Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Đặc trưng của thể loại tự sự với vấn đề đọc hiểu tác phẩm tự sự của nam cao ở trường trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (612.37 KB, 85 trang )

Trng HSP H Ni 2

Khúa lun tt nghip

Trường đại học sư phạm hà nội 2
khoa NG VN

HONG THU THY

C TRNG CA TH LOI T S
VI VN C HIU TC PHM T
S CA NAM CAO TRNG TRUNG
HC PH THễNG
Khóa luận tốt nghiệp đại học
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Ng vn
Ngi hng dn khoa hc:
Ths GVC: V NGC DOANH

Hà nội - 2011

Hong Thu Thy

1

K33D Ng vn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc của mình tới thầy
giáo Ths – GVC Vũ Ngọc Doanh – người đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ
bảo để tôi hoàn thành khóa luận này.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới tất cả các thầy cô giáo trong khoa Ngữ
văn, đặc biệt là các thầy cô giáo trong tổ Phương pháp dạy học Ngữ văn và các
bạn sinh viên trong nhóm khóa luận đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để
tôi hoàn thành khóa luận.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng tìm tòi nhất định, song chắc chắn khóa luận
không tránh khỏi những thiếu sót tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của
các thầy cô và tất cả các bạn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 01 tháng 05 năm 2011
Sinh viên

Hoàng Thu Thủy

Hoàng Thu Thủy

2

K33D – Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung tôi trình bày trong khóa luận là kết quả

quá trình nghiên cứu của bản thân tôi. Những nội dung này không trùng với nội
dung nghiên cứu của các tác giả khác.
Hà Nội, ngày 01 tháng 05 năm 2011
Sinh viên

Hoàng Thu Thủy

Hoàng Thu Thủy

3

K33D – Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

DANH MỤC VIẾT TẮT

Hoàng Thu Thủy

GS.TS

Giáo sư. Tiến sĩ.

PGS.TS

Phó giáo sư. Tiến sĩ.


HS

Học sinh.

GV

Giáo viên.

NXB GD

Nhà xuất bản Giáo dục.

SGK

Sách giáo khoa.

SGV

Sách giáo viên.

ĐHSP

Đại học sư phạm.

THPT

Trung học phổ thông.

4


K33D – Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Lí do chọn đề tài.......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................. 2
3. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................. 3
4. Mục đích, nghiệm vụ nghiên cứu................................................................ 3
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................. 4
6. Cấu trúc của khoá luận................................................................................ 4
NỘI DUNG.................................................................................................... 5
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG.................................................. 5
1.1. Cơ sở lí luận ............................................................................................. 5
1.1.1. Vấn đề tiếp nhận văn học ...................................................................... 5
1.1.1.1. Khái niệm ........................................................................................... 5
1.1.1.2. Cơ sở tiếp nhận văn học..................................................................... 6
1.1.2. Loại thể với vấn đề tiếp nhận tác phẩm văn học................................... 9
1.1.2.1. Khái niệm loại thể .............................................................................. 9
1.1.2.2. Phân loại............................................................................................. 10
1.1.2.3. Tiếp nhận văn học theo thể loại ......................................................... 11
1.1.2.4. Thể loại tự sự...................................................................................... 12
1.2. Cơ sở thực tiễn ......................................................................................... 19
CHƯƠNG 2: ĐẶC TRƯNG CỦA THỂ LOẠI TỰ SỰ
VỚI VẤN ĐỀ ĐỌC - HIỂU TÁC PHẨM TỰ SỰ CỦA
NAM CAO Ở TRƯỜNG THPT .................................................................. 21

2.1. Khái quát về đọc - hiểu tác phẩm tự sự.................................................... 21

Hoàng Thu Thủy

5

K33D – Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

2.1.1. Khái niệm đọc hiểu ............................................................................... 21
2.1.2. Hoạt động đọc hiểu – con đường đặc trưng để tiếp nhận
tác phẩm văn học............................................................................................ 22
2.1.3. Các bước đọc hiểu tác phẩm tự sự ........................................................ 23
2.1.3.1. Đọc thông - đọc thuộc........................................................................ 24
2.1.3.2. Đọc kĩ - đọc sâu.................................................................................. 25
2.1.3.3. Đọc hiểu - đọc sáng tạo...................................................................... 26
2.1.3.4. Đọc đánh giá - đọc ứng dụng ............................................................. 27
2.2. Đọc hiểu tác phẩm tự sự của Nam Cao ở trường THPT.......................... 29
2.2.1. Vị trí của Nam Cao trong đời sống văn học và trong nhà trường......... 29
2.2.2. Đặc trưng cơ bản của truyện ngắn Nam Cao ........................................ 30
2.2.2.1. Cốt truyện........................................................................................... 30
2.2.2.2. Nhân vật ............................................................................................. 38
2.2.2.3. Ngôn ngữ............................................................................................ 41
2.2.3. Đọc hiểu tác phẩm tự sự của Nam Cao ở trường THPT....................... 44
2.2.3.1. Hướng dẫn học sinh đọc thông - đọc thuộc ....................................... 44
2.2.3.2. Hướng dẫn học sinh đọc kĩ - đọc sâu................................................. 45

2.2.3.3. Hướng dẫn học sinh đọc hiểu - đọc sáng tạo. .................................... 46
2.2.3.4. Hướng dẫn học sinh đọc đánh giá - đọc ứng dụng. ........................... 47
CHƯƠNG 3. GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM................................................. 49
Giáo án 1: Truyện ngắn “CHÍ PHÈO”............................................................ 49
Giáo án 2: Truyện ngắn “ĐỜI THỪA”........................................................... 64
KẾT LUẬN. ................................................................................................... 77
Tài liệu tham khảo ........................................................................................ 78

