Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Vấn đề Rác thải sinh hoạt và các biện pháp giảm thiểu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (998.11 KB, 49 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, đời sống kinh tế xã hội ở các vùng quê đã có nhiều đổi mới.
Sự gia tăng dân số và tốc độ phát triến kinh tế xã hội cao đã làm tăng các hoạt
động của con người trong sản xuất kinh doanh và tiêu dùng, điều đó cũng tác
động mạnh mẽ, lâu dài đến môi trường sống. Tình hình RTSH ở nông thôn
đang trở thành vấn đề nan giải cần được quan tâm để giữ gìn cảnh quan
chung và sự trong sạch cho môi trường sống của cộng đồng dân cư.
Trong những năm qua, nền kinh tế của tỉnh Hà Nam tăng trưởng rất
nhanh và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng; việc phát triển kinh tế với
tốc độ nhanh đã phát sinh ngày càng lớn lượng chất thải cả về khối lượng lẫn
sự đa dạng phức tạp, sự nguy hại về tính chất của các loại chất thải, trong đó
có chất thải rắn (CTR).
Dân số khu vực nông thôn của tỉnh chiếm hơn 80% tổng số dân của
tỉnh. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, tăng dân số tại khu vực nông
thôn là sự gia tăng về khối lượng và tính chất độc hại của CTR nông thôn
(đặc biệt đối với bao bì thuốc bảo vệ thực vật, bao bì phân bón). Tuy nhiên,
tỷ lệ thu gom CTR ở khu vực này còn rất thấp (trung bình chỉ đạt khoảng
25% lượng CTR nông thôn phát sinh), vấn đề xử lý CTR nông thôn vẫn chưa
được quan tâm đúng mức, chưa được xử lý triệt để. Hầu hết các biện pháp thu
gom và xử lý CTR nông thôn vẫn còn rất thô sơ, lạc hậu không đáp ứng yêu
cầu và không đảm bảo vệ sinh môi trường. Đây thực sự là một áp lực đối với
công tác quản lý, bảo vệ môi trường và cũng là mối đe dọa lớn đối với sức
khoẻ cộng đồng.
Trước thực trạng trên, UBND tỉnh đã ban hành Chỉ thị số 30/CTUBND ngày 28/9/2011 về công tác BVMT các khu dân cư tập trung, các
vùng nông thôn trên địa bàn tỉnh Hà Nam; Quyết định số 3983/QĐ-UBND
ngày 06/12/2012 phê duyệt đề án quản lý CTR các vùng nông thôn tỉnh
Quảng Nam đến năm 2020 với mục tiêu để triển khai xây dựng đồng bộ hệ
thống quản lý, thu gom, xử lý rác thải các vùng nông thôn trên địa bàn tỉnh
nhằm kiểm soát ô nhiễm, bảo vệ môi trường, sức khoẻ người dân; góp phần
thực hiện tốt mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội bền vững, xây dựng nông
thôn mới. Để nhân rộng, triển khai mô hình quản lý chất thải rắn nông thôn


trên toàn địa bàn tỉnh, UBND tỉnh ban hành Sổ tay hướng dẫn phân loại, thu

1


gom và xử lý rác thải khu vực nông thôn trên địa bàn tỉnh Hà Nam, làm cơ sở
để các địa phương triển khai thực hiện.
Xuất phát từ vấn đề này chúng tôi lựa chọn đề tài: “ Rác thải sinh
hoạt và công tác quản lý rác thải sinh hoạt tại khu vực Hà Nam” để tiến
hành nghiên cứu.

2


CHƯƠNG I
MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ RÁC THẢI SINH HOẠT
1.1CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1 Một số khái niệm
Chất thải rắn là chất thải ở thể rắn, được thải ra từ quá trình sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc các hoạt động khác. Chất thải rắn phát
thải trong sinh hoạt hằng này của cá nhân, hộ gia đình, nơi công cộng được
gọi chung là chất thải rắn sinh hoạt hay còn gọi là rác thải sinh hoạt.
Rác thải sinh hoạt phát sinh ở mọi nơi, mọi lúc từ các khu dân cư, từ
các hộ gia đình, chợ và các tụ điểm buôn bán, nhà hàng, khách sạn, công
viên, khu vui chơi giải trí, trường học....
1.1.2 Phân loại rác thải sinh hoạt
Dựa vào tính chất, có thể phân rác thải thải thành 2 loại là rác hữu cơ
dễ phân hủy và rác thải khó phân hủy.
• Rác hữu cơ dễ phân hủy là các loại rác thải có khả năng tự phân
hủy trong môi trường tự nhiên sau một thời gian ngắn, như: lá cây, rau quả,

vỏ trái cây, xác động vật, phân động vật,...
• Rác thải khó phân hủy là các loại rác thải có khả năng tồn lưu
trong môi trường tự nhiên rất lâu, như: vải vụn, bao nhựa, chai nhựa, bóng
đèn, tóc, lốp xe, giấy kẹo, giầy da, xốp,...

3


1.1.3 Nguồn gốc phát sinh RTSH
Cùng với những hoạt động sản xuất của con người và sự phát triển của
các nghành đã tạo ra các sản phẩm, dịch vụ phục vụ nhu cầu của con người
ngày càng tăng lên, cùng với đó là lượng RTSH của các hoạt động này cũng
gia tăng.
RTSH được thải ra từ mọi hoạt động sản xuất cũng như tiêu dùng trong đời
sống xã hội, trong đó lượng rác thải chiếm khối lượng lớn chủ yếu ở khu dân
cư và các nhà máy, xí nghiệp.
1.1.4 Những tác động của RTSH đến môi trường
a. Làm ô nhiễm môi trường đất
b. Làm ô nhiễm môi trường nước
c. Làm ô nhiễm môi trường không khí
2.1.2 Lý luận về quản lý RTSH
2.1.2.1Khái niệm hoạt động quản lý RTSH
Hoạt động quản lý RTSH bao gồm các hoạt động quy hoạch quản lý,
đầu tư xây dựng cơ sở quản lý chất thải rắn, các hoạt động phân loại, thu

