Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Khảo sát nhóm từ ngữ đồng nghĩa chỉ cái chết trong tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (528.12 KB, 74 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
------------------

TẠ THỊ HÒA

KHẢO SÁT NHÓM TỪ NGỮ
ĐỒNG NGHĨA CHỈ CÁI CHẾT
TRONG TIẾNG VIỆT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: NGÔN NGỮ

HÀ NỘI – 2013


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
------------------

TẠ THỊ HÒA

KHẢO SÁT NHÓM TỪ NGỮ
ĐỒNG NGHĨA CHỈ CÁI CHẾT
TRONG TIẾNG VIỆT

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: NGÔN NGỮ

Người hướng dẫn khoa học
ThS, GVC Đỗ Thị Thu Hương


HÀ NỘI – 2013


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình tới Ths.
GVC. Đỗ Thị Thu Hương, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi hoàn
thành khóa luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ Ngôn ngữ, khoa
Ngữ Văn, trường ĐHSP Hà Nội 2 đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn
thành khóa luận này.

Hà Nội, tháng 5, năm 2013

Sinh viên

Tạ Thị Hòa


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung mà tôi đã trình bày trong khóa luận
này là kết quả quá trình nghiên cứu của bản thân dưới sự giúp đỡ của các thầy
cô giáo, đặc biệt là Ths. GVC. Đỗ Thị Thu Hương. Những nội dung này
không trùng khớp với kết quả nghiên cứu của tác giả khác.

Sinh viên

Tạ Thị Hòa


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................ 3
4. Nhiệm vụ ................................................................................................... 3
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................ 3
6. Phương pháp nghiên cứu. ........................................................................ 3
7. Đóng góp của khoá luận ........................................................................... 4
8. Bố cục khóa luận ...................................................................................... 4
NỘI DUNG ................................................................................................... 5
CHƯƠNG 1 .................................................................................................. 5
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT................................................................. 5
1.1. Khái quát về hiện tượng đồng nghĩa ................................................. 5
1.2. Từ đồng nghĩa ........................................................................................ 6
1.2.1. Một số quan niệm về từ đồng nghĩa .................................................... 6
1.2.2. Định nghĩa ......................................................................................... 10
1.2.3. Phân loại từ đồng nghĩa .................................................................... 11
1.2.4. Phương pháp xác lập dãy đồng nghĩa ............................................... 16
1.2.5. Giá trị nghệ thuật của từ đồng nghĩa ................................................ 18
1.3 . Tiểu kết chương 1 ........................................................................... 22
CHƯƠNG 2 ................................................................................................ 23
NHẬN XÉT NHÓM TỪ NGỮ ĐỒNG NGHĨA CHỈ CÁI CHẾT TRONG
TIẾNG VIỆT .............................................................................................. 23
2.1. Nhận xét chung .................................................................................... 23
2.2. Phân loại các từ ngữ đồng nghĩa chỉ cái chết ..................................... 23
2.2.1. Phương diện sắc thái biểu cảm - phong cách ................................... 24
2.2.2. Xét theo phạm vi sử dụng .................................................................. 43
2.2.3. Sự phân hóa ngữ nghĩa của dãy từ ngữ đồng nghĩa chỉ cái chết ... 51
2.4. Tiểu kết chương 2 ................................................................................ 62
KẾT LUẬN ................................................................................................. 64

TÀI LIỆU THAM KHẢO............................ Error! Bookmark not defined.


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Để có thể biểu hiện tư duy, tình cảm của mình một cách rõ ràng, chính
xác, diễn đạt được hay nội dung tư tưởng, tình cảm nào đó, đồng thời có được
sự phù hợp về hình thức và nội dung cần diễn đạt khi sử dụng ngôn ngữ,
chúng ta cần phải nắm được vốn từ vựng và các phương tiện ngữ pháp hết sức
phong phú, đa dạng của ngôn ngữ.
Trong tiếng Việt, bên cạnh các hiện tượng như: đồng âm, trái nghĩa…
thì các từ đồng nghĩa có ý nghĩa vô cùng to lớn. Nó giúp chúng ta biểu hiện
được tư tưởng, tình cảm của mình một cách chính xác, có hình ảnh và giàu
sức biểu cảm hơn. Khả năng sử dụng các từ đồng nghĩa thuộc những phong
cách ngôn ngữ khác nhau là vô cùng phong phú và đa dạng. Nếu chúng ta lựa
chọn chính xác một từ nào đó trong dãy đồng nghĩa thì khi đó chúng ta sẽ giải
quyết tốt được các nhiệm vụ diễn đạt chính xác nội dung tư tưởng, đồng thời
nó còn giúp chúng ta tránh được sự diễn đạt trùng lặp do sử dụng một từ nào
đó lặp đi lặp lại trong một câu, làm cho câu văn đa dạng về kiểu loại và uyển
chuyển hơn.
Trong khóa luận này chúng tôi tập trung nghiên cứu vấn đề: khảo sát
nhóm từ ngữ đồng nghĩa chỉ cái chết trong tiếng Việt, bởi qua khảo sát và
thu thập, chúng tôi nhận thấy việc sử dụng những từ ngữ đồng nghĩa để chỉ
cái chết - chỉ người hay vật không còn tồn tại nữa là vô cùng phong phú và
được sử dụng trong nhiều ngữ cảnh với những mục đích khác nhau.
Sống và chết là quy luật tất yếu của cuộc sống. Tuy nhiên, hầu hết mọi
người đều khó chấp nhận được sự thật rằng ai đó mất đi. Vì vậy, người nói
hay người viết phải tìm những từ ngữ diễn đạt như thế nào để có thể giảm đi
hoặc né tránh những cảm giác đau buồn, ghê sợ và nặng nề cho người nghe,


