Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ Bảo hiểm vật chất xe ô tô tại ABIC’’

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.36 KB, 52 trang )

Luận văn cuối khóa Khoa Ngân hàng Bảo hiểm
LỜI MỞ ĐẦU
Giao thông vận tải là một ngành sản xuất phi vật chất không thể thiếu
được ở bất cứ một quốc gia nào. Giao thông vận tải cũng là một bộ phận quan
trọng của cơ sở hạ tầng. Nó quyết định rất lớn đến sự phát triển kinh tế đất nước.
Có thể nói giao thông vận tải là huyết mạch của nền kinh tế.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, đời sống nhân dân ngày
càng được cải thiện hơn. Nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hoá, hành khách ngày
càng phát triển. Trong giao thông vận tải thì xe ô tô là một phương tiện phổ
biến nhất, được sử dụng rộng rãi nhất với những ưu điểm nổi bật về tính cơ động
cao, khả năng vận chuyển lớn, tốc độ tương đối nhanh, giá thành vận chuyển
thấp. Vận chuyển bằng xe ôtô đã đảm bảo được một phần quan trọng nhu cầu
vận tải của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Hiện nay, bên cạnh tốc độ xây mới, mở rộng hoặc nâng cấp hệ thống
đường xá, cầu cống không tương xứng với tốc độ tăng phương tiện giao thông
mà tình trạng vi phạm luật lệ an toàn giao thông như phóng nhanh vượt ẩu... Đã
dẫn đến tình hình giao thông đường bộ ngày càng gây thiệt hại nghiêm trọng đến
tính mạng và tài sản cho các chủ xe cũng như toàn xã hội.
Vì vậy, để bảo vệ cho chủ xe ôtô trong thời gian lưu hành, bảo hiểm vật
chất xe ôtô ra đời và phát triển. Sự ra đời của bảo hiểm vật chất xe ôtô là một
nhu cầu khách quan nhằm giúp cho các chủ xe ổn định cuộc sống, ổn định sản
xuất kinh doanh trong trường hợp không may gặp rủi ro tai nạn bất ngờ.
Từ khi ra đời, nghiệp vụ này đã khẳng định được tính ưu việt và tầm quan
trọng của nó. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, nghiệp vụ vẫn
còn nhiều vấn đề phải tiếp tục giải quyết, xem xét để đưa ra các biện pháp khắc
phục tốt hơn để có thể nâng cao hiệu quả, chất lượng của nghiệp vụ, chính vì
vậy, trong thời gian thực tập tại phòng bảo hiểm phi hàng hải của công ty bảo
hiểm ABIC em đã chọn đề tài :
SV: Phan Thị Thảo 1 Lớp CQ44/03.01
Luận văn cuối khóa Khoa Ngân hàng Bảo hiểm
“Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ Bảo hiểm vật chất xe


ô tô tại ABIC’’, để làm chuyên đề thực tập và luận văn tốt nghiệp.
Nội dung chính của đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận được chia làm
ba chương.
Chương 1: Lý luận chung về bảo hiểm vật chất xe ôtô
Chương 2: Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô tại
công ty bảo hiểm ABIC
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của
nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô tại công ty bảo hiểm ABIC
Đề tài này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình chu đáo của cô
giáo Nguyễn Thị Ánh Nguyệt cùng với sự giúp đỡ của các anh, chị phòng bảo
hiểm Phi Hàng Hải của công ty bảo hiểm ABIC. Nhưng do thời gian ngắn và
trình độ còn hạn chế nên bài viết của em vẫn còn nhiều thiếu sót. Rất mong được
sự góp ý của cô giáo và của các anh, chị trong phòng bảo hiểm Phi Hàng Hải để
bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hà nội, ngày 20 tháng 4 năm 2010
Sinh viên thực hiện
Phan Thị Thảo
SV: Phan Thị Thảo 2 Lớp CQ44/03.01
Luận văn cuối khóa Khoa Ngân hàng Bảo hiểm
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM
VẬT CHẤT XE Ô TÔ
1.1. Sự cần thiết khách quan và vai trò của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe
ô tô
1.1.1. Sự cần thiết khách quan của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô
Giao thông vận tải đường bộ là một phương thức vận tải chủ yếu được áp
dụng trên lãnh thổ Việt Nam bởi nó tiện lợi và phù hợp với đặc điểm địa hình và
kinh tế, xã hội của nước ta. Khi nền kinh tế phát triển, nhu cầu đi lại và vận
chuyển hàng hoá của người dân ngày càng tăng lên. Loại phương tiện giao thông

chủ yếu tham gia trên đường bộ vẫn là xe cơ giới, trong đó chủ yếu là ô tô và xe
máy. Đặc biệt là trong tiến trình hội nhập nền kinh tế thế giới, cùng với tốc độ
tăng trưởng chóng mặt của tất cả các chỉ tiêu kinh tế thì dường như chất lượng
cuộc sống của chúng ta đang dần được cải thiện. Nhiều người dân đã trang bị
cho mình và cả gia đình những chiếc xe hơi sang trọng và đắt tiền để phục vụ
cho nhu cầu đi lại và kinh doanh. Như vậy lượng ô tô chỉ phục vụ riêng cho nhu
cầu của những cá nhân có nguồn tài chính dư giả đã ngày càng tăng lên. Đó là
còn chưa kể đến các loại xe ô tô tải chở hàng hoá, ô tô khách chở người, taxi và
các loại xe buýt phục vụ nhu cầu đi lại của đông đảo giới học sinh, sinh viên,
quần chúng lao động…là rất lớn và có xu hướng gia tăng mạnh trong thời gian
tới. Nhưng vấn đề đặt ra là khi lượng xe ô tô tham gia giao thông ngày càng tăng
thì kéo theo đó là nguy cơ xảy ra tai nạn giao thông ngày càng lớn. Bên cạnh
những ưu điểm vốn có của loại phương tiện này như: tốc độ cao, vận chuyển với
số lượng và khối lượng lớn, chi phí vận chuyển, chi phí xây dựng đường xá, bến
bãi để xe không quá đắt đỏ so với các phương tiện khác như máy bay, tàu hoả,
tàu thuỷ….Thì vận chuyển bằng xe ô tô cũng có những nhược điểm như độ an
toàn thấp, khả năng xảy ra rủi ro tai nạn cao. Đặc biệt những tai nạn do ô tô gây
SV: Phan Thị Thảo 3 Lớp CQ44/03.01
Luận văn cuối khóa Khoa Ngân hàng Bảo hiểm
ra thường gây thiệt hại rất lớn về tài sản và tính mạng của chủ xe. Theo thống
kê, hàng năm thiệt hại về tài sản do tai nạn ô tô gây ra đã lên tới con số hàng
chục, hàng trăm triệu đồng trên mỗi vụ tai nạn, đó là còn chưa kể đến thiệt hại
về người là không thể tính toán được. Tuy nhiên, khi tai nạn xảy ra thì những
thiệt hại về người ( cụ thể là đối với bên thứ ba) đã có bảo hiểm trách nhiệm dân
sự đứng ra bồi thường bởi đây là loại bảo hiểm bắt buộc đối với các chủ xe khi
tham gia giao thông. Nhưng những thiệt hại về tài sản chủ xe sẽ phải tự gánh
chịu nếu không tham gia bảo hiểm. Đôi khi những thiệt hại này có thể vượt quá
khả năng của chủ xe, làm ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống hàng ngày và
công việc kinh doanh của họ. Trước tình hình đó, để góp phần khắc phục hậu
quả của những vụ tai nạn, chia sẻ gánh nặng về mặt tài chính và giúp chủ xe

