Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Dạy đọc hiểu văn bản nghị luận trung đại ở nhà trường trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (749.93 KB, 74 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Dạy đọc - hiểu văn bản
nghị luận trung đại ở nhà trường trung học phổ thông”, tác giả khóa luận
đã thƣờng xuyên nhận đƣợc sự giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi và chỉ bảo tận
tình của các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn, đặc biệt là các thầy cô giáo
trong tổ Phƣơng pháp dạy học Ngữ văn và TS. Bùi Minh Đức - ngƣời hƣớng
dẫn trực tiếp.
Tác giả xin đƣợc bày tỏ sự biết ơn và gửi lời cảm ơn trân trọng nhất tới
các thầy cô.

Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2010
Tác giả khóa luận

Vƣơng Thị Châm

1


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nghiên cứu trong khóa luận là trung thực và chƣa đƣợc cơng bố trong bất cứ
cơng trình nào.

Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2010
Tác giả khóa luận

Vƣơng Thị Châm

2



QUY ƢỚC VIẾT TẮT
TS:

Tiến sĩ

GS:

Giáo sƣ

GS.TS:

Giáo sƣ tiến sĩ

PGS.TS:

Phó Giáo sƣ tiến sĩ

GV:

Giáo viên

HS:

Học sinh

CH:

Câu hỏi

DKTL:


Dự kiến trả lời

NXB:

Nhà xuất bản

THPT:

Trung học phổ thông

THCS:

Trung học cơ sở

SGK:

Sách giáo khoa

SGV:

Sách giáo viên

3


MỤC LỤC
Trang
Mở đầu ......................................................................................................... 6
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................ 6

2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 7
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 8
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................ 8
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu............................................................. 8
6. Phƣơng pháp nghiên cứu........................................................................... 9
7. Đóng góp của khóa luận............................................................................ 9
8. Bố cục của khóa luận ................................................................................ 9
Nội dung ..................................................................................................... 10
Chương 1: Văn bản và văn bản nghị luận ............................................... 10
1.1. Văn bản ................................................................................................ 10
1.2. Văn bản văn học ................................................................................... 11
1.3. Văn bản nghị luận ................................................................................ 12
1.3.1. Nghị luận là gì? .......................................................................... 12
1.3.2. Văn bản nghị luận là gì? ............................................................ 13
1.3.3. Đặc trƣng của văn bản nghị luận ............................................... 16
1.3.4. Phân loại văn bản nghị luận ....................................................... 24
1.4. Văn bản nghị luận trung đại ................................................................. 25
1.4.1. Khái niệm ................................................................................... 25
1.4.2. Đặc trƣng của văn bản nghị luận trung đại ................................ 25
1.5. Các văn bản nghị luận trung đại đƣợc đƣa vào SGK THPT................ 29
Chương 2: Quy trình dạy đọc - hiểu văn bản nghị luận trung đại ở
nhà trường THPT ...................................................................................... 30
2.1. Đọc - hiểu và đọc - hiểu văn học ......................................................... 30

4


2.1.1. Đọc - hiểu .................................................................................. 30
2.1.2. Đọc - hiểu văn học và đọc - hiểu văn học trong nhà trƣờng..... 32
2.2. Quy trình dạy đọc - hiểu văn bản nghị luận ......................................... 32

2.2.1. Đọc tiếp cận .............................................................................. 32
2.2.2. Đọc văn bản nghị luận .............................................................. 34
2.2.3. Đọc phân tích, cắt nghĩa, đánh giá hệ thống luận điểm,
nghệ thuật lập luận và ngôn từ, ngôn phong của bài nghị luận .................. 34
2.2.4. Đọc sáng tạo văn nghị luận ....................................................... 35
2.3. Quy trình dạy đọc - hiểu văn bản nghị luận trung đại ở trƣờng
THPT ........................................................................................................... 36
2.3.1. Đọc tiếp cận .............................................................................. 36
2.3.2. Đọc văn bản nghị luận .............................................................. 38
2.3.3. Đọc phân tích, cắt nghĩa, đánh giá hệ thống luận điểm,
nghệ thuật lập luận và ngôn từ, ngôn phong của bài nghị luận .................. 39
2.3.4. Đọc sáng tạo văn nghị luận ....................................................... 48
Chương 3: Thể nghiệm dạy đọc - hiểu văn bản nghị luận trung đại
ở nhà trường THPT ................................................................................... 50
3.1. Mục đích thể nghiệm............................................................................ 50
3.2. Nội dung thể nghiệm ............................................................................ 50
3.3. Giáo án thể nghiệm .............................................................................. 50
Bài 1: Đại cáo Bình Ngơ ............................................................................. 50
Nguyễn Trãi
Bài 2: Chiếu cầu hiền .................................................................................. 61
Ngơ Thì Nhậm
Kết luận ...................................................................................................... 72

5


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn bản nghị luận là một trong những kiểu văn bản quan trọng và
phổ biến trong đời sống. Khi trình bày một cách trực tiếp, mạch lạc, sâu sắc

một tƣ tƣởng, quan niệm nào đó trƣớc cuộc sống ngƣời ta thƣờng dùng nghị
luận làm phƣơng thức biểu đạt chính, chẳng hạn: Các nhà lãnh đạo khi muốn
thuyết phục nhân dân tin và làm theo, các nhà phê bình viết phê bình văn học,
các em HS làm bài nghị luận, hay trong cuộc sống mỗi ngƣời lại có quan
điểm trái ngƣợc nhau muốn thuyết phục ngƣời khác tin vào quan điểm của
mình…
1.2. Khoa học phƣơng pháp dạy học văn đã có một số cơng trình nghiên
cứu về dạy văn nghị luận nhƣng chƣa có tài liệu nào nghiên cứu chuyên sâu
về vấn đề: “Dạy đọc - hiểu văn bản nghị luận trung đại ở nhà trường trung
học phổ thơng”. Vì vậy cần tiếp tục có những nghiên cứu sâu hơn về văn nghị
luận để có thể đƣa ra một hệ thống phƣơng pháp dạy văn nghị luận giúp việc
đọc hiểu các văn bản nghị luận trung đại nói riêng và văn nghị luận nói chung
đạt hiệu quả cao.
1.3. Những năm gần đây, đổi mới phƣơng pháp dạy văn là một vấn đề
mang tính thời sự của nƣớc ta. Trong hệ thống phƣơng pháp khá đa dạng và
phong phú đó thì dạy văn bám sát vào đặc trƣng thể loại là một phƣơng pháp
dạy học cơ bản. Đề tài này, chúng tôi đi theo hƣớng thực hiện dạy đọc - hiểu
các văn bản nghị luận trung đại dựa vào đặc trƣng của thể loại. Với hƣớng
nghiên cứu này, chúng tơi hi vọng sẽ góp phần xây dựng và hoàn thiện lý luận
dạy học theo đặc trƣng thể loại, đặc biệt là thể nghị luận (cụ thể là nghị luận
trung đại).

