Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Một số giải pháp kiểm soát chi phí nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp xây dựng Giao thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.58 KB, 64 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế Thế giới đã mang đến cho các
doanh nghiệp Việt Nam những vận hội mới để phát triển nhưng đồng thời cũng
chứa đựng trong lòng nó nhiều thách thức. Hơn bao giờ hết để vượt qua những
thách thức mang tính khốc liệt này đòi hỏi các doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở
việc áp dụng công nghệ kỹ thuật tiên tiến, nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản
phẩm…mà còn phải sử dụng các phương pháp để kiểm soát tốt chi phí nhằm nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. Việc kiểm soát tốt chi phí sẽ góp phần
nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ thấp giá thành: nhờ đó tạo dựng cho doanh
nghiệp một uy tín, hình ảnh trên thương trường .
Các doanh nghiệp xây dựng giao thông trên cương vị là một đơn vị kinh tế cơ
sở, là tế bào của nền kinh tế quốc dân đã góp phần không nhỏ vào tiến trình phát
triển của đất nước. Có được một cơ sở hạ tầng vững chắc sẽ là nền tảng cho các
ngành khác phát triển. Trong cơ chế quản lý xây dựng cơ bản hiện nay, các công
trình lớn phải tiến hành đấu thầu. Vì vậy, để đưa ra giá dự thầu hợp lý nhất, đem lại
khả năng trúng thầu cao nhất đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng phấn đấu
tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Muốn tồn tại và phát triển các
doanh nghiệp có thể sử dụng rất nhiều biện pháp khác nhau và kiểm soát chi phí là
một trong những biện pháp quan trọng nhất. Nhưng thực trạng về việc kiểm soát chi
phí của các doanh nghiệp xây dựng giao thông hiện nay còn rất nhiều hạn chế, cần
phải hoàn thiện.
Xuất phát từ vấn đề quan trọng này, cùng với đó là sinh viên thuộc ngành
Kinh Tế Xây Dựng, nhóm chúng em lựa chọn đề tài: “Một số giải pháp kiểm soát
chi phí nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp xây dựng
Giao thông” làm đề tài nghiên cứu.
Nội dung đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về chi phí sản xuất kinh doanh và kiểm soát chi phí
sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp xây dựng giao thông.
Chương 2: Thực trạng kiểm soát chi phí trong các doanh nghiệp xây dựng
giao thông.
Chương 3: Một số giải pháp kiểm soát chi phí nhằm nâng cao hiệu quả sản


xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xây dựng giao thông.
Chu
́
ng em xin chân tha
̀
nh ca
̉
m ơn Th.S Nguyễn Quy
̀
nh Sang đa
̃
hươ
́
ng dẫn
chu
́
ng em hoa
̀
n tha
̀
nh đê
̀
ta
̀
i na
̀
y.
1
CHƯƠNG 1 : LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHI PHÍ SẢN XUẤT
KINH DOANH VÀ KIỂM SOÁT CHI PHÍ SẢN XUẤT KINH

DOANH TRONG DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG GIAO THÔNG.
1.1. Doanh nghiệp xây dựng giao thông và hoạt động của doanh nghiệp.
1.1.1. Định nghĩa doanh nghiệp xây dựng giao thông.
Doanh nghiệp là nơi tập hợp các tài năng, các điều kiện vật chất nhất định để
sản xuất sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó phục vụ con người.
Về phương diện luật pháp, doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài
sản, có trụ sở giao dịch ổn định được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp
luật, nhằm mục đích thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Doanh nghiệp xây dựng giao thông là một dạng doanh nghiệp mà chức năng
chính của nó là sản xuất sản phẩm xây lắp, xây dựng các công trình giao thông phục
vụ giao lưu kinh tế trong xã hội.
Thực tế trong hoạt động của thi trường xây dựng, người ta còn gặp các tập
đoàn, các hãng thầu lớn nhỏ khác nhau. Đây là loại hình doanh nghiệp hỗn hợp sản
xuất – kỹ thuật và kinh tế. Nói cách khác, tập đoàn xây dựng, hãng xây dựng là một
đơn vị kinh tế, nơi tổ hợp các nhân tố sản xuất để thu được của cải vật chất và các
dịch vụ cung cấp cho thị trường.
1.1.2. Các hoạt động chủ yếu cuả doanh nghiệp xây dựng giao thông.
Các hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp xây dựng giao thông là: xây dựng
mới, xây dựng lại, mở rộng, khôi phục và sửa chữa lớn các công trình giao thông
nhằm góp phần thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng lên về vận chuyển hàng hoá và
hành khách của nền kinh tế quốc dân.
- Xây dựng mới là xây dựng những chiếc cầu, những tuyến đường… mà từ
trước tới nay chưa có trên mạng lưới đường sá, cầu, cống của đất nước. Đây chính
là loại hoạt động mang tính chất tái sản xuất mở rộng tài sản cố định, góp phần làm
tăng số lượng và giá trị tài sản cố định của nền kinh tế quốc dân.
- Đối với các công trình giao thông đang có nhưng do điều kiện kỹ thuật, khai
thác và nhiệm vụ vận chuyển thay đổi thì xây dựng giao thông có nhiệm vụ xây
dựng và mở rộng các công trình đó cho phù hợp với đòi hỏi mới. Đây cũng là một
dạng tái sản xuất mở rộng tài sản cố định cho nền kinh tế quốc dân.
- Trang bị lại kỹ thuật cho các công trình hiện hành là việc thực hiện một tổ

hợp các biện pháp phù hợp với kế hoạch phát triển kỹ thuật của công trình, nhằm
đưa trình độ kỹ thuật của công trình, liên hiệp công trình hiện có lên ngang tầm với
2
đòi hỏi mới. Đây cũng là một dạng tái sản xuất mở rộng tài sản cố định cho nền
kinh tế quốc dân.
- Đối với các công trình giao thông bị hư hại do thiên tai hay chiến tranh gây
ra, nay muốn đưa chúng vào khai thác bình thường, người ta phải khôi phục các
công trình đó. Đối với các công trình giao thông đang nằm trong quá trình khai thác
thì xây dựng giao thông có nhiệm vụ sửa chữa lớn các công trình đó nhằm đảm bảo
khai thác chúng được bình thường và an toàn. Hai hình thức khôi phục và sửa chữa
lớn đều nhằm tái sản xuất giản đơn tài sản cố định.
1.1.3. Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp xây dựng giao thông.
- Sản xuất xây dựng chỉ được tiến hành khi có đơn đặt hàng (hợp đồng xây
dựng) của người mua sản phẩm, doanh nghiệp không thể sản xuất khi chưa có
người đặt hàng. Sau khi sản phẩm hoàn thành thì không cần thiết phải tìm thị trường
để bán sản phẩm. Sản xuất xây dựng chỉ tiến hành khi đã được chủ đầu tư chấp
nhận và ký hợp đồng giao nhận thầu. Điều đó có ý nghĩa là: chỉ khi nào có hợp
đồng trong tay thì chủ thầu mới tiến hành xây dựng. Trong quá trình thi công công
trình được thực hiện với sự tham gia giám định kỹ thuật của người mua.
- Quá trình sản xuất luôn di động, hệ số biến động lớn:
Do sản phẩm gắn liền với nơi tiêu thụ, nên địa điểm sản xuất không ổn định
thậm chí trải dài theo tuyến dẫn đến việc phải di chuyển lực lượng lao động và các
phương tiện vật chất từ công trình này đến công trình khác và nhiều khi trong cùng
một công trình sự di chuyển cũng diễn ra liên tục. Các phương án tổ chức thi công
xây dựng công trình ở các địa điểm khác nhau luôn phải thay đổi theo điều kiện cụ
thể của nơi xây dựng và theo giai đoạn xây dựng. Đặc điểm này làm khó khăn cho
công tác tổ chức sản xuất, việc bố trí của công trình tạm phục vụ thi công, việc phối
hợp các phương tiện xe máy, thiết bị nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp. Đặc điểm này
đòi hỏi phải luôn chú ý tăng cường tính cơ động trong doanh nghiệp về mặt trang bị
tài sản cố định, lựa chọn loại hình thức tổ chức quản lý và chỉ đạo thực hiện kế