4


gom, lưu giữ, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế và xử lý chất thải rắn nhằm
ngăn ngừa, giảm thiểu những tác động có hại đối với môi trường và sức khoẻ

con người.
2.1.2.2 Một số khái niệm liên quan
Thu gom RTSH là hoạt động tập hợp, phân loại, đóng gói và lưu giữ
tạm thời chất thải rắn tại nhiều điểm thu gom tới địa điểm hoặc cơ sở được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận.
Vận chuyển RTSH là quá trình chuyên chở chất thải rắn từ nơi phát
sinh, thu gom, lưu giữ, trung chuyển đến nơi xử lý, tái chế, tái sử dụng hoặc
bãi chôn lấp cuối cùng.
Địa điểm, cơ sở được cấp có thẩm quyền chấp thuận là nơi lưu giữ, xử
lý, chôn lấp các loại RTSH được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền
phê duyệt.
Xử lý RTSH là quá trình sử dụng các giải pháp công nghệ, kỹ thuật
làm giảm, loại bỏ, tiêu hủy các thành phần có hại hoặc không có ích trong
RTSH; thu hồi, tái chế, tái sử dụng lại các thành phần có ích trong RTSH.
Chôn lấp RTSH hợp vệ sinh là hoạt động chôn lấp phù hợp với các
yêu cầu của tiêu chuẩn kỹ thuật về bãi chôn lấp RTSH hợp vệ sinh.
2.1.2.3 Nguyên tắc quản lý RTSH
Theo nghị đinh 59/2007/NĐ-CP của chính phủ thì hiện nay công tác
quản lý RTSH phải theo nguyên tắc sau:
- Tổ chức, cá nhân xả thải hoặc có hoạt động làm phát sinh rác thải phải nộp
phí cho việc thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải.
- RTSH phải được phân loại tại nguồn phát sinh, được tái chế, tái sử dụng,
xử lý và thu hồi các thành phần có ích làm nguyên liệu và sản xuất năng
lượng.

5


- Ưu tiên sử dụng các công nghệ xử lý rác thải khó phân huỷ, có khả năng
giảm thiểu khối lượng rác thải được chôn lấp nhằm tiết kiệm tài nguyên đất

đai.
- Nhà nước khuyến khích việc xã hội hoá công tác thu gom, phân loại, vận
chuyển và xử lý RTSH.
2.1.2.4 Hệ thống quản lý RTSH
Hiện nay hệ thống quản lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị ở Việt Nam có
thể được minh hoạ bằng hình 2.2
Mỗi một cơ quan, ban nghành sẽ nắm giữ những trách nhiệm riêng
trong hệ thống quản lý CTR, trong đó:
Bộ khoa học công nghệ và môi trường chịu trách nhiệm vạch chiến
lược bảo vệ môi trường chung cho cả nước, tư vấn cho nhà nước trong việc
đề xuất luật lệ chính sách quản lý môi trường quốc gia.
Bộ xây dựng hướng dẫn chiến lược quản lý và xây dựng đô thị, quản lý
chất thải.
UBND thành phố chỉ đạo UBND cá quận, huyện, sở khoa học công
nghệ và môi trường và sở giao thông công chính thực hiện nhiệm vụ bảo vệ
môi trường đô thị, chấp hành nghiêm chỉnh chiến lược chung và luật pháp về
bảo vệ môi trường của nhà nước.
Công ty môi trường đô thị là cơ quan trực tiếp đảm nhận nhiệm vụ xủa
lý CTR, bảo vệ vệ sinh môi trường thành phố theo chức trách được sở giao
thông công chính thành phố giao.

6


Bộ khoa học công
nghệ & MT

Bộ xây
dựng


Sở
GTCC

UBND thành
phố

Sở khoa học công
nghệ & MT

Công ty môi
trường đô thị

UBND cấp
dưới

Nguồn phát sinh CTR

Hình 2.2: Sơ đồ hệ thống quản lý RTSH đô thị ở Việt Nam
( Nguồn: Kinh tế rác thải và Phát triển bền vững, 2001)
2.1.2.5 Các công cụ quản lý môi trường và RTSH
Công cụ quản lý môi trường và RTSH là các biện pháp hành động thực
hiện công tác quản lý môi trường của nhà nước, các tổ chức khoa học và sản
xuất. Mỗi một công cụ có một chức năng và phạm vi tác động nhất định, liên
kết và hỗ trợ lẫn nhau.
Công cụ quản lý môi trường có thể phân loại theo bản chất thành các
loại cơ bản sau:

7



- Công cụ luật pháp chính sách bao gồm các văn bản về luật quốc tế, luật
quốc gia, các văn bản khác dưới luật, các kế hoạch và chính sách môi trường
quốc gia, các ngành kinh tế, các địa phương.
- Các công cụ kinh tế gồm các loại thuế, phí đánh vào thu nhập bằng tiền của
hoạt động sản xuất kinh doanh. Các công cụ này chỉ áp dụng có hiệu quả
trong nền kinh tế thị trường.
- Các công cụ kỹ thuật quản lý thực hiện vai trò kiểm soát và giám sát nhà
nước về chất lượng và thành phần môi trường, về sự hình thành và phân bố
chất ô nhiễm trong môi trường. Các công cụ kỹ thuật quản lý có thể gồm các
đánh giá môi trường, giám sát môi trường, xử lý chất thải, tái chế và tái sử
dụng chất thải. Các công cụ kỹ thuật quản lý có thể được thực hiện thành
công trong bất kỳ nền kinh tế phát triển như thế nào.
2.1.2.6 Các phương pháp xử lý chất thải
Để xử lý rác có rất nhiều cách, theo tài liệu tổng hợp của công ty môi
trường tầm nhìn xanh, trên thế giới thường có các cách sau:
a. Ủ rác thành phân bón hữu cơ
Ủ rác thành phân bón hữu cơ là một phương pháp khá phổ biến ở các
quốc gia đang phát triển. Việc ủ rác sinh hoạt với thành phần chủ yếu là chất
hữu cơ có thể phân hủy được và tiến hành ngay ở các nước đang phát triển
( quy mô hộ gia đình). Ví dụ ở Canada, phần lớn các hộ gia đình ở ngoại ô
các đô thị đều tự ủ rác của gia đình mình thành phân bón hữu cơ để bón cho
vườn của mình.
Việc ủ rác thành phân bón hữu cơ có ưu điểm là giảm được đáng kể
khối lượng rác, đồng thời tạo ra được của cải vật chất, giúp ích cho công tác

8


cải tạo đất. Chính vì vậy, phương pháp này được ưa chuộng ở quốc gia nghèo
và đang phát triển.