6


1.4. Việc đổi mới phƣơng pháp đi liền với việc đổi mới chƣơng trình
SGK. Trƣớc đây SGK Ngữ Văn đƣợc trình bày theo tiến trình lịch sử.
Chƣơng trình SGK Ngữ Văn mới lại đƣợc sắp xếp theo thể loại và tổ chức
dạy học theo đặc trƣng thể loại nên số lƣợng các văn bản nghị luận đƣợc đƣa
vào dạy học trong nhà trƣờng THPT chiếm số lƣợng khá lớn. Tuy nhiên, trên

thực tế có khơng ít giờ dạy về văn bản nghị luận ít gây hứng thú cho HS vì
cảm thấy khơ khan và khó hiểu. Ngun nhân của hiện tƣợng trên là chƣa
nắm vững đặc trƣng của thể loại. Do đó, chƣa định ra đƣợc phƣơng pháp dạy
học phù hợp.
Thực tế đã địi hỏi GV và HS phải có cách tiếp cận mới phù hợp để việc đọc hiểu các văn bản nghị luận, đặc biệt là nghị luận trung đại đạt hiệu quả cao.
Là một GV tƣơng lai, tôi quyết định chọn đề tài: “Dạy đọc - hiểu văn bản
nghị luận trung đại ở nhà trường trung học phổ thông”. Với mong muốn
đem lại cách tiếp cận mới và đây cũng là bƣớc tập dƣợt cho việc giảng dạy
văn sau này của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Văn nghị luận và dạy văn nghị luận là những vấn đề mà các nhà khoa
học đã có những nghiên cứu nhất định:
- Trần Thanh Đạm trong cơng trình “Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học
theo thể loại” đã chỉ ra những đặc trƣng cơ bản của thể loại nghị luận và cách
giảng dạy văn nghị luận.
- Trong cơng trình “Dạy học văn bản Ngữ Văn THCS theo đặc trưng
phương thức biểu đạt”. Tác giả Trần Đình Chung đã dành một chƣơng riêng
định hƣớng cho GV cấp THCS về dạy học văn bản nghị luận nhƣng cũng là
tài liệu tham khảo cần thiết cho GV THPT. Ở chƣơng này, tác giả đã nêu lên
một số đặc trƣng của phƣơng thức nghị luận và một số yêu cầu cụ thể của

7


phƣơng pháp dạy học văn bản nghị luận dân gian, nghị luận trung đại và nghị
luận hiện đại.
- Nhóm tác giả: Nguyễn Trí, Giang Khắc Bình, Nguyễn Trọng Hồn với
cơng trình “Văn nghị luận trong chương trình Ngữ Văn THCS” đã trình bày
các kiến thức cơ bản về văn nghị luận nhƣ: khái niệm, đặc điểm, hƣớng dẫn
quy trình, phƣơng pháp làm văn nghị luận và tuyển chọn một số văn bản nghị

luận… Cuốn sách này nghiêng về việc hƣớng dẫn HS làm văn nghị luận.
Có thể nói các cơng trình nghiên cứu trên tuy cịn ít về mặt số lƣợng
nhƣng đã có những đóng góp nhất định về mặt phƣơng pháp, giúp định hƣớng
cho GV văn trong việc dạy học văn nghị luận. Tiếp tục phát triển theo hƣớng
mà các nhà nghiên cứu đã đi, ngƣời viết đi sâu, tìm hiểu một cách tồn diện
hơn về vấn đề “Dạy đọc - hiểu văn bản nghị luận trung đại ở nhà trường
trung học phổ thơng”.
3. Mục đích nghiên cứu
- Góp phần bổ sung và hoàn thiện lý luận dạy đọc - hiểu văn bản nghị
luận ở trƣờng THPT.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lƣợng dạy đọc - hiểu văn
bản nghị luận trung đại ở trƣờng THPT.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Hoạt động dạy đọc - hiểu văn bản nghị luận trung đại ở nhà trƣờng
THPT.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Phƣơng pháp dạy đọc - hiểu các văn bản nghị luận trung đại trong SGK
Ngữ Văn THPT.
- Các bài nghị luận:
+ “ Đại cáo Bình Ngơ” của Nguyễn Trãi, SGK Ngữ Văn 10, tập 2.
+ “ Chiếu Cầu Hiền” của Ngơ Thì Nhậm, SGK Ngữ Văn 11, tập 1.

8


- Tƣ liệu: Đề tài đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu vốn
tƣ liệu tiếng Việt.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp nghiên cứu lý thuyết: phân tích, tổng hợp, so sánh, đối
chiếu.

- Phƣơng pháp thực nghiệm.
7. Đóng góp của khóa luận
Góp phần xác lập các thao tác, các bƣớc dạy HS đọc - hiểu các văn bản
nghị luận trung đại ở trƣờng THPT.
8. Bố cục khố luận
Ngồi phần Mở đầu và Kết luận, khố luận gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Văn bản và văn bản nghị luận.
Chƣơng 2: Quy trình dạy đọc - hiểu văn bản nghị luận trung đại ở nhà
trƣờng THPT.
Chƣơng 3: Thực nghiệm dạy đọc - hiểu văn bản nghị luận trung đại ở
nhà trƣờng THPT.

