Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Người kể chuyện trong tiểu thuyết tạ duy anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (607.51 KB, 73 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
----------o0o----------

MAI HẠNH NGÂN

NGƯỜI KỂ CHUYỆN
TRONG TIỂU THUYẾT TẠ DUY ANH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lí luận văn học

Người hướng dẫn khoa học:
TS. PHÙNG GIA THẾ

HÀ NỘI – 2013

1


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo,
TS. Phùng Gia Thế - người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình, động viên
và giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận này.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới các thầy cô trong Ban Giám hiệu
trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, các thầy cô trong khoa Ngữ văn và đặc
biệt là các thầy cô trong tổ bộ môn Lí luận văn học đã tận tình giúp đỡ và tạo
mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành khóa luận.
Khóa luận được hoàn thành song không tránh khỏi những hạn chế,
thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp từ phía các thầy cô
và các bạn sinh viên để đề tài nghiên cứu của chúng tôi tiếp tục được hoàn


thiện.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 21 tháng 5 năm 2013
Người thực hiện

Mai Hạnh Ngân

2


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của thầy giáo,
TS. Phùng Gia Thế. Tôi xin cam đoan rằng:
- Khóa luận này là kết quả tìm tòi, nghiên cứu của riêng tôi.
- Những tư liệu được trích dẫn trong khóa luận là trung thực.
- Kết quả nghiên cứu này không hề trùng khít với bất kì công trình
nghiên cứu được công bố nào.
Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 21 tháng 5 năm 2013
Người thực hiện

Mai Hạnh Ngân

3


MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU ................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài………………………………………………………………... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề………………………………………………............. 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………………….… 4
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu……………………………………………….. 5
5. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………............. 5
6. Đóng góp của khóa luận………………………………………………….……. 5

7. Bố cục của khóa luận…………………………………………………….…….. 5
NỘI DUNG .......................................................................................................... 12

Chương1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG
NGHIÊN CỨU LÍ LUẬN VĂN HỌC ............................................................. 12

1.1. Khái niệm về người kể chuyện…………………………………………........ 7
1.2. Chức năng của người kể chuyện……………………………………….. .... 10
1.3. Các hình thức của người kể chuyện ....................................................... 12
1.3.1. Người kể chuyện ngôi thứ nhất .................................................... 17
1.3.2 Người kể chuyện ngôi thứ hai ....................................................... 19
1.3.3. Người kể chuyện ngôi thứ ba ....................................................... 20
1.4. Mối quan hệ giữa người kể chuyện và tác giả ........................................ 21
Chương 2. SỰ ĐỘC ĐÁO CỦA NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT
TẠ DUY ANH .................................................................................................... 24
2.1. Ngôi kể của người kể chuyện ................................................................ 24
2.1.1. Người kể chuyện ngôi thứ ba ....................................................... 24
2.1.2. Người kể chuyện ngôi thứ nhất .................................................... 26
2.1.3. Sự xen cài, luân chuyển giữa các ngôi kể ..................................... 29
2.2. Điểm nhìn của người kể chuyện ............................................................ 33

4



2.2.1. Điểm nhìn bên trong .................................................................... 34
2.2.2. Điểm nhìn bên ngoài .................................................................... 39
2.2.3. Điểm nhìn không gian, thời gian .................................................. 41
2.2.4. Điểm nhìn đánh giá tư tưởng, cảm xúc......................................... 43
2.3. Người kể chuyện không đáng tin ........................................................... 46
2.3.1. Người kể chuyện hàm hồ về tư liệu.............................................. 47
2.3.2. Người kể chuyện hàm hồ về nhận thức ........................................ 49
2.3.3. Yếu tố huyền ảo và tính bất khả tín của hiện thực ........................ 50
2.4. Ngôn ngữ người kể chuyện.................................................................... 52
2.4.1. Ngôn ngữ thông tục, suồng sã ...................................................... 53
2.4.2. Ngôn ngữ giễu nhại...................................................................... 55
2.5. Giọng điệu người kể chuyện .................................................................. 58
2.5.1. Giọng quan hoài, da diết .............................................................. 59
2.5.2. Giọng bỗ bã, dung tục .................................................................. 61
2.5.3. Giọng triết lí, tranh biện ............................................................... 63
2.5.4. Giọng trữ tình, ngọt ngào ............................................................. 65
KẾT LUẬN........................................................................................................... 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 65

5


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Người kể chuyện (narrator) là một thuật ngữ trung tâm của trần thuật
học. Trước đây khái niệm này hầu như bị bỏ qua, người ta chỉ nghiên cứu
nhân vật, ngôn ngữ, cốt truyện, các biện pháp tu từ .v.v, người kể chuyện
trong văn bản biến mất, gần như vô hình hoặc bị đồng nhất với tác giả. Những

năm gần đây, do quá trình tiếp thu các thành tựu lí luận trên thế giới, người ta
thấy cần có sự phân biệt giữa tác giả và người kể chuyện. Vì vậy, người kể
chuyện trở thành vấn đề rất được giới nghiên cứu quan tâm chú ý.
Tz. Todorov đã tuyên bố: “Không thể có trần thuật thiếu người kể
chuyện” [dẫn theo 28, tr.116 – 117]. Có thể hiểu tuyên bố này như là một sự
khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của người kể chuyện đối với một tác
phẩm tự sự.
Người kể chuyện là nhân vật do tác giả sáng tạo ra có nhiệm vụ tổ chức
kết cấu tác phẩm và môi giới, dẫn dắt người đọc tiếp cận văn bản. Chính bởi
vậy, việc xây dựng hình tượng người kể chuyện trong tác phẩm tự sự là biểu
hiện của sức sáng tạo ở mỗi tác giả. Lựa chọn hình thức người kể chuyện này
hay khác sẽ góp phần quan trọng làm nên thành công của tác phẩm và khẳng
định tài năng của nhà văn.
1.2. Văn học Việt Nam từ sau 1975 đã và đang có những nỗ lực cách
tân đáng ghi nhận. Sớm được biết đến như một nhà văn có khát vọng mãnh
liệt trong việc đổi mới, Tạ Duy Anh không ít lần “làm nóng” bầu không khí
phê bình văn học bằng những sáng tác gây nhiều tranh cãi. Qua những sáng
tác khen, chê không dứt ấy, Tạ Duy Anh khẳng định một bản lĩnh “bước qua
lời nguyền”, “viết như một sự vượt qua chính mình”. Thực tế cho thấy nhà
văn đã có những đóng góp mới mẻ cho nền văn học nước nhà trên nhiều
phương diện: nhân vật, cốt truyện, kết cấu… làm thay đổi sâu sắc diện mạo