hoạch tác nghiệp, lựa chọn địa điểm kho trung chuyển vật tư hợp lý khi thi công
nhiều công trình.
- Thời gian xây dựng công trình kéo dài: Đặc điểm này dẫn đến tình trạng ứ
đọng vốn sản xuất trong các khối lượng thi công dở dang của các doanh nghiệp xây
dựng. Công tác tổ chức quản lý sản xuất của doanh nghiệp phải chặt chẽ, hợp lý,
phải luôn tìm cách lựa chọn trình tự thi công hợp lý cho từng công trình và phối hợp
thi công nhiều công trình để đảm bảo có khối lượng công tác gối đầu hợp lý. Việc
phân công giai đoạn thi công từng công trình nhằm tạo ra khả năng sử dụng và điều
3
phối hợp lý năng lực sản xuất. Thanh toán từng phần khối lượng công tác xây lắp
thực hiện và bàn giao đưa vào sử dụng.
- Sản xuất tiến hành ngoài trời nên chịu ảnh hưởng điều kiện thiên nhiên đến
các hoạt động của công nhân và quá trình thực hiện công tác xây lắp. Đặc điểm này
làm cho các doanh nghiệp xây dựng giao thông không thể lường hết được khó khăn
sinh ra bởi điều kiện thời tiết khí hậu, môi trường tự nhiên. Từ đó đưa đến hiệu quả
lao động giảm xuống, một số giai đoạn của quá trình sản xuất bị gián đoạn, ảnh
hưởng đến tiến độ thi công công trình và giá thành công tác xây lắp. Vì vậy đòi hỏi
các doanh nghiệp xây dựng giao thông phải tìm biện pháp thi công hợp lý, phối hợp
các công việc thi công trong nhà và ngoài trời nhằm khắc phục những ảnh hưởng
của thời tiết khí hậu; kịp thời điều chỉnh tiến độ thi công bằng các phương pháp kỹ
thuật hiện đại, cải thiện điều kiện làm việc ngoài trời cho người lao động, hạn chế
tới mức thấp nhất những lãng phí về lao động, nguyên vật liệu do thời tiết gây ra.
- Kỹ thuật thi công phức tạp, trang bị kỹ thuật tốn kém. Vấn đề trang bị kỹ
thuật của sản xuất xây dựng giao thông nhiều khi đòi hỏi những máy móc kỹ thuật
phức tạp, hiện đại đắt tiền. Trong những trường hợp như vậy, doanh nghiệp xây
dựng giao thông có thể lựa chọn một trong hai phương án sau: một là doanh nghiệp
bỏ ra một số vốn lớn để đầu tư mua sắm máy móc thiết bị thi công, hai là đi thuê
của đơn vị khác về để sử dụng. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự tính toán
cụ thể và so sánh lựa chọn phương án để đảm bảo máy móc thiết bị phục vụ sản
xuất kịp thời đầy đủ. Mặt khác phải đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh.

1.2. Khái niệm, bản chất của chi phí sản xuất kinh doanh.
1.2.1. Khái niệm
Quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp có thể khái quát bằng 3 giai đoạn
(bộ phận) cơ bản, có mối quan hệ mật thiết với nhau:
T – H…SX…H’ – T’
- Giai đoạn 1: (giai đoạn T – H) Doanh nghiệp dùng tiền mua sắm, chuẩn bị
các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất – kinh doanh (lao động, đối tượng lao
động, tư liệu lao động).
- Giai đoạn 2 : (giai đoạn H…SX…H’) Sản xuất: Doanh nghiệp sử dụng các
yếu tố sản xuất vào sản xuất – kinh doanh để tạo ra sản phẩm hoàn thành.
- Giai đoạn 3 : (giai đoạn H’ – T’) Tiêu thụ : Doanh nghiệp bán sản phẩm
(tiêu thụ công trình) và thu tiền. (thực hiện giá trị và giá trị sử dụng) các sản phẩm
cuối cùng của quá trình hoạt đông kinh doanh (các sản phẩm, công việc, lao vụ đã
hoàn thành).
4
Như vậy, hoạt động của doanh nghiệp thực chất là sự vận động, kết hợp,
chuyển đổi nội tại các yếu tố sản xuất kinh doanh đã bỏ ra để tạo ra các sản phẩm,
công việc, lao vụ nhất định. Trên phương diện đó, khái niệm chi phí có ý nghĩa rất
quan trọng đối với doanh nghiệp.
Chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao
động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến hoạt
động sản xuất trong một thời kỳ nhất định (có thể là tháng, quý, năm).
Trong các DN xây dựng giao thông, chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện
bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá cần thiết mà DN
đã chi ra để tiến hành hoạt động xây dựng, lắp đặt các công trình trong một kỳ kinh
doanh nhất định.
 Khi xem xét bản chất của chi phí của doanh nghiệp, cần chú ý đặc biệt
các khía cạnh sau đây:
+ Nội dung chi phí có thể biểu hiện bằng công thức:
C + V

Trong đó:
 C: Hao phí lao động vật hoá bao gồm các hao phí về: nguyên vật liệu, công
cụ, dụng cụ, khấu hao tài sản cố định…
 V: Hao phí lao động sống bao gồm hao phí về: tiền lương, tiền công, phụ cấp
cho người lao động và các khoản trích theo lương…
+ Các chi phí của doanh nghiệp phải được đo lường và tính toán bằng tiền
trong một khoảng thời gian xác định (năm, tháng, quý).
+ Độ lớn của chi phí phụ thuộc 2 nhân tố chủ yếu:
 Khối lượng lao động và tư liệu sản xuất đã tiêu hao trong một thời kỳ nhất
định.
 Giá cả các tư liệu sản xuất đã tiêu hao và tiền lương (tiền công) của một đơn
vị lao động đã hao phí.
1.2.2. Bản chất của chi phí sản xuất kinh doanh
Chi phí sản xuất kinh doanh luôn gắn liền với một kỳ sản xuất nhất định và
phải là chi phí thực. Vì vậy, để hiểu rõ bản chất của chi phí sản xuất kinh doanh làm
cơ sở cho việc kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm cần phân
biệt chi phí và chi tiêu.
Chi phí trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ phần tài sản hao mòn
hoặc tiêu dùng hết cho quá trình sản xuất kinh doanh trong kỳ. Ngoài ra chi phí
trong kỳ còn bao gồm các khoản chi phí trích trước, là các khoản chưa thực chi ra
trong kỳ.
5
Chi tiêu trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ các khoản tiền và tương
đương tiền đã chi ra cho các quá trình mua hàng, quá trình sản xuất kinh doanh. Chi
tiêu cho quá trình mua hàng làm tăng tài sản, còn chi tiêu cho quá trình sản xuất
kinh doanh làm cho các khoản tiêu dùng cho quá trình sản xuất kinh doanh tăng lên
và làm phát sinh chi phí.
Hầu hết các khoản đã chi tiêu đều là chi phí nhưng cũng có những khoản đã
chi tiêu nhưng chưa được tính là chi phí và ngược lại có những khoản được tính là
chi phí nhưng không phải là khoản chi tiêu trong kỳ.

1.2.3. Các cách phân loại chi phí sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp
Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gồm nhiều khoản khác nhau
cả về nội dung, tính chất, công dụng, mục đích…trong từng doanh nghiệp sản xuất.
Để thuận lợi cho công tác quản lý và hạch toán cần phải tiến hành phân loại chi phí
sản xuất kinh doanh theo các tiêu thức khác nhau nhằm nâng cao tính chi tiết của
thông tin chi phí, phục vụ đắc lực cho công tác quản lý, lập kế hoạch đồng thời tạo
cơ sỏ tin cậy cho việc phấn đấu giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh tế của chi phí.
Dưới đây la một số cách phân loại chủ yếu:
1.2.3.1 . Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo nội dung tính chất kinh tế
của chi phí .
Cách phân loại này dựa trên nguyên tắc những chi phí có cùng nội dung kinh
tế được xếp vào một loại, mỗi loại là một yếu tố chi phí, không kể cả chi phí đó
phát sinh ở lĩnh vực hoạt động nào, địa điểm nào và dùng vào mục đích gì trong sản
xuất kinh doanh. Toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ được chia làm các
yếu tố chi phí sau :
a. Chi phí vật liệu
Chi phí vật liệu là giá trị thực tế các vật liệu dùng chung cho sản xuất sản
phẩm.
Đối với các doanh nghiệp xây dựng giao thông chính là giá trị thực tế nguyên
vật liệu dùng cho xây dựng công trình và thực hiện các dịch vụ khác do doanh
nghiệp thực hiện.
b. Chi phí nhân công.
Chi phí nhân công trực tiếp là :
+ Các chi phí phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm, trực tiếp
thực hiện các lao vụ, dịch vụ như tiền lương chính, lương phụ, các khoản phụ cấp,
tiền công.
6
+ Các khoản trícn theo tiền lương của công nhân trực tiếp.
+ Chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn.
c. Chi phí khấu hao tài sản cố định.

Chi phí khấu hao tài sản cố định bao gồm khấu hao của tài sản cố định dùng
cho sản xuất sản phẩm (khấu hao máy móc, thiết bị sản xuất, phương tiện vận tải,
nhà xưởng…).
Trong các doanh nghiệp xây dựng giao thông là khấu hao máy móc thiết bị
dùng cho xây dựng công trình và thực hiện các dịch vụ sản xuất sản phẩm khác.
d. Chi phí dịch vụ mua ngoài.
Chi phí dịch vụ mua ngoài gồm các chi phí dịch vụ mua ngoài phục vụ cho
hoạt động sản xuất của doanh nghiệp như tiền điện, nước, tiền thuê sửa chữa tài sản
cố định…
e. Chi phí khác bằng tiền.
Chi phí khác bằng tiên bao gồm chi phí hội nghị, tiếp khách…
Cách phân loại này cho biết chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
gồm nhưng nội dung chi phí nào, tỷ trọng từng loại chi phí trên tổng số, làm cơ sở
cho việc lập kế hoạch như kế hoạch cung ứng vật tư, kế hoạch quỹ lương…Tuy
nhiên cách nhìn này không cho biết chi phí sản xuất trên tổng chi phí của doanh
nghiệp là bao nhiêu.
1.2.3.2. Phân loại chi phí theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm.
Cách này căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành sản phẩm dựa vào
mục đích, công dụng của chi phí và mức phân bố chi phí cho từng đối tượng (không
phân biệt chi phí có nội dung như thế nào). Toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh
được phân thành các khoản mục :
a. Chi phí trực tiếp : là toàn bộ các chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra trực tiếp
tạo ra sản phẩm, bao gồm :
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Phản ánh toàn bộ giá trị thực tế nguyên liệu, vật liệu chính, vật liệu phụ,
nhiên liệu… trực tiếp tạo ra sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ.
Đối với các doanh nghiệp xây dựng giao thông là giá trị thực tế nguyên vật
liệu sử dụng cho xây dựng công trình ví dụ như : đá, cát, xi măng…
7
- Chi phí nhân công trực tiếp.