Công nghệ ủ rác có thể được chia thành 2 loại:
*Ủ hiếu khí
Công nghệ này được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam, Trung quốc. Công
nghệ ủ rác hiếu khí dựa trên sự hoạt động của các vi khuẩn hiếu khí với sự
có mặt của oxy. Các vi khuẩn hiếu khí có trong thành phần rác khô thực hiện
quá trình oxy hóa cacbon thành dioxitcacbon CO2, thường thì chỉ sau 2
ngày, nhiệt độ rác ủ tăng lên khoảng 45oC. Nhiệt độ này đạt được với điều
kiện duy trì môi trường tối ưu cho vi khuẩn hoạt động, quan trọng nhất là
không khí và độ ẩm.
Sự phân hủy hiếu khí diễn ra khá nhanh, chỉ sau 2-4 tuần là rác được
phân hủy hoàn toàn, các vi khuẩn gây bệnh và côn trùng bị hủy diệt do nhệt
độ ủ dâng cao. Bên cạnh đó mùi hôi cũng bị hủy nhờ qua trình ủ hiếu khí. Độ
ẩm phải được duy trì ở 40-55%, ngoài khoảng nhiệt độ này quá trình phân
hủy sẽ bị chậm lại.
*Ủ yếm khí
Công nghệ này được sử dụng rộng rãi ở Ấn Độ. Qua trình ủ này chủ
yếu nhờ vào sự hoạt động của các vi khuẩn yếm khí. Công nghệ này đòi hỏi
chi phí đầu tư ban đầu không tốn kém, nhưng thời gian phân hủy lâu thường
từ 4-12 tháng, các vi khuẩn gây bệnh luôn tồn tại cùng với quá trình phân hủy
vì nhiệt độ thấp, các khí sinh ra từ qúa trình này là khí metan và
sunphuahydro gây ra mùi khó chịu.

9


Đây là một phương pháp xử lý rác thải rẻ tiền nhất, sản phẩm phân hủy
có thể kết hợp rất tốt với phân gia súc cho ta phân hữu cơ với hàm lượng dinh
dưỡng cao tạo độ xốp cho đất.
b. Đổ rác thành đống hay bãi rác hở
Đây là phương pháp cổ điển đã được loài người áp dụng từ rất lâu, cho

đến nay phương pháp này vẫn được áp dụng ở nhiều nơi khác nhau trên thế
giới. Nhưng có những nhược điểm sau:
- Tạo cảnh quan khó coi, gây cảm giác khó chịu khi chúng ta bắt gặp
chúng.
- Đống rác thải là môi trường thuận lợ cho các loài động vật gặm nhấm,
các loài côn trùng, vi sinh vật gây bệnh sinh sôi, nảy nở gây nguy hiểm
cho con người.
Các bãi rác hở bị phân hủy lâu ngày sẽ bị rỉ nước và tạo nên vùng lầy lội,
ẩm ướt và từ đó hình thành các dòng nước rò rỉ chảy thấm vào các tầng đất
bên dưới, gây ô nhiễm nguồn nước ngầm, hoặc tạo thành dòng chảy tràn gây
ô nhiễm nguồn nước mặt.
Bãi rác hở sẽ gây ô nhiễm không khí do quá trình phân hủy rác tạo thành
các khí có mùi hôi thối, mặt khác ở các bãi rác hở còn có thêm hiện tượng
“cháy ngầm” hay có thể cháy hình thành nên ngọn lửa, và tất cả các quá trình
trên sẽ dẫn đến nạ ô nhiễm không khí.
Có thể thấy đây là phương pháp rẻ tiền, chỉ tiêu tốn chi phí cho công
việc thu gom và vận chuyển rác từ nơi phát sinh đến bãi rác. Tuy nhiên,
phương pháp này đòi hỏi một diện tích bãi thải lớn, do vậy ở các thành phố
đông dân cư và quỹ đất khan hiếm thì nó lại trở thành phương pháp đắt tiền
cộng với nhiều nhược điểm như trên.

10


c. Bãi chôn rác vệ sinh
Phương pháp này được nhiều đô thị trên thế giới áp dụng trong quá
trình xử lý rác thải. Ví dụ ở Mỹ có trên 80% lượng rác thải đô thị được xử lý
bằng phương pháp này, hay ở một số nước khác người ta cũng hình thành nên
các bãi chôn rác vệ sinh theo kiểu này.
Bãi chôn rác thải vệ sinh được thực hiện bằng nhiều cách, mỗi ngày

trải rác thành lớp mỏng, sau đó nén ép chúng lại bằng các loại xe cơ giới, sau
cùng là trải trên các lớp rác bị nén chặt một lớp đất mỏng khoảng 15cm.
Công việc này cứ thế tiếp tục, việc thực hiện các bãi rác vệ sinh có nhiều ưu
điểm:
- Do bị nén chặt và phủ đất lên trên nên các loài côn trùng, chuột bọ,
ruồi muỗi khó có thể sinh sôi nảy nở, các hiện tượng cháy ngầm hay
cháy bùng khó có thể sảy ra, giảm thiểu được mùi hôi thối, ít gây ô
nhiễm không khí.
- Góp phần làm giảm nạn ô nhiễm nước ngầm và nước mặt.
- Các bãi chôn rác sau khi bị phủ đầy, có thể được xây dựng thành các
công viên giáo dục, làm nơi sinh sống của các loài động thực vật, qua
đó góp phần làm đa dạng tính sinh học cho các đô thị. Nơi đây các thế
hệ trẻ có thể học hỏi về thế giới sinh vật và môi trường sinh thái.
- Chí phí điều hành hoạt động bãi chôn rác không quá cao.
Tuy nhiên, phương pháp này cũng có những nhược điểm sau:
- Các bãi chôn rác kiểu này đòi hỏi diện tích đất đai lớn
- Các lớp đất phủ ở các bãi chôn rác thường hay bị gió thổi mòn và phát
tán đi xa.