1


đồng thời tạo ra những giá trị thẩm mĩ, làm đẹp cho ngôn từ và từ đồng nghĩa
được lựa chọn để đáp ứng những yêu cầu đó.
Việc khảo sát nhóm từ ngữ đồng nghĩa chỉ cái chết còn giúp chúng ta có
thể hiểu được chính xác ý nghĩa của từng yếu tố ngôn ngữ để có thể sử dụng
từ ngữ phù hợp với nội dung, đối tượng và hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Đồng
thời có thêm những hiểu biết về lời ăn tiếng nói của con người trong hoạt
động giao tiếp hằng ngày và trong việc tìm hiểu bản sắc văn hóa, tư duy của
dân tộc. Quan trọng hơn, kết quả của cuộc nghiên cứu sẽ được vận dụng vào
chuyên môn trong quá trình giảng dạy sẽ đem lại hiệu quả thiết thực trong
nhiều giờ học.
Trên đây là những lý do cơ bản để chúng tôi lựa chọn đề tài: khảo sát
nhóm từ ngữ đồng nghĩa chỉ cái chết trong tiếng Việt. Từng vấn đề cụ thể sẽ
được đi sâu trình bày trong khóa luận này.
2. Lịch sử vấn đề
Xuất phát từ những góc độ, khuynh hướng và phương pháp tiếp cận
khác nhau, những công trình nghiên cứu về hiện tượng đồng nghĩa đã cung
cấp nhiều cách nhìn mới mẻ, đa diện về từ đồng nghĩa tiếng Việt. Có thể nói
đây là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm và cũng đã đạt được những thành
tựu nhất định với những hướng nghiên cứu cụ thể như sau :
Hướng thứ nhất: tập hợp và giải thích các từ đồng nghĩa tiếng Việt. Đây
là công trình nghiên cứu của các tác giả làm từ điển, tiêu biểu cho hướng này
có các công trình: Nguyễn Hoàng [9], Nguyễn Văn Tu [19]…
Hướng thứ hai: tìm hiểu khái niệm từ đồng nghĩa, phân loại và chỉ ra
nguồn gốc của chúng, đồng thời đề xuất cách phân biệt từ đồng nghĩa tiếng
Việt hoặc cách xác định từ trung tâm trong một nhóm từ đồng nghĩa. Theo
hướng này có các công trình: Đỗ Hữu Châu [2], [3]; Nguyễn Trung Thuần
[13]…


2


Hướng thứ ba: tìm hiểu từ đồng nghĩa theo các nhóm, tiêu biểu có các
công trình sau: Phạm Thị Đặng [4]; Hà Thị Ngọc Hà [8],…
Như vậy, chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể về nhóm từ ngữ
đồng nghĩa chỉ cái chết trong tiếng Việt. Với kết quả và hướng nghiên cứu
như vậy, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: khảo sát nhóm từ ngữ đồng
nghĩa chỉ cái chết trong tiếng Việt.
3. Mục đích nghiên cứu
Thấy được sự chi phối của các nhân tố xã hội, văn hóa, tầng lớp xã hội
đối với việc sử dụng từ đồng nghĩa chỉ cái chết trong tiếng Việt, đồng thời
thấy được sự sáng tạo, phong phú và đa dạng của ngôn ngữ trong đời sống.
4. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích đề ra, đề tài phải thực hiện được các nhiệm vụ
sau:
a. Tập hợp những vấn đề lý thuyết có liên quan đến đề tài.
b. Khảo sát, thống kê và phân loại các từ ngữ đồng nghĩa chỉ cái chết trong
tiếng Việt.
c. Phân tích các nhóm từ ngữ đồng nghĩa chỉ cái chết trong tiếng Việt.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng: nhóm từ và ngữ đồng nghĩa chỉ cái chết trong tiếng Việt.
Phạm vi nghiên cứu: ngữ liệu khảo sát được thống kê trong các cuốn từ
điển: Nguyễn Hoàng [9]; Nguyễn Lực [10]; Hoàng Phê [11], và một số văn
bản cụ thể.
6. Phương pháp nghiên cứu.
Do tính chất của đề tài và nhiệm vụ khoa học mà đề tài đặt ra, chúng tôi
sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp như sau :
Phương pháp thống kê - phân loại: mục đích của phương pháp này là

nhằm thống kê tất cả những từ và ngữ đồng nghĩa chỉ cái chết trong tiếng

3


Việt, đồng thời phân loại các từ và ngữ đồng nghĩa chỉ cái chết thành từng
nhóm.
Phương pháp hệ thống: tìm hiểu các từ và ngữ đồng nghĩa chỉ cái chết
trong tiếng Việt không thể bỏ qua phương pháp hệ thống. Cụ thể khi xem xét
ý nghĩa nghĩa của một từ chết, chúng tôi sẽ đối chiếu từ đó với các từ còn lại
trong dãy đồng nghĩa, từ đó chỉ ra điểm đồng nhất và khác biệt giữa các từ
này.
Phương pháp phân tích ngôn ngữ: phương pháp này được sử dụng khi
phân tích ý nghĩa của từ ngữ đồng nghĩa chỉ cái chết trong tiếng Việt.
7. Đóng góp của khoá luận
Việc nghiên cứu đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sau:
Về mặt lý luận :
Giải quyết tốt vấn đề, đề tài góp phần bổ sung một phương diện lý
thuyết về từ đồng nghĩa tiếng Việt qua một nhóm từ cụ thể.
Về mặt thực tiễn:
Hiểu được chính xác ý nghĩa của những từ ngữ đồng nghĩa chỉ cái chết
trong tiếng Việt, từ đó có thể sử dụng từ ngữ đúng với nội dung, đối tượng và
hoàn cảnh giao tiếp cụ thể.
8. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, khóa luận này gồm
hai chương cơ bản sau:
Chương 1: Những vấn đề lý thuyết.
Chương 2: Nhận xét nhóm từ ngữ đồng nghĩa chỉ cái chết trong tiếng
Việt.