nhanh chóng đi vào ổn định sản xuất kinh doanh khi không may gặp phải tai
nạn, bảo hiểm vật chất xe ô tô đã ra đời và đã được triển khai ở hầu hết các công
ty bảo hiểm phi nhân thọ hiện nay. Như vậy, có thể nói bảo hiểm vật chất xe ô tô
là một nghiệp vụ rất quan trọng, nó rất thiết thực và không thể thiếu trong cuộc
sống hiện đại luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro như hiện nay.
1.1.2. Vai trò của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô
Bảo hiểm vật chất xe ô tô có nhiều vai trò thiết thực không chỉ đối với các
chủ xe nói riêng mà còn còn có những đóng góp tích cực cho toàn xã hội nói
chung. Cụ thể:
Thứ nhất, giúp các chủ xe nhanh chóng ổn định sản xuất kinh doanh và
giảm bớt gánh nặng về mặt tài chính cho họ khi không may gặp phải rủi ro trong
phạm vi được bảo hiểm.
Khi không may gặp phải tai nạn, bản thân chiếc xe có thể bị hư hỏng
cần phải có thời gian và tiền của để khôi phục, sửa chữa. Nếu chiếc xe đã
được tham gia bảo hiểm vật chất thì những chi phí bỏ ra để khôi phục chiếc
xe về nguyên trạng ban đầu sẽ được các nhà bảo hiểm đứng ra chi trả một
phần hoặc toàn bộ. Bên cạnh đó, việc giải quyết bồi thường cũng được diễn ra
SV: Phan Thị Thảo 4 Lớp CQ44/03.01
Luận văn cuối khóa Khoa Ngân hàng Bảo hiểm
rất nhanh chóng và tiện lợi. Như vậy gánh nặng về mặt tài chính của chủ xe
sẽ được san sẻ một phần sang cho các nhà bảo hiểm. Chủ xe sẽ nhanh chóng
có thể khôi phục hoạt động của xe, sớm ổn định hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình.
Thứ hai, góp phần đề phòng, hạn chế tổn thất. Mục tiêu lớn nhất của hoạt
động kinh doanh bảo hiểm là tạo ra lợi nhuận. Do đó, muốn thu được lợi nhuận
cao thì các doanh nghiệp bảo hiểm phải tiến hành cắt giảm chi phí, mà khoản chi
cho bồi thường là một trong số những khoản chi lớn nhất trong các doanh
nghiệp bảo hiểm. Trên cơ sở này, các doanh nhiệp bảo hiểm đã đề ra các biện
pháp nhằm giúp khách hàng của mình đề phòng và hạn chế các tổn thất có thể
xảy ra. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bảo hiểm còn phối hợp chặt chẽ với các

cơ quan chức năng giáo dục ý thức cho người dân trong việc chấp hành nghiêm
chỉnh luật lệ an toàn giao thông, góp kinh phí để xây dựng, cải tạo hệ thống
đường xá, lắp đặt các hệ thống đèn tín hiệu, dải phân cách, gương cầu… để góp
phần đề phòng hạn chế tổn thất, giảm thiểu tai nạn xảy ra.
Thứ ba, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Thông qua việc nộp thuế,
các công ty bảo hiểm đã góp phần tăng thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Từ
nguồn thu này nhà nước có thể phối hợp với các đơn vị ban ngành có liên quan để
xây dựng, nâng cấp đường xá giao thông, thúc đẩy hoạt động kinh tế phát triển, góp
phần nâng cao đời sống cho xã hội.
Thứ tư, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Khi nghiệp
vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô phát triển, kéo theo đó là nhu cầu về nguồn nhân
lực làm việc trong lĩnh vực bảo hiểm ngày một tăng lên như: nhu cầu về đội ngũ
cán bộ khai thác, nhân viên tư vấn, giám định viên… Như vậy sẽ thu hút được
một số lượng lớn lao động, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho nhiều
người và góp phần giảm bớt các tệ nạn xã hội do thất nghiệp gây nên.
Thứ năm, Góp phần tăng nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế. Người tham
gia bảo hiểm đóng một khoản phí bảo hiểm hình thành nên một nguồn quỹ bảo
SV: Phan Thị Thảo 5 Lớp CQ44/03.01
Luận văn cuối khóa Khoa Ngân hàng Bảo hiểm
hiểm lớn. Ngoài việc chi trả bồi thường thì nguồn quỹ này còn là một kênh huy
động vốn lớn để đầu tư, phát triển kinh tế đất nước.
1.2. Nội dung cơ bản của Nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô.
1.2.1. Đối tượng bảo hiểm.
- Bảo hiểm vật chất xe ô tô là loại hình bảo hiểm tài sản, có đối tượng bảo
hiểm là bản thân chiếc xe ô tô tham gia bảo hiểm.
- Xe ô tô cũng là một loại xe cơ giới nên nó mang tất cả những đặc điểm
của xe cơ giới: chạy trên đường bộ, bằng động cơ của chính nó và có ít nhất một
chỗ ngồi cho người lái xe. Xe ô tô cũng có nhiều loại: xe ô chở hàng hoá, xe ô tô
chở người, xe ô tô vừa chở người, vừa chở hàng và các loại xe chuyên dụng
khác.

