Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Phong tục dựng nhà của các tộc người thuộc nhóm nam đảo ở tây nguyên việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (745.41 KB, 78 trang )

-----------------------------------------------------

MARIA ZELENKOVA

PHONG TỤC DỰNG NHÀ
CỦA CÁC TỘC NGƯỜI THUỘC
NHÓM NAM ĐẢO Ở TÂY NGUYÊN VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÂU Á HỌC
MÃ SỐ:

60 31 50

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS MAI NGỌC CHỪ

HÀ NỘI 2012


MỤC LỤC
TRANG

Mở đầu

3

1. Lý do chọn đề tài

3

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


3

3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

4

4. Mục đích nghiên cứu

5

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

6

6. Phương pháp nghiên cứu

6

7. Bố cục của luận văn

6

Chƣơng 1: Sơ lƣợc về các tộc ngƣời nhóm Nam Đảo ở Tây Nguyên

8

1.1. Đôi nét về nhóm Nam Đảo ở Đông Nam Á

8


1.2. Nhóm Nam Đảo ở Tây Nguyên

17

1.2.1. Lịch sử hình thành

18

1.2.2. Địa bàn phân bố, dân số

23

1.2.3. Đời sống vật chất

25

1.2.4. Một số nét văn hoá tiêu biểu

29

1.2.5. Nhà trong quan niệm của các tộc người nhóm Nam Đảo

33

Chƣơng 2: Một số thủ tục liên quan đến việc làm nhà

37

2.1. Chọn đất


37

2.2. Chọn hướng nhà

39

2.3. Chọn ngày, giờ

42

2.4. Chọn gỗ

45

2.5. Một số nghi lễ liên quan đến việc làm nhà

51

2.5.1. Lễ tìm được đất dựng nhà

51

2.5.2. Lễ tẩy uế gỗ

52

2.5.3. Lễ động thổ (đóng cọc nhà)

52


2.5.4. Lễ cúng tổ phụ gia đình và Lễ cúng tổ sư nghề

55

1


2.5.5. Lễ dựng nhà

55

2.5.6. Lễ khánh thành nhà mới

56

2.5.7. Lễ dựng táo quân (đặt bếp)

57

2.5.8. Lễ dựng cửa ngõ

57

Chƣơng 3: Cấu trúc nhà

59

3.1. Cấu trúc nhà cộng đồng

59


3.1.1. Nhà rông

59

3.1.2. Các nhà cộng đồng khác

61

3.2. Cấu trúc nhà ở

64

Kết luận

72

Tài liệu tham khảo

77

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nằm giữa bán đảo Đông Dương, Tây Nguyên là một cao nguyên rộng lớn ở Tây
- Nam Trung Bộ; là vùng chiến lược cực kỳ quan trọng về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng; là cầu nối giữa hai miền Nam - Bắc. Thêm nữa, Tây Nguyên cũng có thể
coi là một trong những trung tâm văn hóa lớn của Đông Nam Á. Cho đến nay, xã hội
của các tộc người Tây Nguyên vẫn còn mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống của tổ

tiên. Điều đó được thể hiện ở nhiều bình diện như cách thức sản xuất, nhà cửa, trang
phục, đồ ăn, thức uống, phương thức vận chuyển và đi lại, quan hệ trong gia đình,
nghệ thuật...
Nghiên cứu các tộc người thiểu số ở Tây Nguyên, người ta không thể không
nhắc đến nhóm Nam Đảo (hay còn gọi là nhóm Chàm), bao gồm các tộc người Ê-đê,
Chăm, Gia-rai, Ra-glai và Chu-ru. Từ lâu các tộc người này đã có sự giao thoa văn hóa
lẫn nhau mà một trong những biểu hiện của sự giao thoa ấy chính là những tương
đồng về các phong tục xây dựng nhà, kiến trúc nhà cộng đồng và nhà ở.
Bị lôi cuốn bởi những nét độc đáo trong phong tục dựng nhà và cấu trúc nhà của
các tộc người thuộc nhóm Nam Đảo ở Tây Nguyên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài
nghiên cứu “Phong tục dựng nhà của các tộc người thuộc nhóm Nam Đảo ở Tây
Nguyên Việt Nam”.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là các phong tục liên quan đến việc
dựng nhà của các tộc người nhóm Nam Đảo. Phạm vi nghiên cứu là 5 tộc người Nam
Đảo ở Việt Nam.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

3


Nhóm Nam Đảo nói chung và các tộc người Nam Đảo ở Việt Nam nói riêng có
vai trò cực kì quan trọng, là một trong những mảng đề tài hàng đầu được các nghiên
cứu dân tộc học, ngôn ngữ học, văn hoá học, khu vực học, …đặc biệt quan tâm.
Vấn đề phong tục tập quán của nhóm Nam Đảo đã được một số tác giả và tập
thể tác giả trong giới sử học, dân tộc học, văn hoá học nghiên cứu ở những góc độ,
khía cạnh khác nhau.
Việc nghiên cứu các tộc người Tây Nguyên (trong đó có cả các tộc người nhóm
Nam Đảo) đã trải qua quá trình lâu dài hàng thế kỷ trước đây, trước nhất là từ các học
giả hay các viên quan cai trị người Pháp, với các tên tuổi nổi tiếng, như J.Dournes,

Henry Maitre, G.Condominas…
Cuốn “Người Ê-đê: một xã hội mẫu quyền” của Anne de Hautecloque - Howe
đánh dấu sự mở đầu quan tâm cụ thể đến nhóm tộc người Nam Đảo ở Việt Nam. Bà
Anne de Hautecloque - Howe đại diện cho nhóm học giả thế hệ thứ hai nghiên cứu về
Tây Nguyên. Đặc trưng nổi bật trong việc nghiên cứu của bà là việc nghiên cứu thực
tế: bà đã sống và làm việc ở Đắc Lắc, thu tập tài liệu có giá trị thực tế. Từ đó nhiều
học giả thế hệ sau rút ra cách thức nghiên cứu và tiếp tục sự nghiệp to lớn của bà.
Đánh dấu nghiên cứu phong tục dựng nhà của người nhóm Nam Đảo ở Tây
Nguyên Việt Nam là cuốn sách của học giả Nguyễn Văn Luận có tên “Nhà người
Chăm”. Đây là cuốn sách thu thập những thông tin cơ bản nhất về kiến trúc, phong tục
xây dựng và các thủ tục liên quan đến việc dựng nhà của người Chăm.
Cuốn “Nghề thủ công truyền thống của các dân tộc Tây Nguyên” của Linh Nga
Niê Kdam là tài liệu rất có giá trị đối với người nghiên cứu về phong tục dựng nhà của
các tộc người ở Tây Nguyên Việt Nam. Cuốn sách này thu thập và giới thiệu về những
nghề truyền thống của các dân tộc Tây Nguyên, trong đó việc dựng nhà được xem xét
như nghề hàng đầu trong nền văn hóa tộc người thiểu số.
Trong tác phẩm“Nhà ở của người Chăm Ninh Thuận” tác giả Lê Duy Đại xem
xét cụ thể phong tục dựng nhà của người Chăm Ninh Thuận. Tác phẩm này rất có giá
trị vì trong đó tác giả thu tập và miêu tả rất rõ phần lớn các nghi lễ và thủ tục liên quan

4


đến việc dựng nhà của người Chăm cũng như đưa ra những hình ảnh rõ ràng về kiến
trúc nhà truyền thống Chăm.
Cuốn “Kiến trúc dân gian truyền thống Việt Nam” của Chu Quang Trứ đã trở
thành cơ sở trong việc nghiên cứu đề tài phong tục dựng nhà của người nhóm Nam
Đảo ở Tây Nguyên Việt Nam. Cuốn sách phản ánh sự đa dạng và bản sắc riêng biệt
của kiến trúc các kiểu nhà ở và nhà cộng đồng của nhiều tộc người Việt Nam, trong
đó, tác giả chú ý đặc biệt đến nhà Rông Gia-rai, nhà dài Ê-đê, nhà sàn Chăm.