Hoàng Thu Thủy

6

K33D – Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nam Cao không chỉ là đại biểu xuất sắc của dòng văn học hiện thực phê
phán 1930-1945 mà còn là một trong những tác giả văn học tiêu biểu của văn
học Việt Nam thế kỉ XX. Sáng tác của Nam Cao đã vượt qua những thử thách
khắc nghiệt của thời gian và càng thử thách lại càng sáng ngời, thời gian càng lùi
xa những tác phẩm của Nam Cao càng bộc lộ những tư tưởng nhân văn cao cả, ý
nghĩa hiện thực sâu sắc và vẻ đẹp nghệ thuật điêu luyện.
Trong nhà trường phổ thông, Nam Cao được đưa vào giảng dạy với tư
cách là một tác giả văn học. Tác phẩm của ông được giảng dạy chính thức ở cả
hai cấp học: cấp trung học cơ sở là tác phẩm Lão Hạc (lớp 8) và cấp trung học

phổ thông là tác phẩm Chí Phèo và Đời thừa (lớp 11). Ngoài ra còn có rất nhiều
đoạn trích trong các sáng tác được in trong SGK để đọc thêm, làm dẫn chứng
của nhiều bài học môn tiếng việt, lí thuyết làm văn và đề văn ở các lớp.
Nếu như trước đây việc giảng dạy môn văn nói chung và các tác phẩm của
Nam Cao trong nhà trường nói riêng thường lấy giáo viên là nhân tố trung tâm
cảm thụ và truyền thụ kiến thức cho học sinh theo hình thức: Thầy giảng - trò
nghe, thầy đọc – trò chép mà không hề quan tâm đến việc học sinh cảm thụ như
thế nào về tác phẩm. Do vậy mà vấn đề đổi mới phương pháp được đặt lên hàng
đầu nhằm phát huy tư duy sáng tạo và năng lực học sinh. Với tư cách là một
người giáo viên trong tương lai người viết xin chọn đề tài “Đặc trưng của thể
loại tự sự với vấn đề đọc hiểu tác phẩm tự sự của Nam Cao ở trường THPT”
để nghiên cứu với mong muốn góp một phần hiểu biết của mình vào con đường
đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Đồng thời qua đề tài này, người viết có
dịp nâng cao hiểu biết và bổ sung kiến thức cho mình sau khi ra trường.

Hoàng Thu Thủy

7

K33D – Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

2. Lịch sử vấn đề
Trong chương trình văn học Việt Nam ở bậc THPT, số lượng các tác
phẩm tự sự chiếm số lượng lớn cho nên việc nghiên cứu để tìm ra phương pháp
dạy học thích hợp là vấn đề được đặt ra từ lâu, thu hút được sự quan tâm của

nhiều nhà nghiên cứu văn học và các nhà giáo tâm huyết. Đã có nhiều công trình
nghiên cứu đạt được những thành tựu cao, có tác dụng làm nền tảng, mở ra nhiều
con đường tiếp nhận và giảng dạy khác nhau.
2.1 . Những công trình nghiên cứu về vấn đề loại thể
Trong cuốn “Nghệ thuật thi ca” của Arixtôt đã đưa ra ba phương thức
“mô phỏng” hiện thực của ba loại chính là tự sự, trữ tình, kịch.
“Lí luận văn học” của Gulaiep cũng đã đề cập tới ba loại thể văn học: loại
tự sự, loại trữ tình, loại kịch.
Giáo trình “Lí luận văn học” do giáo sư Phương Lựu chủ biên đã nghiên
cứu về vấn đề loại thể và coi đây là một phạm chù lí luận mang tính ổn định.
Trong cuốn “Mấy vấn đề về phương pháp dạy tác phẩm theo loại thể”
của giáo sư Nguyễn Duy Bình và “Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo
loại thể” của giáo sư Trần Thanh Đạm đã đề cập tới các loại thể và vận dụng
các đặc điểm loại thể vào dạy và học tác phẩm trong trường phổ thông.
Giáo trình “Phương pháp dạy học văn” của giáo sư Phan Trọng Luận
đã nghiên cứu những vấn đề chung nhất để đưa ra phương pháp dạy học cụ thể
đối với từng kiểu bài như: kiểu bài văn học sử, kiểu bài tác gia văn học…
2.2. Những công trình nghiên cứu về vấn đề đọc hiểu
Trong “Cảm thụ văn học, giảng dạy văn học” của giáo sư Phan Trọng
Luận đã cho thấy tầm quan trọng và sự cần thiết của việc đọc cũng như sự sáng
tạo của bạn đọc trong quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học.

Hoàng Thu Thủy

8

K33D – Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2


Khóa luận tốt nghiệp

“Hiểu dạy văn” của giáo sư Nguyễn Thanh Hùng đã nghiên cứu và chỉ
ra sự tìm hiểu và tiếp nhận tác phẩm thuộc loại tự sự được diễn ra trên hoạt động
đọc văn của người đọc.
Vấn đề đọc hiểu tác phẩm cũng được đề cập tới trong cuốn “Tiếp cận văn
học” của Nguyễn Trọng Hoàn.
Cuốn “Đọc văn học văn” của giáo sư Trần Đình Sử cũng đề cập tới vấn
đề đọc hiểu và cho rằng: đọc hiểu là việc khởi đầu không thể thiếu đối với người
học văn.
Như vậy có thể thấy rằng, vấn đề tiếp nhận và giảng dạy tác phẩm theo
đặc trưng loại thể cũng như việc giảng dạy tác phẩm văn học theo phương pháp
đọc hiểu là không hoàn toàn mới. Trên cơ sở kế thừa những thành quả nghiên
cứu đã đạt được, trong khóa luận này tôi xin chọn tiến hành giảng dạy các tác
phẩm văn học thuộc thể loại tự sự theo phương pháp đọc hiểu, đặc biệt là tác
phẩm tự sự của Nam Cao được dạy trong trường THPT.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Vấn đề thể loại, đặc điểm của thể loại tự sự
- Những vấn đề lí luận về đọc hiểu tác phẩm và đọc hiểu tác phẩm tự sự của
Nam Cao được dạy trong trường THPT.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Mục đích
Học tập và nắm vững lí luận và đặc trưng loại thể về phương pháp dạy học
tác phẩm theo đặc trưng loại thể, cụ thể hơn là loại tự sự.
4.2 Nhiệm vụ
Chỉ ra được những đặc trưng của thể loại tự sự và sự thể hiện của nó trong
các tác phẩm tự sự của Nam Cao.

