm cho đất bị giảm độ phì nhiêu, ơ nhiễm
nặng nề do dư lượng phân hoá học và thuốc bả o vệ thực vật
Ngày 12/1, Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) dẫn báo cáo của Tổ chức
Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO), cho biết chăn nuôi gia súc là
một trong những nguyên nhân gây nên hiệu ứng nhà kính.
Theo báo cáo trên, phân gia súc không chỉ làm ô nhiễm mơi trường, mà
cịn phát tán khí CO2 cũng như nhiều chất hóa học khác có tác động mạnh tới sự
ấm lên của Trái Đất.
Đặc biệt trong số đó có chất ơ-xít ni-tơ, chiếm 65% lượng khí và chất hóa
học phát tán. Chất khí này có khả năng làm Trái Đất ấm lên gấp 296 lần so với
khí CO2 và khí mê-tan, loại khí độc hại hơn CO2 tới 23 lần.
2.2.5 Các hoạt động khác
Ngoài các nguyên nhân chủ yếu trên cịn có các hoạt động sinh hoạt của
con người, sự phun trào núi lửa v.v…tạo ra mọt lưong khoảng 2% khí nhà kính.
Sự hoạt động của các ngọn núi lửa và các lồi vi khuẩn sống trong khơng
khí cũng là ngun nhân gây ơ nhiễm khơng khí. Theo ước tính thì lượng CO 2 do
núi lửa hoạt động phun ra cao gấp 40.000 lần so với lượng CO 2 hiện có trong khí
quyển.
III Sự gia tăng Hiệu ứng nhà kính tác động đến sự biến đổi khí hậunóng lên tồn cầu
1.Biến đổi khí hậu
Trước tiên, cần hiểu khí hậu là gì? Khí hậu là mức độ trung bình của thời
tiết trong một khoảng thời gian và không gian nhất định. Trong vòng 1.000 năm

11


qua, nhiệt độ bề mặt Trái đất có tăng, giảm khơng đáng kể và có thể nói là ổn
định.
Thế nhưng, trong vòng 200 năm trở lại đây, đặc biệt là trong mấy chục

năm vừa qua khi cơng nghiệp hố phát triển, nhân loại bắt đầu khai thác than đá,
dầu lửa, sử dụng các nhiên liệu hoá thạch... Cùng với các hoạt động công nghiệp
tăng lên, nhân loại bắt đầu thải vào bầu khí quyển một lượng khí CO2, nitơ ơxít,
mêtan... khiến cho nhiệt độ bề mặt Trái đất nóng lên.
Hầu hết giới khoa học đều cơng nhận biến đổi khí hậu là do nồng độ của
khí hiệu ứng nhà kính tăng lên trong khí quyển ở mức độ cao. Bản thân nó đã
làm cho Trái đất ấm lên, nhiệt độ bề mặt Trái đất nóng lên, nhiệt độ nóng lên này
đã tạo ra các biến đổi trong các vấn đề thời tiết hiện nay.
Theo báo cáo mới nhất của Liên hiệp quốc, nguyên nhân của hiện tượng
biến đổi khí hậu 90% do con người gây ra, 10% là do tự nhiên.
Hiện nay, nhiệt độ trung bình đã tăng lên tới 0,3 - 0,4 độ C trong mấy
chục năm vừa qua và hiện đang có xu hướng tăng tiếp.
Theo các mơ hình nghiên cứu trong thế kỷ 21, nhiệt độ trung bình của Trái
đất có thể tăng từ 1,1 - 6 độ C khả năng xảy ra từ 1,8 - 4 độ C trong đó tùy theo
sự phát thải hiệu ứng nhà kính cắt giảm đến mức độ nào để làm giảm bớt các khí
CO2 và các khí khác gây hiệu ứng nhà kính.
Nếu như ngay từ lúc này, nhân loại dừng phát thải khí nhà kính thì nhiệt
độ bề mặt Trái đất vẫn tiếp tục nóng lên, nước biển vẫn tiếp tục dâng lên trong
vòng 50 năm nữa. Nhiệt độ trái đất nóng lên làm cho băng của các dãy Himalaya
và Nam cực, Bắc cực và các vùng khác tan chảy. Những núi băng này tan chảy sẽ
làm cho mực nước biển tăng lên.
Mực nước biển dâng lên từ 28 - 43 cm. Nhưng có thể mực nước biển này
cịn cao hơn nữa tùy theo sự phát thải của hiệu ứng nhà kính và tác động của con
người gây ra biến đổi khí hậu là một điều cực kỳ nguy hiểm đe doạ đến vấn đề
tồn tại của con người.