11


- Các bãi này tạo ra khí metan hoặc khí hydrrogen sufide độc hại có khả
năng gây cháy nổ, ngạt thở.
d. Đốt rác
Đốt rác ở đây được hiểu là sự đốt rác có kiểm soát các chất rắn có thể
đốt được, tuy nhiên nó không đơn giản chỉ là việc đốt cháy một bãi rác ngoài
trời. Đốt rác là một phương pháp được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng,
thông thường người ta xây dựng các lò đốt chuyên biệt, nhiệt độ trong lò có
thể lên đến hàng nghìn độ C, có thể đốt cháy cả kim loại, thủy tinh…xử lý

theo phương pháp này có những ưu điểm sau:
- Đốt cháy hay tiêu hủy các loại côn trùng, sinh vật gây bệnh, chất gây ô
nhiễm.
- diện tích xây dựng các nhà đốt thường nhỏ hơn diện tích các bãi rác
chôn rác.
- Các lò đốt có thể làm giảm khối lượng rác thải từ 80-90%, số tro hay
các chất còn sót lại có thể đem chôn ở các bãi rác, thậm chí có thể bỏ
xuống biển, đại dương.
- Các lò đốt có thể xây dựng không xa thành phố, do đó chi phí vận
chuyển rác giảm xuống.
- Nhiệt phát tán trong quá trình đốt được thu hồi để cung cấp cho các
nhà máy điện, cho các nhà máy hay khu dân cư đô thị.
- Các lò đốt có thể xử lý được các chất thải rắn có chu kỳ phân hủy rất
lâu dài như vỏ xe, đệm cao su, các loại túi bóng, túi nilon…
Bên cạnh những ưu điểm trên, phương pháp này cũng có những nhược
điểm như: chi phí mấy móc thiết bị cao.
e. Chôn rác dưới biển

12


Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng việc chôn rác dưới biển cũng có nhiều
điều lợi. Ví dụ ở thành phố New York, trước đây chất thải rắn được chở đến
các bến cảng, sau đó chúng được các xà lan đem chôn dưới biển ở độ sâu
100feets, nhằm tránh tình trạng lướ đánh cá bị vướng mắc. Ngoài ra ở một số
thành phố ven biển khác của Hoa Kỳ người ta còn xây dựng các bãi ngầm
nhân tạo trên cơ sở sử dụng các khối gạch bê tông phá vỡ từ các công trình
xây dựng, hoặc thậm chí các ôtô thải bỏ. Làm điều này vừa giải quyết được
vấn đề rác thải, đồng thời tạo nên nơi trú ẩn cho các loài sinh vật biển.
f. Chôn rác nhiệt phân

Đây là phương pháp xử lý rác thải tương tự như chúng ta làm than
hầm, có nghĩa là sử dụng nhiệt đốt bên ngoài để loại trừ dần không khí trong
rác, phương pháp này có những ưu điểm sau:
- Quá trình nhiệt phân là một quá trình kins nên ít tạo ra khí thải ô
nhiễm.
- Có thể thu hồi nhiều vật chất sau nhiệt phân. Ví dụ: rác thải đô thị ở
Hoa Kỳ sau khi nhiệt phân có thể thu lại dầu nhẹ, hắc ín và nhựa
đường, chất ammonium sulfate, than, chất lỏng chưa rượu, tất cả các
chất kể trên có thể tái sử dụng làm nguyên liệu.
2.1.2.7 Yêu cầu của việc quản lý RTSH
- Tiêu chí kỹ thuật: Được xác định trên cơ sở khối lượng rác thải được
thu gom chiếm tỷ lệ bao nhiêu % so với khối lượng chất thải phát sinh hàng
ngày, tỷ lệ phân loại chất thải tại nguồn, mức độ thu gom chất thải độc hại và
khả năng đảm bảo về mặt kỹ thuật của quy trình thu gom rác thải trên địa bàn
quản lý.

13


- Tiêu chí về môi trường: Phải đảm bảo được yêu cầu hạn chế tối đa
lượng chất thải tồn đọng, nghĩa là phải thu gom, vận chuyển tối đa nhất lượng
rác thải phát sinh đi xử lý kịp thời
- Tiêu chí về xã hội: Một trong những tiêu chí được xã hội quan tâm
hàng đầu là được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân trên địa bàn tổ chức thu
gom và xử lý rác thải.
- Tiêu chí về mặt kinh tế tài chính: đây là tiêu chí hết sức quan trọng để
đánh giá hoạt động thu gom và xử lý rác thải đạt hiệu quả hay không. Cùng
một kinh phí đâu tư như nhau mà phương thức thu gom, xử lý nào đạt hiệu
quả tối đa nhất
- Tiêu chí về thể chế trong việc thu gom rác thải: tiêu chí này đánh giá

hiệu quả của sự phối hợp giữa các đơn vị làm công tác thu gom và xử lý rác
thải với các tổ chức chính quyền và nhà nước trong việc quản lý rác thải, giải
quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động thu gom và xử lý rác thải.
- Tiêu chí về con người: Đây là nhân tố rất quan trọng có tính quyết
định đến chất lượng hoạt động quản lý nói chung và công tác quản lý chất
thải nói riêng.
2.1.3 Vai trò, vị trí của quản lý RTSH nông thôn
* Vai trò kinh tế: Quản lý RTNT hiện nay nếu được chú trọng và đầu
tư cải tiến sẽ đem lại lợi ích to lớn, nâng cao điều kiện sống cho người dân
nông thôn, góp phần thúc đẩy công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp và nông thôn.