Hoàng Thu Thủy


9

K33D – Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Hướng dẫn học sinh đọc hiểu một số tác phẩm của Nam Cao ở trường
THPT (Chí Phèo; Đời thừa).
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết để tìm ra cơ sở lí luận
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp so sánh đối chiếu
- Phương pháp thực nghiệm
6. Cấu trúc của khóa luận
Khóa luận gồm ba phần:
- Mở đầu
- Nội dung gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Đặc trưng của thể loại tự sự với vấn đề đọc hiểu tác
phẩm tự sự của Nam Cao ở trường THPT.
Chương 3: Giáo án thực nghiệm
- Kết luận
- Tài liệu tham khảo

Hoàng Thu Thủy


10

K33D – Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Vấn đề tiếp nhận văn học
1.1.1.1. Khái niệm
Để hiểu “tiếp nhận văn học” trước tiên chúng ta phải hiểu “tiếp nhận” là
gì? “Tiếp nhận” là "đón nhận cái từ người khác, nơi khác chuyển giao cho".
[14,1225]
“ Tiếp nhận văn học” là: "Hoạt động chiếm lĩnh các giá trị tư tưởng, thẩm
mĩ của tác phẩm văn học, bắt đầu từ sự cảm thụ văn bản ngôn từ, hình tượng
nghệ thuật, tư tưởng, cảm hứng, quan niệm nghệ thuật, tài nghệ tác giả cho đến
sản phẩm sau khi đọc, cách hiểu, ấn tượng trong trí nhớ, ảnh hưởng trong hoạt
động sáng tạo, bản dịch, chuyển thể".[7, 325]
Thực chất của việc tiếp nhận văn học là hoạt động nhận thức của con
người nhằm chuyển tải phần nội dung vốn tồn tại khách quan đối với người đọc
vào trong tâm hồn và tư tưởng của người đọc tạo cho tác phẩm có đời sống, số
phận riêng trong tác phẩm sẽ trở thành vốn sống của mỗi cá nhân và nó sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến việc hình thành, phát triển cũng như hoàn thiện nhân cách
của mỗi người. Vì vậy, tiếp nhận văn học chính là cuộc trao đổi ngầm giữa bạn
đọc và tác giả văn học.
Nếu trong đời sống việc tiếp nhận văn học thường do tính tự phát bởi nhu

cầu, thị hiếu của mỗi cá nhân cũng như mục đích tiếp nhận của mỗi cá nhân là
không giống nhau thì tiếp nhận văn học trong nhà trường phổ thông là hoạt động
mang tính tự giác và có mục đích rõ ràng. Đối với mỗi tác phẩm người nghệ sĩ
sáng tạo bằng một phương thức nhất định, phương thức ấy quy định cách thức

Hoàng Thu Thủy

11

K33D – Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

tiếp nhận tác phẩm. Việc giảng dạy các tác phẩm văn học thực chất là tổ chức
cho người học cách đọc các tác phẩm, do vậy mục đích cuối cùng của dạy học là
giúp học sinh hiểu và cảm nhận tác phẩm từ đó các em tự hoàn thiện nhân cách
của mình.
1.1.1.2. Cơ sở tiếp nhận văn học
Để tiếp nhận một tác phẩm văn học có rất nhiều cách khác nhau nhưng dù
có cách tiếp nhận nào đi chăng nữa thì đều nhằm đạt tới mục đích cảm và hiểu
tác phẩm. Muốn như vậy trước tiên cần phải hiểu tác phẩm được làm ra bằng con
đường nào từ đó tạo tiền đề cho việc tiếp nhận văn học một cách đúng hướng.
* Con đường nhà văn làm ra tác phẩm
Tác phẩm văn học là "con đẻ tinh thần" của người nghệ sĩ, là kết quả của
cả một quá trình "thai nghén lâu dài". Để tạo ra một tác phẩm thực sự có giá trị
ngoài tài năng quan sát, cảm thụ cuộc sống, sự hồi tưởng, óc tưởng tượng phong
phú thì người nghệ sĩ còn là "thư kí trung thành của thời đại". Bởi nói như Tố

Hữu "Văn học không chỉ là văn chương mà thực chất là cuộc đời, văn học sẽ
không là gì cả nếu không vì cuộc đời. Cuộc đời sẽ là nơi xuất phát và đi tới của
văn học" hay nói cách khác đi văn học chính là tấm gương phản ánh cuộc sống
và gắn liền với cuộc sống.
Thông thường muốn sáng tác nhà văn phải có cảm hứng. Cảm hứng là
trạng thái tâm lí đặc biệt khi có cảm xúc và sự lôi cuốn mãnh liệt, tạo điều kiện
cho óc tưởng tượng, sáng tạo của người nghệ sĩ thăng hoa. Khi cảm hứng xuất
hiện thì người nghệ sĩ có nhu cầu bộc bạch, giãi bày. Muốn vậy nhà văn phải lựa
chọn cho mình một phương thức nào đó thể hiện nhằm thỏa mãn nhu cầu giao
tiếp bằng văn bản giữa nhà văn với độc giả.