9


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1

VĂN BẢN VÀ VĂN BẢN NGHỊ LUẬN
1.1. Văn bản
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn bản:
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học”: “Bất cứ đối tượng nào được phân tích
hoặc giải thích đều là văn bản” [3,394]. Nếu hiểu nhƣ vậy thì văn bản là bất
kì chuỗi kí hiệu nào có khả năng đọc ra nghĩa đƣợc, bất kể là có do kí hiệu
ngơn ngữ tạo thành hay không: một nghi thức, một điệu múa, một nét mặt,
một bài thơ… đều là văn bản.
“Từ điển từ và ngữ Hán Việt” cho rằng: “văn bản là tờ giấy có chữ ghi
nội dung một sự kiện”. [7,768]
Theo “Từ điển tiếng Việt” thì: “Văn bản là một chuỗi kí hiệu ngơn ngữ
hay nói chung những kí hiệu thuộc một hệ thống nào đó làm thành một chỉnh

thể mang một nội dung ý nghĩa trọn vẹn” [15,1360]
Các tác giả trong SGV Ngữ văn, lớp 10, tập 1 quan niệm: Văn bản “là
một chỉnh thể ngôn ngữ về mặt nội dung và hình thức. Văn bản là sự nối tiếp
của nhiều câu, nhiều đoạn, chương, phần… Tuy nhiên những thành tố này
phải mang tính hệ thống nhất định và tồn văn bản phải có những đặc trưng
thống nhất”. Cụ thể là:
- Về mặt nội dung: Các câu các đoạn gắn kết với nhau về ý nghĩa, cùng
tập trung thể hiện một chủ đề.
- Về mặt hình thức : Các câu trong văn bản có những mối quan hệ, liên
hệ nhất định. Toàn bộ những mối liên hệ ấy tạo nên cấu trúc của văn bản.

10


Văn bản phải có tính mạch lạc. Nó thể hiện ở việc sử dụng các phƣơng
tiện liên kết các câu, các phần với nhau để tạo thành văn bản.
Mặc dù có rất nhiều quan niệm khác nhau về văn bản nhƣng nhìn chung
chúng ta có thể hiểu : Văn bản là sản phẩm của hoạt động giao tiếp, là một tập
hợp kí hiệu ngơn ngữ (nói - viết) đƣợc tổ chức thành một hệ thống chặt chẽ,
hoàn chỉnh về mặt hình thức và trọn vẹn về mặt nội dung.
1.2. Văn bản văn học
Chúng ta biết rất nhiều loại văn bản: miêu tả, tự sự, thuyết minh… Trong
đó có một số văn bản đƣợc gọi là văn bản văn học. Vậy, văn bản văn học là
gì? Mỗi thời đại, mỗi quốc gia có thể có nhƣng quan niệm khác nhau. Ở đây,
ngƣời viết xin dẫn ra quan niệm về văn bản văn học của SGK Ngữ văn lớp
10, tập 2. Các tác giả đƣa ra một số tiêu chí sau để nhận diện văn bản văn học:
Tiêu chí thứ nhất: Văn bản văn học (truyện cổ tích, bài thơ, cuốn tiểu
thuyết…) là những văn bản đi sâu phản ánh hiện thực khách quan và khám
phá thế giới tƣ tƣởng, tình cảm, thoả mãn nhu cầu thẩm mĩ của con ngƣời.
Tiêu chí thứ hai: Văn bản văn học đƣợc xây dựng bằng ngơn từ nghệ

thuật, có hình tƣợng, có tính thẩm mĩ cao. Sử dụng nhiều phép tu từ (ẩn dụ,
nhân hoá, so sánh, hoán dụ, tượng trưng…). Văn bản văn học thƣờng hàm
súc, gợi lên nhiều liên tƣởng, tƣởng tƣợng. Văn bản nào cũng phải có nghĩa.
Văn bản văn học cũng vậy. Nhƣng khi xác định một văn bản văn học phải chú
ý đến phẩm chất của ngôn từ diễn đạt.
Tiêu chí thứ ba: Văn bản văn học đƣợc xây dựng theo một phƣơng thức
riêng. Kịch bản có hồi, có cảnh, có lời đối thoại, độc thoại… Thơ thì có vần
điệu, luật, có câu thơ, có khổ thơ… Truyện lại có những quy ƣớc về xây dựng
nhân vật, kết cấu, cốt truyện, các loại lời văn…
Vậy, văn bản văn học trƣớc hết là một văn bản mang đầy đủ các đặc
điểm của một văn bản: hồn chỉnh về hình thức, trọn vẹn về nội dung. Tuy

11


nhiên văn bản văn học cũng mang những đặc điểm riêng. Về mặt nội dung nó
vừa phản ánh hiện thực khách quan, vừa phản ánh đời sống tâm tƣ, tình cảm
của con ngƣời qua lăng kính chủ quan của ngƣời nghệ sĩ. Về mặt hình thức nó
đƣợc xây dựng bằng ngôn ngữ riêng - ngôn ngữ nghệ thuật. Văn bản văn học
ngồi chức năng giao tiếp, cung cấp các thơng tin thơng thƣờng nó cịn chứa
đựng các thơng tin thẩm mĩ. Đó là những tƣ tƣởng, tình cảm, những trải
nghiệm trƣờng đời sâu sắc của các nhà văn. Vì vậy, nếu khơng có tƣ tƣởng,
tình cảm đúng, khơng đồng cảm với niềm vui và nỗi đau của con ngƣời thì
ngƣời đọc khó có thể hiểu đƣợc cái hay, cái đẹp của văn bản văn học.
1.3. Văn bản nghị luận
1.3.1. Nghị luận là gì?
Theo “Từ điển từ và ngữ Hán Việt”: “Nghị luận là dùng lý luận phân tích
ý nghĩa phải trái” [7,415].
GS. Nguyễn Thanh Hùng trong cuốn “Một số vấn đề về văn nghị luận ở
cấp 2” cho rằng: “Nghị luận là bàn bạc phân tích, đồng tình hay phản bác một

vấn đề nào đó để tìm hiểu và thẩm định giá trị lý luận và thực tiễn của nó”
[4,10]
SGK Ngữ văn 11, tập 2 quan niệm: “Nghị luận là một thể loại văn học
đặc biệt, dùng lý lẽ, phán đoán, chứng cứ để bàn luận về một vấn đề nào đó
(chính trị, xã hội, văn học, nghệ thuật, triết học, đạo đức…). Vấn đề được nêu
ra như một câu hỏi cần giải đáp làm sáng tỏ. Luận là bàn về đúng hay sai,
phải hay trái, khẳng định điều này, bác bỏ điều kia, để người ta nhận ra chân
lý đồng tình với mình, chia sẻ quan điểm và niềm tin của mình”. [14,110]
Tóm lại, nghị luận là dùng lý lẽ để bàn bạc về một vấn đề nào đó mà
ngƣời viết có thể đồng tình hay phản bác, nhằm thuyết phục ngƣời khác tin
vào những điều mình nói, đồng tình với quan điểm của mình.