Chi phí nhân công trực tiếp bao gồm tiền lương, tiền công, phụ cấp lương trả
cho công nhân sản xuất trực tiếp.
Chi phí nhân công không bao gồm:
+ Tiền lương công nhân vận chuyển ngoài phạm vi công trường.
+ Tiền lương công nhân sản xuất phụ.
+ Tiền lương công nhân lái máy.
- Chi phí sử dụng máy thi công
Chi phí sử dụng máy thi công bao gồm chi phí cho các máy thi công nhằm
thực hiện khối lượng xây lắp bằng máy, máy móc thi công là loại máy trực tiếp
phục vụ xây lắp công trình. Đó là những máy móc chuyển động bằng động cơ hơi
nước, diezen, xăng, điện…
Chi phí sử dụng máy thi công gồm chi phí thường xuyên và chi phí tạm thời.
+Chi phí thường xuyên cho hoạt động của máy thi công gồm : lương chính,
phụ của công nhân điều khiển, phục vụ máy thi công. Chi phí nguyên liệu, vật liệu,
công cụ dụng cụ, chi khấu hao tài sản cố định, chi phí dich vụ mua ngoài (sửa chữa
nhỏ, điện, nước, bảo hiểm xe, máy ) và các chi phí khác bằng tiền.
+Chi phí tạm thời : chi phí sửa chữa máy thi công, chi phí công trình tạm thời
cho máy thi công (lều, lán, bệ, đương ray chạy máy…). Chi phí tạm thời của máy
có thể phát sinh trước, sau đó phân bổ dần vào chi phí sử dụng máy thi công nhiều
kỳ sản xuất sau. Hoặc phát sinh sau nhưng phải tính trước vào chi phí sử dụng máy
thi công trong kỳ (do liên quan đến việc sử dụng thực tế máy móc thi công trong
kỳ). Trường hợp này phải tiến hành trích trước chi phí tiền lương trả cho công nhân
điều khiển và phục vụ máy thi công, bao gồm :
 Chi phí nhiên liệu dùng cho máy thi công
 Chi phí công cụ, dụng cụ dùng cho máy thi công
 Chi phí khấu hao máy thi công
 Chi phí dịch vụ mua ngoài dùng cho máy thi công, tiền điện, nước, tiền thuê
sửa chữa máy thi công
 Chi phí bằng tiền khác
- Trực tiếp phí khác

Bao gồm chi phí bơm nước, vét bùn, thí nghiệm vật liệu, di chuyển nhân lực
và thiết bị thi công đến công trường và trong nội bộ công trường, an toàn lao động,
bảo vệ môi trường cho người lao động và môi trường xung quanh. Trực tiếp phí
khác được tính bằng 1,5% trên tổng chi phí vật liệu, nhân công và máy thi công nói
trên.
8
b. Chi phí chung.
Chi phí chung là những chi phí phát sinh có tính chất phục vụ chung cho toàn
bộ công trình, có liên quan đến quản lý và điều hành sản xuất tại công trường của
doanh nghiệp xây dựng bao gồm :
- Chi phí quản lý hành chính : là những khoản chi phí nhằm đảm bảo cho hoạt
động của bộ máy quản lý và chỉ đạo thi công. Chi phí quản lý hành chính cuả doanh
nghiệp xây dựng gồm các chi phí sau :
+ Tiền lương và phụ cấp lương của cán bộ công nhân viên trong bộ máy quản
lý doanh nghiệp.
+ Bảo hiểm xã hội
+ Chi phí y tế
+ Chi phí tàu xe, nghỉ phép năm của người lao động
+ Chi phí điện nước nơi làm việc và sinh hoạt, chi phí tiếp khach và phục vụ
hội nghị sơ kết, tổng kết
+ Chi phí đi công tác
+ Chi phí văn phòng phẩm cho bộ máy quản lý
+ Chi phí bưu phí: điện thoại, internet, tem bưu chính
+ Chi phí nghiệp vụ
+ Chi phí công tác an toàn, bảo hộ lao động cho người lao động
+ Chi phí sửa chữa thường xuyên dụng cụ quản lý và dụng cụ sinh hoạt
- Chi phí phục vụ công nhân: là những khoản chi phí phục vụ công nhân trực
tiếp thi công đảm bảo mức sinh hoạt của công nhân theo chế độ hiện hành. Chi phí
này gồm :
+ Tiền lương và các khoản phụ cấp của công nhân trực tiếp thi công được

hưởng trong những ngày, giờ nghỉ việc theo chế độ
+ Bảo hiểm xã hội của công nhân trực tiếp sản xuất
+ Tiền thuốc men chữa bệnh và chi phí đưa người ốm đi viện
+ Tiền tàu xe nghỉ phép năm và tiền nghỉ việc riêng được thanh toán
+ Tiền điện nước phục vụ sinh hoạt
+ Chi phí sửa chữa thường xuyên các dụng cụ sinh hoạt
- Chi phí phục vụ thi công : là những khoản chi phí cần thiết để phục vụ quá
trình thi công gồm :
+ Sửa chữa thường xuyên các dụng cụ thi công
+ Chi phí về an toàn, bảo hộ lao động cho công nhân trực tiếp sản xuất
9
+ Chi phí xây dựng công trình tạm loại nhỏ như để che mưa, nắng cho người,
máy móc, thiết bị thi công, hàng rào…
+ Chi phí về điều động công nhân
+ Chi phí dọn dẹp, bàn giao công trình
- Chi phí khác: là những khoản chi phí có tính chất phục vụ chung toàn doanh
nghiệp. Khoản chi phí này gồm :
+ Chi phí bảo vệ công trừơng
+ Chi phí về tuyển dụng lao động và thôi việc
+ Chi phí về bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn và luyện tập quân sự hàng năm
1.2.3.3. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo mối quan hệ với khối
lượng sản phẩm,công việc lao vụ sản xuất trong kỳ.
Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng giao thông được
chia thành :
- Chi phí cố định (định phí): là những khoản chi phí không thay đổi theo khối
lượng sản phẩm (hay giá trị sản lượng) thay đổi. Tuy nhiên, nếu tính trên một đơn
vị sản phẩm thì định phí lại biến đổi. Định phí thường bao gồm : chi phí khấu hao
tài sản cố định sử dụng chung, tiền lương nhân viên, cán bộ quản lý…
- Chi phí biến đổi (biến phí): là những khoản chi phí có quan hệ tỷ lệ thuận
với khối lượng công việc hoàn thành, thường bao gồm: chi phí nguyên vật liệu, chi

phí nhân công, chi phí bao bì,…Biến phí trên một đơn vị sản phẩm luôn là một mức
ổn định.
- Chi phí hỗn hợp: là chi phí mà bản thân nó gồm cả các yếu tố biến phí và
định phí. Ở mức độ hoạt động căn bản, chi phí hỗn hợp thể hiện các đặc điểm của
định phí, quá mức đó nó lại thể hiện đặc tính của biến phí. Hỗn hợp phí thường
gồm: chi phi sản xuất chung, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp…
Phân loại theo cách này thuận lợi cho việc lập kế hoạch và kiểm tra chi phí,
xác định điểm hoà vốn, phân tích tình hình tiết kiệm chi phí sản xuất kinh doanh.
Đồng thời làm căn cứ để đề ra biện pháp thích hợp hạ thấp chi phí sản xuất kinh
doanh trên một đơn vị sản phẩm cũng như xác định phương án đầu tư thích hợp.
1.2.3.4. Phân loại chi phí sản xuất theo phương pháp tập hợp chi phí sản xuất
và mối quan hệ giữa đối tượng chịu chi phí .
- Chi phí trực tiếp:là những chi phí chỉ quan hệ trực tiếp đến việc sản xuất
một loại sản phẩm, một công việc, lao vụ hoặc một hoạt động, một địa điểm nhất
định và hoàn toàn có thể hạch toán, quy nạp trực tiếp cho sản phẩm, công việc, lao
vụ…đó.
10
- Chi phí gián tiếp: là những chi phí sản xuất có quan hệ đến sản xuất ra nhiều
loại sản phẩm,không phân định được cho từng đối tượng cho nên phải phân bổ thao
đối tượng nhất định.
Cách phân loại này có ý nghĩa thuần tuý đối với kỹ thuật hạch toán. Trường
hợp có phát sinh chi phi gián tiếp, bắt buộc phải áp dụng phương pháp phân bổ, lựa
chọn tiêu thức phân bổ phù hợp. Mức độ chính xác của chi phí gián tiếp tập hợp cho
từng đối tượng phụ thuộc vào tính hợp lý và khoa học của tiêu chuẩn phân bổ chi
phí. Vì vậy, các nhà quản trị doanh nghiệp phải hết sức quan tâm đến việc lựa chọn
tiêu thức phân bổ chi phí nếu muốn có các thong tin chân thực về chi phí và kết quả
lợi nhuận từng loại sản phẩm, dịch vụ, từng loại hoạt đông trong doanh nghiệp.
1.2.3.5. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo cách thức kết chuyển chi
phí
- Chi phí sản phẩm