- Điều kiện để một chiếc xe ô tô có thể là đối tượng bảo hiểm trong hợp
đồng bảo hiểm vật chất xe ô tô là chiếc xe này phải đảm bảo những điều kiện về
kỹ thuật và pháp lý cho sự lưu hành: chủ xe phải được cơ quan có thẩm quyền
cấp giấy đăng ký xe, biển kiểm soát, giấy chứng nhận về kiểm định an toàn kỹ
thuật và môi trường.
- Xét về mặt phương diện kỹ thuật, thông thường một chiếc xe ô tô được
chia ra làm 7 tổng thành khác nhau:
1. Tổng thành động cơ: bao gồm phần máy, chế hoà khí hoặc bơm cao áp,
bơm xăng, bầu lọc khí, lọc dầu, máy phát điện, máy nén khí, két nước, các dụng
cụ làm mát, các thiết bị làm cho máy nổ…
2. Tổng thành hộp số: bao gồm hộp số chính, hộp số phụ, hệ thống dẫn
động cơ.
3. Tổng thành trục trước (cầu trước): bao gồm dầm cầu, trục lắp, hệ thống
treo nhíp, may ơ trước, cơ cấu phanh, nếu là cầu chủ động thì có thêm một cầu,
vi sai, vỏ cầu.
SV: Phan Thị Thảo 6 Lớp CQ44/03.01
Luận văn cuối khóa Khoa Ngân hàng Bảo hiểm
4. Tổng thành cầu sau: bao gồm vỏ cầu toàn bộ, ruột cầu, vi sai, cụm
mayơ sau, cơ cấu phanh, xilanh phanh, nếu là cầu chủ động thì có thêm một cầu,
trục lắp ngang, hệ thống treo cầu sau, nhíp...
5. Tổng thành hệ thống lái: bao gồm vô lăng lái, trục tay lái, các đăng dẫn
động lái, hộp tay lái, bổ trợ tay lái (nếu có), thanh kéo ngang, thanh kéo dọc.
6. Tổng thành thân vỏ: được chia làm 3 nhóm:
Nhóm A: Thân vỏ: Cabin toàn bộ, ca lăng, ca bô, chắn bùn, toàn bộ cửa
và kính, toàn bộ đèn và gương, gạt nước mưa, rửa kính, toàn bộ vỏ kim loại,
nhựa hoặc gỗ, các cần đạp và gạt và bàn đạp ga, côn số phanh chân, phanh tay.
Nhóm B: Ghế đệm và nội thất: toàn bộ ghế đệm ngồi hoặc nằm, ngang hoặc dọc
của xe; các trang thiết bị như máy điều hoà nhiệt độ, quạt, đài, radio casset, đĩa
compact...
Nhóm C: Sát si: khung xe, ba đờ sốc, các cơ cấu bám chặt vào khung và

tổng bơm phanh, dẫn động phanh chính và phanh tay, dẫn động côn, các bình
chứa hơi phanh, bình chứa nguyên liệu, các đường ống và tuy mô dẫn dầu, dẫn
hơi, dây dẫn điện...
7. Tổng thành lốp: các bộ săm lốp hoàn chỉnh của xe (kể cả săm lốp dự
phòng).
Ngoài ra, có một số loại xe còn có tổng thành chuyên dùng lắp trên xe để
sử dụng theo nhu cầu: cần cẩu nâng, xe cứu hoả, xe cứu thương...
Việc phân chia xe thành các tổng thành sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc
tính khấu hao khi xe bị hư hỏng toàn bộ hoặc một tổng thành nào đó.
Các chủ xe có thể tham gia bảo hiểm cho chiếc xe của mình theo hai
hình thức: bảo hiểm toàn bộ xe hoặc bảo hiểm thân vỏ xe. Vì thông thường tổng
thành thân vỏ xe là phần dễ bị tổn thất nhất khi rủi ro xảy ra và thân vỏ chiếm
một phần lớn trong cơ cấu giá trị của xe.
1.2.2. Phạm vi bảo hiểm
SV: Phan Thị Thảo 7 Lớp CQ44/03.01
Luận văn cuối khóa Khoa Ngân hàng Bảo hiểm
1.2.2.1. Rủi ro có thể được bảo hiểm
Ở mỗi doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau có thể có những điểm khác biệt.
Xét trên phương diện đảm bảo yêu cầu về mặt pháp lý, kỹ thuật trong hoạt động
kinh doanh bảo hiểm, rủi ro có thể được bảo hiểm bao gồm các rủi ro sau đây:
- Những rủi ro thông thường gắn liền với hoạt động của xe như: đâm va,
lật đổ, lao xuống sông,vực.
- Những rủi ro bất thường dễ phát sinh khác: cháy, nổ, hoả hoạn.
- Những rủi ro khách quan có nguồn gốc tự nhiên: bão, lũ lụt, sụt lở
đường xá.
- Những rủi ro khách quan có nguồn gốc xã hội: mất cắp, mất cướp toàn
bộ xe.
- Nhà bảo hiểm còn đảm bảo cho các chi phí:
+ Chi phí đề phòng, hạn chế tổn thất phát sinh khi xe bị tai nạn, sự cố.
+ Chi phí thuê xe kéo, chở xe, cẩu xe đến nơi gần nhất để sửa chữa.

+ Chi phí giám định.
1.2.2.2. Các rủi ro loại trừ.
- Loại trừ những tổn thất không phải là hậu quả của những sự cố ngẫu
nhiên, khách quan, những tổn thất liên quan đến yếu tố chủ quan của chủ xe
trong việc bảo dưỡng, quản lý xe như:
+ Hao mòn tự nhiên, giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết tật hoặc
hư hỏng thêm do sửa chữa.
+ Hư hỏng về điện hoặc bộ phận máy móc thiết bị, kể cả máy thu
thanh, điều hoà nhiệt độ, săm lốp bị hư hỏng mà không do tai nạn gây ra.
- Loại trừ những trường hợp vi phạm pháp luật, hoặc độ trầm trọng của
rủi ro tăng lên:
+ Hành động cố ý gây tai nạn của chủ xe, lái xe, lái xe không có bằng
lái hoặc có nhưng không hợp lệ.
SV: Phan Thị Thảo 8 Lớp CQ44/03.01
Luận văn cuối khóa Khoa Ngân hàng Bảo hiểm
+ Lái xe sử dụng và chịu ảnh hưởng của rượu, bia, ma tuý hoặc các
chất kích thích khác trong khi điều khiển xe ( nồng độ cồn trong máu hoặc trong
hơi thở của lái xe vượt quá quy định)
+ Xe không có giấy chứng nhận đăng kiểm và bảo vệ môi trường hợp
lệ (giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và môi trường).
+ Xe chở chất cháy, nổ trái phép.
+ Xe chở quá trọng tải hoặc quá số hành khách quy định.
+ Xe đi vào đường cấm hoặc đi đêm không có đèn.
+ Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, chạy thử.
- Loại trừ rủi ro có tính chính trị với hậu quả lan rộng: chiến tranh.
- Những quy định loại trừ khác như:
+ Loại trừ những thiệt hại gián tiếp, tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ nước
CHXHCN Việt Nam (trừ trường hợp có thoả thuận riêng).
+ Loại trừ những thiệt hại do mất cắp bộ phận của xe. Vấn đề này phụ
thuộc vào yêu cầu quản lý rủi ro của người bảo hiểm, và những yếu tố khác của