12


Biểu đồ nhiệt độ trung bình trên bề mặt

Trái đất đã tăng lên trong vòng 140 năm qua

Ảnh minh họa về hiện tượng
Trái đất nóng lên do biến đổi khí hậu

Biến đổi khí hậu gây nguy hiểm do nó làm cho Trái đất nóng lên, nước
biển dâng lên.
Trái đất có 7 tỷ người và hiện giờ, có đến hơn một nửa số người này sống
ở vùng duyên hải của Trái đất trong phạm vi 100 km trở lại vùng bờ biển. khi
nước biển dâng lên làm ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng tỷ người. Theo dự
báo của các nhà khoa học, thủ đơ BangKok (Thái Lan) trong vịng hai mươi năm
nữa sẽ bị ngập và hiện Thái Lan không đủ thời gian để chuyển thủ đơ sang nơi
khác. Cịn đối với Việt Nam, Đồng bằng sống Cửu Long cũng là một trong
những nơi rất "nhạy cảm" của vấn đề biến đổi khí hậu. Hay, vấn đề triều cường
của TP. HCM, bão lũ miền Trung còn nan giải hơn rất nhiều khi tính đến yếu tố
liên quan bởi hiện tượng biến đổi khí hậu.
Đối với sự đe dọa của biến đổi khí hậu thì đây là nguy cơ chung cho đời
sống nhân loại. Trong việc giải quyết vấn đề này, tất cả mọi người trên Trái đất
sẽ khơng có ai thắng và cũng khơng có ai thua,
Trước sự đe dọa ấy, mọi người đều giống nhau về mặt số phận. Hiện
tượng biến đổi khí hậu đang diễn ra, cịn mức độ nghiêm trọng đến đâu là do con
người quyết định và con người có đầy đủ, có cơng nghệ, có tiền chỉ cịn thiếu
quyết tâm về mặt chính trị của tất cả các quốc gia để giải quyết vấn đề này.

13


Vùng chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu lớn nhất của Trái đất là Bắc
cực và Nam cực, hai nơi này nhiệt độ tăng lên nhanh nhất. Sau đó đến các vùng
núi cao như Himalaya, Tây Tạng... Theo nghiên cứu những vùng lạnh nhất có

nhiệt độ tăng lên nhanh nhất. Còn tại Việt Nam, nhiệt độ sẽ tăng từ 0,3 - 0,5 độ C
đến năm 2010, từ 1- 2 độ C vào năm 2020, từ 1,5 - 2,5 độ C vào năm 2070.
Những khu vực có nhiệt độ tăng cao nhất là Tây Bắc và Việt Bắc.
Biến đổi khí hậu sẽ làm tăn các hiên tượng thiên nhiên nguy hiểm, Tần suất
và các hiện tượng mưa lớn, bão, nhiệt độ cao, hạn hán tăng nhanh trong thạp kỷ
vừa qua.Cụ thể, biến đổi khí hậu gây nên:
2.Hiện tượng ENSO
El Nino-Dao động phương nam (El Nino-Southern Oscillation, viết tắt là
ENSO) là hiện tượng dị thường trong tương tác đại dương-khí quyển toàn cầu,
bao gồm hai yếu tố:
o

Yếu tố hải dương với sự tăng hoặc giảm nhiệt độ bất thường (lớn
hơn 0,5oC) của lớp nước biển bề mặt khu vực Đông Thái Bình
Dương: nếu tăng, đó là El Nino; nếu giảm, đó là La Nina. Mặc dù
trái ngược nhau nhưng thực chất El Nino và La Nina chỉ là hai mặt
của cùng một hiện tượng. Vì vậy, người ta thường gọi La Nina là
“chị em song sinh” của El Nino.

o

Yếu tố khí tượng là dao động hàng tháng hoặc hàng mùa trong sự chênh
lệch áp suất khí quyển giữa đảo Tahiti (Nam Thái Bình Dương) và
Darwin (Bắc Australia).

Một đợt ENSO nóng gây ra bởi El Nino và cái tên El Nino thường được dùng
thay cho ENSO nóng. Tương tự, một đợt ENSO lạnh gây ra bởi La Nina thường cũng
được gọi luôn là hiện tượng La Nina.