12


1.3.2. Văn bản nghị luận là gì?
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về văn bản nghị luận:
Theo “Từ điển bách khoa toàn thư” của Mĩ: “Văn học là những sản
phẩm viết của xã hội bằng văn xuôi hoặc thơ. Theo nghĩa rộng, văn học bao
gồm tất cả các kiểu viết theo lối hư cấu hoặc không hư cấu”. Theo định nghĩa
này thì văn nghị luận đƣợc xem là thể loại thuộc dạng thức không hƣ cấu.
Nhƣ vậy nghĩa là: “Văn nghị luận không dùng đến một hoạt động cơ bản của
tư duy hình tượng mà dựa vào tư duy logic để trình bày tư tưởng, quan điểm
nào đó của người viết”.
Tài liệu bồi dƣỡng thƣờng xuyên chu kì 92 - 96, cũng đƣa ra quan niệm:
“Văn nghị luận là loại văn nhằm bàn bạc, thảo luận với người khác về thực
tại đời sống xã hội bao gồm những vấn đề văn hố, triết học, đạo đức, lịch sử,
chính trị, văn học, nghệ thuật… Văn nghị luận xem trọng năng lực lập luận
dựa trên quy tắc logic và đặc điểm tư duy nhưng nó vẫn khơng loại trừ hình
thức mĩ cảm của tư tưởng… Nét nổi bật trong văn nghị luận là lí lẽ và dẫn

chứng đầy đủ, tiêu biểu để làm sáng tỏ một vấn đề nào đó nhằm khêu gợi
thuyết phục người đọc, người nghe hiểu rõ vấn đề, tin vào tính chất xác minh
của sự lập luận và tán thành với quan điểm, tư tưởng của người viết để người
đọc có thể vận dụng chúng vào cuộc sống xã hội và cá nhân”. [4,5]
Theo PGS.TS. Đỗ Ngọc Thống: “Văn nghị luận là một thể loại nhằm
phát biểu tư tưởng, tình cảm, thái độ, quan điểm của người viết một cách trực
tiếp về văn học hoặc chính trị, đạo đức, lối sống… nhưng lại trình bày bằng
một thứ ngôn ngữ trong sáng, hùng hồn với những lập luận chặt chẽ, mạch
lạc, giàu sức thuyết phục”. [16,189]
Nhƣ vậy, văn nghị luận là thể loại đặc biệt của văn học (khơng dùng hư
cấu tưởng tượng). Nó đề cập đến những vấn đề của đời sống, chính trị, văn
hố, triết học, đạo đức, lịch sử… nhằm trình bày quan điểm thái độ của ngƣời

13


viết bằng hệ thống lí lẽ và dẫn chứng tiêu biểu cùng những lập luận chặt chẽ
thuyết phục. Văn nghị luận khơng loại trừ những hình thức ngơn ngữ mĩ cảm
nhƣng đó chỉ là yếu tố phụ, minh hoạ, làm sáng tỏ cho lý lẽ mà ngƣời viết
muốn đƣa ra.
Văn nghị luận khác văn hƣ cấu tƣởng tƣợng. Xét hai ví dụ sau:
Ví dụ 1: “Tiếng trống thu khơng trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng
một vang ra để gọi buổi chiều. Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những
đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và
cắt hình rõ rệt trên nền trời.
Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu
ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào…”
(Hai đứa trẻ - Thạch Lam)
Ví dụ 2: “Nay các ngươi thấy chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục
mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình phải đầu qn giặc mà khơng biết

tức; nghe nhạc thái thường để đãi yến ngụy sứ mà không biết căm. Hoặc lấy
việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển; hoặc vui thú
ruộng vườn; hoặc quyến luyến vợ con; hoặc lo làm giàu mà quên việc nước,
hoặc ham săn bắn mà quên việc binh, hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng
hát. Nếu có giặc Mơng Thát tràn sang thì cựa gà trống không thể đâm thủng
áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh; dẫu
rằng ruộng lắm vườn nhiều; tấm thân quý ngàn vàng khôn chuộc vả lại vợ
con bìu díu, việc qn cơ trăm sự ích chi; tiền của tuy nhiều nhưng không
mua được đầu giặc; chó săn tuy khoẻ khơng đuổi được qn thù; chén rượu
ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm cho giặc
điếc tai. Lúc bấy giờ ta cùng các người sẽ bị bắt đau xót biết chừng nào?”
( Hịch tướng sĩ - Trần Quốc Tuấn )