Chi phí sản phẩm là những khoản chi phí gắn liền với quá trình sản xuất sản
phẩm. Như vậy chi phí sản phẩm bao gồm chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp, chi
phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung.
Nếu sản phẩm chưa được tiêu thụ thì chi phí sản phẩm sẽ nằm trong hàng tồn
kho trên Bảng cân đối kế toán. Chi phí sản phẩm trên bảng cân đối kế toán sẽ trở
thành chi phí “giá vốn hàng bán” trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh khi
sản phẩm được tiêu thụ.
- Chi phí thời kỳ
Chi phí thời kỳ là các chi phí để hoạt động kinh doanh trong kỳ, không tạo
nên hàng tồn kho mà ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả lợi nhuận của kỳ mà chúng
phát sinh.
Theo hệ thống kế toán hiện hành, chi phí thời kỳ bao gồm:
+ Chi phí bán hàng
+ Chi phí quản lý doanh nghiệp
Như vậy, chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ khác nhau ở chỗ: chi phí thời kỳ
phát sinh ở thời kỳ nào được tính ngay vào kỳ đó và ảnh hưởng trực tiếp đến lợi tức
của kỳ mà chúng phát sinh. Ngược lại, chi phí sản phẩm chỉ phải tính để xác định
kết quả ở kỳ mà sản phẩm được tiêu thụ, không phải tính ở kỳ mà chúng phát sinh.
Tuy nhiên, chi phí sản phẩm cũng ảnh hưởng đến lợi tức của doanh nghiệp, có thể
đến lợi tức của nhiều kỳ vì sản phẩm có thể được tiêu thụ ở nhiều kỳ khác nhau.
11
1.3. Kiểm soát chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng
giao thông.
1.3.1. Khái niệm
Kiểm soát chi phí là hành động chủ quan của các nhà quản lý doanh nghiệp
nhằm kiểm soát các chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để thực hiện các hoạt động sản
xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định.
Để làm tốt chức năng này nhà quản lý cần trả lời các câu hỏi :
+ Doanh nghiệp có những khoản mục chi phí nào?;
+ Tiêu chuẩn, định mức chi phí là bao nhiêu?

+ Chi phí nào chưa hợp lý?
+ Nguyên nhân vì sao?
+ Biện pháp giải quyết?
Để tiến hành kiểm soát chi phí các nhà quản lý doanh nghiệp cần phải đưa ra
các tiêu chuẩn, nội dung và mục tiêu kiểm soát chi phí, dựa trên các nguyên tắc
thống nhất. Từ đó xây dựng hệ thống kiểm soát chi phí trong doanh nghiệp với
những hình thức kiểm soát thích hợp, cùng chi phí kiểm soát, phương tiện công cụ
được sử dụng cho hoạt động kiểm soát này và cuối cùng đi tới các giải pháp điều
chỉnh.
1.3.2. Tính tất yếu của việc kiểm soát chi phí
Có nhiều nguyên nhân làm cho kiểm soát chi phí trở thành chức năng tất yếu
của quản lý. Trong kinh doanh, kiểm soát chi phí là để kiểm chứng xem các khoản
chi có được thực hiện theo đúng kế hoạch hay không, và phải tìm ra nguyên nhân
sai sót để điều chỉnh.
Kiểm soát chi phí là nhu cầu cơ bản nhằm hoàn thiện các quyết định trong
quản lý trong lĩnh vực tài chính. Thẩm định tính đúng sai, hiệu quả của các khoản
chi phí. Đồng thời kiểm soát được những yếu tố ảnh hưởng đến tính hợp lý và khi
kiểm soát chi phí được mở rộng đối tượng tham gia trong toàn doanh nghiệp sẽ tăng
khả năng hợp tác hiệu quả giữa các ban ngành, các bộ phận, các cá nhân mở rộng
dân chủ, khuyến khích uỷ quyền, một xu hướng trong nền kinh tế thị trường. Đó
phải là hoạt động liên tục với những sự đổi mới không ngừng.
Các tổ chức kinh doanh khác nhau ở sản phẩm hay dịch vụ mà chúng cung
cấp, do vậy chúng ta có thể chia doanh nghiệp thành các loại sau:
- Doanh nghiệp sản xuất: sản xuất ra sản phẩm và đem bán cho khách hàng,
công ty thương mại, hay cho một doanh nghiệp sản xuất khác.
12
- Doanh nghiệp thương mại: mua hàng cho doanh nghiệp khác sản xuất rồi bán
cho người tiêu dùng.
- Doanh nghiệp dịch vụ: cung cấp dịch vụ (như dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ ngân
hàng, dịch vụ kế toán…) cho người sử dụng.

Dù cung cấp những sản phẩm hay dịch vụ khác nhau, song hoạt động chủ yếu
của các doanh nghiệp là chuyển hoá các dạng khác nhau của nguồn lực kinh tế
thành các dạng khác có giá trị hơn để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Vấn đề
tiêu hao các nguồn lực kinh tế ban đầu của các doanh nghiệp trong kế toán đó được
xem là chi phí. Như vậy chi phí là khoản tiêu hao của các nguồn lực đã sử dụng cho
một mục đích, biểu hiện bằng tiền.
Đối với nhà quản lý thì các chi phí là mối quan tâm hàng đầu, bởi vì lợi
nhuận thu được nhiều hay ít chịu ảnh hưởng trực tiếp của những chi phí đã chi ra.
Do đó, kiểm soát chi phí là vấn đề quan trọng và mang tính sống còn đối với doanh
nghiệp.
1.3.3. Vai trò của kiểm soát chi phí trong doanh nghiệp
Kiểm soát chi phí là việc tổng hợp, phân tích, đánh giá thực trạng về việc sử
dụng các nguồn vốn và chi phí, từ đó đưa ra những quyết định về các chi phí ngắn
hạn cũng như dài hạn của doanh nghiệp. Kiểm soát chi phí là một hoạt động quan
trọng của quản lý chi phí. Đối với nhà quản lý, để kiểm soát được chi phí phát sinh
hàng ngày, điều quan trọng là phải nhận diện ra các loại chi phí, đặc biệt là nhà
quản lý nên nhận dạng những chi phí kiểm soát được để đề ra biện pháp kiểm soát
chi phí thích hợp và nên bỏ qua những chi phí không thuộc phạm vi kiểm soát của
mình nếu không việc kiểm soát sẽ không mang lại hiệu quả so với công sức, thời
gian bỏ ra.
Chi phí cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luôn có những biến động
nhất định trong kỳ. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng của quản lý chi
phí là xem xét, lựa chọn cơ cấu chi phí sao cho tiết kiệm, hiệu quả nhất. Quản lý chi
phí bao gồm:
- Tiến hành phân tích và đưa ra một cơ cấu chi phí và nguồn vốn huy động tối
ưu cho doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
- Thiết lập một chính sách phân chia chi phí cùng các mức lợi nhuận một cách
hợp lý đối với doanh nghiệp.
- Kiểm soát việc sử dụng cả các tài sản trong công ty, tránh tình trạng sử dụng
lãng phí, sai mục đích.

13
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh doanh. Khác với các tổ chức không vì lợi
nhuận như cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, tôn giáo,… . Doanh nghiệp được
thành lập với mục đích thu được lợi nhuận.
Suy cho cùng doanh nghiệp nào cũng hướng tới mục tiêu lợi nhuận. Mà
chúng ta biết rằng lợi nhuận được xác định bởi công thức đơn giản sau:
Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí
Như vậy để thu được nhiều lợi nhuận chúng ta chỉ có hai cách:
Một là tăng doanh thu, điều này đồng nghĩa với việc tăng giá bán. Giải pháp
này thiếu tính khả thi vì trên thi trường đầy những đối thủ cạnh tranh…
Hai là giảm chi phí bằng hoạt động kiểm soát của doanh nghiệp. Đó là những
khoản chi mà doanh nghiệp có thể chủ động giảm, sử dụng có hiệu quả. Và khi mà
doanh nghiệp tính giá bán bằng cách cộng giá thành với lợi nhuận mong muốn thì
việc giảm chi phí sẽ làm giảm giá thành, đó là lợi thế cạnh tranh rất lớn trong nền
kinh tế thi trường gắn với xu thế hội nhập hiện nay.
Rõ ràng là kiểm soát chi phí có vai trò rất quan trọng trong hoạt động quản lý
doanh nghiệp, một nội dung cần tập trung nghiên cứu, chủ động tiến hành liên tục,
triệt để.
1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới kiểm soát chi phí trong doanh nghiệp.
Kiểm soát chi phí bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, cả bên trong và bên ngoài
doanh nghiệp. Nhưng tập trung lại có những nhân tố cơ bản sau:
- Thông tin thực tế các khoản chi phí trong doanh nghiệp. Đó là điều kiện tiên
quyết để các chủ thể quản lý thực hiện chức năng kiểm soát, chỉ khi nhận biết và
hiểu thực tế chi phí trong doanh nghiệp thì mới có thể xác định được những khoản
chi phí cần điều chỉnh cũng như những kinh ngiệm tốt từ những khoản chi hiệu quả.
- Hệ thống tiêu chuẩn định mức mà doanh nghiệp xây dựng. Đó là những mục
tiêu đã được số hoá trên những kế hoạch, chương trình mục tiêu của doanh nghiệp,
trên cơ sở từ những kết quả phân tích kinh tế vi mô và mục tiêu của doanh nghiệp.
Quan hệ cung cầu trên thị trường đầu vào cũng là nhân tố ảnh hưởng lớn tới
kết quả chi phí. Sự biến động quan hệ cung cầu đầu vào biểu hiện qua giá cả, khi