Phong tục dựng nhà của các dân tộc Nam Đảo đã ít nhiều trở thành chủ thể
nghiên cứu trong những cuốn như “Văn hóa Việt Nam: nhìn từ Mỹ thuật”của Chu
Quang Trứ , “Hỏi đáp về 54 dân tộc Vịet Nam” của Đặng Việt Thủy, “Tây Nguyên:
vùng đất và con người” của Đinh Văn Thiên, “Văn hóa xã hội và con người Tây
Nguyên” của Nguyễn Tấn Đắc và nhiều tác phẩm khác.
Những tài liệu được công bố nói trên luôn là những tài liệu quan trọng giúp
chúng tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu và hoàn thành luận văn “Phong tục dựng nhà của
các tộc người thuộc nhóm Nam Đảo ở Tây Nguyên Việt Nam”.
4. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài Phong tục dựng nhà của các tộc người thuộc nhóm Nam Đảo ở Tây
Nguyên Việt Nam, chúng tôi muốn nêu bật những đặc trưng văn hoá của các tộc người
Nam Đảo Tây Nguyên trong việc xây dựng nhà cửa, từ đó góp phần làm sáng tỏ giá trị
và bản sắc văn hoá của các tộc người Nam Đảo ở Tây Nguyên trong cộng đồng văn
hoá Việt Nam.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài hướng vào 3 nhiệm vụ trọng yếu như sau:
- Tìm hiểu những thủ tục liên quan đến việc làm nhà (chọn ngày giờ, hướng
nhà, chọn gỗ, …);
- Miêu tả cấu trúc của hai loại nhà chủ yếu: nhà cộng đồng và nhà ở;
- Chỉ ra những tương đồng và khác biệt trong việc dựng nhà của các tộc người
thuộc nhóm Nam Đảo Tây nguyên.
5


6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện được các nhiệm vụ nêu trên và đạt được mục tiêu đề ra ở đề tài
này, em chủ yếu sử dụng phương pháp miêu tả và phương pháp so sánh - đối chiếu.
Trong quá trình thu thập tài liệu, ngoài việc đọc sách, em đã đi đến một số nơi
cư trú của người Ê-đê ở Buôn Ma Thuột và người Chăm ở Ninh Thuận.
Em cũng đã đi thăm các tháp Chàm nổi tiếng như khu tháp Mỹ Sơn, tháp Cảnh

Tiên, tháp Thủ Thiện, và từ đó em đã có thể kiểm chứng được những tài liệu mà em đã
đọc và nghiên cứu để viết luận văn này. Còn chuyến đi Khánh Hòa và TP Hồ Chí
Minh đã giúp em tìm hiểu thêm về nhà ở của người Chăm. Ở đồng bằng sông Cửu
Long em đã được mời vào nhà của người Chăm để tham quan, và em đã tận mắt nhìn
thấy khuôn viên nhà của người Chăm cũng như cách bố trí nơi ăn chốn ở của họ.
7. Bố cục của luận văn
Luận văn này gồm có 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận.
Trong phần mở đầu chúng tôi nói về lý do chọn đề tài, lịch sử, mục đích và nhiệm vụ
nghiên cứu, nêu ra những phương pháp nghiên cứu và bố cục của luận văn. Phần nội
dung được chia làm ba chương:
Chương 1: Sơ lược về các tộc người nhóm Nam Đảo ở Tây Nguyên
Chương 2: Một số thủ tục liên quan đến việc làm nhà
Chương 3: Cấu trúc nhà
Phần kết luận khái quát một số đặc điểm tiêu biểu về thủ tục và cấu trúc nhà của
các tộc người nhóm Nam Đảo Tây Nguyên và nêu ra những tương đồng và khác biệt
về thủ tục và cấu trúc nhà của các tộc người nhóm Nam Đảo ở Tây Nguyên.
Như vậy, công trình này hướng vào việc nghiên cứu những đặc trưng nổi bật
trong phong tục dựng nhà của các tộc người thuộc nhóm Nam Đảo ở Việt Nam.

6


Chƣơng 1: SƠ LƢỢC VỀ CÁC TỘC NGƢỜI NHÓM NAM
ĐẢO Ở TÂY NGUYÊN
1.1 . Đôi nét về nhóm Nam Đảo ở Đông Nam Á
Đông Nam Á là một vùng văn hóa giàu có, phong phú và riêng biệt. Nếu xét
theo bản đồ chính trị hiện đại, Đông Nam Á có 11 nước: Myanmar, Thái Lan, Việt
Nam, Lào, Campuchia, Malaysia, Singapore, Indonesia, Philippin, Brunei, Đông
Timor. Nhưng nếu xét theo bản đồ văn hóa – tộc người, thì khu vực Đông Nam Á
rộng hơn. Nó bao gồm vùng Nam Trung Quốc, vùng Đông Bắc Ấn Độ, thậm chí các

quần đảo ở Thái Bình Dương, và cả Madagascar, v.v…
Đông Nam Á là khu vực có chữ viết muộn, chủ yếu là mượn từ nguồn chữ Hán
và các văn tự Ấn Độ. Việc nghiên cứu các ngôn ngữ ở Đông Nam Á chỉ thực sự được
bắt đầu từ khi có sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Các học giả phương
Tây khi nghiên cứu các ngôn ngữ ở Đông Nam Á thường tập trung vào hai nội dung
chính là miêu tả các ngôn ngữ cụ thể và biên soạn các sách công cụ. Họ cũng đã sử
dụng phương pháp so sánh ngôn ngữ học lịch sử để tìm ra các mối quan hệ thân thuộc
giữa các ngôn ngữ.
Nhìn chung, sự phân loại các ngôn ngữ ở Đông Nam Á là công việc khó khăn.
Hiện nay theo các học giả ở Đông Nam Á có 4 ngữ hệ chủ yếu [19, tr. 100]:
1. Ngữ hệ Nam Á
2. Ngữ hệ Thái
3. Ngữ hệ Nam Đảo (có người gọi là Malayô – Pôlinêdia)
4. Ngữ hệ Hán – Tạng
Bắt nguồn từ sự phân chia theo ngữ hệ, các nhà khoa học cũng dùng cách phân
chia này để phân loại các tộc người theo các nền văn hóa cơ bản. Như vậy, nhóm Nam
Đảo không chỉ là nhóm của các tộc người nói những ngôn ngữ cùng một ngữ hệ, mà
còn là một vùng văn hóa chung.
Các tộc người thuộc nhóm Nam Đảo (Austronesian) hay Mã Lai - Đa Đảo
(Malayo - Polynesian) tập trung đông nhất ở các nước Philippin, Indonesia, Malaysia,
7


một số ở Campuchia, Việt Nam và Singapore. Nhóm Nam Đảo ở Việt Nam bao gồm
5 tộc người (và 5 ngôn ngữ của các tộc người này): Gia-rai, Ê-đê, Chăm, Ra-glai, Churu.
Đại diện cho nhóm Nam Đảo chủ yếu là người Mã Lai. Những nhóm cư dân ở
phía Nam Đông Nam Á do lai tạp với nhiều thành phần cư dân khác nên không điển
hình bằng, và do đó, người ta có xu hướng tách riêng họ thành nhóm Nam Đảo
(Austronesian). Theo Từ điển Larousse du 20e siècle (Larousse của thế kỷ XX), Nam
Đảo chỉ tổng thể những vùng đất của châu Đại Dương, tức là các đảo lớn nằm trên