6


nền văn học Việt Nam đương đại, đem đến cho người đọc những tác phẩm
mới mẻ, góp phần làm thay đổi thị hiếu thẩm mĩ của công chúng.
1.3. Dù có người đã cáo chung cho thể loại tiểu thuyết thì thể loại này
vẫn phát triển mạnh mẽ, có vị thế cột sống và đóng vai trò quyết định căn cốt
diện mạo một nền văn học, là thể loại của thời đại hôm nay. Đối với Tạ Duy

Anh, tiểu thuyết chính là nơi thể hiện rõ nhất tài năng cũng như sự dấn thân
“khước từ truyền thống” của ông để xác lập những hình thức nghệ thuật mới
cho văn học. Cho đến nay, Tạ Duy Anh đã trình làng sáu cuốn tiểu thuyết:
Khúc dạo đầu, Lão Khổ, Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối, Giã biệt bóng
tối, Sinh ra để chết. Trừ tiểu thuyết đầu không gây được tiếng vang, năm tiểu
thuyết còn lại đã dành được sự quan tâm đặc biệt của công chúng. Với việc
nghiên cứu đề tài Người kể chuyện trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh, chúng tôi
mong muốn tìm hiểu đặc điểm, vai trò cũng như sự độc đáo của người kể
chuyện – sản phẩm sáng tạo của nhà văn nhằm thể hiện quan niệm, tư tưởng
nghệ thuật về cuộc sống và con người. Từ đó, khóa luận góp phần giúp bạn
đọc thấy được sức sáng tạo mạnh mẽ của Tạ Duy Anh và những đóng góp của
ông đối với tiến trình văn xuôi Việt Nam sau 1975 cũng như đối với đời sống
văn xuôi đương đại.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Trong những năm gần đây, giới nghiên cứu đã chú ý quan tâm đến
vấn đề người kể chuyện trong tác phẩm tự sự. Có thể kể đến một số bài viết
tiêu biểu như: “Người kể chuyện – nhân vật mang tính chức năng trong tác
phẩm tự sự” của Nguyễn Thị Hải Phương [29, tr.196 - 207], “Bàn về một vài
thuật ngữ thông dụng trong kể chuyện” của Đặng Anh Đào [29, tr.169 – 178].
Ở đây, các tác giả đã đưa ra khái niệm và chức năng của người kể chuyện
đồng thời nêu lên mối liên hệ giữa người kể chuyện với các yếu tố khác trong
kết cấu tác phẩm.

7


Trên tạp chí Nghiên cứu văn học, số 8/2009, tác giả Cao Kim Lan có
bài “Người kể chuyện và mối quan hệ giữa người kể chuyện với tác giả”
trong đó trình bày các quan niệm về người kể chuyện theo lí thuyết tự sự học
cũng như mối quan hệ giữa người kể chuyện và tác giả.

Các bài viết trên chủ yếu đề cập đến vấn đề người kể chuyện trên
phương diện lí thuyết nhằm cung cấp cho bạn đọc những hiểu biết cơ bản về
người kể chuyện. Tuy nhiên, việc ứng dụng tìm hiểu người kể chuyện trong
tác phẩm cụ thể vẫn chưa được nhiều tác giả quan tâm triển khai.
2.2. Cuối những năm 80 của thế kỉ trước, trong trào lưu đổi mới của
toàn xã hội, văn học cũng nhanh nhạy xuất hiện những tên tuổi cùng những
tác phẩm đáng chú ý. Người ít tuổi nhất trong số các tên tuổi ấy chính là Tạ
Duy Anh. Đến nay, với hơn 20 năm cầm bút, ông đã cho ra đời một số lượng
tác phẩm đáng kể với sáu tiểu thuyết, hàng chục tập truyện ngắn, tản văn,
truyện thiếu nhi… Điều đáng nói là trong số đó, có rất nhiều tác phẩm của
ông ngay từ khi mới ra đời đã gây chú ý đặc biệt trong công chúng và giới
phê bình. Luôn có ý định cách tân văn học một cách mạnh mẽ, Tạ Duy Anh
nhận được nhiều sự ủng hộ song cũng không ít lời phản bác của độc giả. Các
nhà nghiên cứu đã dành nhiều trang viết về Tạ Duy Anh, song mới chỉ dừng
lại ở việc nghiên cứu ở quy mô nhỏ lẻ, các bài báo, phỏng vấn, điểm sách… Ở
cấp độ lớn nhất đó là những khoá luận, luận văn khoa học. Có thể kể ra một
số ý kiến đánh giá, những nghiên cứu ở nhiều công trình với các cấp độ khác
nhau như sau:
Báo Thể thao và Văn hóa số 47 năm 2004 đánh giá về nội dung giá trị
tác phẩm Tạ Duy Anh: “Mối quan tâm lớn nhất của Tạ Duy Anh là cái vong
bản, đánh mất mình của con người, dưới sự giằng xé xiêu dạt của lịch sử.
Trên con đường truy tìm lại mặt mình, cũng như khả dĩ gương mặt của quá
khứ, con người vấp phải và bị phong tỏa bởi thói gian trá, đớn hèn, vật dục,

8


tàn ác, kể cả trong mỗi cá nhân. Phúc âm duy nhất là tình yêu, tình cảm trong
sạch bản thể của hiện tại và cái nhìn trung thực, nhân đạo đối với những vết
thương, lỗi lầm trong quá khứ. Có thể gọi ông là nhà văn của đạo đức. Văn