giá tăng chi phí sẽ tăng và giá giảm doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ giảm được giá
thành sản phẩm. Đây là nhân tố thuộc môi trường bên ngoài doanh nghiệp, do đó
doanh nghiệp chỉ có thể chấp nhận, thích ứng theo xu hướng biến động đó. Cuối
cùng kiểm soát chi phí chịu tác động từ chính những hệ thống giải pháp, công cụ
mà doanh nghiệp đưa ra. Trên cơ sở những thông tin có được, những giải pháp để
sử dụng chi phí một cách có hiệu quả sẽ được đưa ra và kết quả đạt được đến đâu
phụ thuộc vào tính đúng đắn của những biện pháp đó.
14
1.3.5. Nội dung của kiểm soát chi phí.
1.3.5.1. Nguyên tắc chung
 Luôn giám sát chi phí thuộc khả năng kiểm soát.
Thực chất của nguyên tắc này là sự kết hợp của hai nguyên lý : kiểm soát có
trọng điểm và nguyên lý độ đa dạng thích hợp. Sở dĩ như vậy là vì trong doanh
nghiệp các khoản mục chi phí rất đa dạng, phức tạp mà không phải chi phí nào
chúng ta cũng có thể thay đổi theo mong muốn vì có những khoản chi phí cố định
theo các hợp đồng. Vì vậy doanh nghiệp nên tập trung vào những khoản chi mang
tính biến động lớn mà bằng sự tích cực của mình doanh nghiệp có thể đưa ra những
giải pháp nhằm sử dụng hiệu quả tiết kiệm.
Cũng theo nguyên tắc này các nhà quản lý doanh ngiệp cần phải xác định rõ
tầm kiểm soát của mình để có thể xây dựng kế hoạch làm việc phù hợp với chức
năng, quyền hạn các bộ phận cá nhân làm sao đảm bảo tính hệ thống và phát huy sự
sáng tạo của mọi người. Có như vậy trong phạm vi trách nhiệm, quyền hạn, quyền
lợi của mình thì từng cá nhân sẽ thực hiện hiệu quả.
 Cần khai thác hiệu quả tối đa những chi phí mà doanh nghiệp không thể thay
đổi.
Thông thường những chi phí mà được xác định qua các hợp đồng lao động,
thuê mặt bằng, khấu hao…là cố định trong từng thời kỳ và doanh nghiệp không thể
thay đổi. Nhưng với mục tiêu là sử dụng hiệu quả các khoản chi phí, doanh nghiệp
cần đưa ra các giải pháp tối đa hoá hiệu quả, mà suy cho cùng là làm tăng năng suất
lao động. Ví dụ như cần thắt chặt kỷ luật hoặc thưởng phạt hợp lý để người lao

động làm việc xứng đáng với tiền công mà doanh nghiệp trả cho họ. Hoặc cần phải
cho máy móc chạy đúng công suất để khấu hao được hiêu quả…có như vậy những
chi phí cố định đó sẽ phát huy hiệu quả cho dù doanh nghiệp hoạt động ở bất kỳ
lĩnh vực nào và hình thức nào.
 Lập báo cáo liên tục cho các khoản chi phí của doanh nghiệp.
Các nhà quản trị cần phải có thông tin kịp thời, chính xác và sát thực, đó là
điều kiện quan trọng cho họ có những quyết định đúng đắn. Thông tin là đầu vào
của quyết định vì thế để có thông tin họ cần được báo cáo đầy đủ, kịp thời qua các
Báo cáo tài chính, mà trong đó báo cáo chi phí là bộ phận quan trọng , là một vế của
bảng cân đối kế toán. Muốn có được các báo cáo chi phí liên tục thì hệ thống kiểm
soát trong doanh nghiệp phải liên thông và quan trọng phải có sự tham gia đầy đủ
của mọi người. Các phòng ban, các cá nhân đều có thể tham gia, phản ánh khi có
15
vấn đề về chi phí. Có như vậy vấn đề chi phí sẽ được phát hiện kịp thời và chính
xác, từ đó đưa ra giải pháp.
 Nguyên tắc khách quan
Đây là một nguyên tắc chung cho chức năng kiểm soát trong bất kỳ loại hình
tổ chức nào. Nhưng nó đặc biệt quan trọng với các doanh nghiệp và với chức năng
kiểm soát chi phí. Vì chi phí như đã phân tích ngay từ ban đầu là phạm trù kinh tế
phức tạp, liên quan đến nhiều người và bị chi phối bởi vần đề lợi ích. Rõ ràng kiểm
soát chi phí mà không khách quan sẽ dễ đưa ra quyết định tuỳ tiện theo chủ kiến của
mình và khi không đúng thực tế sẽ gây ra những thông tin phản hồi thất thiệt cho
các nhà quản lý và rất dễ gây ra kết quả là sự ly tán, tâm lý nghi ngờ trong doanh
nghiệp, tạo điều kiện làm hư hỏng cho những cá nhân làm nhiệm vụ kiểm soát.
 Nguyên tắc có chuẩn mực
Nhiệm vụ của kiểm soát chi phí là đem lại hiệu quả sử dụng chi phí cho
doanh nghiệp, đó là dấu mốc mà nhờ đó hoạt động kiểm soát chi phí có cơ sở để so
sánh đánh giá. Hệ thống chuẩn mực ở đây cụ thể là những định mức đã được xây
dựng trong kế hoạch hoạt động của doanh nghiệp. Về thời hạn, số lượng, giá cả, các
mối quan hệ với giá thành và với tổng nguồn vốn của doanh nghiệp.

 Nguyên tắc kinh tế
Để chức năng kiểm soát chi phí được tiến hành, doanh nghiệp cần đến con
người , công cụ vì thế cần phải tốn chi phí. Nguyên tắc kinh tế đòi hỏi kiểm soát chi
phí phải thu được hiệu quả tức là những lợi ích thu được phải lớn hơn chi phí doanh
nghiệp bỏ ra để thực hiện chức năng kiểm soát một khoản chi phí nào đó, hoặc tổng
thể chi phí của doanh nghiệp. Tránh lãng phí cho những công việc không cần thiết
mà đi ngược lại mục tiêu đề ra.
1.3.5.2. Xây dựng các định mức hiệu quả chi phí.
Phần này giúp ta tìm hiểu những định mức chi phí khác nhau và làm thế nào
để áp dụng vào việc kiểm soát chi phí của doanh nghiệp.
 Định mức chi phí
Khi kiểm soát chi phí thì điều quan trọng là phải làm thế nào để biết được
doanh nghiệp đang quản lý những khoản chi đúng và cần phải giảm bao nhiêu là
hợp lý? Vì vậy, cần phải định mức chi phí, nhằm hướng các khoản chi trong thực tế
tới chi phí mục tiêu hay chi phí dự kiến. Cũng từ đó chúng ta nhận biết được sự tăng
giảm của chi phí và tìm hiểu nguyên nhân để xử lý.
16
Ta có thể đi đến kết luận “ Định mức chi phí là khoản chi được định trước
bằng cách lập ra những tiêu chuẩn gắn với từng trường hợp hay từng điều kiện làm
việc cụ thể”. Định mức chi phí không những chỉ ra được một khoản chi dự kiến là
bao nhiêu mà còn xác định nên chỉ tiêu trong trường hợp nào, điều kiện nào.
Định mức chi phí có hai nội dung chính sau :
- Định mức giá: được xác định bằng cách cộng tổng các khoản chi lại.
- Định mức lượng: là định mức kỹ thuật liên quan tới số lượng thành phần
nguyên vật liệu để sản xuất sản phẩm, số lượng và loại lao động sản xuất, làm việc
trong doanh nghiệp.
Chi phí luôn biến đổi phức tạp vì thế các định mức chi phí phải được xem xét
lại thường xuyên để đảm bảo tính hợp lý của chúng.
 Xây dựng định mức
Đây là công việc rất khó khăn đòi hỏi mức độ lượng hoá cao để doanh nghiệp