4


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT
1.1. Khái quát về hiện tượng đồng nghĩa
Như chúng ta đã biết, mỗi sự vật, hiện tượng, hành động, hay phẩm
chất…. trong ngôn ngữ đều có tên gọi của nó. Tên gọi này có thể là một từ,
cũng có khi là một tổ hợp từ cố định. Tuy nhiên cũng không ít trường hợp,
cùng một khái niệm, đối tượng, hành động, phẩm chất…trong ngôn ngữ còn
có những tên gọi khác nhau nhưng xét về mặt ý nghĩa thì lại tương ứng với
tên gọi đã có. Tên gọi mới chỉ một khái niệm vốn đã có tên gọi trong ngôn
ngữ thường được vay mượn từ những ngôn ngữ khác, hoặc có thể được lấy từ
một tiếng địa phương nào đó. Như vậy, hai hoặc hơn hai từ (tên gọi) xuất hiện
trong ngôn ngữ để biểu thị cùng một sự vật, hành động, tính chất hoặc cùng
một khái niệm có thể hoàn toàn trùng nhau về ý nghĩa, cũng có thể khác nhau
về sắc thái ý nghĩa, màu sắc, phạm vi và phong cách sử dụng. Các từ như thế
được gọi là từ đồng nghĩa.
Hiện tượng đồng nghĩa trong ngôn ngữ là hiện tượng mang tính phổ quát
và có tính chất rộng khắp, đó có thể là hiện tượng đồng nghĩa từ vựng hoặc
hiện tượng đồng nghĩa ngữ pháp. Hiện tượng này có nội dung rất rộng lớn và
nó xảy ra ở khắp các cấp độ của ngôn ngữ. Đó có thể là các kết cấu đồng
nghĩa (thí dụ: mẹ rất yêu con - con được mẹ rất yêu, Lan xinh hơn Hoa - Hoa
xấu hơn Lan….), có thể xảy ra ở các hình vị (thí dụ: bất - phi - vô), đặc biệt là
xảy ra nhiều nhất giữa các đơn vị từ vựng đồng nghĩa. Các đơn vị từ vựng bao
gồm các từ và các ngữ cố định có chức năng tương đương với từ. Do đó hiện
tượng đồng nghĩa có thể xảy ra giữa các từ, (thí dụ: hùm - hổ, chết - tửtịch…); hoặc giữa các ngữ cố định (thí dụ: nước đổ lá khoai - nước đổ đầu
vịt, đen như củ súng- đen như cột nhà cháy….).


5


Như vậy hiện tượng đồng nghĩa là một hiện tượng quen thuộc và phổ
biến trong ngôn ngữ. Nhờ có hiện tượng đồng nghĩa mà vốn ngôn ngữ của
con người trở nên phong phú, đa dạng hơn, đồng thời đem lại những cách
diễn đạt mới mẻ và tinh tế hơn rất nhiều. Trong phạm vi của khóa luận này
chúng tôi tập trung nghiên cứu vấn đề đồng nghĩa từ vựng (gồm từ đồng
nghĩa và ngữ đồng nghĩa). Để làm được điều ấy trước tiên chúng ta cần đi tìm
hiểu những khái niệm quan trọng và trung tâm có liên quan đến đề tài của
khóa luận.
1.2. Từ đồng nghĩa
1.2.1. Một số quan niệm về từ đồng nghĩa
Trong ngôn ngữ học, việc nghiên cứu các từ đồng nghĩa đã được bắt đầu
từ rất lâu đời, và các nhà khoa học đã đưa ra không ít những quan niệm khác
nhau.
1.2.1.1. Quan niệm về từ đồng nghĩa của các nhà ngôn ngữ học trên thế giới
Người Hy Lạp cổ đại là những người đầu tiên nghiên cứu từ đồng
nghĩa, và họ đã rút ra kết luận rằng sự phong phú của ngôn ngữ, sự hàm súc
của tư tưởng và sự đa dạng của các cách diễn đạt chính là nằm ở các từ đồng
nghĩa. Đó chính là cơ sở, là tiền đề để các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu
về từ đồng nghĩa, từ đó đưa ra những quan niệm khác nhau về hiện tượng này.
Một số quan niệm tiêu biểu được các nhà nghiên cứu đưa ra như sau:
P.A.Budagov đã đưa ra quan niệm của mình: "Từ đồng nghĩa là những
từ gần về nghĩa, nhưng khác nhau về âm thanh, biểu thị các sắc thái của một
khái niệm" [dẫn theo 7].
Trong bài viết Nhận xét về hiện tượng đồng nghĩa từ vựng (Tuyển tập
Những vấn đề trau dồi ngôn ngữ, số 2, Nxb Viện HLKH Liên Xô, 1959),
A.D.Grigôreva cho rằng "Các từ sẽ là đồng nhất nếu chúng thay thế được cho
nhau" [dẫn theo 16].


6


Trong bài viết Về các từ đồng nghĩa được in ở tạp chí Người con của Tổ
quốc, (1814) N. Ibragimốp đã đưa ra quan niệm về từ đồng nghĩa như sau:
"Các tên gọi của cùng một sự vật ở những quan hệ khác nhau của nó - chính
là các từ có ý nghĩa chung với nhau và riêng cho từng từ" [dẫn theo 16] .
Ibragimốp đã coi các từ đồng nghĩa là bằng chứng về sự phong phú của ngôn
ngữ, là phương tiện để tránh sự trùng lặp, sự diễn đạt được thi vận, để cải tiến
về lối văn và sự khu biệt về phong cách.
Như vậy, các nhà nghiên cứu đã đưa ra một quan niệm thống nhất về từ
đồng nghĩa:
Các từ đồng nghĩa được định nghĩa là các từ gần gũi nhưng không đồng
nhất về ý nghĩa. Các học giả cũng xác định rằng các từ đồng nghĩa là chỉ tố về
tính chất đã phát triển của một ngôn ngữ, là chỉ tố về sự phong phú, uyển
chuyển của nó và các từ đồng nghĩa là để phục vụ cho sự đa dạng hóa trong
cách biểu hiện tư tưởng. Đồng thời nó còn là sự khu biệt về mặt phong cách,
về mức độ đặc trưng, về khả năng kết hợp với phạm vi từ nào đó, và những từ
đồng nghĩa là những từ có ý nghĩa trừu tượng.
Các từ đồng nghĩa cũng được xem là những từ biểu thị cùng một hiện
tượng của hiện thực khách quan, nhưng khác nhau về sắc thái ý nghĩa, thuộc
tính phong cách…Theo đó có một số quan niệm tiêu biểu như sau:
Trong cuốn Từ điển giản yếu từ đồng nghĩa tiếng Nga của V.N.Kliueva,
năm 1961,in lại lần thứ hai có sửa đổi và bổ sung, các từ đồng nghĩa được
định nghĩa là "Các từ - khái niệm phản ánh bản chất của cùng một hiện tượng
của hiện thực khách quan, khu biệt bởi những sắc thái ý nghĩa bổ sung và
phục vụ không chỉ cho việc thay thế nhau mà còn để chính xác hóa tư tưởng,
thái độ của chúng ta đối với phát ngôn" [dẫn theo 16].
E. M. Gankina - Fêđôrúc trong bài Các từ đồng nghĩa trong tiếng Nga