hợp đồng như là phí bảo hiểm.
- Những thiệt hại là hậu quả gián tiếp như giảm giá trị thương mại, mất
giảm thu nhập do ngừng sản xuất, sử dụng, khai thác.
- Ngoài ra các công ty bảo hiểm còn có thể từ chối một phần hoặc toàn bộ
số tiền bồi thường trong trường hợp chủ xe có những vi phạm sau:
+ Cung cấp không đầy đủ, trung thực các thông tin ban đầu về đối
tượng bảo hiểm trong giấy yêu cầu bảo hiểm.
+ Khi xảy ra tai nạn, không thông báo ngay cho doanh nghiệp bảo
hiểm. Không áp dụng các biện pháp để ngăn ngừa và hạn chế tổn thất hoặc tự ý
tháo dỡ, sửa chữa xe mà chưa có sự đồng ý của doanh nghiệp bảo hiểm.
+ Không làm các thủ tục bảo lưu quyền đòi người thứ ba có lỗi trong
việc gây ra thiệt hại cho chiếc xe được bảo hiểm.
SV: Phan Thị Thảo 9 Lớp CQ44/03.01
Luận văn cuối khóa Khoa Ngân hàng Bảo hiểm
1.2.3. Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm.
1.2.3.1.Giá trị bảo hiểm.
Giá trị bảo hiểm của xe ô tô là giá trị thực tế trên thị trường của xe tại
thời điểm tham gia bảo hiểm. Việc xác định đúng giá trị thực tế của xe ô tô là
một công việc rất quan trọng trong việc đảm bảo quyền lợi và trách nhiệm của
các bên trong hợp đồng bảo hiểm và là cơ sở để bồi thường chính xác giá trị
thiệt hại khi có rủi ro xảy ra.
- Đối với những xe mới bắt đầu đưa vào sử dụng, việc xác định giá trị của
chúng không quá phức tạp, doanh nghiệp bảo hiểm có thể căn cứ vào một trong
các giấy tờ sau đây để xác định giá trị bảo hiểm:
+ Giấy tờ, hoá đơn mua bán giữa nhà máy lắp ráp, đại lý phân phối với
người mua, hoặc giữa những người bán nước ngoài với người nhập khẩu.
+ Hoá đơn thu thuế trước bạ.
Đối với xe nhập khẩu miễn thuế, giá trị bảo hiểm được tính như sau:
GTBH= CIF x (100% + T1 ) x (100% + T2)
Trong đó: T1 là thuế suất thuế nhập khẩu

T2 là thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt.
- Đối với những xe đã qua sử dụng. Việc xác định giá trị của xe được căn
cứ theo các yếu tố sau:
+ Giá mua xe lúc ban đầu
+ Giá mua bán trên thị trường của những chiếc xe cùng chủng loại, có
chất lượng tương đương.
+ Tình trạng hao mòn thực tế của xe
+ Tình trạng kỹ thuật và hình thức bên ngoài của xe trên thực tế
Tuy nhiên việc xác định giá trị thực tế chỉ cho một kết quả tương đối
chính xác và hợp lý. Trong thực tế, để phục vụ cho việc xác định giá trị bảo
hiểm của xe, một số doanh nghiệp bảo hiểm đã xây dựng bảng giá xe theo nguồn
gốc sản xuất, năm sản xuất, loại xe, mác xe, dung tích xi lanh…
SV: Phan Thị Thảo 10 Lớp CQ44/03.01
Luận văn cuối khóa Khoa Ngân hàng Bảo hiểm
1.2.3.2. Số tiền bảo hiểm.
Chủ xe có thể tham gia bảo hiểm cho xe dưới dạng:
- Bảo hiểm đúng giá trị: Số tiền bảo hiểm được xác định căn cứ vào giá
trị thực tế của xe vào thời điểm ký kết hợp đồng.
- Bảo hiểm dưới giá trị: Số tiền bảo hiểm nhỏ hơn giá trị thực tế của
xe.Trừ khi có thoả thuận khác, nếu thiệt hại xảy ra thì quy tắc tỷ lệ sẽ được áp
dụng để xác định số tiền bồi thường.
- Trường hợp xe tham gia bảo hiểm bộ phận: dựa trên tỷ trọng giá trị
của từng tổng thành với giá trị của xe để xác định giá trị của từng bộ phận tổng
thành, qua đó làm cơ sở để xác định số tiền bảo hiểm.
Trong số các tổng thành của xe thì tổng thành thân vỏ chiếm tỷ trọng lớn
nhất về mặt giá trị và thường cũng chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi hậu quả của
những vụ tai nạn. Vì vậy, nếu chọn một tổng thành để tham gia bảo hiểm thì
chủ xe thường chọn tổng thành này.
1.2.4. Phí bảo hiểm.
Phí bảo hiểm là một khoản tiền nhất định mà người tham gia bảo hiểm

phải nộp cho công ty bảo hiểm sau khi ký hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo
hiểm chỉ có hiệu lực khi người tham gia nộp phí theo đúng quy định. Ở Việt
Nam, các công ty bảo hiểm sẽ tiến hành thu phí bảo hiểm theo biểu phí quy định
của Bộ Tài chính.
Phí bảo hiểm = Tỷ lệ phí x Số tiền bảo hiểm
Để xác định phí bảo hiểm thiệt hại vật chất xe ô tô dựa vào một số yếu tố
cơ bản sau:
Một là: Những yếu tố liên quan đến bản thân chiếc xe và vấn đề sử dụng xe
+ Loại xe ( xác định bởi mác và năm sản xuất…). Loại xe sẽ liên quan
đến trang thiết bị an toàn, chống mất cắp, giá cả chi phí sửa chữa, phụ tùng thay
thế…
+ Mục đích sử dụng xe.
SV: Phan Thị Thảo 11 Lớp CQ44/03.01
Luận văn cuối khóa Khoa Ngân hàng Bảo hiểm
+ Phạm vi địa bàn hoạt động.
+ Thời gian xe đã qua sử dụng, giá trị xe.
Hai là: Những yếu tố liên quan đến người được bảo hiểm, người điều
khiển xe:
+ Giới tính, độ tuổi của lái xe
+ Tiền sử của lái xe
+ Kinh nghiệm của lái xe
+ Quá trình tham gia bảo hiểm của người được bảo hiểm
Ba là: Việc tính phí bảo hiểm còn tuỳ thuộc vào sự giới hạn phạm vi bảo
hiểm và có sự phân biệt giữa bảo hiểm lẻ và bảo hiểm cả đội xe. Cơ chế thưởng
bằng việc giảm phí cũng được áp dụng như một biện pháp giữ khách hàng. Tỷ lệ
phí cũng được điều chỉnh cho những trường hợp mở rộng phạm vi bảo hiểm ( ví
dụ cho rủi ro mất cắp bộ phận xe, bảo hiểm không khấu trừ khấu hao thay
mới ...), trường hợp áp dụng mức miễn thường tăng lên và theo số năm xe đã
qua sử dụng.
1.2.5. Hợp đồng bảo hiểm.