có căn cứ phân tích đánh giá các khoản chi phí. Cần phải xây dựng hai loại định
mức cơ bản là định mức giá và định mức lượng.
- Định mức giá
Được xác định bằng cách cộng tổng các chi phí liên quan lại. Khi cần xây
dựng định mức giá về nguyên vật liệu chúng ta sẽ cộng các chi phí liên quan đến
mua nguyên vật liệu và xem xét mối quan hệ với nguồn vốn của chúng ta, vốn sản
phẩm. Trong một thi trường mà có nhiều nhà cung cấp chúng ta sẽ xác định giá
nguyên vật liệu nào là hợp lý nhất.
Cũng như vậy với tiền lương cũng có giá trị cụ thể vì thế cần có định mức
lương. Tiền lương và các khoản chi lương liên quan tới lao động được cộng lại hình
thành định mưc lương. Cần phải xem xét công đoạn sản xuất cụ thể, sản phẩm cụ
thể thì cần loại lao động ứng với mức lương nào. Ví dụ, một cửa hàng internet cần
thuê một nhân viên trông phòng máy. Với mức độ trình độ tin học ở mức độ trung
bình với mức lương khoảng 700 000đồng/tháng đến 800 000 đồng/tháng thay vì
những kỹ sư công nghệ thông tin với mức lương vài triệu đồng.
Đây là những định mức mang tính thực tế, vì chúng cho phép sai lệch ở mức
độ chấp nhận được khi thực hiện. Nếu như doanh nghiệp có đội ngũ công nhân
được quản lý tốt và sẵn sàng hợp tác thì doanh nghiệp sẽ dễ dàng đạt được những
định mức này.
- Định mức lượng
Đó là việc xác định cụ thể những số lượng cụ thể về nguyên vật liệu, thời
gian hao phí lao động xã hội cần thiết mà doanh nghiệp sử dụng.
17
Để xác định định mức lượng thì doanh nghiệp cần đến các chuyên gia hạch
toán kinh tế và cả những kỹ sư. Ví dụ khi doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ gia dụng cần
xây dựng định mức lượng với sản phẩm bàn ghế salon. Khi đó cần xác định lượng
gỗ hao tốn là bao nhiêu m3? Thời gian hoàn thành là bao nhiêu giờ lao động? Định
mức lượng phụ thuộc nhiều vào sự chủ động của doanh nghiệp thay vì các yếu tố
thị trường. Ta đặc biệt thấy rõ điều này ở các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực nông nghiệp nơi mà vấn đề bảo quản nông sản đóng vai trò quan trọng. Đồng

thời việc thắt chặt kỷ luật làm việc và hạn chế thời gian nhàn rỗi ngoài dự kiến do
các nguyên nhân khác nhau (mất điện, thiếu nguyên vật liệu) doanh nghiệp có thể
tăng năng suất lao động và giảm thời gian lao động/1đvsp. Vì vậy doanh nghiệp cần
chủ động xây dựng hệ thống định mức hiệu quả, chính xác và giám sát thực hiện
theo định mức đó.
 Phân tích biến động định mức chi phí xung quanh định mức hiệu quả
Xuất phát từ sự biến động của lợi nhuận doanh nghiệp, nhà quản lý sẽ nhận
thấy sự biến động của chi phí. Biến động có thể là bất lợi nếu chi phí thực sự lớn
hơn chi phí định mức và sẽ có lợi nếu chi phí thực nhỏ hơn chi phí định mức.
Nhưng dù là có lợi hay bất lợi thì điều quan trọng với nhà quản lý là phải hiểu sự
biến động đó, xem xét nguyên nhân sâu xa của sự biến động để có thể có những
quyết định đúng đắn tiếp theo. Muốn làm điều đó nhà quản lý cần phải phân tích sự
biến động chi phí.
Đặt giả thiết rằng trong kỳ kinh doanh vừa qua lợi nhuận của doanh nghiệp
giảm. Sau khi xem xét kỹ các số liệu kế toán thấy rằng chi phí nguyên vật liệu tăng
lên quá nhiều. Nhà quản lý cần phải trả lời câu hỏi tại sao chi phí lại tăng lên? Do
yếu tố khách quan – giá cả nguyên vật liệu tăng lên, do yếu tố chủ quan – lượng phế
liệu quá nhiều. Đó là một ví dụ phân tích biến động chi phí, nhưng khi chi phí biến
đổi thì có thể do một hoặc tập hợp các loại chi phí khác nhau như chi phí lao động,
chi phí nguyên vật liệu, chi phí chung.
Việc tính giá thành sản phẩm theo định mức từng chi phí sẽ giúp ta thấy được
các biến động chi phí. Như vậy ta sẽ biết cụ thể chi phí nào biến động và do nguyên
nhân nào, biến động chi phí nguyên vật liệu có thể do giá tăng hoặc sử dụng nguyên
vật liệu không hiệu quả tạo ra nhiều phế liệu, cũng như vậy chi phí lao động trực
tiếp tăng có thể do lương tăng vì khấu hao lao động hoặc do năng suất lao động
giảm cũng có thể vì biến động thời gian nhàn rỗi tăng lên khi mất điện, thiếu
nguyên liệu… Từ đó chúng ta sẽ có những giải pháp thay đổi chứ không phải quy
trách nhiệm cho ai đó. Tuy nhiên, các biến động thường có quan hệ tương tác với
nhau. Chẳng hạn khi ta giải quyết biến động giá bằng cách sử dụng nguyên vật liệu
18

giá rẻ, điều này thường dẫn đến việc tạo ra nhiều phế liệu hơn và biến động lượng
sử dụng sẽ tăng. Vì vậy cần xem xét kỹ những hậu quả kèm theo những giải pháp.
1.3.6. Các bước kiểm soát chi phí trong doanh nghiệp
1.3.6.1. Xác định chi phí trong doanh nghiệp.
Để tính giá thành xây dựng, trong doanh nghiệp xây dựng giao thông thường
xác định chi phí sản xuất kinh doanh gồm : chi phí trực tiếp và chi phí chung.
- Chi phí trực tiếp
+ Chi phí vật liệu
+ Chi phí nhân công
+ Chi phí máy thi công
+ Trực tiếp phí khác
- Chi phí chung
+ Chi phí quản lý hành chính
+ Chi phí phục vụ công nhân
+ Chi phí phục vụ thi công
+ Chi phí chung khác
1.3.6.2. Kiểm soát chi phí trong doanh nghiệp
Người quản lý doanh nghiệp cần phải nắm các thông tin về chi phí để ra
quyết định. Tính toán, kiểm soát chi phí giúp doanh nghiệp kiểm soát ngân quỹ và
tính giá thành sản phẩm hoặc dịch vụ. Việc kiểm soát chi phí của DN không chỉ là
bài toán về giải pháp tài chính, mà còn là giải pháp về cách dùng người của nhà
quản trị. Đây chính là vấn đề sống còn của doanh nghiệp trong thời kỳ hội nhập.
Hiện nay, giải pháp thông thường mà các doanh nghiệp áp dụng là cắt giảm
các khoản chi phí, duyệt gắt gao từng khoản chi và liên tục nhắc nhở nhân viên tiết
kiệm chi phí… Tuy nhiên, cuối cùng, hiệu quả kiểm soát chi phí vẫn không đạt
được như mong đợi của doanh nghiệp và nhân viên cho là giám đốc “keo kiệt”. Đặc
biệt, vấn đề doanh nghiệp, nhất là những công ty quy mô nhỏ, thường hay gặp phải
hiện nay là sự nhầm lẫn giữa việc kiểm soát chi phí với cắt giảm chi phí và sự lúng
túng trong xây dựng ý thức tiết kiệm ở nhân viên. Điều này dẫn đến một hệ quả
không hay là, doanh nghiệp thường phải loay hoay tốn nhiều thời gian giải quyết

phát sinh chi phí ngoài ý muốn. Từ đó, khoảng cách giữa lãnh đạo và nhân viên
ngày càng xa.
Chi phí chỉ có thể được kiểm soát khi doanh nghiệp tuân thủ theo các bước
kiểm soát chi phí sau đây:
19
- Trước hết, doanh nghiệp phải lập định mức chi phí, cụ thể là định mức cho
các khoản chi phí theo những tiêu chuẩn gắn với từng trường hợp cụ thể trên cơ
sở phân tích hoạt động của doanh nghiệp. Như vậy, doanh nghiệp phải nghiên cứu
các dữ liệu trước đây, đưa ra một sự so sánh chuẩn cũng như căn cứ vào diễn biến
giá cả trên thị trường và chiến lược phát triển của công ty.
- Bước kế tiếp là thu thập thông tin về chi phí thực tế. Công việc này không chỉ
là trách nhiệm của phòng kế toán, mà còn phải được sự tham gia của các phòng, ban
khác để doanh nghiệp chủ động hơn trong việc xử lý thông tin chi phí. Các chi phí
phải được phân bổ thành từng loại cụ thể.
- Ngoài ra, doanh nghiệp phải phân tích biến động giá cả trên thị trường theo
định kỳ, dựa trên những thông tin chi phí thực tế và so sánh với định mức đã thiết
lập để dễ dàng xác định sự khác biệt giữa chi phí thực tế với định mức, đồng thời
khoanh vùng những nơi phát sinh chi phí biến động. Sau khi điều tra và biết được
nguyên nhân biến động chi phí, doanh nghiệp sẽ xác định các chi phí và kiểm soát
được của từng bộ phận nhân viên.
Chủ doanh nghiệp phải thường xuyên đánh giá, phân tích các báo cáo chi
phí cũng như có cách ứng xử thích hợp với nhân viên trong việc kiểm soát chi phí,
đưa ra các chế độ thưởng phạt hợp lý.
 Vai trò của người chủ doanh nghiệp, bộ phận quản lý chi phí và các chương
trình cắt giảm chi phí đối với việc kiểm soát chi phí doanh nghiệp.
- Chủ doanh nghiệp quản lý chi phí
Một số gợi ý về quản lý chi phí cho người chủ doanh nghiệp là kiểm soát việc
mọi người sử dụng tài sản công, phân chia lợi nhuận hợp lý cho các thành viên công
ty và đảm bảo không có kẽ hở tài chính.
Kiểm soát việc sử dụng các tài sản trong công ty: Công việc này giám đốc