14


* Vai trò xã hội: Tăng cường sức khoẻ người dân nông thôn bầng cách
giảm thiểu các bệnh có liên quan đến môi trường nhờ cải thiện và nâng cao
vệ sinh môi trường nông thôn.
* Vai trò môi trường: Giảm thiểu ô nhiễm môi trường, làm cho môi
trường nông thôn trong sạch hơn.
2.2.2.2 Mô hình xử lý RTSH tại xã Kim Chung – Hà Tây
Các bước tiến hành xây dựng mô hình
- Điều tra, khảo sát tình trạng ô nhiễm do rác thải sinh hoạt của địa phương.
- Tuyên truyền vận động người dân và chính quyền hưởng ứng việc thu gom,
xử lý rác.
- Lên phương án khả thi về xây dựng và tổ chức thực hiện.
- Dựa trên phương án khả thi, phân bổ nguồn kinh phí do Tổ chức ủng hộ và
phần kinh phí do tỉnh, huyện và nhân dân cần phải đóng góp để thực hiện dự
án. Địa phương dành 1.500m2 tương lai 3.000m2) để xây dựng mô hình tại
địa điểm thích hợp xa nhà dân.

- Tổ chức đội thu gom, vận chuyển và xử lý rác.
- Tuyên truyền, tập huấn cho người dân từ khâu phân loại khi bỏ rác vào
thùng và có thói quen đổ rác như ở các thành phố.
- Việc phân loại rác được tiến hành từ các gia đình, tại trạm tiếp tục lựa chọn,
phân loại tiếp trong quá trình tập kết, đổ rác.
- Xây dựng trạm xử lý rác cho nông thôn theo qui trình công nghệ của các
nhà khoa học Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

15


Quy trình xử lý
Rác thải của các hộ dân được phân loại sơ bộ ngay tại gia đình, mỗi gia
đình có 2 thùng rác, một thùng đựng rác hữu cơ (thực phẩm thừa, lá cây...),
một thùng đựng rác vô cơ các loại không phân hủy được (thủy tinh, nilon, vỏ
sò, vỏ ốc...). Hàng ngày công nhân của đội thu gom đi thu gom đưa về sân tập
kết. Ở đây, rác đựơc tiếp tục phân loại để loại bỏ các chất vô cơ. Phần hữu cơ
được trộn lẫn với chế phẩm vi sinh BioMicromix rồi đưa vào bể ủ. Chế phẩm
vi sinh BioMicromix là chế phẩm vi sinh vật ưa nhiệt, có tác dụng thúc đẩy
nhanh quá trình phân hủy chất hữu cơ, làm nhanh mất mùi hôi, không có ruồi
muỗi. Mỗi bể ủ có thể tích từ 30-40m3.
Thôn Lai Xá có khoảng 5.000 dân, lượng rác thải khoảng 3 tấn/ngày.
Do kinh phí ít nên trạm xử lý rác không thể đầu tư máy móc qui mô lớn như
có băng truyền hoặc máy nén khí. Do lượng rác thải hàng ngày ít, nên không
có hệ thống bơm khí cung cấp oxy làm cho quá trình phân hủy nhanh. Để giải
quyết lên men ủ rác với các vi sinh vật hiếu khí, chịu nhiệt, đảm bảo phân
hủy rác triệt để, các giải pháp khắc phục như sau: xây 4 bể ủ rác, mỗi bể dung
tích 30 - 40m3. Để làm đầy được 1 bể cần thời gian khoảng 10 - 12 ngày, rác
được nạp dần dần có phối trộn BioMicromix, chiều cao của khối ủ khoảng
1,2 - 1,5m, có đảo trộn, tạo điều kiện cho vi sinh vật hiếu khí phát triển. Thời

gian lên men trong bể kéo dài từ 40 - 50 ngày, nghĩa là sau khi làm đầy 3 bể
còn lại thì quay về bể đầu tiên. Khi quá trình ủ đã kết thúc, đống ủ xẹp xuống,
nhiệt độ xuống dưới 400C, rác được chuyển ra sân phơi cho khô, sau đó được
đưa vào nghiền và sàng phân loại. Phần hữu cơ (mùn) tận dụng làm phân
bón. Nước rác được thu gom vào bể chứa qua hệ thống rãnh, khi khối ủ bị
khô dùng nước này để bổ sung. Các chất vô cơ được phân loại, phần có thể
tái chế (thuỷ tinh, nilon, sắt thép...) được thu gom lại để bán cho các cơ sở tái
chế; phần không tái chế được (sành sứ, vỏ ốc,...) được đem đi chôn lấp. Gạch

16


ngói vỡ dùng để san nền hay bê tông hóa, lát kè đường đi, xây mương. Mô
hình xử lý rác thải sinh hoạt ở thôn Lai Xá đã được xây dựng xong và đi vào
hoạt động từ tháng 5/2003. Mô hình trên đã được Tổ chức YWAM cùng
chính quyền địa phương và nhân dân đánh giá rất tốt. Mô hình hiện nay vẫn
đang hoạt động bình thường.
Đây là mô hình tương đối hoàn chỉnh phục vụ cho việc xử lý rác ở qui
mô nhỏ. Một mô hình xử lý rác sạch, không gây ô nhiễm môi trường, không
tốn diện tích chôn lấp và tận dụng được nguồn phế thải hữu cơ để sản xuất
phân bón phục vụ cho nông nghiệp. Mô hình trên có thể triển khai và nhân
rộng ra nhiều địa phương trong cả nước, tạo cho nông thôn có cảnh quan vào
môi trường trong sạch. Mô hình trên đã được nhân dân địa phương ủng hộ
trong việc thu gom rác thải, giữ gìn vệ sinh làng xã sạch đẹp, không còn cảnh
rác vứt bừa bãi. Kinh phí đầu tư tương đối rẻ, phù hợp cho điều kiện nông
thôn nay ở nước ta. Với chi phí khoảng 400- 500 triệu đồng có thể xây dựng
được một cơ sở xử lý rác với công suất từ 3-5tấn/ngày. Từ kinh nghiệm xây
dựng mô hình xử lý rác ở thôn Lai Xá cho thấy, để mô hình có thể thực hiện
thành công, thì công tác tuyên truyền cho nhân dân thay đổi thói quen vứt rác
bừa bãi và công tác tổ chức thu gom là hết sức quan trọng, quyết định sự

thành công của mô hình.
2.2.2.3 Mô hình thu gom rác thải ở Thái Bình
Thái Bình là một tỉnh đất chật, người đông, với hơn 90% dân số sống ở
khu vực nông thôn có nghề chính là làm ruộng. Trong chính sách mở cửa để
phát triển kinh tế ở Thái Bình nói riêng và cả nước nói chung theo hướng
CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, hàng trăm làng nghề, xã nghề được khôi
phụth và hoạt động trở lại, cùng nhiều trung tâm thương mại, chợ lớn nhỏ
mọc lên tại các thị trấn, thị tứ, vùng nông thôn đã thu hút hàng vạn lao động.