Hoàng Thu Thủy

12

K33D – Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ có thể khái quát bằng sơ đồ: Đời
sống - nhà văn - tác phẩm. Đứng trước hiện thực nhà văn phải "có con mắt tinh
đời" để cảm nhận được cái thần, cái hồn của đối tượng, hơn nữa nhà văn phải
biết xúc động, nhạy cảm trước mọi niềm vui và nỗi đau của con người đồng thời
phải làm cho những tình cảm ấy lây lan sang người đọc bằng phương tiện nghệ
thuật. Tuy nhiên, mỗi nhà văn có cách sáng tạo khác nhau không ai bắt chước
được song dù cách viết có khác nhau thì với họ sáng tạo nghệ thuật vẫn là một
quá trình lao động hết sức công phu, đầy khó khăn và phức tạp, đòi hỏi người

nghệ sĩ phải có tài năng và tâm huyết, có bản lĩnh nghề nghiệp và tinh thần trách
nhiệm cao trước cuộc đời. Khi ấy sản phẩm tinh thần ra đời sẽ có một sức sống
bất diệt trước mọi sự băng hoại của thời gian.
* Con đường chiếm lĩnh tác phẩm văn học
Con đường chiếm lĩnh tác phẩm văn chương được bắt đầu từ việc đọc,
phân tích, cắt nghĩa và bình giá.
 Đọc tác phẩm

Đây là hoạt động khởi đầu cần phải có của việc tiếp nhận văn học. Văn
bản là sản phẩm tinh thần do nhà văn sáng tạo ra, đó là một tập hợp các kí hiệu
ngôn ngữ. Vì vậy, để hiểu được văn bản đó nói gì, đề cập vấn đề gì, thì buộc
phải đọc tác phẩm. Người đọc chỉ có thể tiếp nhận tác phẩm khi hệ thống kí hiệu
ngôn ngữ được giải mã. Hoạt động đọc không những là hoạt động mở đầu cho
việc tiếp nhận mà đọc còn để hiểu tác phẩm, tìm ra ý nghĩa mới, con người mới
xuất hiện trong tác phẩm. Tuy nhiên hoạt động đọc đối với mỗi loại văn là khác
nhau: đọc tác phẩm tự sự khác đọc tác phẩm trữ tình và kịch.

Hoàng Thu Thủy

13

K33D – Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

 Phân tích tác phẩm


Hoạt động phân tích tác phẩm là bước tiếp theo của việc tiếp nhận văn
học. "Phân tích là hoạt động chia nhỏ đối tượng để có cái nhìn cụ thể những yếu
tô làm nên chỉnh thể sâu hơn. Đó là sự mổ xẻ chỉnh thể tác phẩm để ghi chép
hợp laị những yếu tố đã phân tích theo cách hoàn toàn khác thường sẽ phát hiện
ra những khía cạnh bất ngờ của chỉnh thể tác phẩm" [8, 56]. Tuy nhiên trong
một tác phẩm không phải lúc nào cũng chia nhỏ đối tượng mà cần phải xác định
được đâu là trọng tâm để đi sâu vào phân tích. Vì vậy mà hoạt động phân tích sẽ
đem lại sự phong phú và sâu sắc hơn cho tác phẩm văn học.
 Cắt nghĩa tác phẩm

Cắt nghĩa là hoạt động quan trọng trong cơ chế tiếp nhận văn học. Cắt
nghĩa đem lại nhận thức, có cơ sở cho những hiện tượng có giá trị.
Hoạt động cắt nghĩa tác phẩm đi từ việc lí giải những chi tiết, hình ảnh
trong tác phẩm để thấy được cái hay, cái đẹp tiến tới cắt nghĩa hình tượng trong
tác phẩm, cao hơn nữa là cắt nghĩa tác phẩm văn học. Trong cùng một tác phẩm
văn học mỗi cá nhân có cách cảm thụ, cắt nghĩa tác phẩm riêng tùy thuộc vào sự
hiểu biết, kinh nghiệm của mỗi người. Hoạt động cắt nghĩa sẽ tạo ra cái nhìn đa
chiều đối với mỗi tác phẩm, đồng thời cũng là cơ sở để đánh giá mức độ hiểu của
mỗi người vì có hiểu mới cắt nghĩa được.
 Bình giá tác phẩm

Đây là hoạt động cuối cùng của quá trình tiếp nhận, lĩnh hội tác phẩm văn
chương. Nó là hoạt động mang tính chủ quan, là việc mà người đọc thể hiện thái
độ đánh giá của mình. Hoạt động bình giá tác phẩm dựa trên cơ sở của việc đọc,
phân tích, cắt nghĩa vì đọc là yêu cầu bắt buộc để tiếp nhận tác phẩm, tạo định
hướng cho việc phân tích, còn việc cắt nghĩa là để xác định rõ nội dung của việc

Hoàng Thu Thủy

14


K33D – Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

phân tích. Như vậy hoạt động bình giá tác phẩm là sự mở mang đi sâu vào nội
dung của tác phẩm ngoài sự hiểu biết còn thể hiện cá tính của người tiếp nhận
văn học.
Trên đây là con đường chiếm lĩnh tác phẩm văn học song nó cũng gặp khó
khăn trong khi tiếp nhận đó là vấn đề khoảng cách như: khoảng cách về không
gian, khoảng cách về thời gian, khoảng cách về ngôn ngữ, khoảng cách về tâm lí.
Những khoảng cách này trong khi tiếp nhận khó có thể xóa được vì thế gọi là
"sự chuyên chế của khoảng cách" (Đặng Thanh Lê). Vậy làm thế nào để khắc
phục được khó khăn này trong khi tiếp nhận? Có rất nhiều cách, nhiều biện pháp
khác nhau để khắc phục, song có một con đường được coi là hữu ích nhất đó là
đọc và tiếp nhận tác phẩm trên cơ sở đặc trưng loại thể.
1.1.2. Loại thể với vấn đề tiếp nhận văn học
1.1.2.1. Khái niệm loại thể
“Loại thể” là "dạng thức của tác phẩm văn học, được hình thành và tồn
tại tương đối ổn định trong quá trình phát triển lịch sử của văn học, thể hiện ở
sự giống nhau về cách thức tổ chức tác phẩm, về đặc điểm của các loại hiện
tượng đời sống được miêu tả và về tính chất của mối quan hệ của nhà văn đối
với các hiện tượng đời sống ấy". [7, 299]
Thực chất khái niệm loại thể là một cách gọi, cách gọi này gộp của 2 khái
niệm khác nhau:
Loại (loại hình): Là phương thức mà người nghệ sĩ sử dụng để sáng tạo
nên hình tượng nghệ thuật của tác phẩm. Nói khác đi nó là phương thức mà