Hợp đồng bảo hiểm vật chất xe ô tô là sự thoả thuận giữa các bên theo đó
bên mua bảo hiểm (chủ xe, lái xe) có trách nhiệm nộp phí bảo hiểm, bên bảo
hiểm có trách nhiệm trả tiền bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm cho người tham
gia bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Hiệu lực bảo hiểm bắt đầu và kết thúc theo quy định ghi trên giấy chứng
nhận bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ cấp giấy chứng nhận bảo hiểm khi
chủ xe đã đóng đủ phí bảo hiểm trừ khi có thoả thuận khác.
Trong thời hạn còn hiệu lực ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm, nếu có
sự chuyển quyền sở hữu xe mà chủ xe ô tô không có yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng
bảo hiểm thì mọi quyền lợi bảo hiểm liên quan đến chiếc xe được bảo hiểm vẫn
còn hiệu lực với chủ xe ô tô mới.
SV: Phan Thị Thảo 12 Lớp CQ44/03.01
Luận văn cuối khóa Khoa Ngân hàng Bảo hiểm
Trong trường hợp có yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm, chủ xe phải
thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm biết trước 15 ngày. Trong
vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo huỷ bỏ, nếu doanh nghiệp bảo
hiểm không có ý kiến thì hợp đồng bảo hiểm mặc nhiên bị huỷ bỏ, doanh nghiệp
bảo hiểm phải hoàn lại cho chủ xe 80% phí bảo hiểm của thời gian huỷ bỏ, trừ
trường hợp trong thời hạn hợp đồng bảo hiểm đang có hiệu lực đã xảy ra sự kiện
bảo hiểm liên quan đến chiếc xe có yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm.
Nội dung chủ yếu của hợp đồng bảo hiểm vật chất xe ô tô gồm:
- Tiêu đề: tên, địa chỉ của công ty
- Chủ thể bảo hiểm (người tham gia bảo hiểm)
- Đối tượng bảo hiểm
- Số tiền bảo hiểm, mức phí, cách thức nộp phí bảo hiểm
- Các điều khoản về giải quyết bồi thường
- Các quy định về giải quyết tranh chấp (nếu có)
- Thời hạn bảo hiểm
- Chữ ký của hai bên
1.2.6. Giám định tổn thất

Giám định là một khâu quan trọng trong toàn bộ quá trình hoạt động kinh
doanh của công ty bảo hiểm. Giám định đúng, chính xác sẽ giúp công ty bảo
hiểm bồi thường cho khách hàng một cách thoả đáng, tăng uy tín của công ty đối
với khách hàng, mặt khác còn giúp ngăn chặn và giảm bớt hiện tượng trục lợi
trong bảo hiểm.
Giám định tổn thất đòi hỏi phải thực hiện theo một quy trình chặt chẽ và
tuân theo các bước sau:
Bước 1: Tiếp nhận xử lý thông tin
Ngay sau khi xảy ra tai nạn, chủ xe hoặc đại diện cho chủ xe cần thông
báo ngay cho cơ quan công an, công ty bảo hiểm hoặc đại diện cho công ty bảo
SV: Phan Thị Thảo 13 Lớp CQ44/03.01
Luận văn cuối khóa Khoa Ngân hàng Bảo hiểm
hiểm nơi gần nhất về tình hình tai nạn, đồng thời lái xe, chủ xe phải thực hiện
các biện pháp để hạn chế thiệt hại có thể gia tăng.
Sau khi nhận được thông báo, đại diện của doanh nhiệp bảo hiểm sẽ
xuống hiện trường kết hợp với chủ xe để giải quyết hậu quả của vụ tai nạn.
Những thông tin mà giám định viên cần là: Số xe, chủ xe, thời gian, địa điểm
xảy ra tai nạn. Sau khi đã nắm bắt được những thông tin sơ bộ, sẽ chuyển sang
bước tiếp theo là giám định tổn thất.
Bước 2: Giám định tổn thất
Giám định tổn thất là quá trình giám định những thiệt hại trong vụ tai nạn,
việc giám định được chia làm 2 giai đoạn đó là giám định sơ bộ và giám định
chi tiết.
Ban đầu giám định viên tiến hành giám định ban đầu để xác định thiệt hại
sơ bộ, việc giám định chi tiết sẽ được thực hiện trước khi sửa xe. Sau khi xác
định được một cách chi tiết các thiệt hại đã xảy ra, hai bên sẽ xây dựng phương
án sửa chữa, xác định rõ từng bộ phận cần phải thay thế hoặc sửa chữa tuỳ theo
mức độ hư hỏng hoặc khả năng phục hồi của từng bộ phận hư hỏng đó. Đồng
thời hai bên sẽ thống nhất chọn nơi sửa chữa với chi phí hợp lý và đảm bảo chất
lượng.

Cán bộ giám định kiểm tra tính hợp lệ của các giấy tờ cần thiết như: Giấy
chứng nhận bảo hiểm có hiệu lực; đăng ký xe; giấy phép lưu hành xe; giấy
chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường; bằng lái xe của người
điều khiển phương tiện khi xảy ra tai nạn còn hiệu lực.
Trong quá trình giám định, nhân viên giám định chụp ảnh hiện trường, đồng
thời phối hợp với công an để thu thập tư liệu, sau đó lập biên bản giám định.
Lập biên bản giám định nhằm ghi lại những gì mà giám định viên tiến
hành, nhận định của giám định viên về nguyên nhân của vụ tai nạn, mức độ lỗi
của các chủ xe, mức độ thiệt hại của xe, tài sản, con người. Nếu các bên đồng ý
SV: Phan Thị Thảo 14 Lớp CQ44/03.01
Luận văn cuối khóa Khoa Ngân hàng Bảo hiểm
với biên bản giám định đó thì đó sẽ là cơ sở để tiến hành bồi thường, nếu không
phải tiến hành giám định lại.
Biên bản giám định tuỳ từng vụ tai nạn, có thể lập một lần trong bước
giám định sơ bộ. Tuy nhiên, với những trường hợp phức tạp thì còn có thêm các
biên bản giám định bổ sung phát sinh trong quá trình sửa chữa.
Yêu cầu đối với một biên bản giám định:
- Phải ghi lại tỉ mỉ những gì mà giám định viên thấy.
- Nội dung phải trung thực, rõ ràng, cụ thể.
- Số liệu đưa ra phải phù hợp, cụ thể với các tài liệu, dẫn chứng.
1.2.7. Bồi thường bảo hiểm.
Khi mua bảo hiểm tức là khách hàng đã trả tiền cho sản phẩm bảo hiểm
và doanh nghiệp bảo hiểm đã cam kết bồi thường nhanh chóng, đầy đủ nếu
không may khách hàng bị tổn thất. Vì vậy, việc bồi thường được giải quyết tốt
đã chứng minh chất lượng của sản phẩm đồng thời khẳng định uy tín của doanh
nghiệp.
Trước khi bồi thường cho chủ xe, doanh nghiệp bảo hiểm phải thực hiện
các bước công việc sau:
Bước 1: Kiểm tra bộ hồ sơ khiếu nại bồi thường.
Trước khi bồi thường cho người được bảo hiểm, DNBH phải kiểm tra tính