(bài viết được in trong tạp chí Tiếng Nga trong trường phổ thông, số 3, năm

7


1959) đã định nghĩa từ đồng nghĩa là "Các từ có âm khác nhau, gọi tên cùng
một đối tượng, được thống nhất bằng khái niệm chung, nhưng có những sắc
thái ý nghĩa nhất định'' [dẫn theo 16].
Nói tóm lại, các quan điểm trên về từ đồng nghĩa đã cho chúng ta thấy
được sự đa dạng của các quan niệm, các định nghĩa về từ đồng nghĩa trong
các công trình, các tài liệu, bài viết… Trong đó, tập trung vào hai quan niệm
cơ bản. Quan niệm thứ nhất: các từ đồng nghĩa là những từ có âm khác nhau,
gần gũi nhưng không đồng nhất về ý nghĩa của chúng. Quan niệm thứ hai: các
từ đồng nghĩa là những từ biểu thị cùng một hiện tượng của hiện thực khách
quan nhưng khác nhau về sắc thái ý nghĩa, thuộc tính phong cách....Bên cạnh
đó, vấn đề đồng nghĩa thành ngữ cũng được đặt ra và đã có những công trình
nghiên cứu với những ý kiến, quan điểm nhất định.
1.2.1.2. Quan niệm về từ đồng nghĩa của các nhà Việt ngữ học.
Cho đến nay, không chỉ trong các sách ngôn ngữ học ở nước ngoài, mà
trong các tài liệu Việt ngữ học cũng đưa ra rất nhiều những quan niệm khác
nhau về từ đồng nghĩa.
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu: "Trong vốn từ hội của bất cứ một ngôn ngữ
nào cũng thường có những từ mặc dù hình thức ngữ âm hoàn toàn khác nhau
nhưng từ nghĩa lại giống nhau do đó trong nhiều hoàn cảnh ngôn ngữ cụ thể
có thể thay thế cho nhau được. Những từ này là những từ đồng nghĩa" [1,
tr.63].
Ở định nghĩa này tác giả đã nêu ra những đặc điểm của từ đồng nghĩa:
hình thức ngữ âm khác nhau, từ nghĩa giống nhau, có thể thay thế cho nhau
trong nhiều hoàn cảnh. Tuy nhiên tác giả lại chưa nói rõ sự giống nhau về ý
nghĩa của các từ đến mức nào thì mới được coi là đồng nghĩa. Trên cơ sở đó,

Đỗ Hữu Châu đã đưa ra quan niệm mới: "Hiện tượng đồng nghĩa là hiện
tượng có nhiều mức độ tùy theo số lượng các nét nghĩa chung trong các từ.

8


Mức độ đồng nghĩa thấp nhất khi các từ ngữ có chung một nét nghĩa chung
(nét nghĩa phạm trù). Số lượng các nét nghĩa đồng nhất tăng lên thì từ càng
đồng nghĩa với nhau. Mức độ đồng nghĩa cao nhất xảy ra khi các từ đã có tất
cả các nét nghĩa hoặc đại bộ phận các nét nghĩa trùng nhau, chỉ khác nhau ở
một hoặc một vài nét cụ thể nào đó) [3, tr.184].
Phó Giáo sư Nguyễn Văn Tu đã đưa ra một định nghĩa và quan niệm của
mình về từ đồng nghĩa:
"Những từ đồng nghĩa là những từ có nghĩa giống nhau. Đó là nhiều từ
khác nhau cùng chỉ một sự vật, một đặc tính, một hành động nào đó. Đó là
những tên khác nhau của một hiện tượng. Những từ đồng nghĩa có một chỗ
chung là việc định danh" [17, tr.95].
Về sau, trong cuốn Từ điển từ đồng nghĩa tiếng Việt, tác giả Nguyễn
Văn Tu đã nêu cụ thể và có mở rộng hơn quan niệm của mình về từ đồng
nghĩa:
"Thực ra những từ đồng nghĩa là những từ của một thứ tiếng có nghĩa
biểu đạt (chỉ sự vật, hiện tượng, tính chất…) giống nhau hoặc gần nhau, có
thể thay thế cho nhau trong một số ngữ cảnh nhất định nhưng có khác nhau về
sắc thái tình cảm, về giá trị gợi cảm, về phong cách, phạm vi sử dụng… Đó là
những từ khác nhau cùng chỉ một sự vật, một đặc tính, một hành động nào đó.
Đó là những tên khác nhau của một hiện tượng. Những từ này có điểm chung
về chức năng định danh. Nói rộng ra, những từ đồng nghĩa là những từ cùng
chỉ một khái niệm" [ 19, tr.13-14].
Nguyễn Thiện Giáp đã đưa ra quan niệm của mình về hiện tượng đồng
nghĩa dựa trên định nghĩa của P. A. Buđagốp như sau: ''Trong hệ thống ngôn

ngữ, nói đến hiện tượng đồng nghĩa là phải nói đến sự giống nhau của các
nghĩa sở biểu. Vì vậy, chúng tôi tán thành quan niệm cho "Từ đồng nghĩa là