thường giao cho một bộ phận nào đó chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, đôi khi người
chủ doanh nghiệp cũng nên để mắt tới tình hình sử dụng tài sản công ty để tránh
tình trạng sử dụng sai gây lãng phí tài sản doanh nghiệp. Ví dụ như ô tô của công ty
chỉ được phép sử dụng vào việc chung như đi ký kết hợp đồng, chăm sóc khách
hàng, nhân viên tuyệt đối không được dùng để làm việc riêng như đi du lịch, đi về
quê hay chở hàng thuê bỏ tiền túi...
Có chính sách về việc phân chia lợi nhuận hợp lý: Đối với giám đốc, cổ đông,
nhân viên... thì điều này rất quan trọng. Cần phải thiết lập một chính sách phân chia
lợi nhuận sao cho vừa hợp pháp và hợp lý đối với họ để vừa đảm bảo được quyền
lợi cho họ đồng thời vẫn tạo điều kiện cho công ty được mở rộng sản xuất hay đầu
tư sang các lãnh vực mới với mục tiêu tăng trưởng cao và ổn định.
20
Tránh các “kẽ hở” tài chính: Sự biển thủ và gian lận tài chính thường hay
xảy ra khi việc quản lý tài chính doanh nghiệp không được chặt chẽ. Điều này làm
tăng chi phí của doanh nghiệp lên nhiều lần. Trước tình hình này, người chủ doanh
nghiệp cần có các bước kiểm soát tài chính chặt chẽ.
• Cẩn thận đối với séc: hãy phân công một người viết séc và người khác ký
séc, hãy để mắt tới các tờ séc "khả nghi" như chữ ký trông giả mạo, giá trị tiền mặt
quá lớn... nên bảo quản séc trong tủ có khóa, đích thân ký séc thanh toán lương và
không bao giờ ký séc khống.
• Giám sát chặt chẽ sổ sách kế toán: Hãy kiểm tra sổ sách kế toán thường
xuyên và đảm bảo rằng hiểu rõ sổ sách kế toán của mình để hạn chế việc biển thủ
gian lận có thể xảy ra. Hơn nữa việc bảo mật thông tin kế toán cũng là điều nên lưu
ý như: những người không được ủy quyền không được vào phần mềm kế toán, máy
tính có chứa số liệu kế toán không nối mạng nội bộ.
- Bộ phận quản lý chi phí
Một "công cụ" giúp người chủ doanh nghiệp quản lý chi phí hiệu quả đó là
bộ phận quản lý chi phí. Đóng vai trò đầu não trong công ty và quan trọng hơn cả
bộ phận kế toán thống kê, bộ phận này có chức năng đánh giá trung thực tình hình
tài chính doanh nghiệp và cùng với giám đốc ra các quyết định về chi phí cũng như

hoạch định các chiến lược tài chính lâu dài.
Đánh giá khách quan và trung thực tình hình tài chính doanh nghiệp: Bộ phận
quản lý chi phí sẽ phân tích, tổng hợp, đánh giá các chi phí nói riêng cũng như hoạt
động tài chính của công ty nói chung dựa trên các số liệu thống kê kế toán như: báo
cáo doanh thu, báo cáo nhân sự và tiền lương... Công việc tiếp theo là báo cáo lên
ban lãnh đạo cấp cao của doanh nghiệp về tình hình tài chính hiện tại: hiệu quả tình
hình đầu tư, vấn đề nợ đọng của doanh nghiệp (doanh nghiệp thiếu nợ, khách hàng
chưa thanh toán..), khả năng huy động vốn... Bên cạnh đó là đánh giá các mặt mạnh
cũng như thiếu xót của doanh nghiệp khi so sánh với các công ty đối thủ.
Giúp giám đốc ra quyết định về chi phí và hoạch định chiến lược tài chính:
Dựa trên thực trạng tài chính doanh nghiệp, công việc của bộ phận quản lý chi phí
là giúp giám đốc ra các quyết định về chi phí đầu tư cho doanh nghiệp (ví dụ như
với tình hình tài chính của tháng này thì doanh nghiệp đã nên đầu tư nhập khẩu hệ
thống dây chuyền sản xuất mới chưa...). Ngoài ra, kết hợp cùng các yếu tố khách
quan như: tình hình thị trường, các chính sách của nhà nước... bộ phận này sẽ đưa ra
các gợi ý về quyết sách tài chính cho nhà lãnh đạo: các chiến lược chi tiêu ngắn
hạn, kế hoạch tham gia vào thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường chứng
21
khoán; xác định chiến lược tài chính cho các chương trình, các dự án của công ty là
mở rộng hay thu hẹp sản xuất...
- Các chương trình cắt giảm chi phí
Các chương trình cắt giảm chi phí từ lâu đã trở thành một bộ phận không thể
thiếu trong cuộc sống kinh doanh nhằm gia tăng doanh thu và lợi nhuận cho các
công ty. Tuy nhiên đây là một vấn đề khá "nhạy cảm" nên bên cạnh những lợi ích
còn có cả những điều bất lợi tiềm ẩn bên trong nó. Lời khuyên dành cho doanh
nghiệp khi áp dụng chương trình này là phải cân nhắc giữa những điều được/mất và
phải áp dụng một cách linh động để giảm tránh các thiệt hại một cách thấp nhất.
Lợi ích của việc cắt giảm chi phí: Đây là một cách tạo vốn nhanh nhất, đơn
giản nhất trong ngắn hạn và dễ dàng tạo ra các yếu tố cạnh tranh. Doanh nghiệp
giảm được gánh nặng chi phí. Ví dụ như chi phí cho hoạt động quảng cáo của doanh

nghiệp A hàng quý là 50.000$ nhưng khi áp dụng chương trình này cắt giảm chi phí
này xuống 1/3 thì doanh nghiệp sẽ phải chi 33.000$, giảm được tới 17.000$ một
quý.
Các bất lợi dễ gặp phải: Việc "thắt lưng buộc bụng" dễ gây đến nhiều tiêu
cực: xói mòn những nỗ lực cải thiện cạnh tranh lâu bền, phạm vi áp dụng trên tổng
thể nên đôi khi ảnh hưởng tới một số bộ phận mang đặc tính riêng như bộ phận
quan hệ khách hàng. Đôi khi vì cắt giảm chi phí mà ta đã vô tình loại bỏ đi điều
quan trọng. Thậm chí đôi khi chi phí "dọn dẹp chiến trường" sau khi cắt giảm chi
phí lại còn lớn hơn cả những gì doanh nghiệp đạt được.
1.3.7. Vấn đề kiểm soát chi phí ở các doanh nghiệp nước ta.
 Về nhận thức, lý luận.
Vấn đề nhận thức và lý luận kiểm soát chi phí ở các doanh nghiệp nước ta
còn rất non kém. Dẫu rằng bất kỳ doanh nghiệp nào khi hoạt động cũng muốn kiểm
soát chi phí theo mong muốn. Nhưng để có được lợi nhuận các doanh nghiệp thay
vì kiểm soát chi phí của mình thì họ lại thường xuyên lo chạy trọt, tìm kiếm những
hợp đồng mối làm ăn thiếu tính cạnh tranh. Các doanh nghiệp Việt Nam vì thế chưa
thể cạnh tranh bằng lợi thế về giá cả.
Trong thời điểm này nhận thức và lý luận của các nhà quản lý về kiểm soát
chi phí cần phải thấu đáo, sâu sắc để có thể triển khai sáng tạo theo những đặc trưng
của doanh nghiệp mình nhằm hạ giá thành sản phẩm. Có như vậy các doanh nghiệp
mới hy vọng tự do cạnh tranh trong thời gian tới khi mà nền kinh tế của nước ta hội
nhập vào WTO.
22
 Thực trạng kiểm soát chi phí – hạ giá thành.
Xuất phát từ sự yếu kém về nhận thức, lý luận chức năng kiểm soát chi phí
mà nước ta các doanh nghiệp phần lớn không kiểm soát được chi phí của mình dẫn
tới giá thành sản phẩm rất cao, lãng phí nguyên vật liệu nhiều, năng suất lao động
thấp.
Ngày nay, số sản phẩm Công nghiệp của Việt Nam đã có uy tín và vị trí trên
thị trường. Nhưng nhiều sản phẩm trong số đó tồn tại được là nhờ sự bảo hộ của nhà