14


Đọc hai ví dụ trên ngƣời đọc có thể dễ dàng nhận ra ở ví dụ 1 là văn hƣ
cấu, ví dụ 2 là văn nghị luận. Ở ví dụ 1 chỉ bằng một vài câu văn ngắn Thạch
Lam đã tái hiện đƣợc vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên phố huyện lúc chiều tà
với đầy đủ âm thanh, đƣờng nét, màu sắc. Đó là âm thanh của tiếng trống thu
khơng, tiếng ếch nhái ngồi đồng ruộng, tiếng muỗi vo ve. Đó là hình ảnh,
màu sắc của ánh mặt trời đỏ rực nhƣ lửa cháy, đám mây ánh hồng, dãy tre
làng đen lại. Đó là đƣờng nét của dãy tre làng cắt hình rõ rệt trên nền trời.
Bằng ngơn ngữ giàu hình tƣợng, những câu văn êm dịu, có nhịp điệu chậm
rãi, vừa giàu hình ảnh, vừa giàu nhạc điệu, lại vừa uyển chuyển tinh tế, Thạch
Lam đã gợi đƣợc cái hồn của cảnh vật, cái thần thái của thiên nhiên, làm hiện
lên trƣớc mắt ngƣời đọc “bức hoạ đồng quê” quen thuộc, gần gũi và gợi cảm.
Một bức tranh q hƣơng bình dị mà khơng kém phần thơ mộng, mang cốt
cách Việt Nam.
Ở ví dụ 2: Trần Quốc Tuấn đã trực tiếp bày tỏ quan điểm của mình về

một vấn đề chính trị, liên quan đến vận mệnh của quốc gia dân tộc. Đó là vai
trị của tƣớng sĩ đối với triều đình và sự an nguy của đất nƣớc. Lời văn đanh
thép, hùng hồn, lập luận chặt chẽ sắt đá, để thuyết phục tƣớng sĩ làm theo lời
mình. Tác giả lật đi lật lại vấn đề. Ban đầu, Trần Quốc Tuấn liệt kê tất cả các
thú vui của tƣớng sĩ. Sau đó để phủ định một điều: tất cả những thú vui ấy
không thể đánh đuổi đƣợc quân giặc. Và hệ quả tất yếu của lối sống thờ ơ,
tiêu khiển là: các ngƣơi sẽ bị bắt. Điều mà Trần Quốc Tuấn nói là điều mà tất
cả mọi ngƣời đều quan tâm. Bằng những lí lẽ của mình, Trần Quốc Tuấn đã
dồn ngƣời nghe vào tình trạng “khơng thể chối cãi” tức là bị thuyết phục hồn
tồn.
Nhƣ vậy, có thể khẳng định: Nếu nhƣ đích của văn miêu tả, kể chuyện là
làm sống dậy trƣớc mắt ngƣời đọc thần thái của sự vật, sự việc thì đích của
văn bản nghị luận là để đƣa thơng tin và nói lí lẽ nhằm thuyết phục ngƣời đọc,

15


ngƣời nghe. Nếu văn miêu tả, kể chuyện tác động vào trí tƣởng tƣợng của con
ngƣời, kích thích óc quan sát… thì văn nghị luận tác động mạnh mẽ vào nhận
thức lý tính nâng cao khả năng lập luận, rèn luyện tƣ duy logic cho ngƣời viết.
Tóm lại, văn nghị luận là một thể loại văn học đặc biệt (không dùng hư
cấu, tưởng tượng), thể hiện tƣ tƣởng quan điểm, thái độ của ngƣời viết về các
vấn đề của đời sống văn hố, nhân sinh… Những điều đó đƣợc trình bày bằng
một hệ thống lí lẽ, dẫn chứng tiêu biểu với những lập luận chặt chẽ thuyết
phục và một số ngơn ngữ trong sáng, hùng hồn, có màu sắc biểu cảm.
1.3.3. Đặc trưng của văn nghị luận
1.3.3.1. Phát biểu trực tiếp tư tưởng, quan điểm, thái độ, tình cảm nào
đó của người viết về một vấn đề của cuộc sống
Văn nghị luận là thể văn ra đời sớm và có truyền thống lâu đời ở Việt
Nam. Từ “Thiên đô chiếu” năm 1010 của Lý Công Uẩn, đến “Hịch tướng sĩ”

của Trần Quốc Tuấn ra đời năm 1285, đến “Đại cáo Bình Ngơ” của Nguyễn
Trãi ra đời năm 1428… Bƣớc sang thế kỉ XX văn nghị luận phát triển vƣợt
bậc với nhiều tên tuổi nhƣ: Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,
Huỳnh Thúc Kháng… Qua đó, ta thấy: Nếu ở văn hình tƣợng hƣ cấu, tƣởng
tƣợng thái độ của ngƣời viết thƣờng đƣợc thể hiện một cách kín đáo qua các
hình tƣợng thẩm mĩ thì ở văn nghị luận những điều đó lại đƣợc trình bày một
cách trực tiếp, tƣờng minh.
Đó là tƣ tƣởng nhân nghĩa:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
( Đại cáo Bình Ngơ - Nguyễn Trãi )
Đó là lịng tự hào, tự tôn dân tộc, khẳng định vị thế của dân tộc ta so với
dân tộc khác:
“Như nước Đại Việt ta từ trước

16


Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Ngun mỗi bên hùng cứ một phương”
(Đại cáo Bình Ngơ - Nguyễn Trãi )
Đó là sự khẳng định vai trị của ngƣời hiền đối với sự phát triển của đất
nƣớc: “Hiền tài là nguyên khí của đất nước. Nguyên khí thịnh thì thế nước
mạnh và vươn cao, ngun khí suy thì thế nước yếu mà xuống thấp”.
(Hiền tài là nguyên khí của quốc gia - Thân Nhân Trung)
Đó là lịng yêu nƣớc nồng nàn: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ
gối ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt, lột da, nuốt

gan, uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thây này phơi ngồi nội cỏ, nghìn xác
này gói trong da ngựa, ta cũng vui lịng”.
(Hịch tướng sĩ - Trần Quốc Tuấn)
Đó là lời khẳng định sự thắng thế của thơ mới đối với thơ cũ:
“Một thời đại vừa chẵn mười năm
Trong mười năm ấy, thơ mới đã tranh đấu gắt gao với thơ cũ, một bên
dành quyền sống, một bên giữ quyền sống. Cuộc đấu tranh kéo dài cho đến
ngày thơ mới tồn thắng”.
(Thi nhân Việt Nam - Hồi Thanh)
Đó là sự khẳng định vị trí của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu: “Trên trời có
những vì sao sáng khác thường, nhưng con mắt của chúng ta phải chăm chú
nhìn thì mới thấy và càng nhìn thì càng sáng”.
(Nguyễn Đình Chiểu, ngơi sao sáng trong văn nghệ của
dân tộc - Phạm Văn Đồng)