17


Đời sống người dân nông thôn được cải thiện, bộ mặt nông thôn có nhiều
thay đổi. Bên cạnh những mặt tích cực, quá trình phát triển cũng làm nảy sinh
nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng ở nông thôn như: cung cấp nước sinh
hoạt,rác thải, nước thải tại các làng nghề, thị trấn, thị tứ...
Hiện tại nông thôn Thái Bình do tập trung dân số với mật độ cao, chủ
yếu hoạt động sản xuất nông nghiệp, một số kết hợp sản xuất làng nghề, dịch
vụ nông nghiệp, nông thôn. Phụ phẩm trong sản xuất nông nghiệp ngoài một
phần làm thức ăn gia súc, phân bón, chất đốt, phần còn lại bị vương vãi trong
đường làng, ngõ xóm rất cần thiết phải thu gom chuyển đến nơi tập trung để c
ó biện pháp xử lý phù hợp bảo đảm vệ sinh môi trường (VSMT). Việc xây
dựng chuồng trại chăn nuôi chưa hợp lý, chăn thả gia súc tự do, cho nên chất
thải từ chăn nuôi cũng là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường nông thôn
hiện nay. Việc sử dụng thuốc bảo vệ thực và thải ra một lượng đáng kể vỏ
bao bì gồm: túi ni-lông, chai lọ thuỷ tinh, chai nhựa, bị vứt bỏ bừa bãi trên
đồng ruộng, kênh mương, ao hồ sau khi sử dụng. Bên cạnh đó, thực trạng
hoạt động sản xuất của phần lớn làng nghề, xã nghề đều ở quy mô nhỏ, công
nghệ sản xuất lạc hậu và chưa được quan tâm vấn đề xử lý ô nhiễm môi
trường. Khối lượng chất thải rắn không được thu gom hoặc thu gom đạt tỷ lệ

thấp gây tình trạng chất đống bừa bãi ra trục đường giao thông, kênh mương,
ao hồ... Ngoài ra, do đời sống của người dân nông thôn ngày càng được nâng
cao, sản phẩm tiêu thụ ngày càng nhiều dân đến lượng chất thải tăng và chưa
được thu gom và xử lý triệt để. Vì vậy, môi trường nói chunth và chất thải
rắn tại các vùng nông thôn Thái Bình nói riêng đang là vấn đề rất cần được sự
quan tâm của các cấp, các ngànBi và nhân dân.
Từ thực trạng nêu trên, Thái Bình đưa ra một mô hình thu gom và xử
lý chất thải rắn đã được một số cơ sở trong tỉnh áp dụng hiệu quả, góp phần
vào công tác bảo vệ môi trườnth và phát triển bền vững địa phương.

18


Mô hình được áp dụng theo quy mô nhỏ ở cấp thôn hoặc xã. Thành lập
một tổ thu gom rác thải từ năm đến bảy người có quy chế hoạt động cụ thể và
chịu sự quản lý của chính quyền xã hoặc thôn. Tổ thu gom rác được trang bị
xe chở rác, các vật dụng cần thiết gồm: cuốc, xẻng, quần áo bảo hộ lao động,
khẩu trang, chổi... Tổ thu gom hoạt động hằng ngày vào các giờ quy định
(thường từ 15 đến 16 giờ), trong khoảng thời gian này, các nhân viên thuộc tổ
thu gom có trách nhiệm thu gom rác và vệ sinh đường làng, ngõ xóm trong
thôn hoặc xã. Rác thải sau khi thu gom được vận chuyển đến bãi rác đã được
quy hoạch thuộc địa giới hành chính của thôn, xã. Tại bãi rác, các nhân viên
tiếp tục thực hiện các công đoạn xử lý tiếp theo. Đối với chất thải rắn nông
thôn hiện nay nên lựa chọn phương pháp xử lý bằng cách chôn lấp dễ thực
hiện và đạt hiệu quả kinh tế.
Vị trí bãi chôn lấp phải nằm trong tầm khoảng cách hợp lý tới nguồn
phát sinh phế thải, tại khu đất trống, không phá hoại cảnh quan, xa khu vực
dân cth và nên khuất gió. Diện tích bãi chôn lấp tuỳ theo khối lượng rác thải
và điều kiện của từng địa phương. Bố trí bãi chôn lấp cách xã nguồn nước
mặt, các dòng chảy. Ngăn chặn sự rò rỉ của nước bãi rác thải với nước ngầm

bằng các lớp lót chống thấm và thành đê bao của bãi chôn lấp. Các yêu cầu
thiết kế về mặt bằng, đường vào ra, rào chắn, biển hiệu phải tuân thủ đúng
quy định, chú ý lớp lót chống thấm, hệ thống đê kè chung quanh bãi rác. Lớp
lót chống thấm có thể được sử dụng bằng đất sét có độ dày từ 0,5 m trở lên.
Bãi chôn lấp được chia thành các ô nhỏ và có độ sâu trung bình hơn 1m.
Các chỉ dẫn khi chôn lấp rác thải: khu vực chôn lấp rác cần chia thành
những ô nhỏ thường bắt đầu chôn lấp từ các ô phía cuối bãi chôn lấpra Rác
thải sau khi được đổ vào vị trí quy định được trải thành những lớp dày 20-40
cm lên đáy bãi chôn lấp và tiếp tục trải những lớp khác lên trên. Mỗi lớp rác
thải phải được đầm nén 5-6 lần. Cuối ngày cần phủ lên một lớp đất dày 5-10

19


cm rồi lại đầm nén. Mỗi ô hoàn chỉnh phải kết thúc trước khi bắt đầu ô tiếp
theo. Phun hoá chất diệt côn trùnth và rắc vôi bột vào lớp rác thải đã đầm nén
trước khi phủ đất lên trên. Khi đóng bãi cần có lớp phủ đất cuối cùng. Đây là
phương pháp chôn chất thải rắn có kiểm soát, dễ thực hiện và tuân thủ các
quy định về bảo vệ môi trường. Thu từ nhân dân theo đơn vị gia đình bằng
tiền mặt hoặc thóc để mọi người dân đều có ý thức, trách nhiệm gìn giữ vệ
sinh môi trường và có nguồn tài chính trả công cho nhân viên lao động trực
tiếp thu gom và xử lý chất thải rắn ( Báo Nhân dân, 2004).