9


những từ gần nhau về nghĩa, khác nhau về âm thanh, biểu thị các sắc thái của
một khái niệm'' [ 6, tr. 222].
Trên đây là một số quan niệm tiêu biểu của các tác giả khi nghiên cứu về
hiện tượng đồng nghĩa. Những ý kiến xác đáng này là cơ sở để chúng tôi có
thể lựa chọn được một định nghĩa đúng đắn nhất về từ đồng nghĩa.
1.2.2. Định nghĩa
Theo Giáo sư. TS Nguyễn Đức Tồn "Khi định nghĩa từ đồng nghĩa
không thể hoặc chỉ chú ý đến sự vật mà từ biểu thị, hoặc chỉ chú ý đến khái
niệm mà từ biểu hiện, mà cần phải lưu ý đến cả hai thành tố chính, trong đó
nội dung lôgích - sự vật tính của nghĩa từ. Ngoài ra, còn phải kể đến các thành
tố phụ khác như sắc thái biểu cảm - phong cách, phạm vi sử dụng của từ. Do
vậy, quan điểm dựa vào cả sự vật lẫn khái niệm mà từ biểu thị để định nghĩa
từ đồng nghĩa là đầy đủ và chính xác hơn cả" [16, tr.96].
Như vậy, một định nghĩa ưu việt về các từ đồng nghĩa cần phải đồng
thời chú ý đến quan hệ giống nhau của các sự vật, khái niệm mà chúng biểu
thị, phải chú ý đến các mức độ giống nhau về ý nghĩa của chúng, và trong
trường hợp lý tưởng có thể nêu được cả thủ pháp thực hành để nhận diện các
từ đồng nghĩa.
Trên cơ sở đó, trong cuốn Từ đồng nghĩa tiếng Việt, Nguyễn Đức Tồn
đã đưa ra định nghĩa về từ đồng nghĩa như sau :
Hai đơn vị từ vựng / từ được gọi là đồng nghĩa khi chúng có vỏ ngữ âm
khác nhau biểu thị các biểu vật hoặc / và biểu niệm giống nhau và :
a / Nếu chúng có thể xuất hiện được trong kết cấu "A là B" và đảo lại được "B
là A" mà không cần phải chỉnh lý bằng cách thêm bớt nét nghĩa gì vào một

trong hai đơn vị / từ thì đó là những đơn vị từ vựng / từ cùng nghĩa.

10


b / Nếu như để chúng có thể xuất hiện được trong kết cấu "A là B" và đảo lại
được ''B là A'' cần có sự chỉnh lý, thêm bớt nét nghĩa nào đó vào một trong
hai đơn vị / từ thì đó là những đơn vị từ vựng/ từ gần nghĩa" [16, tr.97-98 ].
Nói tóm lại, với định nghĩa này chúng ta có thể nhận thấy các từ đồng
nghĩa phải là những từ thuộc về cùng một từ loại (có như vậy chúng mới cùng
xuất hiện được trong kết cấu đồng nhất "A là B" và "B là A"; trong ý nghĩa
của chúng có chứa những yếu tố khác nhau của các ý nghĩa này bị trung hòa
hóa trong những ngữ cảnh nhất định). Các từ đồng nghĩa là những từ đối lập
nhau chỉ theo những đặc trưng ngữ nghĩa mà trong những ngữ cảnh nhất định
trở thành không cơ bản (điều đó quy định khả năng thay thế lẫn nhau của các
từ đồng nghĩa trong các ngữ cảnh này).
1.2.3. Phân loại từ đồng nghĩa
Thực tế cho thấy, không có sự đồng nhất thực sự giữa các từ đồng nghĩa,
giữa chúng có sự khác nhau về sắc thái phong cách - biểu cảm, phạm vi sử
dụng và sắc thái ý nghĩa. Không chỉ vậy, đó còn là sự khác nhau về sắc thái ý
nghĩa chung, cơ bản. Mỗi từ còn có lịch sử xuất hiện, hành chức trong phạm
vi giới hạn vốn từ tích cực hay tiêu cực, chứa đựng nhiều ý nghĩa và tham gia
vào những mối liên hệ liên tưởng khác nhau với những từ khác. Hơn nữa, các
từ đồng nghĩa còn khác biệt nhau cả về khả năng sản sinh từ, khả năng tạo
thành các hình thái đánh giá chủ quan, khả năng tham gia kết hợp với những
từ khác.
Dựa trên những sự khác biệt về ngữ nghĩa và màu sắc phong cách,
Nguyễn Đức Tồn [16] chia các từ đồng nghĩa thành ba biệt loại chung nhất:
Các từ đồng nghĩa ý niệm (từ đồng nghĩa ngữ nghĩa)
Các từ đồng nghĩa phong cách

Các từ đồng nghĩa ý niệm - phong cách

11


Sau đây, chúng tôi sẽ đi vào xem xét từng tiểu loại từ đồng nghĩa.
1.2.3.1. Các từ đồng nghĩa ý niệm
Các từ đồng nghĩa ý niệm là các từ đồng nghĩa trung tính về phong cách,
khác biệt nhau về các sắc thái của ý nghĩa cơ bản, chung cho mỗi từ.
Thí dụ:
Làm trai cho chí ở bền
Đừng lo vợ muộn, chớ phiền muộn con.
(Ca dao)
Đừng, chớ là những từ đồng nghĩa ý niệm, có ý nghĩa chung là dùng để
biểu thị ý khuyên ngăn không nên làm điều gì. Tuy nhiên, giữa hai từ này có
sắc thái ý nghĩa khác nhau ở chỗ: đừng dùng để biểu thị ý khuyên ngăn nói
chung. Thí dụ: U, đừng về vội (Ngô Tất Tố, Tắt đèn). Từ chớ biểu thị ý
khuyên ngăn không nên làm điều gì cốt để tránh sự không hay nào đó, nhưng
so với từ đừng thì từ chớ biểu thị thái độ dứt khoát hơn. Thí dụ: Chớ thấy
sóng cả mà ngã tay chèo (Tục ngữ).
Các từ đồng nghĩa ý niệm có vai trò hết sức quan trọng, bởi vì chúng là
phương tiện biểu hiện chính xác hóa tư tưởng trong từng trường hợp sử dụng
ngôn ngữ. Nhờ có những sắc thái nghĩa cơ bản riêng ở từng từ đồng nghĩa ý
niệm mà việc sử dụng chúng đúng chỗ sẽ giúp cho lời nói của chúng ta không
những trở nên tinh tế, chính xác mà còn rõ ràng, biểu cảm và ngắn gọn.
Các từ đồng nghĩa ý niệm có mặt ở tất cả các từ loại thực từ: danh từ,
động từ, tính từ. Trong đó chúng ta có thể nhận thấy các từ đồng nghĩa ý niệm
có nhiều nhất là ở hệ thống tính từ, động từ. Trong hệ thống danh từ, các từ
đồng nghĩa ý niệm chủ yếu là các từ trừu tượng, thí dụ: chân lí - sự thật, thời
cơ - cơ hội…