hợp lệ, hợp pháp của các giấy tờ cần thiết trong hồ sơ khiếu nại bồi thường, bộ
hồ sơ này bao gồm các loại giấy chủ yếu sau:
- Giấy yêu cầu bồi thường
- Bản sao các giấy tờ sau:
+ Giấy chứng nhận bảo hiểm
+ Giấyđăng ký xe
+ Giấy phép lái xe
+ Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường
SV: Phan Thị Thảo 15 Lớp CQ44/03.01
Luận văn cuối khóa Khoa Ngân hàng Bảo hiểm
+ Giấy đăng ký kinh doanh đối với các loại xe tham gia vận tải hành
khách hoặc hàng hoá.
- Bản kết luận điều tra tai nạn của cơ quan công an
- Quyết định của toà án ( nếu có)
- Các giấy tờ liên quan đến trách nhiệm của người thứ ba khác
- Các chứng từ chứng minh thiệt hại vật chất của phương tiện, bao gồm
các loại giấy tờ sau đây:
+ Biên bản giám định thiệt hại
+ Các hoá đơn, chứng từ liên quan đến việc sửa chữa phương tiện.
Bước 2: Xác định cơ sở để tính toán thiệt hại.
Việc bồi thường thiệt hại cho chiếc xe được bảo hiểm dựa trên các cơ sở
sau đây:
+ Căn cứ vào thiệt hại thực tế và chi phí sửa chữa hợp lý mà hai bên đã
thoả thuận trong khi thực hiện phương án giám định chi tiết để thống nhất các
điều kiện sửa chữa cho chiếc xe bị tai nạn.
+ Căn cứ vào các khoản chi phí khác được chấp thuận bồi thường như chi
phí bồi thường hạn chế tổn thất, chi phí cẩu, kéo xe từ nơi bị tai nạn tới nơi sửa chữa.
+ Căn cứ vào cách thức tham gia bảo hiểm của chủ xe (Tham gia bảo
hiểm toàn bộ hay tham gia bảo hiểm dưới giá trị và xem xét chủ xe có tham gia
thêm các điều khoản bảo hiểm mở rộng hay không)

+ Căn cứ vào các khoản đòi bồi thường từ người thứ 3 gây nên tai nạn.
Bước 3: Trình tự và cách tính toán bồi thường.
Một là: Xác định giá trị thiệt hại thực tế thuộc trách nhiệm hợp đồng bảo
hiểm, được tính theo công thức sau:
Thiệt hại thực tế thuộc trách nhiệm bảo hiểm = Tổng chi phí sửa chữa hợp
lý đã thống nhất
+ Các khoản chi phí được chấp nhận bồi thường khác - Chi phí sửa chữa
thiệt hại không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm.
SV: Phan Thị Thảo 16 Lớp CQ44/03.01
Luận văn cuối khóa Khoa Ngân hàng Bảo hiểm
Hai là: Tính toán số tiền bồi thường.
+ Nếu chủ xe tham gia bảo hiểm toàn bộ thì số tiền bồi thường bằng với
giá trị thiệt hại thực tế
+ Nếu xe tham gia bảo hiểm bộ phận thì số tiền bồi thường được căn cứ
theo giá trị thiệt hại của bộ phận được bảo hiểm.
+ Nếu xe tham gia bảo hiểm dưới giá trị thì số tiền bồi thường được xác định:
Số tiền bồi thường = Giá trị thiệt hại thực tế
*

hiÓmob¶ trÞ Gi¸
hiÓmob¶ tiÒn Sè
Nhưng với điều kiện giá trị thiệt hại thực tế này phải thuộc trách nhiệm bảo
hiểm
Trong trường hợp chủ xe tham gia bảo hiểm vi phạm những quy định
trong hợp đồng bảo hiểm thì DNBH có thể khấu trừ một phần của khoản tiền bồi
thường. Trên thực tế việc giải quyết bồi thường có thể áp dụng 3 cách thức sau
đây:
- Bồi thường trên cơ sở chi phí sửa chữa, khôi phục lại xe
- Bồi thường trên cơ sở đánh giá thiệt hại
- Bồi thường toàn bộ sau đó thu hồi và xử lý xe

1.3. Một số chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo
hiểm vật chất xe ô tô.
1. 3.1. Chỉ tiêu kết quả.
- Doanh thu nghiệp vụ (TR)
Doanh thu nghiệp vụ là toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm thu
được từ một nghiệp vụ trong một giai đoạn kinh doanh nhất định.
Cũng giống như các nghiệp vụ khác, doanh thu của nghiệp vụ bảo hiểm
vật chất xe ô tô gồm hai khoản thu chủ yếu là thu kinh doanh và thu từ hoạt
động đầu tư.
- Chỉ tiêu lợi nhuận nghiệp vụ.
SV: Phan Thị Thảo 17 Lớp CQ44/03.01
Luận văn cuối khóa Khoa Ngân hàng Bảo hiểm
Lợi nhuận là toàn bộ số tiền còn lại từ doanh thu nghiệp vụ sau khi đã trừ
đi các khoản chi phí.
Công thức tính lợi nhuận:
LN = TR - TC
Trong đó:
LN: Lợi nhuận.
TR: Tổng doanh thu nghiệp vụ.
TC: Tổng chi.
1.3.2. Chỉ tiêu hiệu qủa
Hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm là thước đo sự phát triển của
bản thân doanh nghiệp và phản ánh trình độ sử dụng chi phí trong việc tạo ra
những kết quả kinh doanh nhất định nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra .
Hiệu quả kinh doanh được đo bằng tỷ số giữa doanh thu hoặc lợi nhuận
với tổng chi phí chi ra trong kỳ.
H
D
= D/ C
H

L
= L/ C
Trong đó: H
D

, H
L
: Hiệu quả kinh doanh theo doanh thu và lợi nhuận
D, L, C: doanh thu, lợi nhuận, tổng chi trong kỳ
Chỉ tiêu (1) nói lên cứ một đồng chi phí bỏ ra trong kỳ tạo ra bao nhiêu
đồng doanh thu; chỉ tiêu (2) phản ánh cứ một đồng chi phí bỏ ra trong kỳ tạo ra
bao nhiêu đồng lợi nhuận cho công ty bảo hiểm.
SV: Phan Thị Thảo 18 Lớp CQ44/03.01
Luận văn cuối khóa Khoa Ngân hàng Bảo hiểm
CHƯƠNG 2
THỰC TẾ TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM VẬT CHẤT
XE Ô TÔ TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP
(ABIC)
2.1 Khái quát chung về Công ty Cổ phần Bảo Hiểm Ngân Hàng Nông
Nghiệp (ABIC)
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
-Tên giao dịch tiếng Việt: CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM
NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP
-Tên giao dịch tiếng Anh: Agriculture Bank Insurance Joint-Stock
Corporation
-Tên gọi tắt: Bảo hiểm Ngân Hàng Nông Nghiệp
-Viết tắt: ABIC
-Trụ sở chính: 343 Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội
-ĐT: 04.37622555 * Fax: 04.37622055
-Website: www.abic.com.vn