17


Nhƣ vậy, ta có thể thấy sự phong phú, đa dạng của các vấn đề đƣợc đem
ra bàn luận. Từ đề tài về chiến tranh, hồ bình đến vấn đề văn chƣơng. Từ vấn
đề của một trào lƣu, một thời đại đến vấn đề của cá nhân… Dù bàn luận về
vấn đề nào thì quan điểm của ngƣời viết cũng đƣợc trình bày một cách trực
tiếp rõ ràng.
1.3.3.2. Thuyết phục người đọc bằng hệ thống lí lẽ và cách lập luận chặt
chẽ, hùng hồn
Nếu trong văn tự sự và kịch nhân vật, cốt truyện, xung đột… là những
yếu tố cơ bản “xương sống” của tác phẩm thì trong văn bản nghị luận, luận
điểm,luận cứ, lập luận, ngôn ngữ giọng điệu là những yếu tố cơ bản làm nên
tác phẩm.
 Luận điểm của bài văn nghị luận

Luận điểm là ý kiến thể hiện tƣ tƣởng, chủ trƣơng, thái độ của ngƣời viết
đối với một vấn đề cần thuyết phục và làm sáng tỏ.
Luận điểm của bài văn nghị luận thƣờng đƣợc thể hiện dƣới những câu
văn ngắn gọn với những phán đốn có tính chất khẳng định hoặc phủ định, có
chứa các từ: là, có, khơng thể, đã…
Ví dụ nhƣ: “Thời gian là vàng”; “Nhân dân ta có một lịng nồng nàn yêu
nước”; “Nước Việt Nam là một nước tự do và độc lập”…
Trong một bài văn nghị luận có thể có các cấp độ khác nhau của luận
điểm. Có thể có một luận điểm chính, luận điểm trung tâm và các luận điểm
phụ.
Với “Hịch tướng sĩ”, luận điểm bao trùm có thể khái qt nhƣ sau: “Là
tướng sĩ triều đình phải nêu cao lịng u nước và ý chí quyết tâm chống kẻ
thù xâm lược, bảo vệ đất nước”. Luận điểm tổng quát đó đƣợc làm sáng tỏ bởi
một hệ thống các luận điểm nhỏ gồm:

18


- Xả thân vì nƣớc, hết lịng phụng sự qn vƣơng là nghĩa cử cao đẹp
của trung thần.
- Là tƣớng sĩ triều đình thì khơng thể làm ngơ trƣớc sự ngang ngƣợc,
tham tàn, độc ác và âm mƣu xâm lƣợc của kẻ thù.
- Là tƣớng sĩ thì khơng thể khoanh tay nhìn chủ nhục.
- Tƣớng sĩ thì phải từ bỏ thói ham chơi, hƣởng thụ, vơ trách nhiệm để
rửa nhục cho nƣớc.
- Tƣớng sĩ phải học tập binh pháp, nêu cao ý chí quyết chiến quyết thắng
kẻ thù xâm lƣợc.
Trong bài văn nghị luận, ta cần phân biệt giữa luận điểm và luận đề, giữa
luận điểm và luận cứ. Nếu luận đề là vấn đề bao trùm cần đƣợc làm sáng tỏ,
cần đƣợc đem ra bàn luận để bảo vệ, để chứng minh trong toàn bộ bài viết.

Trong nhiều bài viết, luận đề thƣờng thể hiện ngay ở nhan đề thì luận điểm là
những ý kiến thể hiện quan điểm chủ trƣơng của ngƣời nói, ngƣời viết đƣa ra
nhằm giải đáp làm sáng tỏ cho vấn đề hoặc câu hỏi đó giúp cho “lí trí được
thơng suốt”.
Cịn luận cứ là lí lẽ và dẫn chứng làm cơ sở cho luận điểm “Lí lẽ là
những đạo lí, lẽ phải đã được thu nhận, đồng tình. Dẫn chứng là sự vật, sự
việc, số liệu, nhân chứng… để chứng minh, làm sáng tỏ xác nhận cho luận
điểm. Dẫn chứng phải tiêu biểu, xác thực, đáng tin cậy khơng thể bác bỏ”
[10,28]. Lí lẽ và dẫn chứng phải đáng tin cậy mới làm cho luận cứ vững vàng.
Luận cứ phải chân thật, đúng đắn, tiêu biểu mới làm cho luận điểm có sức
thuyết phục. Điều đó có nghĩa là: Nếu luận điểm là một ý kiến mà ngƣời viết
tin là đúng đắn nhƣng ngƣời đọc cịn có thể chƣa tỏ tƣờng thì luận cứ lại là
những lẽ phải và sự thật hiển nhiên mà cả ngƣời viết và ngƣời đọc đều thừa
nhận. Luận điểm là điều cần đƣợc chứng minh. Luận điểm quyết định việc
chọn luận cứ, luận cứ phải phục vụ cho luận điểm.

19


Ví dụ:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”
(Đại cáo Bình Ngơ - Nguyễn Trãi)
Trong đoạn văn trên, hai câu đầu chình là lí lẽ. Nó nêu lên một ngun lý

đã đƣợc đúc kết và thừa nhận. Những câu sau là dẫn chứng cụ thể, xác đáng.
Tất cả góp phần làm sáng tỏ cho luận điểm: Đại Việt là một quốc gia độc lập
có chủ quyền.
Tóm lại: Luận điểm là điểm tựa lớn nhất của toàn bộ bài văn nghị luận.
Các luận điểm sẽ tạo nên bộ xƣơng cho cấu trúc văn bản nghị luận. Đến lƣợt
mình, các luận cứ lại tao nên bộ xƣơng cho các đoạn nghị luận hoặc cho một
số đoạn nghị luận xoay quanh một luận điểm. Chính hệ thống luận điểm, luận
cứ tạo sự gắn kết các ý, các đoạn trong văn bản với nhau, tạo ra tính thống
nhất của văn bản. Các luận điểm trở thành “linh hồn của bài viết”.
Nhƣng bài nghị luận có luận điểm thơi chƣa đủ quyết định bài văn đó có
hay hay khơng. Mà quan trọng là luận điểm bài viết có độc đáo, có mới mẻ,
sâu sắc hay khơng. Nếu chỉ dừng lại ở chỗ có luận điểm mà luận điểm đó đã
cũ, là những cái hiển nhiên ai cũng biết... thì bài văn đó rất dễ rơi vào nhàm
chán, đơn điệu. Nói khác đi, luận điểm trong văn bản nghị luận phải là ý hay.
Tức nó phải mới, phải đúng, phải sâu, phải riêng, vừa sâu sắc, vừa tập trung,