Thái Bình Dương đến phía Nam của Đông Nam Á [16, tr. 47]. Đây là khu vực rộng
lớn, có rất nhiều đảo, nên có nhiều nét văn hoá rất khác nhau.
Về đặc điểm nhân chủng nhóm Nam Đảo (số với các nhóm tộc người khác) có
những nét tiêu biểu:
- Nước da sẫm hơn;
- Pha trộn giống mạnh hơn.
Các tộc người thuộc nhóm Nam Đảo nói một thứ tiếng phân bố rộng rãi từ
Madagascar, qua bán đảo Mã Lai, Indonesia cho đến Hawaii. Nhóm ngôn ngữ châu
Đại Dương của người Nam Đảo (Austronesian) thường gọi là tiếng Mã Lai – Đa Đảo
(Malayo - Polynesian). Tiêu biểu là tiếng Mã Lai, Chăm, Ê-đê, Gia-rai, Đài Loan,
Indonesia, Philippines, Micronesia, Melanesia, Polynesia [16, tr. 51].
Hai tên gọi Malayo – Polynesian và Austronesian (Nam Đảo) xem như đồng
nghĩa. Ngữ hệ này bao gồm khoảng 200 tiếng nói cụ thể, chủ yếu ở các đảo, trải dài từ
Đông Nam Á đến các quần đảo ở châu Đại Dương (thuộc Thái Bình Dương) về phía
Đông, và hòn đảo Madagascar ở Đông Nam châu Phi về phía Tây.
Những nơi và số người nói tiếng Malayo – Polynesian gồm có:
Vùng

Số tiếng nói

Số người

1.

Đài Loan

10

200 000


2.

Philippin

70

40 000 000

3.

Việt Nam + Campuchia

7

700 000

8


4.

Madagascar

1

8 000 000

5.

Indonesia, Malaysia, Brunei


300

130 000 000

6.

Melanesia

350

1 200 000

7.

Micronesia

12

200 000

8.

Polynesia

20

700 000

770


181 000 000

Tổng cộng

Nguồn: theo số liệu của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
Ngoài những nước kể trên, còn có những nhóm cư dân khác cũng nói tiếng
Malayo – Polynesian như:
- Một nhóm nhỏ người nói tiếng Chăm ỏ đảo Hải Nam Trung Quốc;
- Những cộng đồng nhỏ ở các vùng tiếp giáp với Thái Lan và Myanma;
- Một số vùng trong quần đảo Melanesia: Papua New Guinea, các đảo Solomon,
Vanuatu, New Caledonia, Fiji;
- Một số vùng trong quần đảo Micronesia: Belau, Guam, Bắc Marianas, Federal
State of Micronesia, các đảo Marshall, Kiribati, Nauru;
- Một số vùng trong quần đảo Polinesia: Tuvalu, Tongo, Wallis và Futuna, Samoa,
Tokelau, Nieu, Hawaii, French Polinesia, Cook Islands, New Zealand, Easter
Island;
- Và còn những người ngoại lai, cư dân ở ba quần đảo trên hoàn toàn nói tiếng
Malayo – Polynesian.
Tiếng Indonesia/Malaysia chủ yếu là ngôn ngữ Malayo – Polynesian, nhưng nó
có hai vùng nói tiếng khác. Đó là tiếng Aslian thuộc Austro Asiatic (Nam Á) ở nội địa
bán đảo Malaysia, và tiếng Papuan trên đảo New Guinea và một số đảo nhỏ ở phía
Đông và Tây của nó [16, tr. 59].
Ở Việt Nam và Campuchia, những người nói tiếng Malayo – Polynesian là
những nhóm thiểu số nhỏ như người Chăm, Ê-đê, Gia-rai, Ra-glai, Chu-ru nằm giữa
những nhóm lớn nói tiếng Việt và tiếng Khmer.
9


Ở Đài Loan, người thổ dân nói tiếng Malayo – Polynesian. Còn cư dân hiện nay

chủ yếu là người từ lục địa ra đảo từ 300 năm nay, nhất là từ năm 1949.
Nghiên cứu so sánh các nhóm ngôn ngữ Malayo – Polynesian thì thấy:
- Tiếng thổ dân Đài Loan còn giữ nhiều âm cổ thấy ở hầu hết các nhóm tiếng
Malayo – Polynesian, nên có thể xem là nhóm cổ nhất, có thể gọi là tiếng
Austronesian (Nam Đảo) đích thực.
- Ngoài tiếng Đài Loan, các nhóm còn lại có thể gọi chung là Malayo –
Polynesian (Mã Lai – Đa Đảo).
- Nhóm các ngôn ngữ ở Melanesia, Micronesia và Polynesia trên các quần đảo ở
Thái Bình Dương, được Dempwolff nêu ra đầu tiên, nay được gọi chung là tiếng
Oceanic (tiếng châu Đại Dương) [16, tr. 59].
Những quốc gia mà tiếng nói chính thức là tiếng Malayo – Polynesian là
Indonesia, Malaysia, Philippin, Singapore.
Ở Malaysia có ba cộng đồng cư dân chính là Mã Lai, Hoa và Ấn (Tamil). Vì
người Mã Lai là tộc người chủ thể lại có nguồn gốc bản địa, nên tiếng Mã Lai được
xem là tiếng chính thức của quốc gia. Theo định nghĩa của Malaysia, người Mã Lai là
người theo Islam (Hồi giáo) và nói tiếng Mã Lai.
Singapore cũng xem tiếng Mã Lai là tiếng nói chính thức của quốc gia, nhưng
trên thực tế thì tiếng Anh được sử dụng rộng rãi trong xã hội.
Indonesia gồm nhiều cộng đồng cư dân có tiếng nói riêng nhưng đều thuộc về
ngữ hệ Malayo – Polynesian. Các cộng đồng này có lịch sử lâu đời và nền văn hóa
riêng như Jawa, Sunda, Batak, Minangkabau, Madura, Bali, v.v… Tiếng Mã Lai ở
Indonesia và tiếng Mã Lai ở Malaysia về cơ bản là giống nhau. Sự khác nhau của
chúng chủ yếu nằm ở lớp từ vay mượn.
Về chữ viết, xưa kia các nước này chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ nên đã
vay mượn chữ viết Ấn Độ. Từ thế kỷ XIII – XV, Islam (Hồi giáo) xâm nhập vào các
nước ấy nên đã chuyển sang dùng chữ cái Ả rập. Sang thế kỷ XX, trước ảnh hưởng
của văn hóa phương Tây, họ đã sử dụng chữ cái Latinh.