chương ông có lúc hiện lên bằng gương mặt thế sự, đau đáu riết róng chuyện
thánh thiện, tàn ác, liêm sỉ và vô lương… nhưng không phải như những khái
niệm truyền bảo chết khô mà thông qua sự cảm nhận đau đớn về số phận”
[dẫn theo 1 – tr.134].
Báo Giáo dục và Thời đại số 80 năm 2004 viết: “Gần như thành thông
lệ ở ta, khi nhà văn nào có được một tác phẩm nổi tiếng thì thường họ quay về
nhấm nháp niềm vinh quang, sớm thỏa mãn và cứ như thế họ mất hút trong
mắt độc giả. Tạ Duy Anh từng có “Bước qua lời nguyền” gây chấn động văn
đàn và nhiều người đã nghĩ anh khó vượt qua nghiệt lệ ấy. Nhưng rồi anh cho
ra đời “Lão Khổ”, một cuốn sách mà người ta sẽ càng ngày càng phải tìm đọc
lại bởi nói như giáo sư Hoàng Ngọc Hiến: “Đây là một cuốn tiểu thuyết quan
trọng”. Tiếp đó, anh cho ra đời hàng chục tập truyện ngắn. Nhưng một thành
tựu không nhỏ như vậy vẫn còn là quá ít với anh. Trong khi văn đàn đang có
dấu hiệu rệu rã thì liên tiếp trong hai năm, Tạ Duy Anh cho ra hai cuốn tiểu
thuyết gây xôn xao dư luận trong và ngoài nước, trước hết bởi sự kì lạ về hình
thức và vấn đề nhức nhối mà nó quan tâm” [dẫn theo 1 – tr.168].
Đáng chú ý nhất trong các công trình nghiên cứu về Tạ Duy Anh là
cuốn: Thế giới nghệ thuật Tạ Duy Anh (NXB. Hội Nhà văn, 2007) dày 400
trang trình bày ba luận văn lấy đề tài từ sáng tác của Tạ Duy Anh đã được Hội
đồng Giám khảo của trường Đại học Sư phạm Hà Nội đánh giá cao.
Cụ thể gồm:
Thứ nhất, Tạ Duy Anh với việc làm mới nghệ thuật tiểu thuyết của
Nguyễn Thị Hồng Giang, nghiên cứu việc “làm mới” văn chương, “làm mới”
trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh.

9


Thứ hai, Thế giới nhân vật trong sáng tác Tạ Duy Anh của Vũ Lê Lan
Hương đi sâu khám phá hành trình văn học Tạ Duy Anh, một thế giới nhân

vật ngoại biên và những thủ pháp xây dựng nhân vật đáng chú ý trong sáng
tác Tạ Duy Anh.
Thứ ba, Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Tạ Duy
Anh của Võ Thị Thanh Hà nghiên cứu Tạ Duy Anh trong bối cảnh đổi mới
tiểu thuyết Việt Nam sau 1975, quan niệm nghệ thuật về con người và đặc sắc
thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của ông.
Qua các bài viết, công trình nghiên cứu nêu trên, các nhà phê bình cơ
bản đã thống nhất ghi nhận những nỗ lực của Tạ Duy Anh trong việc đổi mới
văn học, về những cách tân trong tư duy và lối viết, trong đó ít nhiều đề cập
đến vấn đề người kể chuyện trong tiểu thuyết của ông. Phân tích các công trình
nghiên cứu tiểu thuyết Tạ Duy Anh, chúng tôi nhận thấy chưa có một công
trình nào tìm hiểu về người kể chuyện trong tiểu thuyết của ông một cách toàn
diện và triệt để. Chính vì lẽ đó, trên cơ sở gợi ý của những người đi trước, tác
giả khóa luận mong muốn tập trung tìm hiểu người kể chuyện trong tiểu thuyết
Tạ Duy Anh để góp phần làm nổi bật những tìm tòi, đổi mới trong nghệ thuật
tiểu thuyết của nhà văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận hướng đến mục đích tìm ra điểm độc đáo của người kể
chuyện trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh trên cơ sở khai thác các hình thức kể
chuyện truyền thống và những sáng tạo mới nhằm khẳng định nỗ lực của tác
giả trong việc đổi mới nghệ thuật tự sự tiểu thuyết.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.2.1. Nêu ra khái niệm về người kể chuyện, chức năng, các hình thức
người kể chuyện và mối quan hệ giữa người kể chuyện với tác giả.

10


3.2.2. Nghiên cứu vấn đề người kể chuyện trong tiểu thuyết Tạ Duy

Anh qua một số tiểu thuyết tiêu biểu: Lão Khổ, Thiên thần sám hối, Giã biệt
bóng tối.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong khóa luận, chúng tôi sẽ tiến hành tìm hiểu về người kể chuyện trong
tiểu thuyết Tạ Duy Anh trên các bình diện cơ bản như: ngôi kể, điểm nhìn, người
kể chuyện không đáng tin, ngôn ngữ, giọng điệu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Với khuôn khổ một khóa luận tốt nghiệp và khả năng làm chủ tư liệu có
hạn, chúng tôi không có tham vọng đi tìm hiểu người kể chuyện trong tất cả các
tiểu thuyết của Tạ Duy Anh mà chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu vào ba tiểu
thuyết quan trọng:
1. Lão Khổ;

2. Thiên thần sám hối;

3. Giã biệt bóng tối.

5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện khóa luận, chúng tôi chủ yếu sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp hệ thống
6. Đóng góp của khóa luận
- Cung cấp những hiểu biết khái quát và có hệ thống về người kể chuyện.
- Đi sâu tìm hiểu người kể chuyện trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh, từ đó chỉ
ra sự sáng tạo độc đáo của nhà văn trong sáng tác văn chương.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của khóa
luận gồm hai chương. Cụ thể là:

Chương 1: Những vấn đề chung về người kể chuyện trong nghiên cứu lí luận
văn học
Chương 2: Sự độc đáo của người kể chuyện trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh

11


NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI KỂ CHUYỆN
TRONG NGHIÊN CỨU LÍ LUẬN VĂN HỌC
1.1. Khái niệm về người kể chuyện
Người kể chuyện là một trong những vấn đề trung tâm của thi pháp văn
xuôi hiện đại nhưng phải đến đầu thế kỉ XX, vấn đề này mới được giới nghiên
cứu quan tâm. Những người có công đầu tiên trong việc đề xuất nghiên cứu
về người kể chuyện đó là các nhà hình thức chủ nghĩa Nga (A.Veksler,
I.Gruzdev, V.Shklovski, B.Eikhembaum) và nhóm các nhà nghiên cứu Bắc
Âu viết bằng tiếng Đức (W.Dibelius, K.Friedemann, K.Forstreuter). Tuy
nhiên, phải qua công trình của những nhà nghiên cứu thế hệ sau, những người
đặt nền móng cho “trần thuật học” như P.Lubbock, N.Friedman, E.Leibfried,
F.Stanzel, W.Kayser, Iu.Lotman, B.Uspenski, R.Barthes, Tz.Todorov,
G.Genette, S.Chatman… “phương pháp hình thức” kết hợp với “mĩ học tiếp
nhận” mới đưa ra được quan điểm tương đối rõ ràng về người kể chuyện.
Chúng tôi xin dẫn ra một số khái niệm về người kể chuyện của một số tác giả
tiêu biểu:
Theo G.N. Pospelov thì người kể chuyện là “người môi giới giữa các
hiện tượng được miêu tả và người nghe (người đọc), là người chứng kiến và
cắt nghĩa các sự việc xảy ra” [dẫn theo 29, tr.196].
Trong quan niệm của W. Kayser, người kể chuyện là một khái niệm
mang tính chất cực kì hình thức: “Đó là một hình hài được sáng tạo ra, thuộc