người nghệ sĩ chiếm lĩnh, tái hiện và biểu hiện tư tưởng, tình cảm của mình. Loại
là một phạm trù mang tính quy luật, xuất hiện ở tất cả các nền văn học.

Hoàng Thu Thủy

15

K33D – Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Thể (thể tài): Là hình thức tổ chức ngôn ngữ của tác phẩm. Thể vừa ổn
định, vừa biến đổi. Về số lượng thể nhiều hơn loại. Về nội dung, khái niệm thể
nằm trong loại. Một loại hình có thể bao gồm nhiều thể khác nhau như: Loại
hình tự sự có các thể: truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài…Loại hình kịch có
thể: bi kịch, hài kịch, chính kịch…
Như vậy loại thể chính là hệ thống chỉnh thể của tác phẩm nó chỉ quy luật
loại hình của tác phẩm trong đó một nội dung tương ứng với một hình thức nhất
định. Trong một loại thể bao giờ cũng có sự thống nhất về đề tài, chủ đề, cảm
hứng, hệ thống nhân vật, hệ thống kết cấu lời văn. Nói tới loại thể là nói tới một
cách tổ chức tác phẩm, một kiểu tái hiện đời sống và một kiểu giao tiếp nghệ
thuật.
1.1.2.2. Phân loại
Có rất nhiều cách phân chia loại thể văn học khác nhau. Song cách phân
chia mà được nhiều người công nhận hơn cả là phân chia tác phẩm thành ba loại
đó là: trữ tình, tự sự, kịch. Việc phân chia này đã được nêu trong lí luận nghệ
thuật của thời kì cổ đại và người đặt nền móng là Arixtôt qua tác phẩm "Nghệ

thuật thi ca". Sau này, đến Boalô và Bêlinxki cũng chia tác phẩm thành ba loại
cơ bản. Tương ứng với ba loại trên là ba phương thức tiếp cận đời sống của tác
phẩm văn học.
Theo đó tự sự: Là tác phẩm văn học dùng lời kể để tái hiện lại những sự
kiện, biến cố nhằm dựng lại một quá trình, một cuộc đời tồn tại một cách khách
quan. Đồng thời qua đó bày tỏ một cách hiểu một thái độ, một nhận định. Tương
ứng với nó là phương thức phản ánh hiện thực bằng cách kể chuyện.
Trữ tình: Là loại tác phẩm dùng lời lẽ để thổ lộ nỗi niềm tâm trạng trước
những cảnh tượng trông thấy mà thể hiện trực tiếp cảm xúc, thái độ chủ quan của

Hoàng Thu Thủy

16

K33D – Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

con người với thế giới. Tương ứng với nó là phương thức phản ánh hiện thực
bằng cách bộc lộ cảm xúc.
Kịch: là loại tác phẩm qua việc tái hiện những hành động xung đột có tính
căng thẳng, mâu thuẫn, đột ngột để làm hiện lên bản chất đời sống và bày tỏ thái
độ. Loại tác phẩm này phản ánh hiện thực cuộc sống bằng hành động xung đột.
Việc phân chia tác phẩm thành ba loại cũng được GS Trần Thanh Đạm
khẳng định là phù hợp với bản chất và chức năng của văn học phù hợp với quy
luật của văn học: phản ánh hiện thực.
Tuy nhiên trên thực tế chúng ta không nên đi xác định ranh giới rõ ràng,

dứt khoát giữa các loại thể bởi trong quá trình phát triển văn học các loại thể
luôn có sự tác động qua lại, bổ sung cho nhau. Chẳng hạn chúng ta có thể tìm
thấy yếu tố trữ tình trong tác phẩm tự sự như: Truyện Kiều của Nguyễn Du,
hoặc tìm thấy yếu tố tự sự trong tác phẩm trữ tình như: Mưa xuân của Nguyễn
Bính…
1.1.2.3. Tiếp nhận văn học theo loại thể
Hoạt động tiếp nhận văn học và hoạt động dạy học đã tạo ra một mối quan
hệ biện chứng. Nó là căn cứ, là cơ sở lí thuyết của việc dạy học. Vấn đề loại thể
có tác động trực tiếp đến dạy học tác phẩm trong nhà trường. Mỗi một loại văn
đều mang trong mình một nội dung và hình thức đặc thù nên sự cảm thụ đối với
mỗi loại văn học là không giống nhau.
Vì vậy mà lí thuyết về loại thể được dùng trong hoạt động dạy học như
một công cụ quan trọng trong tiếp nhận văn học để tiến tới cái đích cao nhất là
cảm và hiểu tác phẩm.
Hơn nữa bên cạnh việc tồn tại có tính quy luật ổn định thì loại thể văn học
còn có mối quan hệ với các phạm trù khác của văn học như: quan hệ với lịch sử

Hoàng Thu Thủy

17

K33D – Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

văn học, quan hệ với phong cách cá nhân của người nghệ sĩ, quan hệ với phương
pháp sáng tác.