14



Sự lưu thơng của nước biển và khơng khí trong điều kiện bình thường

Sự lưu thơng của nước biển và khơng khí trong điều kiện El Nino
Điều kiện El Nino
Trong điều kiện El Nino, vùng nước ở giữa Nam Mỹ và Đường đổi ngày quốc tế
được hâm nóng. Sự hâm nóng này tập trung chủ yếu ở xích đạo và thường mở
rồng thêm một số vĩ độ ra hai bên. Nước biển ven bờ tây Peru cũng ấm lên.
2. Ảnh hưởng của ENSO đến sự thay đổi khí hậu
ENSO ảnh hưởng rõ rệt lên thời tiết các khu vực ở Thái Bình Dương, phần
xích đạo và Nam Bán Cầu rõ nét hơn phần phía bắc của Bắc Bán Cầu. Ngồi ra
ENSO còn tác động đến thời tiết Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương.
Thời tiết El Nino

15


Hình A

Hình B

Hình A :Bản đồ thể hiện thời tiết từ tháng 12 đến tháng 2 ở các khu vực chịu ảnh
hưởng của El Nino. Các màu trong bảng chú giải (từ trên xuống) thể hiện: ẩm và
mát; ẩm; ẩm và ấm; khơ và ẩm; khơ; ấm.
Hình B: Bản đồ thể hiện thời tiết từ tháng 6 đến tháng 8 ở các khu vực chịu ảnh
hưởng của La Nina. Các màu trong bảng chú giải (từ trên xuống) thể hiện: mát,
ẩm và mát, ẩm, ẩm và ấm, khô, ấm.
Bắc Mỹ: Alaska, Tây Canada, đơi khi cả miền Trung Hoa Kì chịu một
mùa đơng lạnh giá. Đơng Nam Hoa Kì và Trung Mỹ trải qua thời tiết khô hạn

trong cùng thời gian. Hoạt động bão Đại Tây Dương được tăng cường.
Nam Mỹ: tháng 6 đến tháng 8 ở Bắc Brazil trở nên ẩm ướt. Tháng 12 đến
tháng 2 từ Nam Brazil cho đến Trung Argentina là những tháng khơ hơn bình
thường.
Châu Á và Châu Úc: lượng mưa những tháng đầu và cuối năm tăng mạnh
ở Indonesia, Malaysia và Bắc Úc. Đông Úc khơ nóng bất thường từ tháng 6 đến
tháng 8. Gió mùa tăng cường ở Ấn Độ và Phillippines.

16


Châu Phi: thời tiết ẩm và mát hơn ở Đông Nam châu Phi trong suốt thời
gian diễn ra La Nina.
4. El Nino trong lịch sử
Theo kết quả điều tra dựa vào tư liệu lịch sử, El Nino đã xuất hiện cách
đây nhiều thế kỉ, hầu hết có cường độ yếu. Các đợt El Nino mạnh nhất diễn ra
trong vòng 300 năm trở lại đây vào: 1789-93, 1828, 1876-78, 1891, 1925-26,
1982-83, và 1997-98.
Nhiều nhà sử học cũng bắt đầu chú ý đến khía cạnh lịch sử của El Nino.
Một vài kết luận khá bất ngờ đã được đưa ra. Chẳng hạn, vụ mùa thất bát ở châu
Âu vào năm 1788-1789 – hậu quả của một đợt El Nino mạnh – là một trong
những nguyên nhân kích động Cách mạng tư sản Pháp bùng nổ. Những kết quả
nghiên cứu lõi băng khoan từ băng hà trên đỉnh núi Andes cho thấy một “siêu El
Nino” đã gây ra 30 năm mưa lụt theo sau bởi 30 năm hạn hán liên miên, kéo theo
sự suy tàn của nền văn minh Mohica vào thế kỉ VI.
Điều đó cho thấy khơng thể coi El Nino nói riêng và ENSO nói chung chỉ là
những hiện tượng khí hậu thuần túy. Đơi khi chúng có thể gây ra những thảm họa
thay đổi cả tiến trình phát triển của các nền văn minh.
5.Tác động của các ENSO cực đoan
Các đợt ENSO “cực đoan” (mạnh bất thường) không chỉ gây nên sự thay đổi

về thời tiết mà cịn có tác động to lớn đến các hệ sinh thái, kinh tế và sức khỏe
con người. Trong đó, những ảnh hưởng của El Nino được ghi nhận nhiều hơn là
La Nina. Hai đợt EL Nino “cực đoan” gần đây nhất xảy ra vào các năm 19821983 và 1997-1998. Nếu như đợt El Nino thứ nhất mới chỉ thu hút sự quan tâm
của cộng đồng khoa học quốc tế thì đợt El Nino thứ hai đã buộc người dân trên
toàn thê giới phải chú ý đến hiện tượng này.
A. Tác động đến các hệ sinh thái biển và ngư nghiệp
Sự thay đổi các điều kiện khí hậu gây ra bởi ENSO gây ra sự biến động
mạnh mẽ trong hệ sinh thái biển, và thường là các ảnh hưởng tiêu cực. Rất dễ
dàng tìm thấy những ví dụ minh họa cho các ảnh hưởng này:

17


Dọc bờ biển phía tây của Nam Mỹ, El Nino ngăn cản sự xuất hiện trên bề
mặt của nước biển lạnh giàu dinh dưỡng, làm giảm đáng kể lượng phù du. Đời
sống các loài thủy sinh ăn phù du và các động vật ở bậc dinh dưỡng cao hơn (cá,
chim biển và thú biển) do đó cũng bị đe dọa nghiêm trọng. El Nino còn gây ra
các luồng di cư của các động vật nước lạnh lên phía bắc hoặc xuống các tầng
nước sâu. Nhiều lồi được tìm thấy ở những nơi không phải môi trường bản địa
của chúng.
Hiện tượng tảo nở hoa ở vùng biển tây Thái Bình Dương là hậu quả khác
của El Nino và La Nina. Sự phát triển đột biến của tảo, với El Nino, là do sự
giảm số lượng đáng kể các loài động vật ăn chúng; với La Nina, là do chất dinh
dưỡng dư thừa trong nước biển.
Nhiệt độ nước biển tăng cao trong El Nino tiêu diệt các loài tảo cộng sinh
trong san hô, dẫn đến hiện tượng san hô bị “tẩy trắng”. Chỉ riêng đợt El Nino
năm 1998 đã tiêu diệt khoảng 16% rạn san hô trên thế giới, một thiệt hại to lớn
đối với đa dạng sinh học và nghề cá. Sự phục hồi các rạn san hô trong thời gian
không có El Nino bị cản trở bởi sự nóng lên tồn cầu. Nhiều chun gia phác họa
một viễn cảnh khơng hề tươi sáng cho các “kì quan đại dương” này.

Sự giảm số lượng nhiều lồi động vật biển có giá trị thương mại ở vùng bờ biển
Tây Thái Bình Dương trong thời gian diễn ra El Nino gây thiệt hại lớn cho hoạt động
ngư nghiệp ở đây. Chẳng hạn, đợt El Nino 1972 đã làm ngành cá với sản lượng đánh bắt
lớn nhất thế giới của Peru gần như sụp đổ.

B.

Hạn hán, mất mùa, và nạn đói

Thiệt hại chính cho nông nghiệp trong thời gian diễn ra ENSO (đặc biệt là
El Nino) gây ra bởi hạn hán. Sản xuất lương thực rất nhạy cảm với hạn hán ở
những vùng và cận nhiệt đới, nơi lượng mưa phân bố rất không đồng đều trong
năm. El Nino mang hạn hán đến nhiều vùng nhạy cảm như vậy trên thế giới trong
cùng một thời gian. Điều này có thể dẫn đến những cuộc khủng hoảng lương
thực, như vào năm 1972 khi hạn hán do El Nino ảnh hưởng đến một số khu vực
sản xuât lương thực lớn như Đông Nam Á và Đông Bắc Trung Quốc.

18


Hạn hán nghiêm trọng do El Nino thường xảy ra ở Nam Mỹ, phía Bắc
châu Đại Dương và đơi khi dẫn đến nạn đói, ngay cả ở những khu vực có nền
nơng nghiệp trù phú. Một tình huống như thế đã diễn ra ở Panama, Đông Băc
Brazil và Papua New Guinea năm 1998.
Nam châu Phi cũng là khu vực nhạy cảm với những trận hạn hán theo chu
kì, khiến lương thực trở nên thiếu thốn trầm trọng. El Nino năm 1991-92 đã gây
nên đợt hạn hán tồi tệ nhất ở khu vực này trong thế kỉ XX, với sản lượng giảm
tới 80% ở một số vùng và gần 100 triệu người bị ảnh hưởng. Rất may mắn là đợt
El Nino mạnh hơn nhiều vào năm 1997-98 lại không gây hạn hán nghiêm trọng.
Điều này cho thấy việc tiên đoán những ảnh hưởng cục bộ của ENSO khó khăn

đến mức nào.
C.
Cháy rừng và cây bụi: ơ nhiễm khơng khí và đe dọa hệ sinh
thái lục địa
Hạn hán làm gia tăng tính dễ cháy ở một số cánh rừng và khu vực đồi núi.
Đa phần các đám cháy có nguyên nhân nhân tạo như hoạt động đốt nương làm
rẫy nhưng chính hiệu ứng của El Nino làm cho chúng trở nên rất khó kiểm sốt.
Theo ước tính của Quỹ Động vật hoang dã Thề giới WWF, 12 triệu ha rừng trên
thế giới đã bị thiêu hủy chỉ trong đợt El Nino 1997-98, tập trung ở các vùng như
Bắc Úc, phía nam Đơng Nam Á, và phía bắc Nam Mỹ.
Cháy rừng và cây bụi không chỉ đe dọa đến đời sống động thực vật hoang
dã mà khói bụi do chúng gây ra cịn ảnh hưởng xấu đến sức khỏe cư dân các
vùng lân cận.

Cháy rừng

19



×