về toàn bộ chỉnh thể tác phẩm văn học. Ở nghệ thuật kể, không bao giờ
người kể chuyện là vị tác giả đã hay chưa nổi danh, nhưng là cái vai mà tác
giả bịa ra và chấp nhận” [dẫn theo 29, tr.196].

12


Tz. Todorov tuyên bố: “Người kể chuyện là yếu tố tích cực trong việc
kiến tạo thế giới tưởng tượng… Không thể có trần thuật thiếu người kể
chuyện. Người kể chuyện không nói như các nhân vật tham thoại khác mà kể
chuyện. Như vậy, kết hợp đồng thời trong mình cả nhân vật và người kể, nhân
vật mà nhân danh nó cuốn sách được kể có một vị trí hoàn toàn đặc biệt…”
[dẫn theo 28, tr. 116 – 117]. Theo quan điểm của ông, người kể chuyện không
chỉ là người kể mà còn là người định giá: “Người kể chuyện là một nhân tố
chủ động trong việc kiến tạo thế giới hư cấu. Chính người kể chuyện là hiện
thân của những khuynh hướng mang tính xét đoán và đánh giá” [dẫn theo 29,
tr.196 – 197].
Từ việc kế thừa, tổng hợp những định nghĩa của những nhà lí luận văn
học đi trước, tác giả Nguyễn Thị Hải Phương trong bài “Người kể chuyện –
nhân vật mang tính chức năng trong tác phẩm tự sự” đã đưa ra khái niệm người
kể chuyện thông qua sự phân biệt nó với người kể chuyện thực tế trong đời
sống, với nhân vật và tác giả. Tác giả bài viết cho rằng người kể chuyện là một
công cụ do nhà văn hư cấu nên để kể chuyện. Người kể chuyện là sản phẩm
của quá trình hư cấu của nhà văn, nó khác với người kể chuyện thực tế trong
đời sống. Nếu như người kể chuyện thực tế trong đời sống là những con người
cụ thể, hữu hình, có hình hài, giọng nói, điệu bộ… thì đến người kể chuyện
trong tác phẩm tự sự, tất cả những yếu tố hữu hình, cụ thể này đều được chuyển
vào trong văn bản thông qua các thủ pháp nghệ thuật. Hai kiểu người kể
chuyện này sẽ lựa chọn cách kể chuyện khác nhau. Nếu người kể chuyện trong
thực tế thường kể chuyện theo trật tự tuyến tính và hoàn toàn có thể điều chỉnh

câu chuyện theo phản ứng của người nghe thì ngược lại, người kể chuyện trong
tác phẩm tự sự có thể sử dụng lối kể đảo tuyến, đan xen giữa hiện tại, quá khứ,
tương lai. Câu chuyện mà họ kể ra đã được cố định trong văn bản, không thể
thêm bớt hay sửa chữa gì [29, tr.196 – 208].

13


Bên cạnh đó, tác giả Nguyễn Thị Hải Phương còn khẳng định người kể
chuyện là một nhân vật đặc biệt trong tác phẩm tự sự. Người kể chuyện không
chỉ là một nhân vật tham gia trong tác phẩm như các nhân vật khác mà còn có
chức năng tổ chức các nhân vật khác, đánh giá về các nhân vật khác. Vị trí
của nhân vật người kể chuyện trong tác phẩm thay đổi rất linh hoạt, tùy thuộc
vào động cơ và thái độ của tác giả.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, người kể chuyện là “hình tượng ước lệ
về người trần thuật trong tác phẩm văn học, chỉ xuất hiện khi nào câu chuyện
được kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác phẩm. Đó có thể là hình tượng của
chính tác giả…, có thể là một nhân vật đặc biệt do tác giả sáng tạo ra…, có
thể là một người biết một câu chuyện nào đó. Một tác phẩm có thể có nhiều
người kể chuyện. Hình tượng người kể chuyện đem lại cho tác phẩm một cái
nhìn và một sự đánh giá bổ sung về mặt tâm lí, nghề nghiệp hay lập trường xã
hội cho cái nhìn tác giả, làm cho sự trình bày, tái tạo con người và đời sống
trong tác phẩm thêm phong phú, nhiều phối cảnh” [14, tr.221].
Qua việc khảo sát trên, chúng tôi nhận thấy mỗi định nghĩa khai thác
khái niệm “người kể chuyện” ở một phương diện khác nhau, nhưng tựu trung
lại, chúng ta có thể khái quát được những đặc điểm cơ bản sau về người kể
chuyện trong tác phẩm tự sự:
- Người kể chuyện là một dạng hình tượng do tác giả hư cấu, sáng tạo
nên, là người đại diện phát ngôn cho tác giả trong tác phẩm tự sự.
- Trong phạm vi tác phẩm, người kể chuyện là chủ thể của lời kể, là

người đứng ra kể chuyện và là nhân tố trung tâm chi phối việc tổ chức, kết
cấu cấu trúc của văn bản tự sự.
- Người kể chuyện giữ vai trò trung giới giữa tác giả, tác phẩm và
người đọc.