Có thể nói rằng, vấn đề loại thể đang được quan tâm và được coi là cách
tiếp cận tác phẩm văn học có hiệu quả. Nó là chìa khóa để hiểu tác phẩm và cũng
là cách giảng dạy theo phương pháp mới. Chọn con đường tiếp nhận văn học
theo phương pháp đọc hiểu dựa trên đặc điểm loại thể mà cụ thể trong đề tài này
là loại tự sự được xem là con đường đặc trưng cho hoạt động tiếp nhận văn học.
Một vấn đề đặt ra cho người dạy và học là đọc tác phẩm dựa trên loại thể là đọc
như thế nào?
1.1.2.4. Thể loại tự sự
* Khái niệm
Khác với các chuyên ngành khác nhau về khoa học tự nhiên, văn học là
loại hình xã hội và nhân văn. Vì vậy mà tất cả các khái niệm đưa ra là không
tuyệt đối mà hết sức đa dạng. Khái niệm về thể loại tự sự cũng không nằm ngoài
phạm vi đó.
Xét dưới góc độ thuật ngữ: "Tự sự là phương thức tái hiện đời sống bên
cạnh hai phương diện khác là trữ tình và kịch". [7, 385]
GS Trần Thanh Đạm quan niệm: "Tự sự là loại tác phẩm văn học tái
hiện trực tiếp hiện thực khách quan như một cái gì tách biệt ở bên ngoài đối với
tác giả thành một câu chuyện có diễn biến của sự việc của hoàn cảnh, có sự phát
triển tâm trạng, tính cách, hành động của con người". [2, 10]
Còn xét từ góc độ lí luận văn học thì tự sự là "Tác phẩm phản ánh đời
sống trong tính khách quan của nó qua con người, hành vi, sự kiện được kể lại
bởi một người kể chuyện nào đó". [13, 52]

Hoàng Thu Thủy

18

K33D – Ngữ văn



Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Như vậy, tự sự trước hết là tiêu chí để phân loại tác phẩm văn học. Mặt
khác văn học là nghệ thuật ngôn từ người nghệ sĩ sử dụng ngôn ngữ như một
công cụ và phương tiện để tái hiện đời sống. Hay nói khác đi văn học phản ánh
kết quả nhận thức của người nghệ sĩ về cuộc đời. Hơn nữa phản ánh và biểu hiện
trong văn học có nhiều phương thức khác nhau mà tự sự là phương thức cơ bản:
nhà văn dùng phương thức kể để tái hiện kết quả nhận thức, đời sống khách quan
nhằm gửi vào đó tư tưởng, tình cảm của mình.
* Sự phân chia thể loại tự sự
Ta có thể chia thể loại tự sự dựa trên những căn cứ sau:
Căn cứ vào tiến trình lịch sử văn học có thể chia tự sự thành: Tự sự dân
gian, tự sự trung đại, tự sự hiện đại.
Căn cứ vào phương pháp sáng tác có thể chia tự sự thành: Tự sự chủ nghĩa
cổ điển, tự sự chủ nghĩa lãng mạn, tự sự chủ nghĩa hiện thực.
Căn cứ vào dung lượng có thể chia tự sự thành: Truyện vừa, truyện ngắn,
truyện dài.
Trên đây là những căn cứ cơ bản để chia thể loại tự sự. Hiện nay khi phân
chia thể loại tự sự chúng ta vẫn căn cứ vào những tiêu chí này.
* Đặc trưng cơ bản của thể loại tự sự
Có nhiều quan niệm và cách xác định đặc trưng tự sự nhưng có một quan
niệm được nhiều người đồng tình và chấp nhận đó là loại hình tự sự gồm có ba
đặc trưng cơ bản: cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ. Chúng ta sẽ lần lượt đi tìm
hiểu từng đặc trưng.

Hoàng Thu Thủy

19


K33D – Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

 Cốt truyện

Cốt truyện là đặc trưng cơ bản đầu tiên của loại tự sự. Dù biến hóa trăm
màu nghìn vẻ thì cốt truyên luôn tồn tại trong truyện dù đó là truyện dân gian, cổ
điển, cận đại hay hiện đại.
Hoàng Phê cho rằng: "Cốt truyện là hệ thống sự kiện làm nòng cốt cho sự
diễn biến các mối quan hệ và sự phát triển của tính cách nhân vật trong tác
phẩm văn học loại tự sự". [14, 276]
Dưới cấp độ lí luận văn học “cốt truyện chính là một hệ thống các xung
đột xã hội một cách nghệ thuật qua đó các tính cách hình thành và phát triển
trong mối quan hệ của chúng nhằm làm sáng tỏ chủ đề và tư tưởng của tác
phẩm”. [3, 99]
Như vậy, dù cách diễn đạt khác nhau nhưng các nhà nghiên cứu đều thống
nhất quan niệm “Cốt truyện chính là một hệ thống các sự kiện, các biến cố, các
chi tiết làm nòng cốt để thể hiện diễn biến của cuộc sống, những xung đột xã hội
trong đó có sự tham gia của con người với những tính cách hành động ngôn ngữ
nội tâm trong các mối quan hệ và tác động lẫn nhau” [7, 137]. Đơn vị để tạo
thành cốt truyện là các sự kiện tác động ảnh hưởng đáng kể tới tính cách số phận
nhân vật và được sắp xếp theo một trình tự nhất định nào đó.
Trong tác phẩm tự sự cốt truyện có đặc điểm:
Tính hệ thống: cốt truyện trong tác phẩm tự sự tồn tại như một hệ thống
các biến cố sự kiện được tổ chức sắp xếp theo một trình tự nhất định. Trong đó

các biến cố sự kiện có mối quan hệ chặt chẽ tác động lẫn nhau quyết định đến số
phận nhân vật. Bởi vậy cốt truyện mang tính hoàn chỉnh để tạo thành một “câu
chuyện”, sự hoàn chỉnh đó là do sự liên kết của các chi tiết sự kiên, sự kiện trước
là nguyên nhân của sự kiện sau, sự kiện sau là kết quả của sự kiện trước. Sự liên