nước thông qua các biện pháp thuế quan và phi thuế quan.
“ Theo nhận xét của Bộ tài chính, so với thi trường khu vực và thế giới, mức
giá đầu vào ở Việt Nam có sự chênh lệch rất lớn, cũng có nghĩa là chi phí đầu vào
của các doanh nghiệp Việt Nam rất cao”. Tuy rằng kiểm soát chi phí và giảm chi
phí là không đồng nhất nhưng đều hướng tới giải quyết vấn đề giảm chi phí sản xuất
mà đây là vấn đề nan giải ở nước ta.
Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại các doanh nghiệp buộc phải nâng cao
tính cạnh tranh, trong đó nhân tố quan trọng là giảm chi phí. Muốn giảm chi phí lại
phụ thuộc vào nhiều nhân tố. Ngoài yếu tố chủ quan còn các nhân tố khách quan
như cơ chế, chính sách nhà nước.
Về phần các doanh nghiệp họ đã tập trung vào vấn đề giảm chi phí, đặc biệt ở
các tổng công ty lớn.
Ở tổng công ty Hoá chất Việt Nam, 9 tháng đầu năm 2002, tốc độ tăng
trưởng sản xuất công nghiệp đạt 16,6% tăng 2,6% với mục tiêu đề ra nhưng lợi
nhuận lại không tăng thậm chí tiền lương của một số doanh nghiệp lại giảm, trung
bình từ 2,1triệu/người/tháng xuống còn 1,8triệu/người/tháng. Qua phân tích nguyên
nhân vì giá nguyên liệu cao su và lưu huỳnh tăng gấp 2 lần so với năm 2001 trong
khi giá thánh sản phẩm không đổi, tiền điện sản xuất cũng tăng giá… Và vấn đề
kiểm soát chi phí doanh nghiệp đã cho sản xuất ban đêm để hưởng giá điện ưu đãi,
nghiên cứu nguyên liệu thay thế. Rõ ràng chức năng kiểm soát chi phí đã được quan
tâm và có hiệu quả khi đưa ra các giải pháp giải quyết.
Với tổng công ty Thép Việt Nam, họ cũng đã có rất nhiều biện pháp giảm chi
phí. 6 tháng đầu năm 2003 ngành thép đạt gần 1,5 triệu tấn, tăng 26% so với cùng
kỳ năm 2002. Theo ông Nguyễn Hữu Thơ trả lời trên tạp chí Công nghiệp Việt
Nam số 20/2002 thì do công ty cân nhắc khi chọn mua các nguyên liệu hợp lys,
phấn đấu mức tiêu hao ít, quản lý vận hành lo an toàn không xảy ra sự cố ngừng sản
xuất…
Cũng trong tiến trình hạ giá thành sản phẩm Tổng công ty Than Việt Nam đã
có những biện pháp về kiểm soát chi phí rất hiệu quả như: khoán chi phí sản xuất và
23

giá thành, thường xuyên kiểm soát khống chế giá thành, tăng cường tận thu than…
Coi đó là biện pháp sống còn đối với doanh nghiệp.
Qua đó chúng ta thấy ở cả ba Tổng công ty những biện pháp kiểm soát chi
phí và hạ giá thành đã phát huy hiệu quả và minh chứng vai trò của kiểm soát chi
phí trong hệ thống kiểm soát của các doanh nghiệp.
Nhưng nhìn chung nhận thức và thực tế triển khai chức năng kiểm soát chi
phí ở các doanh nghiệp nước ta chưa đạt hiệu quả cao, chưa đúng tầm. Còn về thực
tế thì việc lựa chọn giải pháp hạ giá thành và nâng cao sức cạnh tranh chưa cơ bản,
chưa mang tính đột phá, chưa đủ mạnh hoặc lựa chọn đúng những triển khai chưa
kiên quyết, thiếu triệt để, nên việc làm còn mang tính nhất thời nên hiệu quả chưa
cao.
Như vậy cần phải nâng cao hơn nữa nhận thức, lý luận với vấn đề kiểm soát
chi phí, hạ giá thành. Cũng như thực hiện triệt để, sáng tạo hơn nữa những giải pháp
cho vấn đề.
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí sản xuất kinh doanh
Gồm 3 nhân tố: + Tổ chức quản lý tài chính doanh nghiệp.
+ Tổ chức sản xuất và tổ chức lao động.
+ Những tiến bộ khoa hoc kỹ thuật và công nghệ.
1.4.1 Tổ chức quản lý tài chính doanh nghiệp.
Quản lý tài chính là một bộ phận quan trọng của quản lý kinh doanh doanh
nghiệp và cũng là kiểu quản lý mang tính chất tổng hợp đối với hoạt động sản xuất
kinh doanh sử dụng hình thức giá trị. Cùng với thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta, sự đi sâu cải cách thể chế doanh nghiệp và
quản lý kinh doanh, quản lý tài chính ngày càng được nhân viên quản trị doanh
nghiệp coi trọng, vị trí của nhân viên quản trị doanh nghiệp ngày càng được nâng
cao.
Việc quản lý tài chính bao gồm việc lập các ké hoạch tài chính dài hạn và
ngắn hạn, đồng thời quản lý có hiệu quả vốn hoạt động thực của công ty. Đây là
công việc rất quan trọng đối với tất cả các doanh nghiệp bởi vì nó ảnh hưởng đến
cách thức và phương thức mà nhà quản lý thu hút vốn đầu tư để thành lập, duy trì

và mở rộng công việc kinh doanh . Lập kế hoạch tài chính sẽ cho phép quyết định
lượng nguyên liệu thô doanh nghiệp có thể mua, sản phẩm công ty có thể sản xuất
và khả năng công ty có thể tiếp thị, quảng cáo để bán sản phẩm ra thị trường. Khi có
kế hoạch tài chính, có thể xác định được nguồn nhân lực mà doanh nghiệp cần.
24
“Việc quản lý tài chính không có hiệu quả là nguyên nhân lớn nhất dẫn đến
sự thất bại của công ty, không kể công ty vừa và nhỏ hay các tập đoàn công ty lớn.”
Lập kế hoạch tài chính gồm lập kế hoạch trong ngắn hạn và lập kế hoạch
trong dài hạn. Kế hoạch tài chính ngắn hạn là việc lập kế hoạch về lợi nhuận và
ngân quỹ công ty trong khi kế hoạch dài hạn thườnh mang tính chiến lược và liên
quan đến việc lập các mục tiêu tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận trong vòng 3 đến
5 năm.
 Kế hoạch tài chính ngắn hạn.
Các công cụ dùng trong việc lập kế hoạch ngắn hạn thường dùng là : báo cáo
thu nhập chiếu lệ , báo cáo lưu chuyển tiền tệ, phân tích tình hình ngân quỹ và chiến
lược giá cả . Kế hoạch tài chính ngắn hạn nên được lập theo từng tháng để có được
cái nhìn sát hơn và đưa ra được biện pháp nâng cao tình hình tài chính.
 Lập kế hoạch tài chính dài hạn hay kế hoạch tài chính chiến lược.
Các doanh nghiệp thương sử dụng báo cáo thu nhập chiếu lệ cho khoảng thời
gian từ 3 đến 5 năm. Vấn đề khó khăn đặt ra là làm sao có thể dự đoán hết được
những biến động sẽ xảy ra với doanh nghiệp trong vòng mấy năm sắp tới. Các nhà
quản lý sẽ dễ dàng làm được điều này theo quy trình sau :
- Xác lập tốc độ tăng trưởng mong muốn mà công ty có thể đạt được. Tính
toán mức vốn cần thiết trang trải các khoản tồn kho, trang thiết bị , nhà xưởng và
nhu cầu nhân sự cần thiết để đạt được tốc độ tăng doanh thu. Nhà quản trị phải dự
tính được chính xác và kịp thời nhu cầu vốn để có kế hoạch thu hút vốn bên ngoài
trong trường hợp ngân quỹ từ lợi nhuận không chia không đủ đáp ứng. Có 2 nguồn
vốn trang trải cho nhu cầu vốn để tăng trưởng là : lợi nhuận và vay nợ.
- “Nếu công ty không có đủ vốn để tài trợ cho chương trình mở rộng công việc
kinh doanh thông qua tăng tồn kho, đổi mới trang bị và tài sản cố định và tăng chi

phí điều hành công ty sẽ bị chậm lại hoặc dừng lại hẳn do công ty không thanh toán
được các khoản nợ đến hạn.”
- Để tránh tình trạng này, nhà quản trị phải tích cực lập kế hoạch tài chính để
kiểm soát được tốc độ tăng trưởng. Muốn thế phải xác định được chính xác các nhu
cầu của doanh nghiệp trong tương lai bằng cách sử dụng báo cáo thu nhập chiếu lệ
trong vòng 3 đến 5 năm.
- Trong trường hợp lợi nhuận làm ra không đủ để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng
dự báo của công ty, người quản trị phải bố trí vay nợ bên ngoài hoặc giảm tốc đọ
tăng trưởng để mức lợi nhuận làm ra có thể theo kịp nhu cầu tăng trưởng và mở
rộng. Do việc thu hút vốn đầu tư vay nợ mất rất nhiều thời gian nên đòi hỏi nhà
25

×