14


1.2. Chức năng của người kể chuyện
Người kể chuyện có vai trò đặc biệt quan trọng, thực hiện nhiều chức
năng trong tác phẩm tự sự:
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, người kể chuyện đảm nhiệm năm
chức năng: “1) chức năng kể chuyện, trần thuật; 2) chức năng truyền đạt,
đóng vai một yếu tố của tổ chức tự sự; 3) chức năng chỉ dẫn, thuộc phương
pháp trần thuật; 4) chức năng bình luận; 5) chức năng nhân vật hóa” [14, tr.223].
Người kể chuyện là sản phẩm của sự sáng tạo nghệ thuật, là công cụ do
nhà văn hư cấu nên để kể chuyện. Việc nhà văn lựa chọn hình thức người kể
chuyện nào có vai trò đặc biệt quan trọng trong tác phẩm, quyết định sự
thuyết phục và thành công của câu chuyện.
Trên cơ sở quan niệm người kể chuyện là nhân vật trung gian nối liền
giữa nhà văn, tác phẩm và bạn đọc, trong bài viết: “Người kể chuyện - nhân
vật mang tính chức năng trong tác phẩm tự sự”, tác giả Nguyễn Thị Hải
Phương đã nghiên cứu chức năng của người kể chuyện trong ba mối quan hệ
này để hình thành nên ba chức năng cơ bản:
Một là, người kể chuyện với chức năng tổ chức kết cấu tác phẩm.
Người kể chuyện phải thay mặt nhà văn cố gắng tìm cho mình một kết cấu tối
ưu để làm cho câu chuyện hấp dẫn, lôi cuốn được người đọc. Với các cách kể
khác nhau, cách xuất hiện khác nhau của người kể chuyện, ta sẽ có các dạng
cốt truyện khác nhau: cốt truyện tuyến tính, cốt truyện tâm lý, cốt truyện
“chuyện lồng chuyện”…

L. Timofeev cũng đã khẳng định: “Hình tượng này có tầm quan trọng
hết sức to lớn trong việc xây dựng tác phẩm bởi các quan niệm, các biến cố
xảy ra, cách đánh giá các nhân vật và các biến cố đều xuất phát từ cá nhân
người kể” [dẫn theo 29, tr.204].

15


Hai là, người kể chuyện có chức năng môi giới, dẫn dắt người đọc tiếp
cận thế giới nghệ thuật, giúp người đọc hiểu rõ hơn, sâu hơn về nhân vật,
hướng người đọc cùng suy ngẫm, chia sẻ và đồng cảm với những chiêm
nghiệm, những suy nghĩ của mình về cuộc đời.
Trong nhiều trường hợp, người kể chuyện còn tiến hành đối thoại, tranh
luận với người đọc để cùng nhau kiếm tìm, khám phá chân lí cuộc sống.
Ba là, người kể chuyện thay mặt nhà văn trình bày những quan điểm về
cuộc sống, nghệ thuật. Mỗi nhà văn khi sáng tạo ra một tác phẩm văn chương
đều mong muốn gửi gắm vào đó một quan điểm, một tư tưởng về cuộc sống,
về con người. Tuy nhiên, các nhà văn không trình bày tư tưởng của mình
bằng những lời phát biểu trực tiếp mà trình bày một cách nghệ thuật thông
qua các hình tượng do mình hư cấu nên trong đó có hình tượng người
kể chuyện.
Trong 150 thuật ngữ văn học, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân cũng đưa
ra quan niệm của mình về người kể chuyện trong trần thuật tự sự: “Trần thuật
tự sự được dẫn dắt bởi một ngôi được gọi là người trần thuật – một loại trung
giới giữa cái được miêu tả và thính giả (độc giả), loại người chứng kiến và
giải thích về những gì đã xảy ra” [7, tr.360]. Theo quan điểm này, nhà lí luận
một lần nữa khẳng định vai trò cầu nối và dẫn dắt câu chuyện của người kể
chuyện trong tác phẩm tự sự, đồng thời nhấn mạnh vai trò chứng kiến và giải
thích của hình tượng này. Đây là những dấu hiệu cơ bản nhất để nhận diện
người kể chuyện trong các sáng tác tự sự từ xưa đến nay.

Có thể khẳng định, người kể chuyện đóng vai trò đặc biệt quan trọng
trong tác phẩm tự sự. Nó có chức năng tổ chức các nhân vật khác, tổ chức kết
cấu tác phẩm, dẫn dắt, định hướng và khơi gợi khả năng đối thoại, tranh luận
của người đọc. Ngoài ra, người kể chuyện còn là một điểm tựa để tác giả bộc
lộ những quan điểm của mình về cuộc sống, nghệ thuật. Chính dựa trên chức

16


năng này của người kể chuyện mà Tz.Todorov đã tuyên bố: “Người kể
chuyện là yếu tố tích cực trong việc kiến tạo thế giới tưởng tượng… Không
thể có trần thuật thiếu người kể chuyện” [dẫn theo 29, tr.196 – 197].
Với vai trò đặc biệt của người kể chuyện, việc xây dựng hình tượng
người kể chuyện trong tác phẩm tự sự luôn được các nhà văn quan tâm, chú ý.
Lựa chọn hình thức người kể chuyện phù hợp sẽ góp phần quan trọng làm nên
thành công của tác phẩm và khẳng định tài năng của nhà văn.
1.3. Các hình thức người kể chuyện
Trong tác phẩm tự sự, việc xây dựng người kể chuyện cũng có nhiều
hình thức khác nhau, từ đó tạo nên các kiểu người kể chuyện tương ứng.
Thông thường, hình thức người kể chuyện gắn liền với ngôi kể. Người kể
chuyện có thể kể theo ngôi thứ nhất, ngôi thứ hai và ngôi thứ ba.
1.3.1. Người kể chuyện ngôi thứ nhất
Hình thức người kể chuyện ngôi thứ nhất xuất hiện muộn (ở châu Âu từ
đầu thế kỉ XX). Đây là hình thức người kể là một nhân vật trong truyện, xưng
“tôi” chứng kiến các sự kiện đứng ra kể lại. Trường hợp kể chuyện ngôi thứ
nhất xưng “chúng tôi” (số nhiều) có xuất hiện, nhưng rất ít. Ví dụ như các tác
phẩm: 26 người đàn ông và một cô gái của M. Gorki hay Hoa hồng cho Emily
của W. Faulkner.
Người kể chuyện ngôi thứ nhất là lời của nhân vật trong tác phẩm nên
nó lộ diện, có tên tuổi, tính cách, số phận cụ thể. Trong hình thức này, người

kể chuyện có điều kiện tham dự vào cuộc đàm thoại, được nhận xét trực tiếp
về các sự kiện và các nhân vật, được nói tiếng nói riêng của mình. Từ đó, bạn
đọc nhận ra tính cá biệt hóa của người kể chuyện với các nhân vật trong
truyện cả trên phương diện xã hội thẩm mĩ, góp phần tạo ra cái nhìn nghệ
thuật cho tác phẩm.