Hoàng Thu Thủy

20

K33D – Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

kết của các sự kiện đó tạo thành một quá trình có hình thành và có kết thúc.
Thông thường thì cốt truyện hoàn chỉnh được tổ chức qua năm giai đoạn: trình
bày, thắt nút, phát triển, cao trào và kết thúc. Tuy nhiên tính hoàn chỉnh ở đây
không phải là quan niệm bó buộc mội tác phẩm phải có đủ năm thành phần nêu
trên mà nó luôn có sự vận động linh hoạt. Vì vậy, tính hoàn chỉnh của cốt truyện
được hiểu thông qua đó mà người đọc người học có khả năng hiểu được toàn bộ
“câu chuyện” về đối tượng được đề cập tới trong tác phẩm.
Tính lịch sử cụ thể: được biểu hiện thông qua tính chân thực của các sự
kiện lịch sử xã hội làm điểm tựa cho sự phát triển cốt truyện và đặc điểm tính
cách bởi tính cách nào cũng chịu sự chi phối của một hoàn cảnh lịch sử cụ thể
nhất định. Và tùy vào từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà cốt truyện có các đặc
điểm khác nhau.
Tính kịch: cốt truyện ngoài khả năng bộc lộ có hiệu quả đặc điểm mỗi tính
cách thì sức mạnh và sự hấp dẫn của nó còn thể hiện ở khả năng tái hiện một

cách chân thực những mâu thuẫn xung đột qua đó các tính cách mới được biểu
hiện một cách đầy đủ nhất cũng như thể hiện tập trung tư tưởng tác phẩm. Cơ sở
chung của mọi cốt truyện xét đến cùng là những xung đột xã hội được khúc xạ
qua các xung đột nhân cách.
Có thể thấy rằng, cốt truyện có vai trò quan trọng trong tác phẩm tự sự.
Nhà văn khi làm ra tác phẩm thì việc đầu tiên là xác lập được cốt truyện và khi
chúng ta đi tìm hiểu tác phẩm việc đầu tiên cũng phải đi tìm hiểu cốt truyện để
có cái nhìn bao quát tác phẩm và có thể giúp bạn đọc hình dung về sự vận động
của hình tượng, hoặc ý đồ của tác giả. Do vậy khi dạy tác phẩm tự sự sau khi đọc
xong cần yêu cầu học sinh tóm tắt lại tác phẩm.

Hoàng Thu Thủy

21

K33D – Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

 Nhân vật

Đây là đặc trưng cơ bản thứ hai và quan trọng nhất trong tác phẩm tự sự.
Nhân vật được quan niệm: “là con người cụ thể miêu tả trong tác phẩm
văn học”. [7, 235]
Tiếp nối quan niệm đó GS Trần Thanh Đạm đã cụ thể hơn bằng quan
niệm: Nhân vật văn học “hình tượng những con người đang sống suy nghĩ, cảm
xúc, hành động trong những môi trường hoàn cảnh, tình huống, những con

người có vận mệnh, có khi có bản sắc có tính cách”. [2, 164]
Tuy nhiên, cần chú ý thêm một điều là nhân vật không chỉ được quan
niệm là con người mà thường được quan niệm với một phạm vi rộng hơn nhiều.
Nhân vật có thể là con người nhưng cũng có thể là loài vật, đồ vật…
Vì vậy, để hiểu đầy đủ và bao quát nhất về nhân vật văn học thì quan niệm
của các tác giả giáo trình lí luận văn học được xem là cơ bản nhất “nhân vật văn
học không chỉ là con người, những con người có tên hoặc không có tên được
khắc họa sâu đậm hoặc chỉ xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm mà còn có thể
là những sự vật, loài vật khác ít nhiều mang bóng dáng tính cách của con người
được dùng như những phương thức để biểu hiện con người có khi đó không phải
là những con người sự vật cụ thể mà chỉ là hình tượng về con người hoặc có liên
quan đến con người được thể hiện nổi bật trong tác phẩm”. [13, 126]
Nhân vật trong tác phẩm tự sự thể hiện một cách đầy đủ nhất những đặc
điểm của nhân vật văn học. Nó là đặc điểm cốt lõi nổi bật của tác phẩm tự sự nó
là phương diện mà nhà văn sử dụng, phản ánh cuộc sống khách quan. Mỗi nhân
vật trong tác phẩm tự sự bao giờ cũng được đặt vào rất nhiều mối quan hệ như
quan hệ với môi trường, hoàn cảnh sống, với cộng đồng, gia đình… Qua những

Hoàng Thu Thủy

22

K33D – Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

mối quan hệ ấy nhân vật được bộc lộ tính cách của mình qua ngoại hình, hành

động, ngôn ngữ.
So với nhân vật của các loại hình tác phẩm khác như trữ tình và kịch thì
nhân vật trong tác phẩm tự sự có nhiều ưu thế hơn trong sự thể hiện bởi số lượng
nhân vật không bị hạn chế. Đó là những con người hàng ngày bình thường với
tất cả những vẻ tự nhiên của nó gắn bó toàn diện hơn với thời đại của mình với
những số phận riêng biệt độc đáo nhiều sắc thái thẩm mĩ hơn. Bởi vậy, nhân vật
tự sự được coi là trung tâm thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
Chính bởi vai trò quan trọng của nhân vật trong tác phẩm tự sự nên trong
quá trình giảng dạy tác phẩm tự sự chúng ta cần quan tâm đến việc tìm hiểu
phân tích nhân vật. Bởi thực chất của việc tìm hiểu tác phẩm tự sự là tìm hiểu
nhân vật của tác phẩm.
 Ngôn ngữ