Ở các từ loại khác như đại từ, hư từ thì hiện tượng các từ đồng nghĩa ý
niệm xảy ra không nhiều. Nhìn chung các từ đồng nghĩa ý niệm không đặc

12


trưng cho các đại từ và hư từ, mà đặc trưng cho các hư từ là các từ đồng nghĩa
phong cách.
1.2.3.2. Các từ đồng nghĩa phong cách
Các từ đồng nghĩa phong cách là những từ đồng nhất về ý nghĩa của
chúng và khác nhau về mặt phong cách.
Chúng ta có thể xác định được một từ nào đó là từ đồng nghĩa phong
cách khi đối chiếu nó với từ trung tính về phong cách tương ứng. Vì vậy, có
thể nói trong mỗi cặp từ đồng nghĩa phong cách hoặc trong mỗi dãy đồng
nghĩa phong cách chắc chắn sẽ có từ trung tính về phong cách.
Thực tế cho thấy, những từ đồng nghĩa phong cách xuất hiện nhiều ở tất
cả các từ loại của ngôn ngữ: danh từ, tính từ, các đại từ. Khác với các từ đồng
nghĩa ý niệm, các từ đồng nghĩa phong cách xuất hiện với số lượng lớn thậm
chí nhiều nhất ở các danh từ có ý nghĩa cụ thể. Điều này hoàn toàn hợp lý với
quy luật lôgích, bởi vì cùng một đối tượng cụ thể thuộc những thời đại khác
nhau và ở những địa phương khác nhau nó có thể có những tên gọi khác nhau.
Các từ đồng nghĩa phong cách thường không thuần nhất và có thể tách
chúng thành hai nhóm lớn:
Nhóm 1: các từ đã lỗi thời (các từ cổ).
Các từ cổ là những từ đã lỗi thời, bị thay thế, đẩy lùi khỏi cách sử dụng
toàn dân bằng các từ khác. Hiện nay chúng chỉ được sử dụng nhằm mục đích
phong cách nhất định và về cơ bản được dùng trong các tác phẩm văn học
nghệ thuật, bằng cách đó chúng hoạt động với tư cách là các từ đồng nghĩa
phong cách với các từ tiếng Việt hiện đại.
Các từ ngữ cổ đồng nghĩa với các từ ngữ hiện đại của tiếng Việt hiện

nay có thể là các từ Hán - Việt cổ hoặc các từ ngữ liên quan đến những điển
tích, điển cố được vay mượn từ tiếng Hán. Thí dụ, các từ ngữ đồng nghĩa
được in nghiêng trong các dãy đồng nghĩa sau đây:

13


- Nước mắt: lệ - lụy - châu…
- Cõi đời: bụi hồng, bụi trần, hồng trần…
- Phụ nữ đẹp: giai nhân, mĩ nhân, mĩ nữ, hồng nhan…
Các từ ngữ cổ đồng nghĩa phong cách với các từ tiếng Việt hiện đại còn
có thể là các từ thuần Việt, những từ này chỉ còn tồn tại trong thơ văn cổ hoặc
trong ca dao, thành ngữ, tục ngữ hoặc trở thành yếu tố mất nghĩa trong từ
ghép hiện vẫn còn được sử dụng. Thí dụ :
- Bác mẹ: cha mẹ
Ai lên xứ Lạng cùng anh
Bõ công bác mẹ sinh thành ra anh.
(Ca dao)
- Mảng: mải
Tay cầm bầu rượu nắm nem
Mảng vui quên hết lời em dặn dò.
(Ca dao)
Nhóm 2: các từ đồng nghĩa phong cách của tiếng Việt hiện đại.
Chúng khác với những từ đồng nghĩa cổ ở chỗ chúng không phải là nằm
trong vốn từ tiêu cực mà thuộc về vốn từ tích cực, hiện vẫn còn được phổ biến
rộng rãi. Một nhóm khá nhiều các loại này là các từ địa phương nằm trong
vốn từ tích cực của những người nói phương ngữ nào đó, thậm chí còn được
sử dụng trong tác phẩm văn học để nhằm khắc họa sắc thái địa phương hoặc
tính cách nhân vật.
Thí dụ:

O du kích nhỏ giương cao súng
Thằng Mĩ lênh khênh bước cúi đầu.
(Tố Hữu, Tấm ảnh)

14


Từ O là phương ngữ đồng nghĩa với từ cô, mang sắc thái trung tính, đời
thường.
Trong số các từ đồng nghĩa với những từ mang sắc thái trung tính về
phong cách còn có các từ thuộc vốn từ vựng sách vở, những từ này thường
được sử dụng trong các tác phẩm văn chương, sách chuyên môn, hành chính công vụ… Về cơ bản đó là những từ được vay mượn từ tiếng Hán, ngôn ngữ
Ấn Âu, hoặc được tạo thành từ các hình vị được vay mượn từ tiếng Hán.
Chẳng hạn như: thân phụ - cha, thân mẫu - mẹ, thê tử - vợ con…
Các từ thuộc phong cách khẩu ngữ, bình dân, thông tục cũng có thể là từ
đồng nghĩa với các từ trung tính về phong cách. Thí dụ: cóc (thông tục) chẳng; tửu (khẩu ngữ) - rượu; …
1.2.3.3. Các từ đồng nghĩa ý niệm - phong cách
Các từ đồng nghĩa ý niệm - phong cách là những từ và các đơn vị tương
đương của chúng biểu thị cùng một khái niệm hoặc cùng một hiện tượng của
hiện thực khách quan và khác nhau không chỉ về màu sắc phong cách mà còn
khác nhau cả về sắc thái của ý nghĩa chung của mỗi từ.
Thí dụ: cặp đồng nghĩa hát và ca
Hát là từ được dùng phổ biến và là từ chính của cặp từ đồng nghĩa này:
hát chèo, hát tuồng, hát hay…
Ca thường dùng để nói về những điệu cổ truyền ở miền Trung và Nam
Bộ: ca cải lương, ca vọng cổ, ca Huế…
Như vậy, chúng ta có thể chia những từ đồng nghĩa trong ngôn ngữ nói
chung, trong tiếng Việt nói riêng thành ba loại chung nhất. Đó là từ đồng
nghĩa ý niệm, từ đồng nghĩa phong cách, và từ đồng nghĩa ý niệm - phong
cách. Trong ba loại từ đồng nghĩa trên thì từ đồng nghĩa phong cách là những

từ cùng nghĩa, còn hai nhóm từ đồng nghĩa còn lại chỉ là những từ gần nghĩa.