17


Nói về người kể chuyện ngôi thứ nhất, nhà bác học Nga M. Bakhtin đã
từng khẳng định: “Trần thuật từ ngôi thứ nhất là tương tự với sự trần thuật của
người kể chuyện. Đôi khi, hình thức này do dụng ý dựa trên lời kể của kẻ khác
quy định, đôi khi như lối kể của Tuôcghênhiep, nó có thể tiếp cận và cuối cùng
là hòa nhập với lời trực tiếp của tác giả, tức là hoạt động với lời một giọng của
ngôi thứ hai” [28, tr. 380].
Người kể chuyện ngôi thứ nhất cũng mang những ưu điểm và hạn chế
nhất định. Vì người kể ở đây là một nhân vật trong tác phẩm tham gia vào hầu
hết các tình tiết, sự kiện trong tác phẩm nên câu chuyện được kể trở nên đáng
tin cậy hơn so với việc câu chuyện được kể ở ngôi thứ ba. Không những thế,
vì là một nhân vật trong truyện đứng ra kể nên câu chuyện được kể mang tính
chủ quan hơn và thông tin được kể trở nên thấm thía hơn. Tuy nhiên, do nhân
vật tham gia vào chuyện nên nó không thể mang cái nhìn bao quát như người
kể chuyện đứng ngoài mà biết đến đâu, kể đến đấy. Do vậy, dung lượng hiện
thực được phản ánh thường hạn chế.
Dù vậy, số tác giả viết truyện sử dụng hình thức người kể chuyện này
vẫn giữ số lượng lớn. Có thể kể đến Nam Cao với: Những cánh hoa tàn, Dì
Hảo, Lão Hạc, Cái mặt không chơi được, Những chuyện không muốn viết,
Mua nhà…, Nguyễn Công Hoan với: Mánh khóe, Nhân tài, Tôi chủ báo, nó
chủ báo…, Nguyễn Minh Châu với: Mảnh trăng cuối rừng, Bức tranh, Cỏ
lau, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành…, Nguyễn Huy Thiệp với: Chảy

đi sông ơi, Những bài học nông thôn, Những người thợ xẻ, Tướng về hưu…
Trong đời sống hiện đại, do nhu cầu thể hiện và tự thể hiện cái tôi cá
nhân nên hình thức người kể chuyện ngôi thứ nhất chiếm một vị trí quan
trọng. Bằng việc sử dụng hình thức kể mới này, các nhà văn từ thế kỉ XX đến
nay đã cho ra đời nhiều sáng tác nghệ thuật có giá trị đóng góp vào tiến trình
phát triển của văn học nhân loại.

18


1.3.2 Người kể chuyện ngôi thứ hai
Người kể chuyện ngôi thứ hai là hình thức kể chuyện ít được sử dụng.
Trong tác phẩm, người kể chuyện ngôi thứ hai thường xưng “bạn”, “anh”,
“chị”, cũng mang cái tôi của người kể song nó tạo ra được một không gian
gián cách, một cái tôi khác, một cái tôi được kể ra chứ không phải một cái tôi
tự kể như ngôi thứ nhất. Bạn đọc sẽ bắt gặp hình thức người kể chuyện ngôi
thứ hai trong một số tác phẩm như: Linh Sơn của Cao Hành Kiện, Không khóc
ở California của Nguyễn Huy Thiệp, Niềm vui sướng của Mạc Ngôn, Thay
đổi của M. Butor hay một số đoạn trong Chuyện của thiên tài của Nguyễn
Thế Hoàng Linh…
Nói về vai trò của người kể chuyện ngôi thứ hai, M. Butor đã từng
khẳng định: “Nếu nhân vật hoàn toàn biết rõ chuyện của y, sẵn sàng đem kể
ra hoặc tự kể với mình thì sử dụng ngôi thứ nhất là thích hợp. Nhưng khi
người ta muốn miêu tả một sự tiến triển thật sự của ý thức, khi vấn đề là làm
sao cho nhân vật nói ra được thì sử dụng ngôi thứ hai lại có hiệu quả hơn”.
Trong một cuộc phỏng vấn về việc kể chuyện ở ngôi thứ hai trong tiểu
thuyết Thay đổi, M. Butor đã nói: “Nhất thiết là truyện phải được kể từ điểm
nhìn của một nhân vật. Nhưng vì đây là việc băn khoăn chọn lựa phải theo bề
nào, do đó không nên để nhân vật xưng “tôi”. Tôi cần đến một độc thoại nội
tâm dưới tầm ngôn từ của chính nhân vật, ở dạng trung gian giữa ngôi thứ

nhất và ngôi thứ ba. Cái ngôi thứ hai ấy giúp tôi miêu tả được tình huống của
nhân vật và cái cách ngôn từ nảy sinh ở anh ta”.
Nếu ở các nhà văn khác, việc sử dụng người kể chuyện ngôi thứ hai rải
rác trong tác phẩm thì trong Thay đổi của M. Butor trừ một vài đoạn hiếm hoi,
ông đã sử dụng phổ biến từ đầu đến cuối hình thức người kể chuyện này.
Như vậy, giống với người kể chuyện ngôi thứ nhất và người kể chuyện
ngôi thứ ba, hình thức người kể chuyện ngôi thứ hai cũng có khả năng đem

19


đến cho tác phẩm những ý nghĩa riêng. Người kể chuyện vẫn là hình tượng
nghệ thuật có thể thay mặt tác giả thể hiện quan niệm, tư tưởng nghệ thuật về
cuộc sống và con người.
1.3.3. Người kể chuyện ngôi thứ ba
Cùng với hình thức người kể chuyện ngôi thứ nhất, người kể chuyện
ngôi thứ ba là hình thức kể chuyện quen thuộc và phổ biến được các nhà văn
sử dụng khi viết các tác phẩm tự sự. Tuy nhiên, nếu hình thức người kể
chuyện ngôi thứ nhất mới chỉ xuất hiện khoảng hai thế kỉ trở lại đây thì hình
thức người kể chuyện ngôi thứ ba là hình thức trần thuật đã ngự trị trong văn
học từ thời cổ trung đại. Hình thức kể này cho phép người kể có thể kể tất cả
những gì họ biết. Đây là hình thức người kể chuyện giấu mặt, đứng ở một vị
trí nào đó trong không gian, thời gian bao quát hết mọi diễn biến của câu
chuyện đã xảy ra trọn vẹn và thuật lại với chúng ta. Dù người kể chuyện
không xuất hiện, ta không biết tên tuổi, hình hài, tư cách ra sao nhưng ngầm
hiểu trước sau vẫn một người ấy.
Tác giả Nguyễn Thái Hòa khi bàn về người kể chuyện ngôi thứ ba đã
khẳng định: “Ở lối kể này, người kể đứng ở vị trí khách quan “giả vờ” không
dính líu đến câu chuyện. Nói cách khác, là giữ một khoảng cách giữa người
kể và nhân vật, cốt truyện để rộng đường hư cấu và đảm bảo tính khách quan