10



Có những từ Malayo – Polynesian được nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới (nhất
là ở châu Âu) sử dụng như: Tabou: cấm kỵ, Tatouage: xăm mình, Tamouré: nhảy múa,
Monoi tiare: dầu hoa, nước hoa.
Nếu căn cứ vào lịch sử thì nhóm ngôn ngữ Nam Đảo được hình thành vào
khoảng Thiên niên kỷ II trước Công Nguyên, tại vùng Đông Nam ven biển Quảng
Đông, Trung Quốc hiện nay. Do sản xuất phát triển và dân số tăng, họ đã di cư xuống
Đông Nam Á nhiều đợt theo hai hướng chính.
Hướng thứ nhất dọc theo bờ biển Trung Quốc và Việt Nam. Người Chăm dừng
lại ở đây rồi đến miền Tây Indonexia, từ đó đi về Đông và Đông Bắc đến Philippin và
Đà Loan.
Hướng thứ hai qua Đài Loan sang Philippin rồi từ đó sang Indonexia qua Đông
Dương.
Vấn đề địa bàn tụ sinh và con đường thiên đi của các tộc người Nam Đảo là mối
lưu tâm của nhiều nhà khoa học lịch sử phương Đông. Một số nhà ngôn ngữ, bắt đầu
là P.K. Bennedict, nêu lên mối quan hệ ngôn ngữ giữa Tày – Thái và Indonexia thông
qua nhóm Kađai, sau đó đưa ra khái niệm Nam Thái (Austro – Thái) đã góp phần giúp
các nhà khoa học lịch sử, dân tộc học tìm kiếm nơi tụ sinh của các cư dân Nam Đảo ở
miền Đông Nam Trung Hoa, thuộc khu vực phía Nam sông Dương Tử, vùng nước
Việt thời Xuân Thu (VII – V trước CN) và Ngô, Việt thời Chiến Quốc (V – II trước
CN). Heine Gelbern là người đầu tiên đưa ra giả thuyết này vào năm 1923 [37, tr.
307]. Ông dựa vào sự phân bố của chiếc rìu đá mài tứ diện vốn xuất hiện từ lục địa
ven biển Đông – Nam Trung Hoa, sau lan xuống phương Nam bằng hai con đường:
đường thủy và đường bộ xuống Đông Nam Á. Đến năm 1951, theo M.C. Levin và
N.N. Tchebocxarov, Mongoloid từ phương Bắc xuống hỗn thuyết cùng người
Australoid cư trú từ trước, đã tạo nên tổ tiên người Mã Lai – Đa Đảo được đa số giới
khoa học chấp nhận, một phần cũng nhờ những cư liện ngôn ngữ học, lịch sử cổ đại
Trung Hoa [41, tr. 41].
Gần đây, nhà khoa học W.G. Solheim II đưa ra một quan điểm khác, đó là coi
các tộc người Nam Đảo xuất phát từ khu vực quần đảo Đông Nam Á rồi tỏa ra khu

11


vực Đông Nam Á – Thái Bình Dương, tới tận châu Đại Dương và miền Nam Trung
Hoa [40, tr. 34]. Ý kiến đó cần xem xét, vì thực tế khó bác bỏ ý kiến được đa số các
nhà bác học đồng tình đã nêu ra ở trên. Có lẽ, W.G. Solheim lầm lẫn vì các cư dân
Nam Đảo ở hai đảo lập quốc muộn hơn nhiều so với các cư dân thuộc các dòng ngôn
ngữ khác ở lục địa. Vậy sao họ lại mang được văn minh của họ lên các vùng lục địa.
Việc phát hiện di chỉ Noc Non Tha chính do nhóm nghiên cứu của ông phát hiện ra
với vết tích của lúa cũng đã thấy ở vùng Bắc Thái Lan cư dân đã có trình độ văn minh
hơn cư dân hải đảo cùng thời [37, tr. 308].
Do sự phát triển sản xuất và gia tăng dân số, do sự tranh chấp của những thế lực
chính trị địa phương, và nhất là do sự bành trướng thế lực của tổ tiên người Hán xuống
phương Nam, tổ tiên người Nam Đảo, vốn dĩ giỏi đi thuyền đã không ngừng vượt biển
xuống phương Nam bằng đường biển qua Đài Loan, đảo Hải Nam, xuống Indonesia,
mạnh nhất cách đây khoảng 2000 năm, hoặc theo dọc bờ biển Nam Trung Hoa và Việt
Nam. Cũng có một bộ phận nhỏ có thể xuống phương Nam theo đường bộ, cùng với tổ
tiên người Kađai và Tày – Thái. Điều này trùng khớp với hai thời kỳ đầy biến động vì
chiến tranh ở vùng Đông Nam sông Trường Giang, liên quan đến hai nước Việt, Ngô
chắc chắn là miền đất khác Hán; đồng thời không liên quan đến cư dân Nam - Việt
được coi là tổ tiên Kăm - Thái (hay Tày - Thái). Miền đất Đông Việt, hay sau gọi là
Ngô Việt này, lại nằm phía trên đất Mân Việt là đất Di Việt, Di Bộc hay Liêu là đất
của tổ tiên người Kađai, đặc biệt của tộc người Cơ Lao [37, tr. 309]. Nhóm Sơn Việt
trong Di Việt, xuất hiện từ thời Đông Hán đến thời Tùy Đường không thấy sử sách
nhắc đến, là tổ tiên của người Nam Đảo.
Tất cả các cư dân nói trên, Nam Đảo hay Kađai, có thể bao gồm bộ phận Kăm –
Thái, đều được giả định là chủ nhân ông các nền văn hóa khảo cổ cùng thời, bên trong
nội địa Nam Trung Quốc và Đông Dương [37, tr. 309].
Những tộc người thuộc nhóm Nam Đảo hiện nay tập trung chủ yếu ở các quần
đảo:

- Malaysia: Mã Lai
- Melanesia: (Mela: đen; nesia: đảo) Đảo Đen
12


- Polynesia: (Poly: nhiều; nesia: đảo) Đa Đảo
- Micronesia: (Micro: nhỏ, nesia: đảo) Đảo Nhỏ
Nhìn chung họ thuộc giống người Mã Lai là chính, có pha trộn với người
Indonesian (nhóm dân tộc Indonesian chứ không phải là người Inđonêxia) là cư dân
gốc Đông Nam Á có lẽ đã ở từ trước. Những người Polynesian và người Micronesian
chủ yếu là do sự pha trộn hai giống người trên mà thành.
Mỗi vùng quần đảo có những đặc điểm như sau:
- Polynesia (Đa Đảo) nằm ở phía Đông Thái Bình Dương, phía Đông là châu
Mỹ, phía Nam là nước Úc, phía Tây là Micronesia và Melanesia. Vùng này có rất
nhiều đảo nên gọi là Đa Đảo. Cư dân Đa Đảo có nguồn gốc ở các đảo gần Malaysia
như Dayak, Alfuru. Họ chủ yếu làm nông nghiệp, đôi khi đánh cá, đi săn. Họ sinh
sống bằng rễ củ, trái cây, rau hơn là cá [16, tr. 17].
- Melanesia (Đảo Đen) nằm ở phía Bắc nước Úc và phía Đông Malaysia. Cư
dân là những người da ít đen, cao lớn, đầu hẹp, mặt rộng, mũi thẳng và rộng, má dô,
tóc quăn hoặc thẳng [16, tr. 17].
- Malaysia nằm ở Tây Nam Thái Bình Dương, có những đảo nay thuộc Đông
Nam Á như Timor (Maluku), Suiawesl (Celebes), Kalimantan (Borneo), Philippin [16,
tr. 18].
- Micronesia (Đảo Nhỏ) gồm một số đảo nhỏ nằm giữa Malaysia ở phía Tây,
Melanesia ở phía Nam và Polynesia ở phía Đông. Các đảo chính là Marianne, Palaos,
Carolines, Marshall, Gthbert. Cư dân có nước da sáng, chủ yếu đánh cá, đi biển [16, tr.
18] .
Nghiên cứu về các vùng cư trú đầu tiên của các tộc người nhóm Nam Đảo cần
phải chú ý đặc biệt tới Đài Loan. Đài Loan là một hòn đảo ở biển phía Đông Nam
Trung Quốc, lãnh thổ của 7 bộ lạc cư dân bản địa nói tiếng Malayo – Polynesian.

Trong số các tộc người đầu tiên có mặt ở Đài Loan là người Ami. Bộ lạc người
Ami hiện có 90 000 người, có tiếng nói riêng. Họ vốn làm nương rẫy, nuôi chó để đi
săn, heo và gà để cúng, mặc quần áo bằng vỏ cây.