15


1.2.4. Phương pháp xác lập dãy đồng nghĩa
Để có thể xác lập được một dãy đồng nghĩa thì cần phải có một phương
pháp khoa học cụ thể. Vì vậy, vấn đề trước tiên cần phải giải quyết là lập cho
được bảng các câu hỏi điều tra (anket). Khi đó, những câu hỏi được nêu trong
bảng này sẽ có vai trò như những từ kích thích, còn câu trả lời - những từ
đồng nghĩa tương ứng sẽ đóng vai trò như những từ phản ứng trong thực
nghiệm liên tưởng của ngôn ngữ học tâm lý. Để đưa ra được những câu hỏi
trong bảng điều tra thì phải tìm ra được những cơ sở khoa học của chúng. Cơ
sở đó chính là những con đường đã đưa đến sự hình thành các loại từ đồng
nghĩa tương ứng.
Trước hết, một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc hình
thành các từ đồng nghĩa là cách nhìn khác nhau của chúng ta về cùng một sự
vật, hiện tượng… Bởi lẽ, từ không phải là đại diện của bản thân đối tượng mà
là sự biểu hiện quan điểm riêng của chúng ta về đối tượng. Vì vậy, mỗi cách
nhìn nhận khác nhau sẽ tạo ra những tên gọi đồng nghĩa như thế.
Thứ hai, một con đường quan trọng khác dẫn đến sự ra đời của khá
nhiều từ đồng nghĩa là hiện tượng kiêng kị (tabu). Để thay thế các từ bị cấm
kị, cần phải sử dụng những tên gọi khác - các uyển ngữ. Uyển ngữ chính là
tên gọi được phép dùng để thay thế cho các từ ngữ bị kiêng cấm. Thí dụ:
Cùng biểu thị khái niệm chết thì có nhiều tên gọi để thay thế như: từ trần, quy
tiên, về nơi suối vàng…
Thứ ba, hiện tượng rút gọn cũng là một trong những cách tạo ra từ mới
đồng nghĩa. Các tên gọi rút gọn là sự tập trung ngữ nghĩa của toàn bộ các yếu
tố trong tên gọi đầy đủ vào một yếu tố nào đó được giữ lại. Đặc biệt trong
tiếng Việt, các từ rút gọn tồn tại khá phổ biến và thường đối lập với tên gọi

đầy đủ về sắc thái biểu cảm, phong cách.

16


Thứ tư, một trong những nguồn bổ sung thêm cho ngôn ngữ các từ đồng
nghĩa là sự vay mượn từ vựng. Do vậy, các tên gọi thuần Việt và tên gọi vay
mượn đồng nghĩa với nhau đã song song tồn tại. Tuy nhiên, các từ thuần Việt
và từ vay mượn thường không đồng nghĩa tuyệt đối với nhau mà chỉ là gần
nghĩa. Giữa chúng có sự khác nhau về những nét nghĩa nhất định hoặc về sắc
thái biểu cảm, phong cách hay phạm vi sử dụng. Thí dụ: bệnh nhân (tiếng
Hán) - người bệnh (từ thuần Việt); kế mẫu (tiếng Hán) - mẹ ghẻ (tiếng Việt).
Thứ năm, một trong những con đường tạo ra từ đồng nghĩa là sự biến thể
của từ. Sự biến thể có thể là về ngữ âm, vị trí hay trật tự các thành tố trong từ,
hoặc cả những từ láy được tạo ra từ một từ gốc nào đó. Thí dụ: lầm - nhầm ,
đấu tranh - tranh đấu…
Tuy nhiên, theo Giáo sư Nguyễn Đức Tồn thì phương thức làm biến đổi
ngữ âm và trật tự thành tố của từ được xem như là một cách cấu tạo từ mới.
Vì vậy, "hợp lí hơn cả là nên coi các biến thể ngữ âm, biến thể trật tự thành tố
của từ đã có sự khác biệt nhau về các phương diện khác nhau của ý nghĩa là
những từ đồng nghĩa và chúng cần được thu thập vào dãy từ đồng nghĩa, dù
về mặt lịch sử chúng xuất phát từ cùng một gốc"[16, tr.222].
Thứ sáu, sự thâm nhập của những lớp từ hạn chế về lãnh thổ hoặc xã
hội vào ngôn ngữ toàn dân, là một con đường bổ sung khá nhiều từ đồng
nghĩa cho ngôn ngữ. Thí dụ: mẹ - má, u, bầm; bố - cha, ba,..(đồng nghĩa giữa
từ toàn dân và từ địa phương); lân - phốt pho; diêm sinh - lưu huỳnh (đồng
nghĩa giữa từ toàn dân và từ nghề nghiệp)...
Thứ bảy, một trong những nguồn để tạo ra từ đồng nghĩa trong ngôn ngữ
đó là cách tạo từ mới bằng phương thức ghép nghĩa. Đó là việc dùng các yếu
tố đồng nghĩa (bao gồm cùng nghĩa và gần nghĩa), hoặc trái nghĩa ghép lại với

nhau để tạo ra các từ ghép song tiết để biểu đạt những khái niệm chung hơn,
trừu tượng hơn, khái quát hơn. Thí dụ: xinh đẹp, nhỏ bé , gầy còm…