20


vừa nổi bật, có cơ sở đạo lý, khoa học vững chắc, thuyết phục ngƣời đọc,
ngƣời nghe.
Ví nhƣ khi viết về vị trí thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, Phạm Văn Đồng đã
nêu ra một luận điểm hiển nhiên nhƣng cũng thật bất ngờ mới mẻ với việc
nhìn nhận và đánh giá sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu: “Trên trời
có những vì sao có ánh sáng khác thường, nhưng con mắt của chúng ta phải
chăm chú nhìn thì mới thấy, và càng nhìn càng thấy sáng. Văn thơ Nguyễn
Đình Chiểu cũng vậy”.
Nhiệm vụ của ngƣời đọc là phải nhận ra và đánh giá đƣợc các luận điểm
của ngƣời viết, nhất là những luận điểm đúng đắn, mới mẻ, độc đáo, làm đƣợc
điều đó cũng chính là thấy đƣợc vẻ đẹp của văn nghị luận.

 Lập luận trong văn bản nghị luận
Có luận điểm hay, luận cứ xác đáng nhƣng yêu cầu đặt ra là phải làm thế
nào để có sức thuyết phục? Đó hồn tồn phụ thuộc vào khả năng lập luận của
ngƣời viết.
Lập luận là cách nêu luận điểm và vận dụng lý lẽ dẫn chứng sao cho luận
điểm đƣợc nổi bật và có sức thuyết phục. Luận điểm đƣợc xem nhƣ kết luận
của lập luận. Nói cách khác, lập luận là cách nêu luận cứ để dẫn đến luận
điểm. Lập luận phải chặt chẽ, hợp lý thì bài văn mới có sức thuyết phục. Lập
luận bao gồm các cách suy lý, quy nạp, diễn dịch, phân tích, chứng minh, so
sánh, tổng hợp sao cho luận điểm đƣa ra là hợp lý, khơng thể bác bỏ[…] lập
luận có ở khắp trong bài văn nghị luận.
Ví dụ, để khẳng định luận điểm trung tâm của văn bản “Nước Đại Việt
ta” là: “Đại Việt là một quốc gia độc lập, có chủ quyền”. Nguyễn Trãi đã lập
luận một cách mạch lạc:
- Đại Việt là một dân tộc độc lập, bởi vì:
+ Đại Việt có nền văn hiến lâu đời.

21


+ Đại Việt có lãnh thổ riêng.
+ Đại Việt có phong tục tập quán riêng.
+ Đại Việt có truyền thống lịch sử hào hùng.
- Theo những căn cứ đó, kẻ nào xâm lƣợc Đại Việt là phản nhân nghĩa,
phạm vào chân lý và chỉ có thể chuốc lấy thất bại mà thơi.
Có thể thấy, từ trƣớc đến nay các bài văn nghị luận nổi tiếng (Đại cáo
Bình Ngơ - Nguyễn Trãi; Tun ngơn độc lập - Hồ Chí Minh;…) là những bài
hàm chứa trong đó những cách lập luận sâu sắc, mẫu mực, logic, chặt chẽ với
những lí lẽ rõ ràng, những chứng cứ hiển nhiên buộc ngƣời nghe không thể
không công nhận.

Để đánh giá cái hay, sức thuyết phục của văn bản nghị luận tất yếu phải
phân tích, đánh giá, chứng minh đƣợc mức độ chặt chẽ, sắc bén của lập luận
và sự hợp lý của các cách thức lập luận mà tác giả lựa chọn.
 Ngôn ngữ, giọng điệu của văn bản nghị luận
Mỗi thể loại văn học lại có một ngơn ngữ thích hợp. Nếu tính gợi cảm,
hình tƣợng, đa nghĩa, là đặc trƣng của ngơn ngữ tác phẩm văn chƣơng hình
tƣợng thì ngơn ngữ của các văn bản nghị luận lại địi hỏi tính “chính xác
nghiệt ngã” (Gorki). Bởi mục tiêu đầu tiên của văn nghị luận là thuyết phục
ngƣời nghe, ngƣời đọc tin, ủng hộ, làm theo những lời mà ngƣời viết nói. Do
vậy, ngƣời viết phải viết lên sự thật, bởi bản thân sự thật có sức thuyết phục
mạnh hơn cả. Cho nên, ngơn từ trong văn bản nghị luận phải chính xác với
bản chất của đối tƣợng, chính xác trong thái độ đối với đối tƣợng đó, chính
xác đến từng cung bậc và sắc thái.
Do nhu cầu lập luận, văn nghị luận thƣờng phải dùng đến hệ thống từ lập
luận. Đó là những từ: thật vậy, thế mà, tuy nhiên, không những, mà cịn, vì
thế, cho nên… Những từ đó có vai trị liên kết các ý, các vế, các đoạn trong

22


văn bản nghị luận để tạo nên tính chặt chẽ. Câu trong văn bản nghị luận là
những câu khẳng định hay phủ định với nội dung là những phán đoán sâu sắc.
Ví dụ: “Hồi tưởng cuộc chiến đấu anh dũng vô song của dân tộc Việt
Nam ta ở Nam Bộ lúc bấy giờ, ruột gan chúng ta đau như cắt xé. Giá như
triều đình lúc bấy giờ khơng phải trong tay bọn vua chúa nhà Nguyễn phản
bội và đầu hàng, mà ở trong tay những người kế tục sự nghiệp của cuộc khởi
nghĩa Tây Sơn, kế tục sự nghiệp yêu nước và anh dũng của Nguyễn Huệ thì
phong trào kháng Pháp lúc bấy giờ ở Nam Bộ chắc còn mạnh mẽ hơn nhiều.
Nhất là đã được lãnh đạo thống nhất và kiên trì đấu tranh cho đến thắng lợi,
đồng thời phong trào ấy chắc được sự ủng hộ kiên quyết của cả nước, như