13


Người Ami theo mẫu hệ, gồm 50 thị tộc, cư trú về phía mẹ, kết cấu chính trị là
nhị nguyên, một là quyền uy thế tục của những nhóm đàn ông theo lứa tuổi, hai là
quyền uy nghi lễ thuộc về họ mẹ gọi là Kakitaan, tức là những gia đình thầy cúng mẹ
truyền con nối, nhưng trong đó đàn ông, chứ không phải đàn bà, làm vai trò thầy cúng.
Sự kiểm soát xã hội không dựa vào luật mà dựa vào việc trả thù nợ máu của
những người thân với người chết. Chiến tranh với các nhóm khác đưa đến việc săn đầu
người. Việc lấy đầu người xảy ra trong lễ irisin tiến hành tiếp theo khi thu hoạch kê,
nhằm cầu mong sự sinh sôi và đổi mới.
Làng người Ami xưa được bảo vệ chống kẻ thù bằng cọc tre và hầm hào.
Hay như bộ lạc người Puyuma, hiện có khoảng 6 000 người, vốn là cư dân làm
nông, săn bắt và đánh cá. Đất là sở hữu của các gia đình quý tộc.
Làng trung bình có khoảng 600 người. Mỗi làng là một đơn vị độc lập về chính
trị, và hầu như theo chế độ nội hôn. Quyền lãnh đạo kế thừa trong các gia đình tù
trưởng.
Họ theo chế độ mẫu hệ và nơi cư trú phụ thuộc mẹ.
Tổ chức xã hội theo chế độ phân đôi (moiety), nửa này tấn công nửa kia. Có các
nhóm chia theo lứa tuổi, hoạt động như là những trường huấn luyện quân sự.
Từ 18 đến 22 tuổi, con trai sống tách rời phụ nữ trong những ngôi nhà dành
riêng cho đàn ông, và luyện tập đánh nhau. Đến 22 tuổi thì được cưới vợ, rời khỏi ngôi
nhà dành cho đàn ông và về ở với gia đình vợ.
Người Puyuma cho rằng con người có 3 hồn: 1 ở đầu, và 2 ở hai vai. Người ốm
là do hồn ở vai bỏ đi. Thầy cúng chữa bằng cách gọi hồn ở vai về. Người chết là vì
hồn ở đầu bỏ đi.

Đây là hai trong bảy bộ lạc cư dân gốc Đài Loan. Và cả hai đều đại diện cho tổ
tiên cổ của người Nam Đảo, và cũng có những đặc điểm ngôn ngữ văn hóa giống các
tộc người khác trong nhóm Nam Đảo.
Nói đến các vùng cư trú của các tộc người nhóm Nam Đảo, cần phải nói đến
Madagascar. Madagascar là một hòn đảo nằm phía Đông Nam châu Phi, rất xa về phía

14


Tây khu vực Đông Nam Á. Về vị trí địa lý nó thuộc về châu Phi, nhưng về văn hóa nó
thuộc về Đông Nam Á.
Theo truyền thuyết, cư dân đầu tiên là những người Nains, người Kimos. Sau
đó, có lẽ từ trước Công Nguyên, người Mã Lai từ Đông Nam Á đã đến đây làm thay
đổi tính chất cư dân của đảo. Người Mã Lai từ quê hương xa xôi đã kéo nhau đông
đúc và thường xuyên, hoạt động nhộn nhịp trong việc chuyên chở trên biển, làm cho
các nhà địa lý và thủy thủ thời đó thường nghĩ rằng Madagascar là một phần của Đông
Nam Á. Cư dân ở đây phát triển một nền văn minh trồng lúa và chăn nuôi bò. Vì vậy,
đến nay đối với người Madagascar hai thứ quý nhất là gạo và bò Zebu [16, tr. 22].
Về mặt tổ chức xã hội - kinh tế, các tộc người Nam Đảo chủ yếu là cư dân hải
đảo và các vùng gần biển (trừ các tộc người do điều kiện lịch sử - tự nhiên phải đi lên
núi). Vì vậy, các tộc người Nam Đảo có hoạt động trên biển khá mạnh. Chẳng hạn,
người Mã Lai không những lan tỏa về phía Đông thuộc Châu Đại Dương, mà còn lan
tỏa sang phía Tây đến tận Madagascar ở Đông Nam châu Phi. Họ là những cư dân
thành thạo nghề đi biển.
Các tộc người Nam Đảo đã lợi dụng đường giao thông trên biển để mở rộng
buôn bán với bên ngoài, nên thương mại trên biển phát triển. Người Mã Lai ở vào vị
trí thuận lợi trên biển nên đã có vai trò quan trọng trong giao dịch qua lại.
Xét về mặt địa lý, các tộc người Nam Đảo sống rải rác trên những quần đảo,
nên mặc dù văn hóa các tộc người phát triển, nhưng một quốc gia thống nhất lại ra đời
khá muộn.

Về văn hóa và tôn giáo, trước kia các tộc người Nam Đảo chịu ảnh hưởng của
văn hóa và chữ viết Ấn Độ, cũng theo Ấn độ giáo và Phật giáo. Từ thế kỷ XV trở đi,
Islam giáo và văn hóa Ả rập đã lan truyền vào vùng Malayo – Polynesia. Ngày nay, đa
số tộc người thuộc nhóm Nam Đảo (nhất là ở Malaysia và Indonesia) theo Islam giáo
và văn hóa Ả rập.
Trong con số kỷ lục hơn 181 000 000 người dân Nam Đảo đang cư trú ở Đông
Nam Á chỉ có khoảng 830 000 người sống trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay. Như đã
nói, họ là người của 5 tộc người: Gia-rai, Ê-đê, Ra-glai, Chăm và Chu-ru. Năm tộc
15


người này vừa có những đặc điểm chung với các tộc người cùng nhóm sống ở các
vùng khác vừa có nét riêng. Trong phần tiếp theo chúng tôi sẽ cố gắng xem xét lịch sử
hình thành của họ và phân tích một số nét văn hóa tiêu biểu.
1.2. Nhóm Nam Đảo ở Tây Nguyên
Ở Việt Nam có 5 tộc người đại diện cho ngữ hệ Nam Đảo, đó là tộc người
Chăm, tộc người Ê-đê, tộc người Gia-Rai và các tộc người Ra-Glai, Chu-Ru. Các tộc
người nay do nhiều nguyên nhân lịch sử - tự nhiên có nhiều đặc điểm chung, nhưng
cũng có nét riêng.
1.2.1. Lịch sử hình thành
Như chúng tôi đã nhận xét ở trên, nhóm ngôn ngữ Nam Đảo được hình thành
vào khoảng Thiên niên kỷ II trước Công Nguyên, tại vùng Đông Nam ven biển Quảng
Đông, Trung Quốc hiện nay. Do sản xuất phát triển và dân số tăng, họ đã di cư xuống
Đông Nam Á nhiều đợt theo hai hướng chính.
Hướng thứ nhất dọc theo bờ biển Trung Quốc và Việt Nam. Người Chăm dừng
lại ở đây rồi đến miền Tây Indonexia, từ đó đi về Đông và Đông Bắc đến Philippin và
Đà Loan.
Hướng thứ hai qua Đài Loan sang Philippin rồi từ đó sang Indonexia qua Đông
Dương.
Một bộ phận tổ tiên dân Nam Đảo mà đã vào bờ biển Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ,

trở thành yếu tố cấu thành tộc người Việt, có thể ngay từ khi còn là phức thể Tiền Việt hay Việt - Mường, trước khi bộ phận này chịu ảnh hưởng của văn minh Trung
Hoa [37, tr. 309]. Câu chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh phản ánh thắng lợi của yếu tố núi
với yếu tố biển, phải chăng đã phản ánh cuộc đấu tranh giữa hai cư dân nói trên. Bộ
phận đổ bộ vào ven biển Miền Trung và Nam Trung Bộ sống hỗn cư với tổ tiên dân cư
Môn - Khơme ở đó từ trước, là tổ tiên người Chăm hiện nay. Lịch sử Chăm ghi nhận
sự có mặt của các dân Môn - Khơme như người Ma Đa (tổ tiên người Ba-na). Truyền
thuyết của các cư dân Môn - Khơme ở Tây Nguyên cũng thừa nhận xưa tổ tiên họ ở
16