17


Thứ tám, sự chuyển nghĩa, sự phát triển ý nghĩa của từ cũng là một con
đường làm nảy sinh các từ đồng nghĩa. Xuất phát từ việc hai từ vốn không
đồng nghĩa với nhau, nhưng do phát triển thêm các nghĩa phái sinh, vì vậy
chúng trở nên có quan hệ đồng nghĩa với nhau. Thí dụ: do sự phát triển thêm
của các nghĩa phái sinh mà từ ăn đã trở nên đồng nghĩa với các từ khác như:
hợp, hưởng…
Thứ chín, một trong những con đường quan trọng để hình thành các từ
đồng nghĩa là do sự biến đổi của ngôn ngữ trong thời gian. Các từ mới xuất
hiện đã thay thế hoàn toàn hoặc cùng tồn tại với từ cũ, dẫn đến việc tạo nên sự
phong phú, da dạng cho các từ đồng nghĩa.
Tất cả các con đường trên là một trong những nguyên nhân để tạo nên
các từ đồng nghĩa. Từ những con đường này chúng ta đã có đủ những căn cứ
để giải quyết được vấn đề đã đặt ra: làm thế nào để có thể trả lời được những
câu hỏi đặt ra trong bản điều tra, nhằm xác lập dãy đồng nghĩa của một từ ?
Hay nói cách khác, phương pháp để xác lập một dãy đồng nghĩa là dựa vào
bảng điều tra anket.
1.2.5. Giá trị nghệ thuật của từ đồng nghĩa
Các từ đồng nghĩa được coi là chỉ tố về độ phong phú, độ phát triển và
tính uyển chuyển của ngôn ngữ. Do có sự khác biệt nhau về các sắc thái ý
nghĩa, nên các từ đồng nghĩa đã thực hiện một loạt các chức năng quan trọng
trong ngôn ngữ: góp phần làm tăng thêm tính chính xác và rõ ràng của phát
ngôn, làm đa dạng hóa về mặt ngữ âm cho lời nói, tạo ra sự đa dạng và phong
phú cho các phong cách nói và viết. Đặc biệt các từ đồng nghĩa có giá trị nghệ
thuật vô cùng to lớn trong việc biểu đạt sắc thái biểu cảm (nhất là trong văn

chương nghệ thuật); có khả năng khu biệt một cách tinh tế về thái độ, cảm
xúc, tránh sự trùng lặp trong khi diễn đạt, giúp cải tiến lối văn và khu biệt về
phong cách.

18


Mỗi sự vật có nhiều tên gọi khác nhau, mỗi tên gọi này phản ánh thái độ,
tình cảm, tâm trạng… khác nhau của chúng ta về sự vật ấy. Những từ đồng
nghĩa, có thể được dùng với mục đích tránh sự diễn đạt trùng lặp trong ngôn
ngữ nói riêng và trong các tác phẩm văn chương nói chung.
Thí dụ:
Một cái mũ len xanh nếu chị sinh con gái. Chiếc mũ sẽ đỏ tươi nếu chị
đẻ con trai . (Anh Đức, Con chị Lộc)
Hai từ sinh và đẻ là hai từ đồng nghĩa từ điển, được dùng với mục đích
thay thế, tránh sự lặp lại khi diễn đạt, đồng thời cho thấy sự phong phú, đa
dạng của ngôn ngữ.
Các từ đồng nghĩa với tư cách là phương tiện biểu hiện giàu hình ảnh có
giá trị vô cùng to lớn trong việc thể hiện sắc thái biểu cảm, đồng thời tạo ra
tính đa nghĩa cho văn bản nghệ thuật. Cùng là một từ nhưng giá trị của những
từ đồng nghĩa đem lại thì thể hiện rất nhiều ý nghĩa khác nhau.
Thí dụ: Cùng biểu thị khái niệm chết: chỉ người hay vật không còn sống thì
lại có những cách diễn đạt khác nhau:
Thà hy sinh tất cả chứ nhât định không chịu mất nước, nhất định không
chịu làm nô lệ ( Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn độc lập) .
Hay:
Bao giờ ông lão chầu trời
Thì em lại kiếm một người trai tơ.
(Ca dao)
Tuy nhiên, từ hy sinh được dùng để chỉ cái chết khi hiến thân để làm

nhiệm vụ vì nhân dân, Tổ quốc. Vì vậy nó mang sắc thái kính trọng, trang
nghiêm. Còn chầu trời lại biểu thị cái chết với ý nghĩa đả kích, châm biếm,
tạo ra tiếng cười mang sắc thái thông tục.

19


Cha, thầy là những từ đồng nghĩa với bố, nhưng lại mang sắc thái khác
nhau khi được diễn đạt ở những ngữ cảnh khác nhau.
Thí dụ:
Công cha như núi thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Ca dao)
Bu chết đã ngót ba năm. Thầy bảo thế.
(Nam Cao, Từ ngày mẹ chết)
Đây là hai từ đồng nghĩa dùng để biểu thị khái niệm: người đàn ông có
con, trong quan hệ với con. Nhưng ở câu ca dao trên, từ cha được sử dụng
mang tính chất trang nghiêm, biểu hiện sự thiêng liêng, cao cả và thể hiện sự
kính trọng, lòng biết ơn sâu sắc của mỗi người con đối với cha. Trong câu văn
của Nam Cao thì thầy lại đem đến cảm giác gần gũi, thân quen trong cuộc
sống hàng ngày, vì vậy nó mang tính chất giản dị, mộc mạc nhưng cũng đầy
tình yêu thương.
Văn chương diễn đạt tư tưởng, tình cảm bằng hình tượng thông qua
ngôn ngữ. Do đó hiện tượng đồng nghĩa trong từ ngữ văn chương còn được
xây dựng trên cơ sở là tính hình tượng, cùng một ý nhưng cần được diễn đạt
bằng những hình tượng sáng tạo, độc đáo khác nhau. Chẳng hạn, trong Truyện
Kiều, Nguyễn Du viết :
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Tưởng đồng nghĩa với nhớ. Cả hai từ đều chỉ tâm trạng nhớ nhung về

quá khứ, nhưng từ tưởng đem lại ý nghĩa hình tượng cao hơn, sâu sắc hơn. Nó
còn nói lên sự hiện diện của quá khứ trong hiện tại, thậm chí có khả năng xảy
ra ở tương lai, còn từ nhớ chỉ là một lát cắt thời gian trong quá khứ, chưa biểu
đạt được hết ý nghĩa như từ tưởng đem lại.

20


×