-Slogan: “Giữ uy tín để vươn tới thành công”
-Vốn điều lệ: 380 tỷ đồng
Thực hiện chiến lược đưa Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
Thôn Việt Nam trở thành một tập đoàn tài chính Ngân hàng hàng đầu ở Việt Nam
và lớn mạnh trong khu vực với cấu trúc đa sở hữu, hoạt động kinh doanh đa dạng
và có khả năng cung cấp hệ thống sản phẩm dịch vụ tài chính ngày càng hoàn hảo
cho nền kinh tế xã hội. Ban lãnh đạo NHNN& PTNT Việt Nam đã quyết định mở
rộng kinh doanh sang lĩnh vực bảo hiểm Phi nhân thọ bằng việc đề xướng thành
lập công ty Bảo hiểm Ngân hàng nông nghiệp (ABIC) chủ trương này đã được
chấp nhận của bộ tài chính, Ngân hàng Nhà nước. Ngày 18/10/2006, Bộ trưởng
SV: Phan Thị Thảo 19 Lớp CQ44/03.01
Luận văn cuối khóa Khoa Ngân hàng Bảo hiểm
Bộ tài chính đã cấp phép thành lập và hoạt động số 38 GP/KDBH về việc thành
lập Công ty bảo hiểm Ngân Hàng Nông Nghiệp (ABIC).
Sau một thời gian dài chuẩn bị cơ sở vật chất, tuyển dụng và đào tạo đội
ngũ cán bộ và đại lý, sắp xếp hoàn thịên cơ cấu bộ máy, Công ty đã long trọng
tổ chức lễ khai trương vào ngày 08/08/2007. Như vậy công ty bảo hiểm Ngân
hàng nông nghiệp đã chính thức đi vào hoạt động kinh doanh, tham gia vào thị
trường bảo hiểm phi nhân thọ và sẵn sàng phục vụ nhu cầu bảo hiểm phi nhân
thọ của khách hàng trên phạm vi cả nước.
Vốn góp của cổ đông vào ABIC
Ngân hàng NN& PTNT Việt Nam: 181,678 tỷ đồng (tỷtrọng47,81%)
Công ty Tái BH Quốc gia Việt Nam: 38 tỷ đồng (Chiếm tỷ trọng 10%)
Công ty cho thuê Tài chính I: 24,7 tỷ đồng (Chiếm tỷ trọng 6,5%)
Công ty cho thuê Tài chính II: 24,7 tỷ đồng (Chiếm tỷ trọng 6,5%)
Các tổ chức, cá nhân khác : 110,922 tỷ đồng (Chiếm tỷ trọng 29,19%)
Với vốn điều lệ 380 tỷ cùng với thế mạnh của các cổ đông sáng lập, ABIC
đã tạo dựng được cơ sở khách hàng tiềm năng về bảo hiểm, tiếp nhận được
những kinh nghiệm trong quản lý kinh doanh bảo hiểm và tái bảo hiểm, giảm
được nhiều khó khăn ban đầu của một doanh nghiệp mới bước vào kinh doanh

bảo hiểm phi nhân thọ trong bối cảnh nền kinh tế có nhiều biến động, cạnh tranh
gay gắt trên thị trường.
Hiện tại ABIC đã mở chính thức 8 chi nhánh tại các tỉnh thành trên cả
nước. Hoạt động của trụ sở chính và các chi nhánh đã tạo ra mạng lưới hoạt
động rộng khắp, chăm sóc và quảng bá thương hiệu Bảo hiểm NHNN đến
mọi khách hàng. Mục tiêu của ABIC là đến cuối năm 2009 sẽ mở rộng
khoảng 20 chi nhánh trên cả nước để có thể đáp ứng tốt mọi yêu cầu về các
sản phẩm bảo hiểm.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức
2.1.2.1 Sơ đồ tổ chức bộ máy hoạt động Công ty CP Bảo hiểm ABIC
SV: Phan Thị Thảo 20 Lớp CQ44/03.01
Luận văn cuối khóa Khoa Ngân hàng Bảo hiểm
SV: Phan Thị Thảo 21 Lớp CQ44/03.01
Ban Điều Hành
Chi NhánhTrụ Sở Chính
Đại hội đồng cổ đông
Hội đồng quản
trị
Ban Kiểm Soát
Luận văn cuối khóa Khoa Ngân hàng Bảo hiểm
3.1.3 Kết quả hoạt dộng kinh doanh của ABIC
Bảng 1: Kết quả hoạt động của ABIC trong 3 năm 2007 – 2009
Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009
Chi nhánh khu vực Đơn vị 01 08 08
Phòng kinh doanh khu
vực
Đơn vị - 16 25
Nhân viên Người 65 250 380
Doanh thu phí Triệu đồng 16.450 130.670 273.450
Lợi nhuận trước thuế Triệu đồng 868 12.868 24.000

Tổng tài sản Triệu đồng 380.000 450.000 580.000
(Nguồn ABIC)
Nhìn vào bảng trên ta thấy tình hình kinh doanh tại ABIC đã có những
bước chuyển tích cực, doanh thu và lợi nhuận đều tăng dần qua các năm từ 2007
đến năm 2009. Có được kết quả kinh doanh khả quan như vậy đó là nhờ sự nỗ
lực cố gáng của ban lãnh đạo công ty cùng toàn thể nhân viên trong công ty Bảo
hiểm ABIC.
2.2 Thực tế triển khai nghiệp vụ BHVC xe ô tô tại Bảo hiểm Agribank
2.2.1 Về khai thác
Khai thác là khâu đầu tiên trong quy trình triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm,
nó là khâu đóng vai trò quyết định sự thành bại của bất kỳ nghiệp vụ nào. Có
khai thác thành công, tạo ra một lượng lớn khách hàng tham gia bảo hiểm, từ đó
mới có thể mang lại nguồn doanh thu lớn, đảm bảo nguyên tắc ‘số đông bù số
ít’, từ đó tạo lập được quỹ tập trung đủ lớn để chi đề phòng hạn chế tổn thất, chi
hoa hồng bảo hiểm, đảm bảo khả năng trả tiền bảo hiểm,…Và đối với nghiệp vụ
Bảo Hiểm vật chất xe ô tô thì khâu khai thác là yếu tố quyết định sự tồn tại của
sản phẩm. Chính vì vậy khâu khai thác luôn phải được các Công ty bảo hiểm
chú trọng hàng đầu và Bảo hiểm Agribank cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Là một doanh nghiệp bảo hiểm mới đi vào hoạt động, đang dần từng bước
SV: Phan Thị Thảo 22 Lớp CQ44/03.01
Luận văn cuối khóa Khoa Ngân hàng Bảo hiểm
khẳng định mình trên thị trường bảo hiểm, bảo hiểm Agribank luôn chú trọng
đến khâu khai thác bởi khâu này hoạt động có hiệu quả sẽ tăng lượng khách
hàng tin tưởng và sử dụng các sản phẩm bảo hiểm của Công ty qua đó khẳng
định vị thế của Công ty trên thị trường và trong lòng khách hàng. Với sản phẩm
bảo hiểm vật chất xe ô tô, Công ty đã chú trọng tới khâu khai thác và bước đầu
thu được những kết quả khả quan, tuy nhiên kết quả này còn khá khiêm tốn chưa
tương xứng với tiềm lực thị trường. Có thể thấy điều này qua bảng kết quả khai
thác sản phẩm này như sau:
Bảng 2: Kết quả khai thác sản phẩm bảo hiểm vật chất xe ô tô tại ABIC