vậy đất Đồng Nai anh dũng từ đó đã trở nên bức thành đồng ngăn chặn bọn
cướp nước phương Tây xâm phạm đất nước chúng ta ở Nam Bộ, và do đó đã
bảo vệ vẹn tồn độc lập và thống nhất của Tổ quốc!”
(Nguyễn Đình Chiểu, ngơi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc Phạm Văn Đồng)
Nói văn nghị luận biểu hiện chủ yếu tƣ duy logic khơng có nghĩa là nó
gạt bỏ hồn tồn ngơn ngữ gợi cảm. Vì ngơn ngữ biểu cảm thể hiện thái độ,
nhiệt tình của tác giả trƣớc vấn đề nghị luận. Những yếu tố trữ tình đó tác
động mạnh mẽ vào tình cảm của ngƣời đọc (nghe) có tác dụng chinh phục trái
tim con ngƣời. Tình hỗ trợ thêm cho lý, lý tiếp sức mạnh cho tình. Do đó, tác
dụng thuyết phục tăng nên gấp bội.
Ví dụ: Khi nói về tội ác của thực dân Pháp, Bác viết: “Chúng tắm các
cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”.
Bằng việc sử dụng các từ ngữ gợi hình, gợi cảm nhƣ: “tắm”, “bể máu”.
Bác đã giúp chúng ta thấy đƣợc tội ác dã man của thực dân Pháp đối với đồng
bào ta. Những từ ngữ trên không làm giảm đi sức thuyết phục của văn bản,
ngƣợc lại nó làm cho việc diễn đạt đạt hiệu quả cao, vừa chính xác, vừa thể

23


hiện lòng căm thù của ngƣời tác giả đối với kẻ thù và khơi gợi lòng căm thù ở
ngƣời đọc.
Cùng với những yếu tố luận điểm, luận chứng, lập luận, ngơn ngữ thì
giọng điệu cũng là một yếu tố quan trọng trong các văn bản nghị luận.
Nếu giọng điệu trong tác phẩm văn chƣơng hình tƣợng là giọng trần
thuật, miêu tả, kể chuyện hoặc bộc lộ tâm tình cảm xúc thì giọng điệu chính
trong văn nghị luận là giọng hùng hồn, mạnh mẽ, hừng hực khí thế nhƣ sóng
cuộn, nƣớc trào.
Giọng chủ đạo trong “Đại cáo Bình Ngơ” (Nguyễn Trãi) là : giọng hùng
hồn, thống thiết.

Trong văn nghị luận có khi ngƣời viết sử dụng giọng mỉa mai pha chút
gai góc để tăng hiệu quả lập luận và trực tiếp bày tỏ tƣ tƣởng của mình.Ví dụ:
“Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn.
Nhận diện và phân tích đƣợc sắc thái giọng điệu trong văn nghị luận
cũng là một yêu cầu tất yếu bắt buộc để có thể phát hiện chính xác luận điểm
và đánh giá sức thuyết phục của văn bản nghị luận.
1.3.4. Phân loại văn bản nghị luận
Văn nghị luận đƣợc sử dụng rộng rãi trên nhiều lĩnh vực văn hố, chính
trị, xã hội… Sự phân loại văn nghị luận có thể dựa trên hai tiêu chí:
- Căn cứ vào nội dung, đề tài, có 2 loại:
+ Nghị luận văn học là những bài luận về vấn đề văn học nào đó nhƣ
chi tiết nghệ thuật, hình ảnh nghệ thuật, tác giả, tác phẩm, giai đoạn…
Ví dụ: “Tựa “Trích diễn thi tập”” của Hoàng Đức Lƣơng, “Một thời đại
trong thi ca” của Hoài Thanh…
+ Nghị luận xã hội là những bài nghị luận về một vấn đề chình trị, đạo
đức, lối sống nào đó.

24


Ví dụ: “Chiếu cầu hiền” của Ngơ Thì Nhậm, “Xin lập khoa luật” của
Nguyễn Trƣờng Tộ, “Chiếu dời đô” của Lí Cơng Uẩn…
- Căn cứ vào loại hình văn học và giai đoạn văn học, có 3 loại:
+ Nghị luận dân gian. Ví dụ: tục ngữ.
+ Nghị luận trung đại. Ví dụ: “Đại cáo Bình Ngơ” của Nguyễn Trãi,
“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” của Thân Nhân Trung…
+ Nghị luận hiện đại. Ví dụ: “Mấy ý nghĩa về thơ” của Nguyễn Đình
Thi, “Nguyễn Đình Chiểu, ngơi sao sáng trong nền văn nghệ của dân tộc” của
Phạm Văn Đồng…
1.4. Văn bản nghị luận trung đại

1.4.1. Khái niệm
Văn bản nghị luận trung đại đƣợc hiểu là tất cả các văn bản nghị luận
đƣợc ra đời trong giai đoạn văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX. Tức là ra
đời trong thời kì trung đại hay nói cách khác là ra đời trong thời kì phong
kiến.
1.4.2. Đặc trưng của văn bản nghị luận trung đại
Văn bản nghị luận trung đại khá phong phú, gồm nhiều thể tài khác
nhau: cáo, chiếu, văn bia, lời bình lịch sử… Tuy mỗi thể tài có những nét đặc
thù nhƣng trên bình diện khái quát, ta thấy các văn bản đó có một số đặc
trƣng cơ bản sau:
1.4.2.1. Văn bản nghị luận trung đại thƣờng đƣợc viết ra bởi những
ngƣời có địa vị, trọng trách lớn trong xã hội. Ra đời trong những thời điểm
quan trọng của lịch sử đất nƣớc. Nó liên quan đến đời sống cộng đồng.
Ví dụ nhƣ:
“Chiếu dời đơ” của Lý Công Uẩn, đƣợc viết năm Canh Tuất, niên hiệu
Thuận Thiên thức nhất (năm 1010) nhân sự kiện dời kinh đô từ Hoa Lƣ ra
thành Đại La (Thăng Long).

25


×