Đây là đặc trưng thứ ba của thể loại tự sự. Nếu hội họa dùng chất liệu
là đường nét và màu sắc, âm nhạc dùng giai điệu và tiết tấu thì văn học dùng
ngôn ngữ làm chất liệu để sáng tác. Bởi vậy, với mỗi tác phẩm văn học ngôn ngữ
là một đặc trưng cơ bản để hình thành nên tác phẩm. “Ngôn ngữ là yếu tố thứ
nhất của văn học” (Gorki).
Ngôn ngữ được hiểu là: “một hệ thống các phương tiện ngữ âm, từ vựng
và ngữ pháp giúp cho việc khách thể hóa hoạt động của tư duy và làm công cụ
giao tiếp trao đổi các suy nghĩ, hiểu biết lẫn nhau giữa người với người trong xã
hội”. [tr.115]. Đó là quan niệm chung về ngôn ngữ. Còn ngôn ngữ trong tác
phẩm văn học tồn tại như một nghệ thuật với những đặc điểm riêng biệt của nó
lại được quan niệm là ngôn ngữ đã được chuẩn hóa dùng trong văn học nghệ
thuật, nó vừa là công cụ vừa là phương tiện để nhà văn thể hiện tác phẩm.

Hoàng Thu Thủy

23


K33D – Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Ngôn ngữ trong tác phẩm tự sự tồn tại dưới hai dạng thức cơ bản là ngôn
ngữ nhân vật và ngôn ngữ người kể chuyện
Dạng thứ nhất: ngôn ngữ nhân vật “là lời nói của nhân vật trong tác phẩm
thuộc loại hình tự sự”. [7, 214]. Nó là một trong những phương tiện quan trọng
được người nghệ sĩ sử dụng để biểu hiện cuộc sống và cá tính nhân vật. Ngôn
ngữ nhân vật được chia thành hai loại cơ bản là ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ
độc thoại. Thông qua ngôn ngữ mà nhân vật thể hiện nhưng đặc tính tự nhiên của
nó với những nét tiêu biểu về ngoại hình, tính cách hành động thậm chí đại diện
cho một lớp người trong xã hội.
Dạng thứ hai: ngôn ngữ người kể chuyện. Ngôn ngữ người kể trong tác
phẩm tự sự có vai trò đặc biệt quan trọng “quyết định tới toàn bộ cấu trúc ngôn
ngữ của tác phẩm”. Ngôn ngữ người kể chuyện có thể là ngôn ngữ của nhân vật
kể chuyện hoặc ngôn ngữ của tác giả kể chuyện.
Tác giả kể chuyện là hình thức người kể chuyện đứng ở ngoài quan sát rồi
kể lại nên nó thường mang tính khách quan. Đồng thời qua đó tác giả có thể bày
tỏ thái độ, cảm xúc của mình một cách khách quan hơn.
Nhân vật kể chuyện là hình thức nhân vật tham gia trực tiếp vào các sự
kiện trong tác phẩm và kể lại câu chuyện nên nó thường mang tính chủ quan
song câu chuyện mà nhân vật kể lại đó lại tạo được niềm tin ở người đọc hơn.
Như vậy, trong tác phẩm tự sự có ba đặc trưng cơ bản là cốt truyện, nhân
vật và ngôn ngữ. Các đặc trưng này dù mang tính độc lập tương đối nhưng lại
gắn bó mật thiết với nhau trong một chỉnh thể thống nhất tạo nên hình thức của
tác phẩm. Giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau chuyển hóa linh hoạt

trong tác phẩm. Cốt truyện là những sự kiện xoay quanh nhân vật, nhân vật qua
ngôn ngữ mà được biểu hiện và ngôn ngữ là dạng thức tồn tại của tác phẩm. Bởi

Hoàng Thu Thủy

24

K33D – Ngữ văn


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

vậy, trong quá trình tìm hiểu và giảng dạy tác phẩm tự sự ngoài việc tìm hiểu
phân tích từng đặc trưng chúng ta cũng phải thấy được mối quan hệ giữa chúng.
Nắm vững những đặc trưng về thể loại là chìa khóa hữu hiệu giúp chúng ta khai
thác, khám phá tác phẩm văn học.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Đổi mới chương trình giáo dục lâu nay luôn là vấn đề quan tâm của Đảng
và Nhà nước trên tinh thần đó tiến hành đổi mới với từng môn học trong nhà
trường trong đó có môn dạy học văn.
Đổi mới việc dạy học môn Ngữ văn trong trường phổ thông được xây
dựng từ việc đổi mới nội dung đặc biệt là đổi mới phương pháp giảng dạy.
Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động,
sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi
dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn
tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú cho học sinh.
Nếu như trước đây, bộ môn văn được dạy theo kiểu "giảng văn" tức nhấn
mạnh việc giảng, bình cho học sinh hiểu cái hay, cái đẹp của tác phẩm thì nay

hoạt động dạy học chủ yếu hướng vào học sinh, giáo viên chỉ hướng dẫn học
sinh đọc hiểu tác phẩm. Từ đó tạo điều kiện cho học sinh phát huy trí tưởng
tượng, óc sáng tạo, tư duy độc lập để hiểu tác phẩm sâu hơn, kĩ hơn, đồng thời
giúp các em có thể tiếp tục đọc văn chương sau khi tốt nghiệp phổ thông và sẽ
tiếp xúc với nhiều tác phẩm mới hết sức đa dạng và phong phú trong thực tiễn.
Hơn nữa các tác phẩm văn học hiện nay được tổ chức sắp xếp theo loại thể
văn học chứ không sắp xếp theo tiến trình lịch sử văn học như trước nữa. Việc
sắp xếp này sẽ giúp người học nắm được sự phong phú của các loại thể văn học
ngoài các thể loại quen thuộc sách giáo khoa đã xuất hiện nhiều văn bản mới

Hoàng Thu Thủy

25

K33D – Ngữ văn


×