dưới đồng bằng ven biển. Điều đó được phản ánh vào các bản trường ca trong nội
dung nói đến những tri thức của người dân Tây Nguyên về biển cả.
Cũng vì vậy, sự phân ngành ngôn ngữ Nam Đảo của các cư dân lục địa Đông
Nam Á, đặc biệt của nhành Chăm (các ngôn ngữ Chăm, Ê-đê, Gia-rai, Ra-glai, Churu), có nhiều yếu tố của ngôn ngữ Môn - Khơme, từ đấy nảy sinh hai ý kiến: 1) cư dân
Môn - Khơme chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ Nam Đảo (P.W. Schmidt); 2) cư dân
Nam Đảo chịu ảnh hưởng nhiều của ngôn ngữ Môn - Khơme (G. Coedès, S.A.
Aruchiunov), và với số lượng yếu tố Môn - Khơme đậm đà, họ tự tách thành một phân
ngành Nam Đảo lục địa nằm trong ngành Nam Đảo phía tây (phân ngành Nam Đảo
hải đảo bao gồm ngôn ngữ của cư dân Gia Va, Ba Li, Sumatra). Việc sắp đặt các ngôn
ngữ nhánh Chăm vào hệ ngôn ngữ nào là chủ yếu vẫn đang còn tranh cãi. Nhưng một
điều chắc chắn là các cư dân Nam Đảo lục địa Đông Nam Á này đã cư trú xen kẽ, kề
cạnh với các cư dân Môn – Khơme bản địa ở đây từ rất lâu, đã hỗn thuyết và vay
mượn ngôn ngữ lẫn nhau, chí ít cũng trên dưới 2000 năm nay [37, tr. 310].
Cũng cần lưu ý một ý kiến khác về sự chuyển cư của các cư dân phân ngành
ngôn ngữ lục địa Đông Nam Á, tổ tiên người Chăm, Ra-glai, Chu-ru, nhất là Ê-đê và
Gia-rai. Ch.Archaimbaut, khi nghiên cứu vương quốc Champassak (Hạ Lào), cho rằng
rất có thể ở vương quốc này, trước khi có mặt người Lào, đã có một nhóm cư dân thân
thuộc với người Chămpa, do sức ép của các nhà nước Môn, nhất là của chế độ
Angkor, đã chuyển cư theo hướng đông tới vùng biển và là tổ tiên của cư dân Nam
Đảo, chí ít trên cao nguyên Việt Nam [37, tr. 311].

Ý kiến nguồn gốc nội địa của cư dân Nam Đảo lục địa Đông Nam Á sau lại
được nhà dân tộc học Y.V. Tchesnov đặt ra [42, tr. 129]. Khi nghiên cứu về tình hình
văn hóa khảo cổ thời kì đồ đồng và đồ sắt Đông Nam Á, kết hợp với những tư liệu dân
tộc học, ông thống nhất với Ch. Archaimbaut có thể cư dân Nam Đảo từ phương Bắc
xuống phương Nam không chỉ bằng đường biển mà cả đường bộ, nhất là người Ê-đê
và Gia-rai.
Sau này, khi phát hiện tộc người La-ha thuộc ngôn ngữ Kađai là dân cư trú ở
Tây Bắc trước người Thái, cùng các tộc người Môn - Khơme như Kháng, Xinh-mun,
17


v.v…, nối liền con đường thiên di của các nhóm Kađai từ Quý Châu xuống Quảng
Tây, qua Hà Giang sang Tây Bắc Việt Nam, càng khích lệ ý kiến cho rằng có thể có
một nhóm người Nam Đảo cũng đã xuống miền Tây Đông Dương theo dọc sông Mê
Công, hỗn huyết với cư dân Môn - Khơme, tạo thành ngành ngôn ngữ Nam Đảo lục
địa Đông Nam Á [37, tr. 312].
Ngay trong lòng văn hóa người Việt hiện nay có rất nhiều dấu tích của văn hóa
Malayo – Polynexia. Tài liệu dân tộc học cho thấy có nhiều vùng dọc theo hai bờ ven
sông Đáy, các cộng đồng cư dân ở đây đã dùng khoai mài và cây mía hoặc mật mía để
tế thần hoàng. Dùng khoai nước và mía để tế thần là cách làm ở Melanesia. Ở Bắc
Ninh (Việt Nam) người dân vẫn thờ mía, dùng hai cây mía để nguyên dựng hai bên
bàn thờ. Nhưng văn hóa Melanesia không phải chỉ ảnh hưởng, mà là một bộ phận
tham gia cấu thành văn hóa Việt (Kinh). Ngày nay có nhiều nhóm người như người
Đản ở Vịnh Hạ Long, người Bồ Lô (từ Thanh Hóa đến Quảng Bình), một số nhóm
khác ở Thừa Thiên và dọc theo ven biển miền Trung và Nam Bộ, mặc dù đã bị Việt
hóa, vẫn còn lại các dấu tích cả về cấu trúc thể chất và ngôn ngữ, về sinh hoạt văn hóa,
không thể chối cãi được về nguồn gốc Melanesia [30, tr. 289].
Dù có nhiều dấu hiệu lịch sử - khảo cổ, nhưng các nhà khoa học vẫn chưa đủ
chứng cớ về nguồn gốc bản địa của các cư dân nói ngôn ngữ Nam Đảo ở Việt Nam:
họ từ đâu đến đây và đến từ bao giờ là những câu hỏi chưa được giải đáp. Có thể là

người Chăm chính là những người đầu tiên đến ở dọc theo ven biển Việt Nam. Sau đó
có một nhóm người chia ra đi lên núi…dần dần hình thành 4 tộc người khác (Gia-rai,
Ê-đe, Ra-glai, Chu-ru).
Ngày nay ở Việt Nam có trên 800 000 người nói ngôn ngữ Malayo – Polynesia
được xếp thành 5 tộc người: Gia-rai, Chăm, Ê-đê, Chu-ru, Ra-glai. Trừ người Chăm
tập trung dọc theo bờ biển Miền Trung tại Ninh Thuận, Bình Thuận, ở Phú Yên,
Khanh Hòa, một bộ phận ở thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh An Giang, còn lại các tộc
người khác đều cư trú ở Tây Nguyên.
Người Chăm hiện đang sống rải rác trên lãnh thổ Việt Nam là hậu duệ trực tiếp
của tổ tiên đã cư trú hàng ngàn năm ở các vùng ven biển (chủ yếu là hai tỉnh Ninh
18


Thuận và Bình Thuận). Riêng nhóm Chà-và-kur dời tổ quốc sang Indonesia và
Malaysia rồi quay lại cư trú tại thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Nam Bộ.
Các nhà khoa học cho rằng lịch sử người Chăm ở Việt Nam bắt đầu với sự xuất
hiện văn hóa Sa Huỳnh, vào giữa thiên niên kỷ thứ I trước Công Nguyên đến đầu
Công Nguyên. Thời đó người Chăm đã có mặt ở miền ven biển Trung Bộ. Họ đã chia
làm hai nhóm. Nhóm Cau ở phía Nam, nay thuộc tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh
Thuận, Bình Thuận; và nhóm Dừa ở phía Bắc, nay là Thừa Thiên – Huế, Quảng Nam,
Quảng Ngãi… Địa bàn cư trú đó là địa bàn quận Nhật Nam thời Hán, trải dài từ
Hoành Sơn đến Quảng Nam, Quảng Ngãi [37, tr. 313].
Người Chăm đóng góp nhiều sắc thái địa phương vào văn hóa người Việt ở
miền Trung, Nam Trung Bộ, làm giàu kho tàng văn hóa Việt Nam. Cũng cần chú ý
người Chăm là tộc người ở Việt Nam cổ xưa chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hóa Ấn Độ
và văn hóa Hồi giáo. Bộ phận người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận còn giữ được
nét văn hóa truyền thống. Bộ phận ở Nam Bộ đượm sắc thái Islam, tuy nhiên trong
sinh hoạt còn giữ được vết tích tập quán xưa, nhất là liên quan đến chế độ mẫu hệ.
Trên đường chuyển cư qua Malaysia, về Campuchia, rồi mới trở lại Việt Nam, họ có
thể hòa hợp với những cư dân đồng ngôn ngữ.