20


CHƯƠNG II
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ THỰC
TRẠNG QUẢN LÝ RÁC THẢI SINH HOẠT KHU
VỰC HÀ NAM

1.1 Tình hình chung và thực trạng nguồn RTSH
Thị trấn Tiên Yên là vùng nông thôn chỉ mới thực sự phát triển trong
một vài năm trở lại đây, từ khi có con đường 18A đựơc quy hoạch hoàn chỉnh
thì tình hình giao thông đi lại giữa các vùng có nhiều thuận lợi hơn, có điều
kiện giao lưu phát triển kinh tế xã hội của vùng. Biểu hiện rõ rệt là tốc độ
tăng trưởng kinh tế bình quân qua 3 năm đạt 114,7%, tăng 14,7%, mức sống
của người dân trong vùng tăng lên, giá trị sản xuất bình quân theo đầu người
qua 3 năm đạt mức 111,47% tăng 11,47%. Cùng với sự phát triển của kinh tế
thì số lượng dân số trong vùng cũng tăng lên, bình quân qua 3 năm đạt mức
101,05% tăng 1,05%.
Đi đôi với phát triển kinh tế là khoa học - kỹ thuật và công nghệ ngày
càng hiện đại, với những công nghệ tiên tiến hiện đại như vậy thì ngày sẽ có
nhiều hơn, đa dạng hơn những loại sản phẩm hàng hóa đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng hàng ngày của người dân. Với những tiện dụng của chúng là được đóng
gói bao bì nilon, nhựa, thiếc, hộp giấy vừa nhẹ vừa đẹp, dễ mua nên đã thay
thế dần đồ truyền thống. Đây cũng chính là nguyên nhân chính làm cho lượng
RTSH được thải ra ngoài môi trường ngày càng tăng lên và những thành
phần rác thải này rất khó bị phân hủy nên gây ô nhiễm môi trường nặng hơn.
Đặc biệt lượng RTSH thải ra từ các khu vực dân cư tăng nhanh chóng.
Số dân trên địa bàn thị trấn Tiên Yênhiện nay là 7214 người, trung bình mỗi
người dân thải ra 0,73kg RTSH/ngày (Theo báo cáo Bộ tài nguyên và môi
trường Việt Nam 2007) thì một ngày trên toàn thị trấn thải ra khoảng 5266,22

21


kg RTSH và mỗi năm thải ra khoảng gần 2 triệu kg RTSH theo chiều hướng
ngày càng tăng.
Chỉ tiêu


ĐVT

2007
2008
2009
Dân số
Người
7064
7128
7214
Cửa hàng, đại lý
Cửa hàng, đại lý
264
385
560
Cơ quan hành chính
Đơn vị
37
38
38
Chợ
Chợ
1
1
1
Bến xe
Bến xe
1
1
1

Công viên
Công viên
2
2
2
Bệnh viện
Đơn vị
1
1
1
Trạm y tế
Trạm
1
1
1
Trường học
Đơn vị
5
5
5
Nhà máy đường
Đơn vị
1
1
1
Đáp ứng nhu cầu người dân, các dịch vụ đời sống cũng tăng lên đáng
kể, hiện nay trên địa bàn có đến 420 các đại lý và cửa hàng lớn nhỏ hoạt động
liên tục, kinh doanh buôn bán đủ các loại mặt hàng phục vụ nhu cầu mua
sắm, tiêu dùng của người dân trong thị trấn và các xã lân cận, nên lượng
RTSH thải ra môi trường cũng tăng nhanh chóng.

Trong vùng có một chợ lớn và một chợ cóc, tại các chợ cóc những
người bán hàng thường tập trung ở những ven lề đường bán cho người qua
đường, không được quản lý nên đến cuối các buổi sáng, cuối buổi chiều khi
chợ đã tan thì quang cảnh chợ đúng như một bãi chiến trường rác, có gọn thì
người bán hàng gom lại chất thành từng đống tại chỗ, còn không thì khi họ
bán hàng xong, rác thế nào thì vẫn nằm nguyên như thế, để đến cả mấy ngày
hôm sau.
Ở khu chợ lớn do được xây dựng lại khang trang và rộng rãi hơn, đáp
ứng nhu cầu buôn bán, trao đổi hàng hóa của người dân và chịu sự quản lý
của người bảo vệ chợ nên tình hình cũng sạch sẽ hơn, cuối các phiên chợ rác
thải được gom lại một đống ở cuối chợ và người ta sẽ đốt hết.

22


Ở các bến xe, công viên do được quản lý bởi người trồng giữ nên cũng
tương đối sạch sẽ, tuy nhiên đây là những địa điểm công cộng cho nên người
dân trong vùng và khách qua lại vẫn chưa thực sự có ý thức cao đối với vấn
đề xả rác bừa bãi ở những khu vực này. Đó là tâm lý ỷ lại và phó mặc cho
những người quản lý, những người chịu trách nhiệm cai quản và chăm sóc.
Do có những đặc thù riêng về hoạt động sản xuất nên các đơn vị như
bệnh viện huyện, trạm y tế thị trấn và nhà máy đường đều có hệ thống tự xử
lý rác thải riêng, hạn chế một lượng rác thải thải ra ngoài môi trường.
Cùng đó là hệ thống các cơ quan đơn vị hành chính, trường học và các
tổ chức, đơn vị xã hội khác đóng trên địa bàn với những hoạt động công việc
chủ yếu như văn phòng, bàn giấy, học tập cho nên lượng rác thải ra từ những
nguồn này cũng tương đối đơn giản. Riêng như bên các đơn vị trường học thì
rác thải chủ yếu là các loại giấy báo và cành lá cây khô nên được học sinh
nhà trường vệ sinh thu gom vào hố rác và đốt luôn vào những ngày cuối tuần.
Qua tình hình đó, chúng ta có thể nhận thấy rằng lượng RTSH thải ra

chủ yếu trên địa bàn thị trấn và chiếm khối lượng nhiều nhất là từ các hộ gia
đình ở các khu vực dân cư.
1.2 Tình hình dân cư và số điểm đổ rác
Bảng 4.2: Số điểm đổ rác trong các khu vực dân cư
Trước đây mật độ dân số tương đối thấp, diện tích đất trống có nhiều
Khối
Số dân (Khẩu)
Số điểm đổ rác
Diện tích/điểm
1
560
4
3 - 5 m2
2
1434
3
3 - 5 m2
3
1434
0
0
4
534
1
3 - 5 m2
5
365
2
3 - 5 m2
6