của hiện thực, làm người thư kí của thời đại” [15, tr.54]. Trên văn đàn Việt
Nam đã xuất hiện rất nhiều tác phẩm có giá trị sâu sắc khi sử dụng hình thức
người kể chuyện ngôi thứ ba. Có thể kể đến: Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, Tắt
đèn của Ngô Tất Tố, Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Chí Phèo
của Nam Cao, …
Do người kể chuyện ở đây đứng ngoài câu chuyện nên hình thức kể
ngôi thứ ba, nhất là ngôi thứ ba toàn thông có ưu điểm vượt trội là khả năng
bao quát nghệ thuật rộng lớn, từ đó dung lượng hiện thực được phản ánh vào

20


tác phẩm là rất lớn, câu chuyện nhờ đó cũng mang tính khách quan hơn. Thái
độ khách quan cho phép người kể chuyện phát huy tối đa sự can thiệp của
mình đối với thế giới hình tượng, những chi tiết, tình huống, diễn biến, hành
động của nhân vật trong truyện kể được tái hiện lại thông qua vai trò định
hướng toàn năng của người kể chuyện.
Qua việc tìm hiểu các hình thức khác nhau của người kể chuyện, chúng
ta thấy mỗi hình thức kể đều có những ưu điểm riêng, không nên tuyệt đối
hóa hình thức nào mà nên biết tận dụng ưu thế của từng loại trong quá trình
sáng tác và tìm hiểu tác phẩm.
Như vậy, nếu phân chia các hình thức người kể chuyện gắn với ngôi kể
sẽ có ba hình thức như trên. Trong đó, hình thức người kể chuyện ngôi thứ
nhất và ngôi thứ ba là phổ biến hơn cả. Với các hình thức người kể chuyện
này, ở mỗi nhà văn khi sử dụng lại có sự sáng tạo và đổi mới, đặc biệt là các
nhà văn hiện đại, làm cho hình thức kể trong tác phẩm tự sự trở nên ngày một
phong phú và hấp dẫn.
1.4. Mối quan hệ giữa người kể chuyện và tác giả
Trên thực tế vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về mối quan hệ
giữa người kể chuyện và tác giả. Có nhà nghiên cứu tách biệt người kể

chuyện với tác giả, có nhà nghiên cứu lại đồng nhất hai khái niệm này. Tuy
nhiên, việc đồng nhất hay tách biệt hoàn toàn hai yếu tố này sẽ đều là không
thỏa đáng. Khảo sát thực tế ở các tác phẩm tự sự, chúng tôi nhận thấy giữa
người kể chuyện và tác giả có nhiều điểm thống nhất nhưng không hoàn toàn
đồng nhất.
Như đã nhắc tới ở trên, người kể chuyện là người do tác giả sáng tạo ra
để thực hiện hành vi kể, xây dựng kết cấu tác phẩm, bày tỏ quan điểm, tư tưởng
nghệ thuật của tác giả về cuộc sống cũng như con người. Do đó, người kể
chuyện ít nhiều sẽ mang dấu ấn tác giả. M. Bakhtin từng nói: “Ta đoán định âm

21


sắc tác giả qua đối tượng câu chuyện kể cũng như qua chính câu chuyện và
hình tượng người kể chuyện bộc lộ trong quá trình kể” [dẫn theo 29, tr.199].
Mọi nội dung tư tưởng, ý đồ sáng tạo đều do tác giả nghĩ ra nhưng anh ta
không trực tiếp đứng ra kể lại mà sáng tạo ra một người kể chuyện để thay
mình làm việc đó.
Tuy nhiên, không nên đồng nhất tác giả với người kể chuyện. Tác giả
không bao giờ hiện diện trong truyện kể như một người kể, người phát ngôn
mà chỉ xuất hiện như một tác giả hàm ẩn, một cái tôi thứ hai của nhà văn với
tư cách là người ghi chép hay nghe trộm người kể. Người kể chuyện là kẻ
được sáng tạo ra để mang lời kể. Và sản phẩm của hành vi trần thuật đó là văn
bản tự sự.
Thêm vào đó, thái độ của người kể chuyện đối với thế giới câu chuyện
được kể có thể phần nào trùng với quan điểm của tác giả, nhưng không bao
giờ trùng khít hoàn toàn. Thứ nhất là bởi quan điểm tác giả bao giờ cũng rộng
hơn, nó không thể được thể hiện một cách toàn diện qua bất kỳ một chủ thể
lời nói riêng biệt nào trong tác phẩm.
Ngay cả trong những tác phẩm có tính tự truyện thì giữa người kể

chuyện và tác giả vẫn có những nét khác nhau. Mặc dù trong tác phẩm tự
truyện, tác giả thường viết về mình, lấy cuộc đời mình làm đối tượng phản
ánh song rõ ràng, thế giới tồn tại của người kể chuyện và tác giả là khác nhau:
khác nhau về thời gian, không gian và cả tư tưởng, cảm xúc.
Thứ hai là bởi vì ngoài phần thái độ chủ quan được thừa hưởng của tác
giả, người kể chuyện mang trong mình cả một phần nội dung khách quan của
thế giới được phản ánh vào tác phẩm. Bất cứ người kể chuyện nào về nguyên
tắc là một “cái tôi – được sáng tạo nên”, là sự thống nhất thuộc về tác giả với
cái thế giới khách quan ngoài tác giả để tạo nên cái “chúng ta” chung.