Gia-rai là một trong ba tộc người có số lượng lớn nhất ở Tây Nguyên (Gia-rai,
Ê-đê, Ba-na), trước đây họ là cư dân chủ thể của tỉnh Gia Lai. Khi người Việt có mặt
đông đảo ở tỉnh này, họ co cụm về lập thủ phủ ở tỉnh Phú Bổn, ngày nay tỉnh này trở
thành một huyện thuộc tỉnh Gia Lai: huyện Ya Yunpa. Địa bàn cư trú của người Giarai tập trung thành một vành đai dài theo hướng Tây - Bắc, Đông - Nam, từ phía Tây
thị xã Kon Tum (ở Mo Rai, Sa Thầy) xuống Chư Pả, Chư Prông vắt qua Ya Yunpa,
chiếm trọn cao nguyên đất đỏ Plây Cu màu mỡ. Ngoài tỉnh Gia Lai, người Gia Rai còn
sống rải rác ở Kon Tum, ở Bắc Đắc Lắc, Tây Phú Khánh và một số ở đông - bắc
Campuchia. Sự hiện diện của các ngôi tháp gốm và một số di tích khác còn lại chứng
minh rằng vào trước thế kỉ XI ở vùng thung lũng Ya Yumpa, ở cao nguyên Plây Cu,
cao nguyên Đắc Lắc chịu nhiều ảnh hưởng của vương quốc cổ Chăm Pa. Trong lịch sử
Gia Rai người ta hay nói tới hai vị “vua” có thần quyền vô song: Vua Lửa (ptao Pui),
19


Vua Nước (ptao Ia). Đến thế kỉ XVI, triều đình phong kiến Việt Nam đã phong cho
ptao Ia là Thủy Xá và ptao Pui là Hỏa Xá, và coi Thủy Xá và Hoa Xá như hai thiên
vương, giữ lệ hàng năm cống tiến [30, tr. 290].
Nếu như người Gia-rai làm chủ vùng Gia Lai thì trước đây người Ê-đê làm chủ
Buôn Ma Thuột (nay là Đắc Lắc). Theo tiếng Ê-đê “Buôn” có nghĩa là làng, “Ma” là
cha, bố, “Thuột” là tên người. Buôn Ma Thuột có nghĩa là làng của bố của ông Thuột.
Người Ê-đê chiếm cứ hàng trăm cây số trên vùng cao nguyên đất đỏ rộng lớn và màu
mỡ. Người Ê-đê phân bố tập trung nhất ở huyện Krông Búc, M’đrắc. Ngoài Đắc Lắc
một số người Ê-đê còn cư trú ở Phú Yên, Khánh Hòa và một số ở phía Nam của tỉnh
Gia Lai.
Vào thế kỷ IV sau Công Nguyên, người Chăm gọi các cư dân Tây Nguyên là
Mleechai. Đến khoảng thế kỷ X tên Ê-đê được ghi trên bia ký Chăm. Trong khoảng
thế kỷ VI đến thế kỷ XV, người Ê-đê chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Chăm. Người
Chăm đã để lại trong vùng cư trú của người Ê-đê thành Ea H’leo (Yang Prong) ở bắc
Bản Đơn, Ra Sang (thùng lớn làm lễ giáo) ở Buôn Ma Thuột. Ở thế kỷ XIII, khi quân
Nguyên bành trướng xuống Đông Nam Á, một bộ phận khá đông người Chăm đã lên

Tây Nguyên. Vị vua Chăm cuối cùng là Pô Rômê (1624 - 1654) đã lấy vợ là người Êđê tên là H’bia Than Chan. Ngày nay văn hóa Chăm còn để lại nhiều yếu tố trong văn
hóa của người Ê-đê [30, tr. 291].
Một trong những tộc người nói ngôn ngữ Malayo – Polynesia sống gần gũi và
chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Chăm đó là người Ra-glai. Người Ra-glai sống ở
vùng núi chia cắt Tây Nguyên với vùng ven biển miền Trung tại phía Bắc và Tây Bắc
tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận trong các huyện: An Sơn, Ninh Hải, Bắc Bình, một số
ít ở Hàm Tân (phía nam tỉnh Bình Thuận). Tại Khánh Hòa họ cư trú ở phía Nam và
Tây - Nam trong các huyện Diên Khánh, Cam Ranh, Ninh Hòa. Ngoài ra họ còn có
mặt ở tỉnh Lâm Đồng vùng giáp với Khánh Hòa.
Tiếp theo địa bàn cư trú của người Ra-glai, là địa bàn cư trú của người Chu-ru.
Họ tập trung cư trú tại xã Đơn và xã Lan thuộc huyện Đơn Dương (Lâm Đồng). Một
số khác sống trong vài làng ở huyện Đức Trọng và một vài điểm rải rác ở huyện Di
20


Linh. Gần 1/3 người Chu-ru cư trú ở hai huyện An Sơn và Đức Linh (Thuận Hải) gần
kề với địa bàn cư trú của người Ra-glai. Theo các cụ già người Chu-ru thì trước đây họ
vốn là con cháu của người Chăm đã từng sinh sống tại duyên hải Trung Bộ. Sau đó vì
những lý do nào đó, một bộ phận rời bỏ quê hương đi tìm nơi cư trú mới [30, tr. 292].
Cuối cùng của nhóm cư dân Malayo – Polynesia phải kể tới người Chăm Hrê (ở
Quảng Nam) và người Chăm Hroi (ở huyện An Khê – tỉnh Gia Lai). Có lẽ họ là người
Chăm đã và đang bị Môn – Khơme hóa. Chăm Hrê có nghĩa là người Hrê gốc Chăm,
còn Chăm Hroi đã rất gần gũi với người Ba Na, nên vẫn được gọi là Ba-na Chăm
Hroi. Có những ý kiến tách họ khỏi người Ba-na xếp vào tộc Chăm.
Như vậy, trong cộng đồng tộc người Việt Nam có 5 tộc người chứng nhận rằng
Việt Nam là cửa ngõ vùng Đông Nam Á, là một quốc gia giữ gìn những nét văn hóa lịch sử của ngữ hệ Nam Đảo.
1.2.2. Địa bàn phân bố, dân số
Như đã nói ở trên, ngày nay ở Việt Nam có trên 800 000 người nói ngôn ngữ
Malayo – Polynesia được xếp thành 5 tộc người: Gia-rai, Chăm, Ê-đê, Chu-Ru, Raglai. Trừ người Chăm tập trung dọc theo bờ biển Miền Trung tại Ninh Thuận, Bình
Thuận, ở Phú Yên, Khánh Hòa, một bộ phận ở thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh An

Giang, còn lại các dân tộc khác đều cư trú ở Tây Nguyên.
Để có cái nhìn đầy đủ và chi tiết hơn và địa bàn phân bố và dân số của các tộc
người nhóm Nam Đảo ở Việt Nam, cần tham khảo thêm bảng danh mục chi tiết dưới
đây:
Tên tộc