871
1
3 - 5 m2
7
525
3
3 - 5 m2
8
829
0
0
9
532
4
3 - 5 m2
10
487
2
3 - 5 m2
và những loại rác thải ra môi trường cũng tương đối ít và chủ yếu là những

23


loại dễ phân hủy. Tuy nhiên trong tình hình như hiện nay, dân số ngày càng
tăng, diện tích đất trống, đất chưa sử dụng của các hộ gia đình bị co hẹp lại,
chuyển sang đất ở, các công trình công cộng và cơ sở hạ tầng xã hội như nhà
ở, các quán xá, các cơ quan hành chính, doanh nghiệp, chợ, cửa hàng dịch
vụ…
Những hộ gia đình có hay không kinh doanh buôn bán ở những khu

vực trung tâm, dọc các trục đường chính gọi là các hộ gia đình tuyến 1, 2 thì
hầu như không có một điểm đổ rác chung nào hoặc nếu có thì cũng chỉ có 1
đến 2 điểm, điển hình như các khối ở khu vực trung tâm là khối 3, khối 4,
khối 6, khối 8. Phần lớn các hộ gia đình ở khu vực này đều được công ty vệ
sinh môi trường thu gom RTSH hàng ngày.
Những hộ gia đình ở xa các trục đường chính, xa trung tâm được gọi là
những hộ tuyến 3, 4 thì phần lớn là chưa được thu gom RTSH. Đây là nguyên
nhân dẫn đến tình trạng RTSH được đổ ở nhiều nơi không đúng quy định như
từ các lề đường ra ngoài đến đồng ruộng, trầm trọng hơn là người dân vứt
từng bao rác từ nhỏ đến lớn xuống các gầm cầu, dòng khe suối làm tắc nghẽn
dòng chảy và ô nhiễm nguồn nước tự nhiên. Đi dọc theo khe suối chảy qua
khu vực thị trấn chúng ta có thể bắt gặp đầy đủ các loại rác thải sinh họat của
người dân đều được vứt xuông đó, gần như dòng nước bị tắc nghẽn lại, nước
có màu vàng đục rất bẩn, đây chính là nơi sinh sản của nhiều mầm bệnh nguy
hiểm mà người dân sống quanh đó chưa ý thức hết được hậu quả gây ra trong
hiện tại cũng như về lâu về dài.
Tích cực hơn là có một số hộ gia đình cùng nhau đào hố rác nhỏ có
diện tích khoảng 3 đến 5m2, sâu hơn 1m, để làm điểm đổ rác chung, RTSH
của các hộ gia đình này được gom lại đổ đống ở đấy, tuy nhiên cũng có một
số hộ gia đình theo thói quen hay sự tiện tay thấy những khoảng đất trống
công cộng là đổ, một người đổ rồi thêm những người khác đổ theo, lâu dần
hình thành nên một điểm đổ rác chung.

24


Song những điểm đổ rác này với diện tích rất nhỏ thì sức chứa rác là
hạn chế, lâu ngày rác sẽ đầy và tràn ra khắp xung quanh, khi gặp thời tiết
mưa nhiều sẽ làm cho các loại RTSH này tràn lan khắp nơi, cộng thêm hàng
ngày những con chó mèo, gà vịt, ruồi muỗi…bới móc tìm kiếm thức ăn,

chúng là nguồn gián tiếp mang các mầm bệnh lây lan khắp nơi, gây ra các
bệnh cho người dân sống xung quanh khu vực như các loại bệnh ngoài da,
bệnh về mắt, về đường hô hấp,…đặc biệt nguy hiểm cho những trẻ em và
người già tuổi.
Những hộ gia đình mà diện tích đất vườn tương đối rộng rãi thoải mái,
thì hầu như họ vứt rác ngay trong vườn nhà mình, thương thì có thể họ sẽ
chôn lấp ở dọc các bờ rào, gốc cây. Có hộ thì đào riêng một hố rác nhỏ ở góc
vườn, có diện tích khoảng 1 đến 2 m2, sâu hơn 1m và đổ rác vào đấy, khi nào
đầy quá thì người ta sẽ đốt hết.
Tuy nhiên việc xả rác như thế này của các hộ gia đình chỉ có thể là tạm
thời, đối phó với tình trạng trước mắt trong khoảng thời gian ngắn, vì với tốc
độ phát triển như hiện nay thì lượng RTSH của các hộ sẽ tăng lên rất nhanh,
cộng thêm quỹ đất trống tự nhiên ngày càng bị thu hẹp thì khi đó những điểm
đổ rác sẽ trở thành những vấn đề cấp bách của tất cả mọi người dân.
Thực tế hiện nay ở các xóm, khối các điểm đổ rác đều là tự phát do
một vài hộ dân đổ lâu ngày rồi hình thành nên. Những điểm đổ rác này chưa
có tính thống nhất, chưa đảm bảo được yêu cầu về điểm chứa rác và những
biện pháp xử lý đó cũng không thực sự an toàn với môi trường sống của
người dân sống quanh vùng. Mất cảnh quan, mất vệ sinh môi trường là các
yếu tố thường thấy ở những điểm đổ rác này.
2.2 TÌNH HÌNH RTSH CỦA CÁC HỘ GIA ĐÌNH
2.2.1 Khối lượng RTSH của các hộ
Có một thực tế rằng, người dân thường chỉ quan tâm đến giá trị cũng
như khối lượng các sản phẩm đầu vào và lợi ích của chúng mang lại, trái lại

25


×