(Từ 2007- 2009)
(Đơn vị: triệu đồng)
Năm
C.tiêu
2007 2008 2009
Doanh thu bảo hiểm gốc
NVBHVC xe ô tô
2.400 32.000 93.000
Doanh thu bảo hiểm gốc
toàn công ty
16.450 130.670 273.450
Tỷ lệ doanh thu của
nghiệp vụ trên tổng doanh
thu toàn công ty(%)
14,6 24,5 34
(Nguồn: Phòng Phi Hàng Hải - ABIC)
Qua bảng số liệu trên ta thấy, từ năm 2007 đến năm 2009 tỷ lệ doanh thu
nghiệp vụ BHVC xe ô tô so với toàn công ty còn khá thấp, số hợp đồng bảo
hiểm được ký kết chưa nhiều nhưng đều có xu hướng tăng qua các năm triển
khai. Đây là dấu hiệu khả quan cho thấy nghiệp vụ này giàu tiềm năng phát triển
trên thị trường, cần được quan tâm khai thác.
SV: Phan Thị Thảo 23 Lớp CQ44/03.01
Luận văn cuối khóa Khoa Ngân hàng Bảo hiểm
Doanh thu phí BHVC xe ô tô có xu hướng tăng dần qua các năm, chỉ trong
một thời gian ngắn triển khai, nghiệp vụ này đã cho những kết quả rất khả quan.
Doanh thu năm 2008 tăng 12,33 lần so với doanh thu năm 2007, doanh thu năm
2009 tăng gấp 38,75 lần so với doanh thu 2007. Và doanh thu 2009 đã tăng 2,9
lần doanh thu năm 2008 điều này cho thấy nghiệp vụ bảo hiểm này đang có
những bước chuyển biến tích cực, doanh thu có thể tiếp tục tăng mạnh trong thời
gian tới.

Doanh thu phí BHVC xe ô tô tăng qua các năm tuy số lượng chưa nhiều
nhưng thực tế với doanh nghiệp mới đi vào hoạt động đó lại là tín hiệu đáng
mừng. Có được điều này là do số lượng người tham gia giao thông nói chung, và
các chủ xe ô tô nói riêng đã có nhận thức được lợi ích trong việc tham gia bảo
hiểm, hơn nữa ABIC luôn chú trọng hơn trong công tác khai thác nghiệp vụ bảo
hiểm này. Bằng lòng nhiệt tình, những cán bộ này đã chủ động tiếp xúc với
nhóm khách hàng tiềm năng, giải thích cho khách hàng về các vấn đề phòng hạn
chế tổn thất mà họ thắc mắc quan tâm. Đồng thời tư vấn, hướng dẫn khách hàng
lựa chọn sản phẩm bảo hiểm phù hợp với khả năng, nhu cầu và tình hình thực tế
của bên tham gia Bảo hiểm. Trong gần 3 năm qua cán bộ công ty đặc biệt là
những cán bộ phụ trách BHVC xe ô tô luôn chú trọng đến công tác dịch vụ
khách hàng. Các cán bộ phụ trách nghiệp vụ này đã biết tận dụng triệt để mối
quan hệ sẵn có với khách hàng đã hoặc đang tham gia BHVC xe ô tô, cũng như
mối quan hệ với Ngân hàng Nông nghiệp để thúc đẩy việc bán sản phẩm.
Nhìn chung, kết quả khai thác chưa nói lên được nhiều điều về hiệu quả kinh
doanh thực sự của sản phẩm. Nhưng nhìn vào số liệu trên, chúng ta có thể dự
đoán rằng: Đây là một sản phẩm còn nhiều tiềm năng phát triển trong những
năm tới. Và nếu được quan tâm thích đáng có thể đây sẽ là một sản phẩm thế
mạnh, một sản phẩm mang lại doanh thu lớn cho bảo hiểm AGRIBANK.
2.2.2 Công tác đề phòng hạn chế tổn thất
SV: Phan Thị Thảo 24 Lớp CQ44/03.01
Luận văn cuối khóa Khoa Ngân hàng Bảo hiểm
Công tác đề phòng hạn chế tổn thất là khâu quan trọng không thể thiếu
trong quá trình triển khai một nghiệp vụ bảo hiểm. Một nghiệp vụ dù có doanh
thu bảo hiểm cao đến đâu mà phải chi bồi thường nhiều hoặc quá lớn, quá nhiều
thì cũng không có hiệu quả.
Tại ABIC, trên cơ sở số phí thu được công ty đều tiến hành trích ra một tỷ
lệ nhất định để cùng hiệp hội Bảo hiểm xây dựng hệ thống biển báo, đèn giao
thông, tuyên truyền giáo dục nhằm giảm thiểu tai nạn giao thông.
Bảng 3: Tình hình đề phòng hạn chế tổn thất Nghiệp vụ bảo hiểm

vật chất xe ô tô tại ABIC (Từ 2007- 2009)
Đơn vị: triệu đồng
Năm
C.tiêu
2007 2008 2009
Doanh thu 2.400 32.000 93.000
Định mức chi ĐPHCTT (%) 1,5 1,8 2
Chi ĐPHCT cho BHVC Ô TÔ 36 576 1860
(nguồn: phòng Phi Hàng Hải)
Định mức chi ĐPHCTT tăng dần qua các năm và đến năm nay tăng lên
2% cho thấy công ty ngày càng chú trọng hơn, công tác đề phòng hạn chế tổn
thất được Công ty thực hiện khá nghiêm túc và đem lại kết quả khả quan, tuy
nhiên vẫn còn một số vấn đề tồn tại như số lượng cán bộ nắm bắt được nghiệp
vụ này còn hạn chế, nguồn kinh phí cho công tác này chưa cao, việc đánh giá
rủi ro để đề phòng hạn chế từ khâu khai thác còn chưa được chú trọng đúng
mức. Điển hình như: Giấy yêu cầu bảo hiểm nhiều khi chỉ mang tính chất có
cho đủ chưa được chú trọng kê khai đầy đủ. Giấy yêu cầu bảo hiểm không
được kiểm tra xác minh lại đầy đủ thì đó sẽ là các kẽ hở mà khách hàng có thể
khai thác nhằm trục lợi bảo hiểm sau này. Thêm nữa, trong khâu khai thác bảo
SV: Phan Thị Thảo 25 Lớp CQ44/03.01

×