Các tên gọi khác

Địa bàn cư trú

người
Gia-rai
Ê-đê

Số dân
(người)

Giơ-rai, Chơ-rai, Tơ-buăn,

Gia Lai – Kon Tum,

Hơ-bau, Hđrung, Chor

Bắc Đắc Lắc

Ra-đê, Đê, Kpạ, A-đham,

Đắc Lắc, Phú Yên,

21


317 000


Krung, Ktul, Đlie, Ruê,

Khánh Hòa

270 000

Blô, Êpan, Mđhur*, Bih
Chăm

Chiêm Thành, Chàm,

Ninh Thuận, Bình

Hroi, Chiêm, Hời, Chămpa

Thuận, An Giang,

133 000

thành phố Hồ Chí
Minh, Quảng Ngãi,
Bình Định, Phú Yên,
Khánh Hòa
Ra-glai

Rac-lây, Rai, Noang, Lao-


Ninh Thuận, Bình

ang, Ra-glây

Thuận, Phú Yên,

97 000

Khánh Hòa
Chu-ru

Chơ-rơ, Chơ-ru, Kru, Chu

Lâm Đồng, Ninh
Thuận

14 900

Nguồn: theo số liệu của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
* Mđhur là một nhóm trung gian giữa người Ê-đê và Gia-rai. Có một số làng Mđhur
nằm trong địa phận của tỉnh Gia Lai – Kon Tum ở Cheo Reo, tiếp cận với người Giarai, nay đã tự cho là người Gia-rai.
Trong số các tộc người nói trên, tộc người Gia-rai là một trong những cư dân
sớm tụ sinh ở vùng núi Tây Nguyên, có khoảng 24 vạn người sinh sống tập trung ở
tỉnh Gia Lai (90%), một sổ ở tỉnh Kon Tum (5%) và phía bắc tỉnh Đắk Lắk (4%).
Ngoài ra, tộc người Gia-rai còn cư trú rải rác ở các tỉnh Bình Định, Ninh Thuận, Bình
Thuân…., khoảng vài ngàn người sinh sống tại khu vực Karatanakiri, Campuchia,
nhưng chưa có số liệu chính thức.
Một số nhóm người Ê-đê còn sinh sống ở các quốc gia khác như Campuchia,
Thái Lan, Hoa Kỳ, Canada, các nước Bắc Âu.

1.2.3. Đời sống vật chất
22


Tuy là 5 tộc người khác nhau nhưng đời sống vật chất của họ có nhiều tập quán
gần như đồng nhất. Tuy nhiên có một tình hình đáng chú ý là phong tục tập quán của
người Ê-đê, Gia-rai, Ra-glai, Chu-ru lại có nhiều điểm không tương đồng với phong
tục tập quán của người Chăm, cho dù cùng thuộc một hệ ngôn ngữ.
Các tộc người Ê-đê, Gia-rai, Ra-glai, Chu-ru thường quần cư bên nhau ở những
nơi bằng phẳng, hoặc các sườn đồi thấp, gần những dòng sông, dòng suối (bến nước),
trong một cơ sở hành chính gọi là buôn, bon, plây hoặc plơi, gồm vài chục nếp nhà
sàn. Còn người Chăm chủ yếu định cư ở những vùng đồng bằng và dọc theo đường
biển.
Hệ thống tổ chức xã hội truyền thống của người Chăm rất phát triển, gồm:
 Mangawom (gia đình);
 Palei (làng);
 Pleng (xã);
 Bhu (quận);
 Huen (huyện);
 Nakar (tỉnh, thành phố);
 Bengsa (quốc gia).
Ngày nay hệ thống này bị thu hẹp và chỉ còn palei. Palei hiện nay thường trùng
hợp với đơn vị hành chính là thôn, ấp hoặc khu phố. Hệ thống tổ chức xã hội trong
palei chỉ còn thấy ở lĩnh vực tổ chức dòng họ, gồm: thị tộc, tộc họ, chi tộc, gia đình
[14, tr. 34].
Buôn (theo cách gọi của người Ê-đê), bon, plơi (theo cách gọi của người Giarai, Chu-ru), play (theo cách gọi của người Ra-glai), plei hoặc palei (theo cách gọi của
người Chăm) có thể mang tên người chủ làng (chẳng hạn, buôn Yă Wam, buôn Ama
Thuột, bon Aê Nu…), cũng có thể đặt tên theo những con sông, suối, bến nước gần kề
(bon Broaih – mỏ nước Broaih; buôn Ea Pôk – suối Ea Pôk, plơi Pa…) [23, tr. 64].
Buôn, bon, play, plei hay plơi đều do một vị thủ lĩnh cai quản chung. Người này

có thể được gọi là tù trưởng (mtao, ptao) của nhiều buôn, plơi, plei; là chủ của một
23


vùng đất rộng lớn (khua êlăn, khua plơi). Nhưng cũng có khi chỉ là chủ một bến nước
(khua pin ea). Ngoài ra còn có một số vị được cộng đồng kính trọng, thường hợp thành
một hình thức như “hội đồng các già làng – Phun po but, Tha plơi” để khi cần sẽ cùng
tham gia quyết định những vấn đề liên quan đến sự sinh tồn của cả cộng đồng. Đó là
các vị thầy cúng (Pjâo, Ptâo, Pô riu Yang, Pô iêu Yang), người phân xử luật tục (Pô
bhian kđi, Pô phat kđi). Chưa có sự phân chia thành giai cấp rõ rệt, nhưng buôn, plơi
Ê-đê – Gia-rai cổ xưa cũng vẫn có những nô lệ (vì mắc nợ không trả nổi, hoặc quá
nghèo, mồ côi, người không rõ gốc gác…) phải làm mọi việc cho gia đình các thủ lĩnh
để có cơm ăn, áo mặc. Tuy nhiên, những người này không bị gia chủ đối xử quá tệ
[23, tr. 65].
Các tộc người nhóm Nam Đảo ở Việt Nam đã định canh định cư và làm ruộng
từ lâu đời. Nghề trồng trọt chiếm vị trí hàng đầu trong đời sống kinh tế và lúa là cây
lương thực chủ yếu. Ngoài ra, người ta còn trồng thêm ngô, khoai, sắn, lạc và một số
loại rau, đậu trong rẫy hoặc trong vườn.
Ruộng trước đây thường chỉ làm một mùa, và có thể tạm chia làm hai loại:
ruộng sâu hoặc ruộng thủy điền và ruộng khô. Do tính chất và điều kiện địa lý của
từng loại ruộng ở từng vùng, có những đặc điểm khác nhau nên kỹ thuật canh tác cũng
có những nét riêng.
Đối với ruộng bình thường được dùng phương pháp “thủy nậu”. Người ta cho
trâu quần để đất thật nhuyễn rồi gieo hạt. Đối với các loại ruộng đất khác, thì sau khi
thu hoạch một thời gian, người ta tiến hành cày vỡ, bừa, cày trở, bừa lần thứ hai và kết
hợp với việc bang đất cho bằng, rồi sạ giống… Nông cụ cổ truyền còn rất thô sơ như:
cày, bừa; cái bang đất đều bằng gỗ. Đến nay, họ đã có lưỡi cày bằng sắt và do hai trâu
kéo.
Riêng người Chăm còn phân chia ra loại ruộng thứ ba: ruộng trầm thủy. Đó là
một loại ruộng khá tốt, quanh năm có nước, nhưng không gieo được mạ, mà phải lấy

mạ ở ruộng thủy điền để cấy.
Người Chu-ru và người Chăm từ xa xưa có kinh nghiệm nhất là về làm thủy lợi
nhỏ và điều tiết lượng nước trong từng thời kì sinh trưởng của cây lúa. Họ thường làm
24


×