22


Người kể chuyện chịu sự chi phối của tác giả, là sản phẩm do tác giả
sáng tạo ra nhưng vẫn có cuộc sống tương đối độc lập trong cấu trúc tác phẩm
và đôi khi vượt khỏi mong muốn và ý định của người cầm bút. Nói như
Bakhtin: “Người ta không thể bịa đặt ra hình tượng nghệ thuật dù nó như thế
nào bởi vì bản thân nó có logic nghệ thuật, có quy luật riêng của nó” [8, tr.56].
Như vậy, giữa người kể chuyện và tác giả có mối quan hệ gắn bó mật
thiết, quy định lẫn nhau nhưng vẫn có những nét đặc thù, riêng biệt. Hiểu
được mối quan hệ này sẽ giúp chúng ta thuận lợi hơn trong việc đi sâu tìm
hiểu tác phẩm, phát hiện được những giá trị nghệ thuật mà tác giả gửi gắm
qua lời người kể chuyện, từ đó khẳng định thành công của tác phẩm và tài
năng của tác giả.
Khái niệm người kể chuyện là cơ sở, yêu cầu để nghiên cứu các hiện
tượng văn học, cụ thể nhất là Tạ Duy Anh. Những vấn đề lí thuyết về người
kể chuyện trên đây là cơ sở quan trọng để tác giả khóa luận đi sâu triển khai
đề tài ở chương 2. Cho dù không phải tất cả các lí thuyết này đều được ứng
dụng vào việc tìm hiểu người kể chuyện trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh song
đó sẽ là phần cơ sở lí luận quan trọng giúp tác giả khóa luận có cái nhìn khái

quát và đúng đắn về người kể chuyện và chỉ ra điểm độc đáo của người kể
chuyện trong tiểu thuyết của ông một cách dễ dàng và thuận lợi hơn.

23


Chương 2
SỰ ĐỘC ĐÁO CỦA NGƯỜI KỂ CHUYỆN
TRONG TIỂU THUYẾT TẠ DUY ANH
2.1. Ngôi kể của người kể chuyện
Ngôi kể là vị trí giao tiếp mà người kể sử dụng khi kể chuyện. Người
kể chuyện có thể kể theo ngôi thứ nhất, thứ hai và thứ ba. Hình thức ngôi kể
mà tác giả lựa chọn cho người kể chuyện sẽ quyết định đến việc câu chuyện
được kể lại như thế nào.
Trong ba tiểu thuyết: Lão Khổ, Thiên thần sám hối và Giã biệt bóng tối
của Tạ Duy Anh, chúng tôi thấy xuất hiện hai hình thức người kể chuyện đó
là người kể chuyện ở ngôi thứ nhất và người kể chuyện ở ngôi thứ ba.
2.1.1. Người kể chuyện ngôi thứ ba
Trong Lão Khổ, có thể thấy hình thức kể chuyện ngôi thứ ba là hình
thức đóng vai trò chủ đạo, xuyên suốt tác phẩm. Chủ thể kể chuyện ở đây
đứng ngoài chuyện, bao quát hết mọi diễn biến của câu chuyện đã xảy ra
trọn vẹn và thuật lại với chúng ta.
Người kể chuyện ngôi thứ ba trong Lão Khổ đã dẫn dắt người đọc đến
làng Đồng và nghe câu chuyện về số phận chìm nổi của người nông dân tên là
Tạ Khổ trong những biến động dữ dội của lịch sử. Lão Khổ trong tác phẩm đã
đi gần hết kiếp người với biết bao thăng trầm, sóng gió, có lúc lên đến vinh
quang nhưng cũng không ít lần rơi xuống vực thẳm: “Đời ông Khổ là một
bằng chứng cho sự long đong của kiếp người” [2, tr.24], “Lão Khổ lừng danh
một thời, ba đào một thời, lụn bại một thời” [2, tr.16]. Từ một anh chàng chăn
vịt, lão phất lên sau một đêm dẫn đầu toán người vùng lên nắm chính quyền.

Rồi khi đang thăng hoa trong những năm được nắm giữ chính quyền thì cải
cách ruộng đất, lão bị đưa ra truy tố, thành một tên Quốc dân đảng. Sau tám

24


tháng cùm chuồng trâu, lão được khôi phục danh hiệu chiến sĩ cách mạng,
được đưa lên đến đỉnh cao khi trở thành chủ tịch xã. Trong thời gian đó, lão
ôm mộng xây dựng mô hình cuộc sống mới dẫn cộng đồng của lão tới thiên
đường để rồi cuối cùng bị quẳng xuống dưới đáy, cuối đời lại thành một kẻ
“mất hết khả năng làm công dân” và phải ra tòa.
Bên cạnh việc tái hiện lại cuộc đời đầy bi kịch của một người nông dân
phải trải qua hầu hết những biến động lớn của lịch sử Việt Nam thế kỉ XX, Tạ
Duy Anh còn đề cập đến vấn đề “nhận thức lại” thường xuất hiện trong văn
học sau 1975. Nếu như trong văn học cách mạng, các tác giả cho ta niềm tin
chắc chắn vào những điều tốt đẹp, vinh quang khi đi theo ánh sáng của Đảng
thì trong một số tác phẩm sau 1975, trong đó có Lão Khổ, người đọc nhận
thấy hiện thực đôi khi không hoàn toàn như thế. Dõi theo cuộc đời trầm luân
của lão Khổ, ta nhận ra bộ mặt của lịch sử và con người trong những năm Cải
cách ruộng đất. Đó là giai đoạn giao thoa giữa hai thể chế cũ và mới mà lão
Khổ là người bị kẹt giữa hai thời đại.
Với hình thức người kể chuyện đứng ngoài để bao quát toàn bộ câu
chuyện, Lão Khổ là cái nhìn cao hơn lịch sử để đánh giá, phán xét lịch sử, chỉ
ra tính chất “đong đưa” (chữ của Tạ Duy Anh) của nó. Trong vòng quay xô
dạt của lịch sử, con người chỉ như một con rối, một vật thử nghiệm. Khi ấy,
con người dường như không có khả năng tạo ra lịch sử. Từ đó, nhà văn rút ra
bài học: “Bản thân lịch sử là vô ý, vô cảm và chẳng có giá trị gì với chính nó.
Nó chỉ có giá trị với tương lai ở khía cạnh kinh nghiệm và những bài học.
Những bài học lịch sử, đặc biệt là những bài học rút ra từ thảm họa, cần phải
được nhắc đi nhắc lại (…) vì lịch sử luôn có nguy cơ lặp lại. Một xã hội nhân

văn, biết đề cao phẩm giá luôn phải tạo điều kiện để các công dân của mình
tiếp cận với mọi sự thật lịch sử (…) và không ngừng truy tìm tận gốc rễ căn
nguyên của từng sự kiện chắc chắc sẽ ảnh hưởng đến họ” [dẫn theo 1, tr.144].

25


×